Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

ngu van

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (86.1 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Một vài suy nghĩ về nhà ngữ âm học lớn</b>


<b>nhất Việt Nam</b>



<i>• Phan Ngọc</i>


Cách đây hai tuần tôi nghe tin anh Cao Xuân Hạo đã vào nhà thương vì mắc bệnh
nhũn não mà bàng hồng. Tơi và anh Hạo quen thân nhau từ năm 1940, khi anh còn là
cậu học sinh lớp 6 của trường trung học Công giáo Thiên Hựu ở Huế, bạn cùng lớp
với cậu em con ông chú của tôi là Phan Thiều, và cho đến nay, vào năm 2007, tức là
đã 67 năm. Tuy hoàn cảnh cuộc đời mỗi người có nhiều thay đổi, nhưng tình bạn của
tơi đối với anh không thay đổi. Trong thời gian sau giai đoạn “Nhân văn - Giai
phẩm”, sau khi cả hai đều mất cơng việc giảng dạy, chỉ cịn làm phiên dịch, hai người
thường đi chung với nhau. Người nào nhắc đến Phan Ngọc thì cũng nhắc đến Cao
Xuân Hạo, và ngược lại cũng thế. Kể ra, điều này khơng phải là vơ lí, vì tơi và anh
Hạo có nhiều điểm chung, khiến chúng tơi khác nhiều người.


Tơi xin nói trước đến một vài điểm giống nhau.


Ai cũng nhận thấy anh Hạo thạo nhiều ngoại ngữ. Theo kinh nghiệm của tôi, điều này
là dựa vào việc học tiếng Latinh. Người nào đã học tiếng Latinh cũng đều nhận thấy
trong ngơn ngữ này, hệ thống biến hố hình thái là vô cùng phức tạp. Hầu như mọi
quan hệ hình thái có thể có trong các ngơn ngữ phương Tây, thì đều có sẵn trong tiếng
Latinh, cho nên đã học tiếng Latinh thì việc nắm các quan hệ ngữ pháp của các ngôn
ngữ châu Âu là hết sức dễ dàng, gần như khơng cần phải học. Cịn về vốn từ, thì tối
đại đa số các chính tố trong các tiếng châu Âu đều đã có sẵn trong tiếng Latinh, cho
nên việc nhớ không phải vất vả. Đã thế, một câu tiếng Latinh trung bình có từ 200 đến
300 chữ. Khi dịch ra tiếng Pháp bắt buộc phải dịch thành 4-5 câu, vì tiếng Pháp là
ngơn ngữ phân tích tính. Do đó mà học được cách ngắt câu và cách viết sao cho các
câu tách rời này vẫn tạo thành một thể thống nhất chặt chẽ là điều hết sức cần thiết.
Những điều này đều hết sức có lợi giúp người học biết phân tích, tổng hợp, hay biết
cách dùng các từ đệm sao cho cả một loạt câu thành một thể thống nhất. Không phải


ngẫu nhiên mà anh Hạo, cũng như Trương Vĩnh Kí đều rất giỏi ngoại ngữ. Anh Hạo
cịn hơn tơi về điểm anh rất thạo âm nhạc, đã từng là một nhạc công và một nhạc sĩ.
Cho nên anh có tai rất tốt, và rất thạo cách bắt chước sao cho đúng với ngôn ngữ nước
ngồi. Có thể nói anh là nhà ngơn ngữ học bẩm sinh, và đời tôi chưa gặp một người
thứ hai có năng khiếu này như anh. Phần lớn các nhà ngôn ngữ học Việt Nam, kể cả
tôi và anh Nguyễn Tài Cẩn, đều do say mê ngôn ngữ học mà học suốt ngày nên có đơi
chút thành tựu, chứ không phải là những nhà ngôn ngữ học bẩm sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Châu (Nghệ An), vào những năm 1947-1949, khi thầy Cao Xuân Huy còn làm hiệu
trưởng.


Anh Hạo cũng như tôi đều đi con đường thức nhận. Khi đi con đường này, người làm
khoa học khơng bó hẹp vào cách nhìn của mình để đưa ngay ra kết luận về một hiện
tượng. Trái lại, anh ta đối lập cách nhìn của mình về một vấn đề nào đó với mọi cách
nhìn có thể có cũng về vấn đề này. Bài viết toàn là đối lập và đối lập, và người viết cố
gắng giải thích mọi kiến giải khác nhau để cuối cùng đưa ra kiến giải của mình mà
anh ta cho là hợp thực tế. Rất tiếc là tơi và anh tuy có cộng tác với nhau trong việc
dịch một vài tác phẩm, nhưng chưa hề có dịp cộng tác với nhau về văn hố học hay
ngơn ngữ học. Việc khen chê đúng sai là thuộc thực tế sau này, tôi không dám bàn
đến.


Bây giờ nói đến chỗ khác nhau.


Chỗ khác nhau chủ yếu là ở lối sống. Tôi là nhà nho Việt Nam, về chuyện tình u tơi
bó hẹp vào chuyện vợ chồng chung thuỷ. Tôi lại được đặc biệt may mắn có bà vợ hiền
lo lắng cho tơi về mọi việc trong gia đình, cho nên tơi có điều kiện làm việc suốt
ngày. Còn anh rất khổ sở về chuyện gia đình. Tơi xin phép chỉ nói đến giai đoạn trước
năm 1975, khi hai người còn ở gần nhau, chủ yếu là ở Hà Nội. Còn giai đoạn sau khi
đất nước thống nhất, hai người ở xa nhau, tôi ở Hà Nội, anh ở Thành phố Hồ Chí
Minh, cho nên tơi khơng có ý kiến.



Trong thời gian trước 1975, anh không gặp may về chuyện lập gia đình, hầu như phải
một mình gà trống ni con, lo cho hai cháu là Cao Xuân Minh và Cao Liễu Thanh
mọi việc từ ăn uống đến sinh hoạt, nhất là trong thời gian đi sơ tán, cuộc sống cực kì
vất vả.


Điểm khác nhau thứ hai là lối sống nhà nho của tôi rất khác lối sống nghệ sĩ của anh.
Anh là người đẹp trai, hát hay, đàn giỏi nên có nhiều tình dun. Tơi đã có lần xung
đột với anh về chuyện này, có một thời gian anh giận tôi gần như cắt đứt quan hệ với
tôi. Cách làm việc của anh cũng khác tơi. Anh có thể thức 3-4 đêm liền khơng ngủ để
hồn tất một cơng việc. Nhưng rồi sau đó lại đi lơng bơng cả tuần. Cịn tơi thì sáng 6
giờ dậy, tối 11 giờ ngủ, ngày nào cũng như ngày nào, suốt cả cuộc đời như vậy.
Có câu tục ngữ Latinh nói: “Những lời nói bay đi, nhưng chữ viết thì cịn lại”. Những
lời nói của anh không khỏi gây rắc rối cho anh. Nhưng những bài viết của anh sẽ cịn.
Những cơng trình của anh về âm vị học sẽ tồn tại như những đóng góp có một khơng
hai trong ngơn ngữ học Việt Nam. Tôi hi vọng các bài ấy sẽ được tập hợp và xuất bản
để nêu bật giá trị của một nhà ngơn ngữ học Việt Nam có tầm cỡ quốc tế.


Cơng trình âm vị học lớn nhất của anh là tác phẩm <i>Âm vị học tuyến tính, suy nghĩ về </i>
<i>những định đề của âm vị học đương đại</i> (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001). Công
trình này anh dịch từ tác phẩm của anh viết bằng tiếng Pháp <i>Phonologie et Linéarité </i>
<i>réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine</i> (SELAF, Paris,
1985)<i>.</i> Về trình độ tiếng Pháp của anh, đây là nhận xét của hai giáo sư A.G.


Haudricourt và C. Hagège(1)<sub>:</sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

“Điểm thứ nhất mà một độc giả biết được bằng cách tiếp thu được trong sách là khơng
làm gì có một mơn học gọi là ngữ âm học” (phonétique); đó chẳng qua là một thứ
“liên âm vị học” (interphonologie). Tơi hồn tồn tán đồng ý kiến này, nhưng tơi chưa
bao giờ thuyết phục được các nhà ngữ âm học nghiệp dư (và các nhà ngữ âm học


chuyên nghiệp nữa) hiểu được điều này”.


J.P. Chambon của trường đại học Nam Illinnois(2)<sub> đã nhận xét về bài viết của anh </sub>


“Vấn đề âm vị trong tiếng Việt” như sau:


“Thế nhưng bài báo của Cao đã chứng minh một cách hoàn tồn chính xác rằng có
những ngơn ngữ trong đó ngun âm và phụ âm cũng chẳng có tính chiết đoạn gì hơn
các thanh điệu.”


“Cơng trình của Cao chứa chất những hệ quả trọng đại.”


Chúng tơi thấy có nói cũng thừa, khơng bằng chính lời của J.P. Chambon đã nói. Tơi
chỉ nhắc đến câu kết luận:


“Sự thật là có lẽ phải nhìn về cái hướng mà Cao Xn Hạo đã chỉ ra, chứ không phải
về cái hướng của ngữ pháp tạo sinh cải biến, để tìm kiếm một cuộc cách mạng
Copernic trong ngôn ngữ học hiện đại. <i>Chẳng phải là một sự kiện có tính quy luật đó </i>
<i>sao, khi lời chất vấn khẩn thiết này đến với chúng ta từ một nước xã hội chủ nghĩa </i>
<i>thuộc Thế giới Thứ ba?</i>” (Tôi nhấn mạnh).


</div>

<!--links-->
<a href=' /> Ngành đào tạo ngữ văn (ban hành kèm QĐ 559/QĐ ngày 05/4/2011)
  • 39
  • 500
  • 0
  • ngu van 9 ngu van 9
    • 33
    • 525
    • 2
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×