Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Quá trình hình thành và phát triển tổ chức cơ sở đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân tại tp hồ chí minh (thời kỳ 1986 2006) luận văn thạc sỹ 60 22 56

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (974.97 KB, 118 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ HƯƠNG

QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG KHỐI DOANH
NGHIỆP TƯ NHÂN TẠI
TP. HỒ CHÍ MINH (THỜI KỲ 1986-2006)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Người hướng dẫm khoa học: TS. Trần Thị Rồi

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2010


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
( TIẾNG VIỆT)
CN: công nghiệp
CX: chế xuất
CS: cơ sở
DNTN : doanh nghiệp tư nhân
HTX : hợp tác xã
KTTN: kinh tế tư nhân
NN & PT NT: nông nghiệp và phát triển nông thôn
TNHH: trách nhiệm hữu hạn
XHCN : xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu ..................................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.................................................................................... 4
3.1. Mục đích của đề tài ................................................................................................. 4
3.2. Nhiệm vụ của đề tài ................................................................................................ 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 5
4.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 5
4.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................... 6
5. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và nguồn tư liệu để thực hiện để tài ............................ 6
5.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận ............................................................................. 6
5.2. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................... 6
5.3. Nguồn tư liệu .......................................................................................................... 6
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ........................................................................ 7
7. Kết cấu của đề tài ......................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN ............ 8
1.1. Chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần ..................................................................................................................... 8
1.2. Vai trị, vị trí của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần
.................................................................................................................................... 13
1.3 Chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng tổ chức cơ sở
Đảng trong doanh nghiệp tư nhân ................................................................................ 19
1.4. Chủ trương của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh nhằm phát triển Đảng trong doanh
nghiệp tư nhân ............................................................................................................. 31
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TRONG KHỐI DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TẠI TP. HỒ CHÍ MINH (THỜI KỲ 19862006) ............................................................................................................................... 42
2.1. Thực trạng doanh nghiệp tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh .............................. 42
2.1.1 Thời kỳ 1986- 1996 ........................................................................................ 42



2.1.2 Thời kỳ 1996 – 2006 ...................................................................................... 43
2.2. Sự hình thành và phát triển của các tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp tư nhân
tại thành phố Hồ Chí Minh .......................................................................................... 49
2.3. Vai trị, vị trí và hoạt động lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng trong khối doanh
nghiệp tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh ................................................................. 64
CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ NHỮNG THUẬN LỢI, KHĨ KHĂN VÀ MỘT
SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CƠNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG TRONG KHỐI
DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN TẠI TP. HỒ CHÍ MINH ................................................. 67
3.1. Thuận lợi của cơng tác phát triển Đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân tại thành
phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 67
3.2. Khó khăn của công tác phát triển Đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân tại thành
phố Hồ Chí Minh ......................................................................................................... 72
3.3. Một số bài học kinh nghiệm chung và kinh nghiệm ở một số Đảng bộ cơ sở vững
mạnh ........................................................................................................................... 75
3.3.1. Một số bài học kinh nghiệm chung ................................................................ 75
3.3.2. Kinh nghiệm ở một số Đảng bộ cơ sở vững mạnh ......................................... 77
3.4. Những giải pháp thực hiện ................................................................................... 84
KẾT LUẬN..................................................................................................................... 93
PHỤ LỤC ....................................................................................................................... 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................. 107


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục… lớn
nhất khu vực phía Nam và cả nước. Từ sau khi có chủ trương của Đảng về
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khối doanh nghiệp tư nhân

tại thành phố Hồ Chí Minh phát triển rất mạnh, ngày càng đóng góp tích cực
vào sự phát triển của thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói chung.
Các doanh nghiệp tư nhân tham gia hầu hết các hoạt động kinh tế, thương mại
- dịch vụ, đến các hoạt động chính trị - văn hóa- xã hội. Điều đó chứng tỏ vai
trị, tầm quan trọng của doanh nghiệp tư nhân đối với sự phát triển kinh tế -xã
hội của thành phố.
Để xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh
đã rất quan tâm đến cơng tác xây dựng, củng cố và phát triển các tổ chức cơ sở
Đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân trên nguyên tắc vững mạnh về chính trị,
tư tưởng, tổ chức, đoàn kết, gắn kết mật thiết với nhân dân và người lao động,
bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của thành phố và đóng góp thiết
thực cho công cuộc đổi mới, xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong thời kỳ đổi mới, hệ thống tổ chức cơ sở đảng trong khối doanh
nghiệp tư nhân đã ra đời, từng bước phát triển, đóng góp thiết thực cho sự
phát triển của Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói
chung. Tuy nhiên, trong q trình phát triển cũng gặp rất nhiều khó khăn,
vướng mắc. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện
các chủ trương, đường lối, chính sách của trung ương Đảng; các nghị quyết,
chỉ thị của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh; q trình xây dựng, phát triển


2

của tổ chức cơ sở đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân, từ đó nêu bật lên
những thành tựu, hạn chế, tìm ra nguyên nhân và đưa ra một số kiến nghị giải
pháp để phát huy những thành tựu đạt được, khắc phục những khó khăn, hạn
chế; nhận thức và xử lý đúng đắn, có hiệu quả vấn đề xây dựng và phát triển
doanh nghiệp tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và cả nước nói

chung trong thời kỳ đổi mới là một nhiệm vụ có ý nghĩa rất quan trọng và cấp
bách, cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình hình thành, phát triển của tổ chức cơ sở đảng trong khối doanh
nghiệp tư nhân trong thời kỳ đất nước đổi mới là một vấn đề lớn có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống và tồn diện về vấn đề này. Thời gian gần đây, chỉ mới có
một số sách tham khảo và một số bài báo, bài viết được đăng trên các báo hay
tạp chí chuyên ngành, trong đó các tác giả có đề cập đến một góc độ nào đó về
sự ra đời và hoạt động của tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp tư nhân.
Điển hình như: trong cơng trình nghiên cứu “ Khu vực kinh tế tư nhân
thành phố Hồ Chí Minh – những thuận lợi và khó khăn trong q trình phát
triển” của PGS.TS. Nguyễn Thị Cành, Viện Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2002 đã đề cập đến tình hình phát triển của các loại hình doanh nghiệp,
cơng ty tư nhân đồng thời đưa ra những thuận lợi và khó khăn của khu vực
kinh tế tư nhân.
Với bài báo “Xây dựng, củng cố tổ chức Đảng ở các doanh nghiệp
ngồi quốc doanh ở thành phố Hồ Chí Minh”, đăng trên Báo Điện tử Đảng
bộ thành phố Hồ Chí Minh, ngày 11/6/2009, tác giả Nguyễn Minh Chung đề
cập đến một số vấn đề về công tác xây dựng Đảng trong doanh nghiệp ngoài


3

quốc doanh, đồng thời rút ra một số kinh nghiệm cho công tác phát triển Đảng
trong doanh nghiệp tư nhân.
Trong bài viết “Vai trị tổ chức chính trị trong doanh nghiệp tư nhân ở
thành phố Hồ Chí Minh”, đăng trên tạp chí Cộng sản Điện tử, ngày
22/4/2009, tác giả Như Hùng đã phác họa vai trò của các tổ chức chính trị nói
chung và tổ chức cơ sở Đảng nói riêng trong quá trình phát triển của loại hình

doanh nghiệp tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh.
Trong bài viết “Phát triển Đảng trong các khu công nghiệp ở thành
phố Hồ Chí Minh”, đăng trên Báo Nhân Dân, ngày 8/4/2010, nhà nghiên cứu
Hồng Liên Sơn đã đánh giá về cơng tác phát triển Đảng tại các khu công
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra những giải pháp cho công tác
phát triển Đảng trong các khu công nghiệp ở thành phố Hồ Chí Minh nói
riêng và cả nước nói chung.
Với bài viết “Để tổ chức Đảng trong doanh nghiệp hoạt động có hiệu
quả”, đăng trên tạp chí Xây dựng Đảng điện tử, ngày 11/9/2007, tác giả Xuân
Sơn đã phân tích đặc điểm của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và kiến nghị một số giải pháp để tổ
chức Đảng hoạt động có hiệu quả.
Trong bài viết “Phát triển Đảng trong doanh nghiệp tư nhân – Bài học
ở quận Tân Bình” của tác giả Minh Ngọc, đăng trên Báo Sài Gịn Giải Phóng,
ngày 4/3/2007 đã trình bày cơng tác xây dựng, phát triển Đảng ở một số
doanh nghiệp tư nhân đóng trên địa bàn quận Tân Bình, cơng tác chỉ đạo xây
dựng, phát triển Đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân của Quận ủy và rút ra
một số bài học từ thực tế địa phương.
Trong tác phẩm “Kinh tế tư nhân Việt Nam sau hai thập kỷ đổi mới. Thực
trạng và những vấn đề” do tác giả Đinh Thị Thơm chủ biên, xuất bản năm 2005


4

cũng đã đề cập đến những khó khăn, thuận lợi và những vấn đề còn tồn tại trong
khu vực kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới.
Nhìn chung, cho đến nay, đã có một số cơng trình nghiên cứu về công
tác xây dựng và phát triển Đảng trong các doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, số lượng cịn rất ít, và chỉ dừng lại ở
những góc độ trình bày, phân tích, đánh giá về tình hình phát triển Đảng trong

doanh nghiệp tư nhân ở những góc độ khác nhau. Chưa có cơng trình nào
nghiên cứu một cách tồn diện và tổng thể về chủ trương, đường lối của Đảng
cộng sản Việt Nam về phát triển Đảng trong doanh nghiệp tư nhân; chủ
trương, biện pháp của thành phố Hồ Chí Minh về phát triển Đảng trong doanh
nghiệp tư nhân; quá trình hình thành, phát triển tổ chức cơ sở đảng trong
doanh nghiệp tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh; những thành tựu, hạn chế;
bài học kinh nghiệm cùng giải pháp để phát huy những thành tựu, khắc phục
những khó khăn, hạn chế đó.
Trên cơ sở tìm hiểu, tiếp thu có chọn lọc các cơng trình nghiên cứu của
những người đi trước và xuất phát từ thực tiễn của công tác xây dựng và phát
triển tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh hiện nay, tác giả chọn vấn đề “Quá trình hình thành và phát
triển tổ chức cơ sở Đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân tại thành phố
Hồ Chí Minh (thời kỳ 1986-2006)” để làm đề tài nghiên cứu và viết cơng
trình luận văn thạc sĩ của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu những chủ trương, đường lối của Đảng và giải
pháp của Thành ủy thành phố, đề tài làm sáng tỏ quá trình xây dựng và phát
triển của hệ thống tổ chức cơ sở đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân tại


5

thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 1986-2006; phân tích, đánh giá về vai trị, vị
trí của các tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực kinh tế này. Từ đó, tổng kết
những thành tựu và hạn chế, rút ra những kinh nghiệm và có những giải pháp
cơ bản nhằm phát triển Đảng trong doanh nghiệp tư nhân ở thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài

Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung giải quyết một số nhiệm vụ:
Thứ nhất, nghiên cứu chủ trương, đường lối của Đảng về xây dựng và
phát triển tổ chức cơ sở đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ 1986 đến 2006.
Thứ hai, tìm hiểu quá trình hình thành, phát triển, thuận lợi và khó
khăn; vai trị của các tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba, rút ra những kinh nghiệm, đề xuất một số giải pháp để thực
hiện có hiệu quả cơng tác phát triển Đảng trong doanh nghiệp tư nhân thành
phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn được xác định là chủ trương, đường
lối của Đảng về xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở đảng trong khối doanh
nghiệp tư nhân; quá trình hình thành và phát triển tổ chức cơ sở đảng trong
khối doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; vai trị, vị trí
của tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân; những thành tựu, hạn chế,
những bài học kinh nghiệm và giải pháp để xây dựng và phát triển tổ chức cơ
sở đảng trong thời kỳ đổi mới.


6

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là quá trình hình thành và phát triển tổ
chức cơ sở đảng trong khối doanh nghiệp tư nhân tại thành phố Hồ Chí Minh
từ khi bắt đầu sự nghiệp đổi mới đến năm 2006. Cụ thể về thời gian là : từ
năm 1986 đến năm 2006. Về phạm vi không gian là: các tổ chức cơ sở đảng
khối doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp luận và nguồn tư liệu để thực hiện

để tài
5.1. Cơ sở lý luận, phương pháp luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi thực hiện đề tài, tác giả đã vận dụng phương pháp lịch sử kết hợp
phương pháp logic.
Để có thể phân tích và rút ra những đặc điểm của quá trình hình thành,
xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở đảng khối doanh nghiệp tư nhân tại thành
phố Hồ Chí Minh từ năm 1986 đến năm 2006, theo quan điểm lịch sử, trước
hết là xem xét và nghiên cứu các hoạt động của nó trong một quá trình của sự
phát triển liên tục theo thời gian, với những giai đoạn nhất định. Từ trước năm
1986, từ năm 1986 đến năm 1996, từ năm 1996 đến năm 2006 để tìm ra sự
khác nhau của sự phát triển đó.
Ngồi ra, tác giả cịn vận dụng một số phương pháp khác như: tổng
hợp, thống kê, so sánh, …
5.3. Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài này, nguồn tư liệu mà tác giả sử dụng đó là:


7

- Các tác phẩm của C.Mác, A.Ghen, V.Lênin, và Hồ Chí Minh về thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; Các văn kiện Đảng và văn bản pháp luật
của Nhà nước.
Các Văn kiện Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh. Các nghị quyết, chị thị,
báo cáo của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh được lưu trữ trong văn phịng
Ban Tổ chức Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh. Cùng các sách, báo và tạp chí
khác… Ngồi ra, cịn có các báo cáo về cơng tác xây dựng tổ chức cơ sở
đảng, hoạt động của tổ chức cơ sở đảng trong một số doanh nghiệp và các

nghị quyết, báo cáo của đảng bộ một số doanh nghiệp tiêu biểu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Việc nghiên cứu chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam;
chủ trương, biện pháp của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, q trình hình
thành, xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng trong khối doanh nghiệp tư
nhân trong điều kiện đặc thù của thành phố, từ đó tổng kết những thành tựu
đạt được, khó khăn, hạn chế, bài học kinh nghiệm trong quá trình xây dựng và
phát triển Đảng trong doanh nghiệp tư nhân vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý
nghĩa thực tiễn sâu sắc.
Những kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, giảng dạy về đường lối
cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam và lịch sử xây dựng và phát triển tổ
chức cơ sở đảng trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; hoặc lịch sử Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh .
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, đề
tài được kết cấu gồm 3 chương.


8

CHƯƠNG 1: CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG TỔ
CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG TRONG DOANH NGHIỆP TƯ
NHÂN

1.1. Chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần
Những năm đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, kinh tế -xã hội Việt
Nam rơi vào khủng hoảng trầm trọng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó

khăn, do nhiều nguyên nhân. Trong đó có những ngun nhân khách quan
như: chính sách cấm vận của đế quốc Mỹ, sự cắt giảm viện trợ từ Liên xô,
Đông Âu và các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa. Về chủ quan là do sai
lầm của Đảng trong việc hoạch định và chỉ đạo thực hiện đường lối cách
mạng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là đường lối phát triển kinh tế. Tư tưởng chủ
quan duy ý chí, khơng tơn trọng quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo
xã hội chủ nghĩa, xoá bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần; duy trì quá lâu
cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp; sai lầm, khuyết điểm
trong công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ.
Để đưa đất nước ra khỏi khó khăn, bảo vệ những thành quả cách mạng
đạt được và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh chóng, các quốc gia đều tập
trung phát triển kinh tế nên trực tiếp thúc đẩy quá trình tồn cầu hóa được đẩy
mạnh; xu thế chung trong quan hệ quốc tế là hợp tác, cạnh tranh trong phát
triển; trên tinh thần chung đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
họp vào tháng 12/1986 đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện.


9

Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đại hội lần thứ
VI của Đảng (tháng 12/1986) đánh dấu một bước chuyển hướng và đổi mới
quan trọng trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. “Trong lĩnh
vực kinh tế, đó là chuyển hướng về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đổi
mới các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý, nhằm khai thác mọi tiềm năng
của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, tăng nhanh sản phẩm xã hội, thực
hiện mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định và cải thiện đời sống
nhân dân” [41, tr 387-388].
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI của Đảng nêu rõ:
Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải

tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, xóa bỏ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã
hội chủ nghĩa.
Đặc trưng của thời kỳ quá độ là nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa ( gồm quốc doanh và tập thể); các thành phần kinh tế
khác: công tư hợp doanh, tiểu sản xuất hàng hóa (thợ thủ cơng, nơng dân cá
thể, tiểu thương), kinh tế tự nhiên và kinh tế tư bản tư nhân tồn tại trong thời
gian dài. Trong đó kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chủ đạo.
Cải tạo xã hội chủ nghĩa phải nhằm xây dựng kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể ngày càng vững mạnh, làm cho kinh tế xã hội chủ nghĩa chiếm
ưu thế và phát huy tính hơn hẳn thơng qua việc khơng ngừng nâng cao năng
xuất lao động. Đồng thời thừa nhận sự tồn tại của thành phần kinh tế tiểu sản
xuất hàng hóa và một bộ phận kinh tế tư bản tư nhân ở mức độ nhất định trong
thời gian tương đối dài, coi đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực
lượng sản xuất, tận dụng các tiềm năng, tạo thêm việc làm cho người lao động.


10

Phải sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế đó vì lợi ích của chủ nghĩa xã
hội [41, tr 371-372].
Nghị quyết số 06-NQ/HNTU của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khoá VI): Kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Đại
hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm tới (ngày 29 tháng 03 năm 1989)
nêu rõ : thực hiện nhất quán chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, giải
phóng mọi năng lực sản xuất. Đồng thời khẳng định : Chính sách kinh tế
nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất
nhỏ đi lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện tinh thần dân chủ về kinh tế, bảo đảm
cho mọi người được tự do làm ăn theo luật pháp.
Trong nền kinh tế quốc dân thống nhất do Nhà nước hướng dẫn, kiểm

soát và điều tiết với kinh tế quốc doanh nắm những vị trí then chốt, các đơn vị
sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế vừa hợp tác với nhau, bổ
sung cho nhau, vừa cạnh tranh với nhau trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật.
Trong điều kiện của nước ta, các hình thức kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu
chủ, tư bản tư nhân) vẫn cần thiết lâu dài cho nền kinh tế và nằm trong cơ cấu
của nền kinh tế hàng hoá đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI, trong khi thừa nhận sự cần thiết của kinh tế tư bản tư
nhân, Đảng ta khẳng định "cho phép những nhà tư sản nhỏ sử dụng vốn, kiến
thức kỹ thuật và quản lý của họ để tổ chức sản xuất, kinh doanh trong một số
ngành, nghề thuộc khu vực sản xuất và dịch vụ ở những nơi cần thiết... Quy
mô và phạm vi hoạt động của các cơ sở kinh tế tư bản tư nhân được quy định
tùy theo ngành, nghề và mặt hàng" [33, tr 60].
Đại hội VII diễn ra tháng 6/1991 khẳng định lại chủ trương đúng
đắn của Đại hội VI về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ


11

nghĩa. “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và
địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm. Nhà
nước có thể liên doanh bằng nhiều hình thức với tư nhân trong và ngồi nước,
hình thành loại doanh nghiệp thuộc thành phần tư bản nhà nước” [34, tr 85].
Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản
lý, hướng dẫn của Nhà nước, trong đó, kinh tế cá thể và tiểu chủ có phạm vi
hoạt động tương đối rộng ở những nơi chưa có điều kiện tổ chức kinh tế tập
thể, hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường tư bản nhà nước
dưới nhiều hình thức" [34, tr 69].
Đại hội VIII của Đảng (6/1996) bổ sung, phát triển đường lối chiến
lược đối với các thành phần kinh tế. Trong đó, về thành phần kinh tế tư nhân,

Đảng chủ trương: “thực hiện các biện pháp, chính sách để khuyến khích đầu
tư vào sản xuất trong các ngành, các lĩnh vực phù hợp với mục tiêu và chiến
lược phát triển của đất nước. Bảo hộ quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp, tạo
điều kiện thuận lợi đi đôi với tăng cường quản lý, hướng dẫn làm ăn đúng
pháp luật, có lợi cho quốc tế dân sinh. Khuyến khích các chủ doanh nghiệp
dành cổ phần ưu đãi để bán cho người lao động tại doanh nghiệp. Xây dựng
quan hệ hợp tác giữa chủ và thợ trên cơ sở thực hiện Luật Lao động, bảo đảm
lợi ích hợp pháp của cả hai bên” [35, tr 234].
Đại hội IX của Đảng (4/2001) khẳng định: "Chủ trương thực hiện nhất
quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường đinh hướng xã hội chủ
nghĩa" [36, tr 86].
Kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển
mạnh. Thực hiện quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của mỗi công dân


12

nhằm phát huy tối đa nội lực, phát triển lực lượng sản xuất. Sửa đổi, bổ sung hệ
thống pháp luật nhằm bảo đảm sự bình đẳng về cơ hội cho mọi tổ chức, cá nhân
thuộc các thành phần kinh tế. Xố bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử, bảo đảm
cơ hội và khả năng lựa chọn bình đẳng của các thành phần kinh tế trong tiếp
cận về vốn, đất đai, lao động, công nghệ, trong sản xuất, kinh doanh và xuất
nhập khẩu. Tiếp tục phát huy những tác động tích cực của Luật Doanh nghiệp,
tiến tới xây dựng một luật áp dụng thống nhất cho các loại hình doanh nghiệp
khác nhau thuộc các thành phần kinh tế. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách
khuyến khích doanh nghiệp vừa và nhỏ, kinh tế trang trại [36, tr 320-321].
Trong báo cáo của Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội X
tháng 4 năm 2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5

năm 2006 – 2010 đã xác định: Tiếp tục phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá
thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân. Tạo điều kiện thuận lợi cho
các loại hình kinh tế tư nhân đầu tư phát triển theo quy định pháp luật, không
hạn chế về quy mô, ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn. Xố bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xử; thực sự bình đẳng, tạo thuận lợi để các doanh nghiệp, nhất là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa, các hộ kinh doanh được tiếp cận các nguồn vốn tại
các tổ chức tín dụng của Nhà nước, kể cả quỹ hỗ trợ phát triển; được đáp ứng
thuận lợi nhu cầu sử dụng đất làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh. Khuyến
khích phát triển các doanh nghiệp lớn của tư nhân, các tập đồn kinh tế tư
nhân có nhiều chủ sở hữu với hình thức cơng ty cổ phần. Tổng kết và có
chính sách, giải pháp thúc đẩy kinh tế trang trại phát triển.
Khuyến khích tư nhân mua cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước,
tham gia đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền
kinh tế. Khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân lớn bán cổ phần cho người
lao động [37, tr 236-237]. Đảng ta khẳng định rằng, "Kinh tế tư nhân có vai trò
quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế” [37, tr 83].


13

Như vậy, chủ trương phát triển kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đề ra từ Đại hội toàn quốc lần
thứ VI (12/1986) và tiếp tục được bổ sung, phát triển qua các Đại hội VII
(6/1991), Đại hội VIII (6/1996), Đại hội IX (4/2001), Đại hội X (4/2006). Tuy
nhiên, để đưa kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa lại
là một nhiệm vụ hết sức phức tạp, lâu đài và khó khăn. Kinh tế tư nhân chỉ có
thể phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa khi Đảng và Nhà nước có
chính sách và biện pháp quản lý phù hợp, không làm mất động lực phát triển
của nó, nhưng cũng khơng để cho nó vận động một cách tự phát, ngồi vịng
kiểm sốt.

Để duy trì sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần, nhất là kinh
tế tư nhân phát triển đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng phải có chủ
trương, đường lối phù hợp với thực tế của đất nước đồng thời Nhà nước chỉ
đạo vận dụng các công cụ kinh tế, pháp luật để quản lý. Vai trò lãnh đạo của
Đảng và quản lý, điều hành của Nhà nước trong nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần đặc biệt quan trọng, là điều kiện tiên quyết trong định hướng sự
phát triển của kinh tế tư nhân.
1.2. Vai trị, vị trí của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần
Như phần trên đã trình bày, trong quá trình đổi mới Đảng cộng sản Việt
Nam đã chủ trương chuyển đổi cơ chế quản lý từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường và cơ cấu thành phần kinh tế có
sự thay đổi nhanh chóng. Nhận thức của Đảng về vị trí, vai trị của các thành
phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân đã có sự thay đổi căn bản so với trước.
Trước đổi mới, vai trò và vị trí kinh tế tư nhân chưa được coi trọng. Kể
từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, kinh tế tư nhân được coi là một


14

trong những bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, được đối
xử và hoạt động bình đẳng như các thành phần kinh tế khác. Đảng đã chỉ đạo
và Nhà nước tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thành phần
kinh tế này. Cụ thể như Nhà Nước ban hành, sửa đổi, bổ sung các quy định
pháp luật, tạo hành lang pháp lý, môi trường, thể chế và tâm lý xã hội tốt cho
doanh nghiệp tư nhân phát triển. Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã chủ
động, tích cực triển khai thực hiện nhiều biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, trong
đó có doanh nghiệp của tư nhân.
Kinh tế tư nhân (bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư
nhân) là sản phẩm của công cuộc đổi mới, ngày càng lớn mạnh và có vị thế

mới trong nền kinh tế, đang phát huy tác dụng tích cực trong sự nghiệp phát
triển đất nước cùng với đà phát triển của cơng cuộc đổi mới. Đó cũng là một
đặc điểm nổi bật trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của
nước ta.
Khu vực kinh tế tư nhân có vai trị, vị trí quan trọng đối với sự phát triển
chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội như: huy động được nhiều nguồn vốn đầu
tư từ nhân dân vào sản xuất kinh doanh, góp phần nâng cao sức sản xuất, làm
tăng của cải vật chất cho xã hội, tạo thêm nhiều việc làm mới cho người lao
động; thúc đẩy sự hình thành và phát triển các loại thị trường, làm tăng sức
cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế trong hoạt động sản xuất và kinh doanh, vừa góp
phần tạo nên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, vừa tham gia giải quyết nhiều vấn
đề xã hội... Trong thời kỳ đổi mới, sự biến đổi của quan hệ sở hữu khiến quan
hệ quản lý và phân phối cũng thay đổi. Do vậy, sự hình thành và phát triển của
thành phần kinh tế tư nhân khiến cho quan hệ sản xuất trở nên linh hoạt và phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất vốn cịn thấp và phát triển
khơng đều giữa các vùng, ngành trong cả nước; khơi dậy và phát huy được


15

tiềm năng về vốn, đất đai, lao động, kinh nghiệm sản xuất của các tầng lớp
nhân dân vào công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Chính vì
những lý do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng, sự phát triển của kinh tế tư
nhân đã đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hố.
Sự xuất hiện ngày càng nhiều chủ thể sản xuất, kinh doanh thuộc khu
vực kinh tế tư nhân trong tất cả các lĩnh vực, các ngành sản xuất, kinh doanh
đã đẩy lùi dần tình trạng độc quyền, làm cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị
trường được mở rộng, các quy luật kinh tế thị trường phát huy được tác dụng

đẩy lùi cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp vốn đã ăn sâu trong tiềm
thức xã hội. Thông qua việc phát triển kinh tế tư nhân mà quyền làm chủ của
nhân dân, trước hết là quyền làm chủ về kinh tế được phát huy [17].
Doanh nghiệp tư nhân là nơi để đội ngũ doanh nhân thể hiện tài năng
kinh doanh của mình; là mơi trường đào tạo một đội ngũ những nhà kinh
doanh chuyên nghiệp, không những chỉ hoạt động trong nước mà còn vươn ra
thế giới. Nhân tài quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp chỉ có thể nảy nở
trong quá trình vật lộn trên thương trường, trưởng thành trong cạnh tranh gay
gắt. Vì thế, trong quá trình phát triển hầu hết các doanh nghiệp tư nhân đều
chú trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát huy cao nhất vốn con người trong
doanh nghiệp vào việc hiến kế, nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, chính là vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt, song không kém phần quan
trọng là vừa góp phần đào tạo nhân tài cho cơng cuộc quản trị kinh tế đất
nước trong tương lai.
Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh tầm quan trọng của doanh nghiệp,
doanh nhân trong phát triển kinh tế và tôn vinh những doanh nhân có tài, có
đức, thành đạt, làm giàu cho mình và cho Tổ quốc. Cùng với chính sách cho


16

phép đảng viên được làm kinh tế tư nhân và quyết định của Nhà nước coi
ngày 13 - 10 hàng năm là Ngày Doanh nhân; Đảng, Nhà nước ta đã chính
thức thừa nhận vai trị to lớn của doanh nghiệp, doanh nhân nói chung, doanh
nghiệp, doanh nhân tư nhân nói riêng.
Nhìn chung, trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, về vai trò
của doanh nghiệp tư nhân, Đảng ta luôn khẳng định một cách nhất quán rằng
doanh nghiệp tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động lực của
nền kinh tế. Chúng ta cũng thấy rằng, ở nước ta hiện nay, trong mối quan hệ
giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ

đạo, quyết định bản chất và định hướng cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh
tế, còn kinh tế tư nhân là "chỗ dựa thiết yếu”, "có vai trị quan trọng, là một
trong những động lực của nền kinh tế”. Sở dĩ, kinh tế tư nhân có vai trị như
vậy là vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, kinh tế tư nhân tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn,
đóng góp đáng kể vào giá trị thu nhập của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cũng
cần nói thêm rằng, hiện nay, không một quốc gia nào trên thế giới lại coi nhẹ
vai trị, vị trí của kinh tế tư nhân.
Thứ hai, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, ở các nước có nền kinh
tế phát triển cao và hiệu quả, tỷ lệ đóng góp vào tổng sản phẩm quốc dân của
khu vực kinh tế tư nhân bao giờ cũng cao hơn khu vực kinh tế Nhà nước.
Thứ ba, kinh tế tư nhân tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ, đóng góp
ngày càng lớn vào ngân sách Nhà nước, tham gia tích cực và hiệu quả trong
việc thực hiện các mục tiêu xã hội.
Thứ tư, ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế
tư nhân đã và đang từng bước khẳng định vị trí "chỗ dựa thiết yếu” của nó
theo đúng quy luật của nền kinh tế thị trường. Nó đã thực sự trở thành một bộ


17

phận của kinh tế dân doanh, thể hiện định hướng phát triển theo nguyên tắc
"lấy dân làm gốc” với mục tiêu thực hiện dân giàu, nước mạnh. Kinh tế tư
nhân đang có cơ hội phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về quy
mô số lượng lẫn chất lượng.
Thứ năm, phát triển kinh tế tư nhân là một tất yếu xuất phát từ quy luật
về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, có tác đụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Nếu chúng ta chỉ coi
kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể là nền tảng mà không đặt kinh tế tư nhân
vào đúng vị trí của nó, thì về thực chất, chúng ta vẫn coi sở hữu là mục đích

của mọi chính sách. Chúng ta không thể để quan hệ sản xuất vượt quá xa so
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như trước đây, cũng như không
thể "ép" kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể phải có tiềm lực lớn hơn kinh tế
tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi
chúng chưa đủ khả năng làm điều đó một cách hiệu quả [17].
Chính sách đối với phát triển các thành phần kinh tế là một bộ phận
trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta. Từ chỗ
không thừa nhận kinh tế tư nhân đến chỗ thừa nhận nó; từ chỗ thừa nhận kinh
doanh nhỏ ở một số ngành nghề, đến chỗ không hạn chế về quy mô và lĩnh
vực mà luật pháp không cấm. Từ chỗ cho làm, đến chỗ được làm, mỗi lần
thay đổi tư duy như vậy là một lần nhận thức của chúng ta được mở rộng, sâu
sắc thêm và kinh tế tư nhân cùng các thành phần kinh tế khác phát triển.
Những biến đổi như vậy đã thúc đẩy các thành phần kinh tế đóng góp quan
trọng vào tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm tạo cơ hội cho những chủ
thể kinh tế, các doanh nhân mới năng động, sáng tạo, dám nghĩ dám làm, dám
chịu trách nhiệm với mình và với đất nước.


18

Tuy nhiên, nhận thức về vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân có nơi, có lúc
vẫn chưa được đầy đủ và còn thiếu nhất quán. So với yêu cầu đặt ra, việc đổi
mới cơ chế, chính sách, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều
hạn chế; việc thể chế hóa một số nội dung của các nghị quyết, nghị định của
Trung ương còn chậm, chưa đồng bộ, một số quy định chưa sát với thực tế
nên khó thực hiện; nhiều vướng mắc về cơ chế, chính sách trong tổ chức thực
hiện chưa được tháo gỡ kịp thời.
Bên cạnh đó, thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực vẫn còn phức
tạp. Nhiều nơi chưa quan tâm đến định hướng phát triển kinh tế tư nhân theo
quy hoạch ngành và lãnh thổ. Kinh tế tư nhân phát triển cịn tự phát, nhỏ lẻ,

manh mún, tình trạng vi phạm pháp luật còn khá phổ biến, nhất là ở những
lĩnh vực nhạy cảm.
Vì vậy, cần tiếp tục, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo công tác
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao hơn nữa
trong toàn Đảng, toàn dân và các ngành, các cấp về chủ trương nhất quán phát
triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước; đề cao ý thức trách nhiệm của
cán bộ, đảng viên, đặc biệt là lãnh đạo các cấp trong tổ chức thực hiện Nghị
quyết 14-NQ/TU của Đảng. Bám sát các nhiệm vụ đã nêu trong Nghị quyết
này để tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân mạnh mẽ hơn nữa trong
thời gian tới . Bên cạnh đó, cũng cần xử lý nghiêm các doanh nghiệp vi phạm
những quy định của Nhà nước; phải cụ thể hóa Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư. Khắc phục những nội dung chưa rõ ràng, chồng chéo giữa các văn bản
pháp luật; điều chỉnh cơ chế phân cấp và phối hợp giữa Trung ương và địa
phương trong quản lý nhà nước về đầu tư; quan tâm đến bảo vệ nhà đầu tư, cổ
đơng thiểu số; sớm có hướng dẫn đầy đủ việc xử lý các trường hợp doanh
nghiệp vi phạm các hành vi bị cấm theo quy định của Luật. Sửa đổi Điều 6


19

của Luật Doanh nghiệp theo hướng quy định bắt buộc việc thành lập và hoạt
động của tổ chức cơ sở đảng, các đoàn thể trong doanh nghiệp.
Đồng thời, để khắc phục yếu kém, bổ sung năng lực cho mỗi doanh
nghiệp tư nhân trong tình hình mới, nhất là về các mặt tìm kiếm thị trường, đối
mới cơng nghệ, cải tiến quản lý, rất cần thiết mở rộng hơn nữa việc liên doanh,
liên kết giữa các doanh nghiệp, trước hết là doanh nghiệp kinh doanh cùng một
mặt hàng. Muốn vậy, cần phát triển hơn nữa các hội, hiệp hội nghề nghiệp.
Hiện nay, Dự thảo Luật về Hội đang được soạn thảo và khi được Quốc hội
thơng qua sẽ là một đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy liên doanh, liên kết
giữa các doanh nghiệp, tạo thêm sức mạnh cho kinh tế tư nhân.

Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát
triển một cách nhanh chóng và hiệu quả, thì vai trị của doanh nghiệp tư nhân
ngày càng được coi trọng. Chính vì vậy, càng cần hơn nữa vai trò lãnh đạo
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế này đồng thời qua
đó cũng khẳng định lại vai trò quan trọng của doanh nghiệp tư nhân khi tham
gia vào quá trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội.
1.3 Chủ trương, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về xây
dựng tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp tư nhân
Sau Đại hội VI, trên cơ sở chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp luật về việc thành lập và hoạt động
của doanh nghiệp tư nhân. Luật Công ty và Luật Doanh nghiệp tư nhân ( năm
1990) đã đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành và phát triển các
doanh nghiệp tư nhân với các loại hình: cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty
cổ phần và doanh nghiệp tư nhân, đã có nhiều doanh nghiệp tư nhân được
thành lập và đi vào hoạt động, đóng góp tích cực vào những thành tựu chung
của cơng cuộc đổi mới ở nước ta. Tuy nhiên, trong 10 năm đầu đổi mới (từ


20

1986- 1996) sự phát triển ấy chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa khai thác và
phát huy tốt tiềm năng về nguồn vốn, tài nguyên và lao động trong nước, thu
hút vốn đầu tư, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngồi.
Bên cạnh đó, hoạt động của khơng ít doanh nghiệp đã bộc lộ những yếu kém,
tiêu cực như trốn thuế, lậu thuế, vi phạm hợp đồng; ở một số nơi quyền lợi và
nhân phẩm của người lao động chưa được tôn trọng và bảo vệ… Sự lãnh đạo
của Đảng, công tác quản lý của Nhà nước và hoạt động của các đoàn thể ở các
cấp đối với các doanh nghiệp này chưa được coi trọng đúng mức [19].
Ở khu vực kinh tế Nhà nước, do tính chất đặc thù nên các tổ chức cơ sở
đảng sẵn có và cơng tác xây dựng Đảng có nhiều thuận lợi để phát triển và

đẩy mạnh cả về chất lượng và số lượng. Còn riêng đối với doanh nghiệp tư
nhân, việc xây dựng và phát triển tổ chức cơ sở đảng lại hoàn toàn là vấn đề
mới mẻ, chưa có tiền lệ. Để đảm bảo vai trị lãnh đạo của Đảng trong quá
trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cần phải có chủ trương chỉ đạo cụ thể đối
vởi các thành phần kinh tế về công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng, trong đó
có thành phần kinh tế tư nhân. Đảng lãnh đạo ở đây, khơng chỉ ở đường lối,
chính sách, chiến lược mà cịn cả khâu tổ chức thực hiện; khơng chỉ ở cấp vĩ
mô (trung ương) hay tỉnh, thành phố mà cịn ở cấp vi mơ và cơ sở. Vai trị của
cơ sở có tầm quan trọng ở chỗ đưa đường lối, chính sách của Đảng đi vào cơ
sở và là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, với doanh nghiệp; sức mạnh của
Đảng là ở chỗ liên hệ mật thiết với nhân dân.
Trước tình hình thực tiễn của đất nước khi bước vào thời kỳ đổi mới,
ngày 12/9/1987 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 04/NQ-TU về cuộc vận động làm
trong sạch và nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng. Ngày 29/9/1987, Ban Bí thư ra Chỉ thị 16/CT-TU hướng dẫn thực hiện
Nghị quyết 04/NQ-TU.


21

Để xây dựng, phát triển tổ chức cơ sở đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng đối với các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngồi trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngày
23/11/1996, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 07- CT/TU Về
tăng cường công tác xây dựng Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần tư nhân
và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Với một số nội dung cụ thể như:
1. Tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa trong cán bộ, đảng viên và nhân dân
về chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường, có

sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa và mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế quốc tế, tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, bổ sung, hoàn thiện luật
pháp, làm tốt chức năng quản lý của cơ quan nhà nước đối với các loại doanh
nghiệp nói trên.
2. Xúc tiến việc xây dựng và củng cố tổ chức đảng và đoàn thể trong
các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trước
hết là ở những doanh nghiệp có quy mơ lớn và vừa, có vị trí quan trọng trong
nền kinh tế, rút kinh nghiệm để tiến hành ở các doanh nghiệp khác.
Các tổ chức đảng và đồn thể trong doanh nghiệp hoạt động cơng khai,
hợp pháp theo Hiến Pháp, Điều lệ Đảng và điều lệ của các đồn thể, bảo đảm
hiệu quả thiết thực, tránh hình thức.
Ở những doanh nghiệp đã có từ 3 đảng viên chính thức trở lên đang
làm việc tại doanh nghiệp nhưng còn sinh hoạt đảng ở nơi khác, cấp ủy cấp
trên trực tiếp kiểm tra xem xét, nếu thấy các đảng viên đó có đủ điều kiện thì
chỉ đạo chuyển sinh hoạt đảng của số đảng viên đó về doanh nghiệp để lập tổ
chức đảng tại doanh nghiệp.


×