Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.59 KB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Dàn ý phân tích bài thơ Ngắm trăng</b>
<b>A. Mở bài:</b>
- Giới thiệu tác giả tác phẩm: “Ngắm trăng” là bài thơ nổi tiếng của chủ tịch Hồ Chí
Minh, được viết khi Người đang bị giam giữ ở nhà tù Tưởng Giới Thạch, Trung Quốc.
- Khái quát nội dung tác phẩm: Bài thơ đã thể hiện tình yêu thiên nhiên, tinh thần lạc
quan của Bác trong cảnh ngục tù tối tăm.
<b>B. Thân bài:</b>
Luận điểm 1: Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác
- Xưa nay, thi nhân khi gặp cảnh trăng đẹp sẽ mang rượu ra, ngồi dưới ánh trăng thư thái
uống rượu, thưởng hoa, ngắm trăng, làm thơ. Đây được coi là thú vui tao nhã, đầy lãng
mạn và thi vị.
- Hoàn cảnh ngắm trăng của Bác:
+ Thời gian: nửa đêm
+ Khơng gian: trong tù, nơi chỉ có 4 bức tường tối tăm và xiềng xích.
+ Điều kiện: “vơ tửu diệc vơ hoa” (khơng rượu cũng khơng hoa)
⇒Hồn cảnh đặc biệt thiếu thốn, gian khổ, ở cái nơi mà người ta chỉ có thể nghĩ đến cái
chết, sự tra tấn, đau khổ nhưng dường như Bác đã quên đi hồn cảnh và thân phận tù
nhân của mình mà thoải mái đứng ngắm trăng, làm thơ.
- Tâm trạng của Bác trước cảnh trăng “khó hững hờ”:
+ Câu thơ thứ 2 là một câu hỏi tu từ, thể hiện tâm trạng bối rối, xao xuyến trước cảnh đẹp
ngoài song sắt.
+ Trước cảnh trăng đẹp như vậy nhưng Bác lại không có rượu để đáp lại tình tứ của ánh
trăng, điều này lại càng làm thi nhân bối rối hơn.
Luận điểm 2: Tình yêu thiên nhiên đến say mê và phong thái ung dung của Bác
- Tình yêu thiên nhiên đến say mê của Bác:
+ Qua song sắt nhà tù, Bác vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên, của ánh
trăng. Xiềng xích nhà tù chỉ có thể trói được thân thể Bác chứ khơng thể ngăn được tâm
hồn thi nhân bay đến với thiên nhiên rộng lớn.
+ Hai câu thơ 3, 4 đối nhau: Mỗi câu thơ chia làm 3, 1 bên là “nhân” (chỉ thi nhân), 1 bên
là “nguyệt” (trăng), và ở giữa là song sắt nhà tù. Cấu trúc đối này đã vẽ ra hoàn cảnh thực
tại (song sắt nhà tù chia rẽ người và trăng), nhưng chính từ đó, người đọc lại thấy nổi bật
lên đó là sự giao thoa, sự hịa quyện giữa thi nhân với ánh trăng, với thiên nhiên trong
mọi hoàn cảnh, Qua đó thể hiện tình bạn tri âm tri kỉ đầy xúc động giữa nhà thơ với
trăng.
Phong thái ung dung, ý chí, nghị lực kiên cường của người chiến sĩ cách mạng
+ Hình ảnh Bác hướng về ánh trăng qua song sắt nhà tù đã cho thấy dù trong bất cứ hồn
cảnh nào, Bác vẫn ln đau đáu hướng về bầu trời tự do, về tương lai tươi sáng của đất
nước. Ánh trăng ấy hay chính là ánh sáng hy vọng mãnh liệt của một người chiến sĩ cách
mạng một lịng muốn giải phóng dân tộc.
Luận điểm 3: Nghệ thuật
- Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt giản dị, ngắn gọn mà hàm súc.
- Nghệ thuật đối, nhân hóa trăng như người bạn tri âm tri kỉ
<b>C. Kết bài:</b>
- Khái quát lại giá trị của bài thơ: Bài thơ là sự thành công về cả nội dung lẫn nghệ thuật,
giúp người đọc hiểu thêm về Bác với những phẩm chất, lối sống cao đẹp.
- Liên hệ, đánh giá: Liên hệ đến các bài thơ “Tức cảnh Pác Bó”, “Đi đường” để thấy
được dù trong hồn cảnh nào, những phẩm chất của Bác vẫn luôn sáng ngời.
<b>2. Phân tích bài thơ Ngắm trăng chi tiết</b>
Trăng là nguồn cảm hứng muôn đời của thi nhân, trăng là người bạn tâm tình; trăng là đề
tài của hội họa và âm nhạc. Trong thơ văn đơng tây kim cổ, đã có biết bao bài thơ hay
viết về trăng, để lại ấn tượng không phai mờ trong trái tim người đọc. Một trong những
tác giả viết nhiều về trăng là Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời cách mạng gian truân và vẻ
vang của Bác, Bác luôn coi trăng là tri âm, tri kỉ.
Bài thơ "Ngắm trăng" ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt: giữa chốn lao tù tâm tối của
chế độ Tưởng Giới Thạch, thi sĩ - người tù tay bị xách, chân bị cùm, thân thể đọa đày nơi
ngục lạnh mà lòng thanh thản thưởng thức vẻ đẹp của một đêm trăng sáng:
<i>Ngục trung vô tửu diệc vô hoa</i>
<i>Đối thử lương tiêu nại nhược hà?</i>
<i>(Trong tù không rượu cũng không hoa)</i>
<i>Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ).</i>
Câu thơ mở đầu tả thực cảnh lao tù khắc nghiệt "Trong tù không rượu cũng không hoa".
Câu thơ thứ nhất là một câu thơ tả thực về hồn cảnh nhà tù. Tuy khơng tả những bức
tường giam lạnh lẽo và những bộ mặt của cai ngục, nhưng mà hai chữ "ngục trung" nghe
mới chua xót làm sao!
Trong tù làm gì có rượu và hoa là những thứ vốn để tạo thi hứng cho tâm hồn thi sĩ!? Xưa
Vậy mà câu thơ thứ hai đã có một biến chuyển về tâm lí tác giả cũng như người đọc. Một
biến chuyển thật bất ngờ: "Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ"! Thế mới là lạ: trong huyết
mạch Bác, trong trái tim yêu đời bao la của Người cảm hứng vẫn dạt dào, nồng đượm
khiến Người phải thốt lên: "Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ".
Câu thơ thể hiện niềm xao xuyến, rạo rực của Bác trước đêm trăng đẹp. Ánh trăng thanh
khiết vời vợi kia như thúc giục, như mời gọi thi nhân hãy ra giữa chốn tự do mà giao hòa,
chia sẻ. Thế nhưng nghiệt nỗi hồn cảnh trói buộc con người, ở hai câu sau, tuy tác giả
đang bị giam hãm, việc thường ngoạn chỉ thu gọn trong một cử chỉ âm thầm, lặng lẽ:
<i>Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt</i>
<i>Nguyệt tòng song khích khán thi gia.</i>
<i>(Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ,</i>
<i>Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.)</i>
Nhưng phong thái tác giả thật là ung dung khi tự nhận mình là "thi gia". Vâng! Tác giả
khơng cịn nhớ hồn cảnh tối tăm của nhà tù, chỉ biết mình có trăng, trăng có mình, và hai
người tri kỉ chiêm ngưỡng nhau, trân trọng và thân thiết, sẻ chia với nhau trong lặng
thầm, trong u thương:
<i>"Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ,</i>
<i>Trăng nhịm khe cửa ngắm nhà thờ"</i>
Bác lặng lẽ, say mê ngắm ánh trăng sáng ngoài cửa sổ. Bốn bức tường giam chật hẹp
không ngăn được cảm xúc mênh mông, Bác thả hồn theo ánh trăng và gửi gắm vào đó
khát vọng tự do khơn cùng của mình. Thoảng đâu đây lời thì thâm tâm sự: "Trăng ơi,
Sự thổ lộ giãi bày chân thành từ trong sâu thẳm hồn người đã được trăng cảm động và
chia sẻ. Ánh trăng lung linh bỗng chốc sống động, linh hoạt hẳn lên: "Trăng nhòm khe
cửa ngắm nhà thơ". Trước sự hiện diện của trăng đẹp, cái hiện thực tối tăm u ám của nhà
tù dường như bị xóa tan, nhường chỗ cho mối giao hịa thiêng liêng giữa nhà thơ tự do và
thiên nhiên vĩnh cửu.
Bác hướng cái nhìn vào ánh trăng sáng trong đêm lao ngục cũng như bao lần khác, trong
hoàn cảnh sống gian nan, Người luôn hướng tới cái đẹp của cuộc đời. Suốt bài thơ, khơng
có một âm thanh, một tiếng động nào dù là nhỏ. Sự im lặng tuyệt đối ấy tôn lên cái sâu
thẳm của hồn người, hồn tạo vật.
Người ngắm trăng, trăng ngắm người trong lặng lẽ. Không nói mà nói bao điều. Giữa bao
bài thơ trăng, bài "Ngắm trăng" của Hồ Chí Minh mang vẻ đẹp giản dị mà khác lạ. Đến
đây, hẳn chúng ta không quên ở bài thơ Khơng đề, tác giả đã nói đến sự tự do vô biên của
tâm hồn:
<i>Thân thể tại ngục trung</i>
<i>Tinh thần tại ngục ngoại</i>
<i>(Thân thể ở trong lao</i>
<i>Tinh thần ở ngồi lao)</i>
Đó phải chăng là một tinh thần khống đạt của thi nhân, cùng là một tinh thần sắt thép
của người chiến sĩ? Thế cho nên tác giả đã rút ra một bài học triết lí, một lời khuyên mình
và khuyên người:
Bài thơ Ngắm trăng và bài thơ Khơng đề có những nét đặc sắc riêng, nhưng cho ta một
phong cách chung của tác giả: Hai bài thơ, một tâm hồn, một nghị lực hàm chứa tuyệt vời
<b>3. Phân tích bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 1</b>
Uống rượu ngắm trăng vốn là thú vui tao nhã của các tao nhân, mặc khách. Nguyễn Trãi
đã từng viết: “Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén” để nói lên thú vui trong lúc thanh
nhàn này. Cịn Hồ Chí Minh trong một hồn cảnh trái ngược hoàn toàn, bằng tâm hồn
rộng mở và tình u thiên nhiên tha thiết đã viết:
<i>Ngục trung vơ tửu diệc vô hoa</i>
<i>Đôi thử lương tiêu nại nhược hà</i>
<i>Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt</i>
<i>Nguyệt tịng song khích khán thi gia</i>
Sau q trình bơn ba vất vả, tìm con đường cứu nước cho dân tộc, vào tháng 8 năm 1942
Bác bí mật từ Cao Bằng sang Trung Quốc để tìm sự viện trợ của quốc tế. Khơng may
trong hành trình đó Bác đã bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, và giải qua hơn
30 nhà giam của 13 huyện thuộc Quảng Tây.
Cuộc sống tù nhân tuy bị đày ải về mặt thể xác nhưng khơng thể mài mịn ý chí chiến
đấu, lịng u thiên nhiên của Người. Bài thơ Ngắm trăng chính là minh chứng tiêu biểu
nhất cho tinh thần thép ấy của Bác.
Tình yêu thiên nhiên của Bác trước hết được bộc lộ qua hoàn cảnh hết sức đặc biệt. Mặc
dù trong hoàn cảnh ngục tù, nhưng khơng vì thế mà Bác đánh mất đi tình u với người
bạn hiền – ánh trăng:
<i>Trong tù không rượu cũng khơng hoa</i>
Một tâm thế ung dung, tự tại Bác đã có, nhưng để thưởng trăng cần phải có rượu và hoa.
Nhưng trong tù thiếu thốn trăm bề, ăn khơng đủ no thì lấy đâu ra những rượu và hoa để
ngắm cảnh cho trọn vẹn. Nhưng ngược lại với thực tại thiếu thốn ấy là lời cảm thán, là sự
băn khoăn, cảnh đẹp đêm nay biết làm thế nào.
Nếu như trong nguyên tác, câu thơ sử dụng từ nghi vấn – hà, bộc lộ sự băn khoăn, khơng
biết phải làm thế nào; thì trong bản dịch thơ lại đánh mất đi ý nghĩa đó, câu thơ mang sắc
thái khẳng định, không biết làm thế nào. Trước khung cảnh đêm trăng tuyệt diệu, huyền
ảo, tấm lòng của một con người yêu thiên nhiên không thể bỏ lỡ, bởi vậy mà:
<i>Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ</i>
<i>Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ</i>
Ánh trăng và con người khơng màng đến hồn cảnh vượt qua song sắt lạnh giá, vượt qua
hoàn cảnh ngục tù để tìm đến với nhau, để giao hịa và tri âm với nhau. Và cũng để từ đó
làm nổi bật lên vẻ đẹp tâm hồn: ung dung tự tại và lòng yêu thiên nhiên tha thiết của Bác.
Trước ánh sáng lung linh, huyền ảo của ánh trăng, người đọc có thể cảm nhận đầy đủ vẻ
đẹp tâm hồn, nhân cách của Người cũng như vẻ đẹp của biết bao nhà thơ xưa: Ngũn
Trãi, Lí Bạch,… Khơng chỉ vậy, ta cịn thấy vẻ đẹp sức sống trong Bác.
Dù phải sống trong hoàn cảnh ngục tù, phải liên tục di chuyển từ nhà lao này, đến nhà lao
khác với biết bao khó khăn, thiếu thốn nhưng Bác vẫn mở rộng tấm lịng mình, say sưa
cảm biết vẻ đẹp của trăng, và có một cuộc vượt thoát ngoạn mục để đến với thiên nhiên.
Kết hợp với ngôn ngữ và âm điệu của tác phẩm đã cho thấy một tinh thần khỏe khoắn,
một sức sống tràn trề, và tinh thần lạc quan trong con người Bác.
Thể thơ tứ tuyệt hàm súc, cô đọng nhưng giàu ý nghĩa đã giúp Bác truyền tải, thể hiện
những thông điệp ý nghĩa. Đó chính là tình u thiên nhiên đắm say, phong thái ung
<b>4. Phân tích bài thơ Ngắm trăng - Mẫu 2</b>
Nguyễn Ái Quốc là một vị lãnh tụ vĩ đại một người cha già của dân tộc. Người là một nhà
cách mạng sáng lập ra đảng cộng sản Việt Nam, một trong những người đặt nền móng và
lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tồn vẹn lãnh thổ cho dân tộc Việt Nam éo
trong việc hành văn của Bác.
Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, giải đi gần 30 nhà giam của
13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây bị đày đọa hơn một năm trời. Thời gian này người đã viết
Nhật kí trong tù gồm 113 bài. Bài thơ ngắm trăng được trích từ tập thơ này. Bài thơ ghi
lại cảnh ngắm trăng trong tù từ đó nói lên tình u trăng u thiên nhiên tha thiết mong
muốn được hịa mình vào trong thiên nhiên cảnh vật.
Trong câu thơ đầu tác giả đã kể ra những thiếu thốn trong tù: "Trong tù không rượu cũng
không hoa". Trong tù thì thiếu thốn biết bao nhiêu là thứ nào là cơm nước quần áo nào
chăn màn nhất là trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch thì cái thiếu thốn ấy lại càng được
tăng lên gấp bội khi giam cầm một nhà chính trị một nhà cách mạng.
Nhưng đối với Hồ Chí Minh thì những thứ thiếu thốn lại là "rượu" và "hoa"phải chăng
bởi đó là những thứ không thể thiếu khi người thi nhân ngắm trăng ngắm vẻ đẹp của chị
Hằng. Bởi khi có rượu có hoa thì mới đủ thi vị ngắm trăng, khi đó người thi sĩ sẽ khơng
cịn cảm thấy cơ đơn với thiên nhiên nữa. Trong tù thiếu thốn là thế nhưng tác giả kể với
một tâm trạng hoàn toàn vui vẻ chấp nhận mọi thiếu thốn hồn cảnh.
Theo lẽ thường thì khi bị nhốt trong tù thì con người ta sẽ thường ngột ngạt khó chịu và
thơ viết muộn phiền cả ngày. Nhưng đối với tâm hồn yêu thiên nhiên của Hồ Chí Minh
thì hồn tồn khác. Trong tâm trí của người lúc nào cũng là thiên nhiên là cảnh vật, yêu
Hồ Chí Minh đã quên đi cái thân phận của người tù đã quên đi tất cả những cơ cực của
nhà tù để đón nhận thiên nhiên đón nhận vẻ đẹp của ánh trăng đón nhận một đêm trăng
đẹp với tư cách một thi nhân hơn nữa là một thi gia. Vẫn tâm trạng đó được nhuốm màu
sang câu thơ tiếp theo.
<i>"Đối thử lương tiêu nại nhược hà</i>
<i>Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ"</i>
trong thơ nguyên tác câu thơ thứ hai là hỏi nhưng trong bản dịch lại là câu trần thuật làm
mất đi cái ý tưởng đẹp của câu thơ, Sự bối rối xúc động trong bản dịch của nhà thơ bị mất
đi thay vào đó là sự phủ định «khó hững hờ», sự bối rối xúc động của nhà thơ không còn
nữa.
Trước cảnh đẹp đêm trăng như thế người thi sĩ không biết làm thế nào khi cảnh đẹp
huyền ảo như thế, Nhà thơ không thể cưỡng lại được vẻ đẹp của thiên nhiên, Câu hỏi tự
nhiên ấy cho thấy lòng yêu thiên nhiên say đắm và khát khao được thưởng thức cái đẹp
của Bác. Ta thấy câu hỏi ấy là một câu hỏi băn khoăn đối với người đọc nhưng đối với
Bác đó là một câu hỏi tu từ nhằm nhấn mạnh cách giải quyết tối ưu của mình.
Ánh trăng thanh khiết vời vợi kia như thúc giục mời gọi thi nhân hãy ra ngồi chốn tự do
để giao hịa chia sẻ. Thế là mặc thiếu thốn vật chất thiếu thốn "không rượu cũng không
hoa" mặc không gian chật hẹp của nhà tù mặc cho song sắt ngoài cửa sổ hai tâm hồn để
hòa nhập vào nhau thả hồn cho nhau và Bác gửi gắm vào đó khát vọng tự do và người tù
ngắm trăng với một tâm thế (vượt ngục ).
<i>"Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt</i>
<i>Nguyệt tòng song khích khán thi gia"</i>
<i>Trong bản dịch là</i>
<i>"Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ</i>
<i>Trăng nhịm khe cửa ngắm nhà thơ"</i>
Hai câu thơ bản dịch cũng kém phần đăng đối hơn so với phiên âm hơn nữa tư nhòm và
ngắm trong bản dịch là hai từ đồng nghĩa khiến cho bản dịch không đảm bảo được sự cô
đúc cả ý tứ của thể thơ. Trong hai câu thơ bác sử dụng nghệ thuật đăng đối tài tình và sử
dụng nghệ thuật nhân hóa đúng lúc làm cho trăng và người trở nên gần gũi thân thiết trở
thành tri âm tri kỉ cùng hành động như nhau cùng vượt qua song sắt của nhà tù để đến với
nhau.
Ở đây trăng và người đều là sự hóa thân của Bác, sự hóa thân của một tâm hồn vừa là
nghệ sĩ vừa là chiến sĩ yêu tự do chủ động tìm đến cái đẹp mà không nhà ngục nào ngăn
cản được
Trong bài thơ này quan hệ giữa người và trăng là quan hệ gần gũi bình đẳng. Trăng có vẻ
đẹp của trăng người có vẻ đẹp của tâm hồn Trăng vượt song sắt của nhà tù không ngắm
tù nhân hay người bị giam mà ngắm thi gia. Đây là giây phút thăng hoa tỏa sáng trong
con người Bác và đây cũng là lần đầu tiên Bác tự thi gia.
chân vào chốn lao tù ẩm ướt để chiêm ngưỡng nhà thơ hay chính là tâm hồn nhà thơ vậy.
Điều đó thể hiện vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh.
Tác phẩm cho thấy cho dù ở trong hoàn cảnh đặc biệt bị giam hãm trong tù khơng có
rượu cũng chẳng có hoa nhưng Bác vẫn không hề chán nản tuyệt vọng mà ngược lại
người vẫn giữ được phong thái ung dung tự tại và hịa mình vào thiên nhiên hơn nữa
người đã hồn thành một cách ngoạn mục cuộc vượt ngục bằng tinh thần để rồi đắm mình
trong khơng gian rộng lớn mênh mơng và thơ mộng cùng ánh trăng ngồi song sắt nhà tù.
Cuộc ngắm trăng của Bác diễn ra qua bốn dòng thơ ngắn gọn mà ta thấy được cái hồn
hòa nhập vào thiên nhiên, quyến luyến gắn bó với thiên nhiên của một vị lãnh tụ. Với Bác
bất cứ ai ngắm trăng thì cũng được trăng ngắm lại vẻ đẹp của con người cũng đủ sức làm
say đắm vầng trăng. Điều đó khơng chỉ khẳng định cái hay mới lạ trong bút pháp mà còn
thấy được nét tinh tế hiện đại của Người khi tìm đến một thi liệu đã quen thuộc trong cổ
điển.
Ngắm trăng thưởng thức trăng đối với Bác Hồ là một tâm hồn rất yêu đời và khát khao tự
do, tự do cho con người và tự do và tự do hưởng mọi vẻ đẹp của thiên nhiên xứ sở. Dù
trong hồn cảnh nào Bác vẫn ln hướng đến thiên nhiên hòa nhập vào thiên nhiên.
<b>5. Phân tích bài thơ Ngắm trăng ngắn gọn</b>
Sinh thời, Bác Hồ luôn chú tâm chăm lo cho sự nghiệp cách mạng của đất nước, Người
khơng có ham muốn trở thành một nhà thơ nhưng như đã có lần Bác viết:
<i>“Ngâm thơ ta vốn không ham</i>
<i>Nhưng ngồi trong ngục biết làm sao đây?”</i>
Hoàn cảnh “rỗi rãi” khiến Người đến với thơ ca như một kì duyên. Trong những năm
tháng bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch, Bác đã có một bài thơ thật hay: “Vọng
nguyệt”.
<i>“Ngục trung vô tửu diệc vô hoa</i>
<i>Nguyệt tịng song khích khán thi gia"</i>
<i>Bài thơ được dịch là “Ngắm trăng”:</i>
<i>"Trong tù không rượu cũng không hoa</i>
<i>Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ</i>
<i>Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ</i>
<i>Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”</i>
<i>“Trong tù không rượu cũng không hoa”</i>
Câu thơ hé mở bao điều bất ngờ. Người ngắm trăng là một người tù khơng có tự do
“trong tù”. Trong hồn cảnh ấy, con người thường chỉ quay quắt với cái đói, cái đau và
sự hận thù. Nhưng Hồ Chí Minh với tấm lòng yêu thiên nhiên tha thiết, Người lại hướng
đến ánh trăng trong sáng, dịu hiền. Chẳng những vậy, chốn ngục tù tăm tối ấy “không
rượu cũng không hoa”. Từ “diệc” trong nguyên văn chữ Hán (nghĩa là “cũng”) nhấn
mạnh những thiếu thốn, khó khăn trong điều kiện “ngắm trăng”của Bác.
Khơng tự do, không rượu, không hoa nhưng “Đối thử lương tiêu nại nhược hà?” - Đối
diện với ánh trăng sáng ta biết làm sao đây? Nguyên văn chữ Hán là một câu hỏi đầy bối
rối, đầy băn khoăn của tâm hồn thi nhân trước vẻ đẹp trong sáng, tròn đầy của ánh trăng.
Khơng có những điều kiện vật chất tối thiểu, khơng có cả tự do nhưng ở Hồ Chí Minh đã
có một cuộc “vượt ngục tinh thần” vơ cùng độc đáo như Bác đã từng tâm sự:
<i>“Thân thể ở trong lao</i>
<i>Tinh thần ở ngoài lao”</i>
Thể xác bị giam cầm nhưng tâm hồn Bác vẫn bay bổng với thiên nhiên. Điều đó được lí
<i>“Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt</i>
<i>Nguyệt tịng song khích khán thi gia”</i>
<i>Bản dịch thơ:</i>
<i>"Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ</i>
<i>Trăng nhịm khe cửa ngắm nhà thơ”</i>
Trong bản nguyên tác chữ Hán, nhà thơ sử dụng phép đối giữa hai câu thơ “nhân”
-“nguyệt”, “hướng” - “tịng”, “song tiền” - “song khích”, “minh nguyệt” - “thi gia”. Điều
đó thể hiện sự đồng điệu, giao hòa giữa người và trăng để trăng và người giống như đôi
bạn tri âm tri kỉ. “Nhân” đã chẳng quản ngại cảnh lao tù mà “hướng song tiền khán minh
nguyệt”. Trong tiếng Hán, “khán” có nghĩa là xem, là thưởng thức. Đáp lại tấm lòng của
người tù - thi nhân, vầng trăng cũng “tịng song khích khán thi gia”. Trong tiếng Hán,
“tòng” là theo; trăng theo song cửa mà vào nhà lao “khán” thi gia. Đó là một cảm nhận
vơ cùng độc đáo. Vầng trăng là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của vũ trụ, là niềm khát
vọng muôn đời của các thi nhân. Vậy mà nay, trăng lên mình qua song cửa hẹp, đặt chân
vào chốn lao tù ẩm ướt hôi hám để chiêm ngưỡng nhà thơ hay chính là tâm hồn nhà thơ
vậy. Điều đó đã khẳng định vẻ đẹp trong con người Hồ Chí Minh.
“Vọng nguyệt” ra đời trong những năm 1942 - 1943 khi Bác Hồ bị giam trong nhà lao
Tưởng Giới Thạch. Bài thơ thể hiện phong thái ung dung, coi thường hiểm nguy gian khổ
của Bác. Dù trong bất kì hồn cảnh nào, Người cũng hướng đến thiên nhiên bộc lộ tấm
lòng ưu ái rộng mở với thiên nhiên. Đó là một trong những biểu hiện quan trọng của tinh
thần thép Hồ Chí Minh.
<b>6. Cảm nhận về bài thơ "Ngắm trăng" của Hồ Chí Minh</b>
Bài thơ rút trong "Nhật ký trong tù"; tập nhật ký bằng thơ được viết trong một hoàn cảnh
đoạ đầy đau khổ, từ tháng 8/1942 đến tháng 9/1943 khi Bác Hồ bị bọn Tưởng Giới Thạch
bắt giam một cách vô cớ. Bài thơ ghi lại một cảnh ngắm trăng trong nhà tù, qua đó nói
lên một tình yêu trăng, yêu thiên nhiên tha thiết. Đọc bài thơ đầu ẩn chứa một nụ cười
thống hiện.
<i>"Trong tù khơng rượu cũng khơng hoa</i>
<i>Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ"</i>
Hai câu thơ đầu ẩn chứa một nụ cười thoáng hiện. Đang sống trong nghịch cảnh, và đó
cũng là sự thật "Trong tù không rượu cũng không hoa" thế mà Bác vẫn thấy lịng mình
bối rối, vơ cùng xúc động trước vầng trăng xuất hiện trước cửa ngục đêm nay. Một niềm
vui chợt đến cho thi nhân bao cảm xúc, bồi hồi. Trăng, hoa, rượu là ba thú vui tao nhã
của khách tài tử văn chương. Đêm nay trong tù, Bác thiếu hẳn rượu và hoa, nhưng tâm
hồn Bác vẫn dạt dào trước vẻ đẹp hữu tình của thiên nhiên. Câu thơ bình dị mà dồi dào
cảm xúc. Bác vừa băn khoăn, vừa bối rối tự hỏi mình trước nghịch cảnh: Tâm hồn thì thơ
mộng mà chân tay lại bị cùm trói, trăng đẹp thế mà chẳng có rượu, có hoa để thưởng
trăng?
Nhưng cũng chính vào những phút giây căng thẳng như thế, Hồ Chí Minh lại cũng tìm
được cách để giành lấy một sự thư thái, nó là trạng thái cân bằng khơng thiếu được, nói
như cách nói tâm lý học: Ơng đã tự phân thân để có một cuộc sống thứ hai - nghĩa là từ
trong tâm thức, ông đã mang sẵn cốt cách một thi nhân. Và ở đây ta đang nói đến những
ngày tù ngục trong nhà tù Quốc dân Đảng Trung Quốc, cuộc sống thứ hai trong khung
cảnh tù đày của Hồ Chí Minh là cuộc sống bên trong, cuộc sống hướng nội. Hướng nội
-trong cách nhìn sự vật, -trong cách độc thoại với chính mình, và hướng nội cả -trong cách
"vượt ngục" bằng "ý tại ngôn ngoại" của những vần thơ tù.
Ở đây sự "vượt ngục" đã hoàn thành một cách thần kỳ, sự phấn đấu trở nên hài hòa, hồn
nhiên, thư thái: "Trong tù không rượu cũng không hoa, Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ;
Người ngắm trăng soi ngồi cửa sổ, Trăng nhịm khe cửa ngắm nhà thơ". "Trong tù
khơng rượu cũng không hoa" là việc cố nhiên. Nhưng "Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ"
khơng phải việc cố nhiên nữa. Chúng ta sống trong cõi đời tự do mà còn chẳng để ý đến
sự tròn khuyết của vầng trăng ngay trên đầu, nói chi đến một người tù. Câu thứ hai đã là
một tâm hồn thi nhân - hiền triết trong sáng và tinh tế. Thấy trăng đẹp mà bối rối cả tâm
trí: "Làm thế nào bây giờ" quả là một tâm hồn thơ mộng. Cái thơ mộng này sóng đơi với
cái thực tế trên tạo nên một thi vị rất Hồ Chí Minh. Ơng u rất nghệ sĩ vầng trăng trên
đầu, nhưng ông cũng không quên rất cụ thể cái cùm sắt dưới chân. Thơ mộng nhưng
không viển vông. Thiết thực nhưng không chặt đi đôi cánh lãng mạn của trí tưởng. Ba
yếu tố rượu, hoa, trăng thì thiếu mất hai rồi. Nhưng tâm hồn nhà thơ vẫn dọn một bữa tiệc
thưởng nguyệt độc đáo:
<i>"Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ</i>
<i>Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ"</i>
người và vầng trăng, cái song sắt hiện lên thật thô bạo và bất lực. Hồ Chí Minh ngắm
trăng rất giống người xưa trong niềm say mê cái đẹp thiên nhiên nhưng cũng khác người
xưa trong sự phát hiện vẻ đẹp của cõi người. Người xưa ngắm trăng thấy trăng đẹp trăng
trong càng ngậm ngùi cho cõi đời trầm luân cát bụi. Với Hồ Chí Minh, người ngắm trăng,
mê trăng thì trăng cũng mê người. Đây không chỉ là cái hay của bút pháp mà chính là vẻ
đẹp của một nhân sinh quan. Cũng cần chú ý thêm: Để biểu hiện con người, ở đầu câu
thơ trên tác giả dùng chữ nhân, ở cuối câu thơ dưới tác giả dùng thi gia. Hai chữ ấy, cố
nhiên, vẫn chỉ là một đối tượng, nhưng đã có sự biến đổi: Trước cuộc ngắm trăng, đấy là
người tù, sau cuộc ngắm trăng người tù biến mất và xuất hiện nhà thơ. Rõ ràng đã có một
cuộc "vượt ngục", và như đã nói trên: Cuộc "vượt ngục" đã hồn thành một cách thần kì.
Bác đã quên đi trong phút chốc cái hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã chốn lao tù để thảnh
thơi mà "thưởng nguyệt" như cái thú thanh cao của thi sĩ muôn đời. Vẻ đẹp thiên nhiên ở
đây giản dị mà độc đáo: Ánh trăng soi qua khung cửa sổ nhà lao và trở thành tri âm, tri kỉ