Tải bản đầy đủ (.docx) (42 trang)

CƠ sở lý LUẬN về PHÁT TRIỂN NNL GV ở các TRƯỜNG THCS đáp ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO dục PH ổ THÔNG mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.84 KB, 42 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NNL GV Ở CÁC
TRƯỜNG THCS ĐÁP ỨNG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO
DỤC PHỔ THƠNG MỚI
Tổng quan nghiên cứu vấn đề
Các cơng trình nghiên cứu trên thế giới
Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tơc, NNL là
NL quan trọng nhất, bởi chỉ có những con người có năng
lực, trình độ mới có khả năng khai thác các NL khác. Chính
vì thế, để sự nghiệp giáo dục phát triển, nhiều quốc gia trên
thế giới đã có những chính sách phát triển NNL GV trong
nước và thu hút NNL GV chất lượng cao từ các nước khác.
NNL GV và chất lượng NNL GV là vấn đề cấp thiết
đã, đang đặt ra cho mọi quốc gia trên thế giới. Bởi vì trong
quá trình phát triển GD&ĐT NNL GV đóng một vai trị hết
sức quan trọng. Dù xã hội có phát triển đến đâu đi chăng
nữa, các máy móc với những động cơ hiện đại, tinh xảo thì
vẫn chưa có một máy móc nào thay thế hồn tồn người GV
trong việc truyền thụ tri thức và giáo dục con người. Bởi
thế, nhiều nước trên thế giới trong những năm gần đây đã
quan tâm đến vấn đề GV và NNL GV.


Tại rất nhiều nước phát triển cũng như đang phát triển,
việc nghiên cứu xem xét lại quá trình đào tạo, sử dụng GV
và nâng cao chất lượng đội ngũ GV đã được chú ý, họ coi
đây là vấn đề rất quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục
nhằm đáp ứng yêu cầu về sự phát triển kinh tế xã hội trong
thời kỳ mới.
Tại Cộng hịa Séc, để đón trước cơ hội và thúc đẩy hội
nhập thành công vào Liên minh châu Âu (EU), Séc đã xây
dựng và hoàn thành “Chiến lược phát triển NNL”( tháng


12/2000). Chiến lược này là một bộ phận cấu thành của
“Chương trình Thị trường lao động và phát triển nguồn
nhân lực”. Trong các chiến lược thành phần, đáng chú ý có
chiến lược phổ cập tiếng Anh, chiến lược cải thiện nhân lực
hành chính cơng, chiến lược phát triển giáo dục đại học cao đẳng và liên kết với hoạt động nghiên cứu, chiến lược
phát triển đội ngũ GV, chiến lược phát triển học suốt đời...
Nhật Bản là một trong những nước ở Châu Á đi đầu
trong phát triển NNL. Bởi Chính phủ Nhật Bản ln ý thức
được đất nước Nhật Bản khơng có nguồn khai thác từ tài
nguyên thiên nhiên, vì vậy để đất nước phát triển thì yếu tố
con người là quan trọng nhất. Chính phủ nước này đã đặc biệt
chú trọng tới GD&ĐT, thực sự coi đây là quốc sách hàng đầu.


Để ưu tiên phát triển giáo dục, Nhật Bản đã có chế độ miễn
phí tiền học cho học sinh từ 6 tuổi đến 15 tuổi và coi chương
trình giáo dục Tiểu học và THCS là bắt buộc. Chính vì chính
sách đó nền giáo dục của Nhật Bản được đánh giá mang tính
tầm cỡ thế giới.
Cách sử dụng NL của Nhật Bản là coi trọng thời gian
công tác, việc tăng lương cho giáo viên căn cứ vào thời gian
công tác chứ khơng thiên về thành tích, hiệu quả cơng việc.
Ở đất nước Hàn Quốc, giáo dục có mối quan hệ biện
chứng với kinh tế; xây dựng chính sách giáo dục căn cứ vào
nhu cầu của nền kinh tế. Đây là nội dung quan trọng trong
chiến lược phát triển NNL của quốc gia này. Chính phủ Hàn
Quốc đã xây dựng những chính sách cải cách nề giáo dục ở
những giai đoạn của đất nước như: năm 1950, chủ trương
xóa mù chữ cho toàn dân; năm 1960, phát triển giáo dục
hướng nghiệp trong các trường trung học; năm 1970, các

trường dạy nghề kỹ thuật; đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu
và giáo dục trên lĩnh vực khoa học cơ bản và công nghệ,
nâng cao chất lượng giáo dục và học suốt đời; năm 1992,
bảo đảm cho người dân được học suốt đời. Điều đặc biệt
trong việc cải cách giáo dục của Hàn Quốc đó là hệ thống
giáo dục mới được thiết lập trên cơ sở tái cấu trúc hệ thống


giáo dục hiện có của quốc gia. Từ tháng 12 năm 2001,
Chính phủ Hàn Quốc đã đưa ra hai chiến lược phát triển
NNL và đã đạt được hiệu quả. Trong Chiến lược phát
trieenr NNL của Hàn Quốc tập trung chủ yếu vào giải quyết
mối quan hệ, sự hợp tác giữa cơ sở nghiên cứu với trường
đại học và các doanh nghiệp. Hàn Quốc coi trọng tính
chuyên nghiệp, năng lực quản lý và sử dụng NNL; đã xây
dựng được hệ thống đánh giá, quản lý kiến thức, kĩ năng và
công việc, hệ thống thông tin cho phát triển NNL, xây dựng
và phát triển thị trường tri thức...
Ở Trung Quốc, năm 2003 đã đề ra “Chiến lược tăng
cường hơn nữa công tác bồi dưỡng, đào tạo nhân tài nhằm
thực hiện mục tiêu xây dựng toàn diện xã hội khá giả” được
đề ra trong Đại hội XVI của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Nội dung của chiến lược là: “lấy nhân tài chấn hưng đất
nước, xây dựng đội ngũ đơng đảo nhân tài có chất lượng
cao; kiên quyết quán triệt phương châm tôn trọng lao động,
trí thức, tơn trọng nhân tài và sự sáng tạo, lấy thúc đẩy phát
triển làm xuất phát điểm cơ bản của công tác nhân tài, điều
chỉnh nhân tài một cách hợp lý, lấy xây dựng năng lực làm
điều cốt lõi, ra sức đẩy mạnh công tác bồi dưỡng nhân tài,



kiên trì đổi mới sáng tạo, nỗ lực hình thành cơ chế đánh giá
và sử dụng nhân tài một cách khoa học”...
Singapore được coi là hình mẫu về phát triển NNL
giáo dục trong khu vực Đông Nam Á. Đây là một đất nước
có diện tích rất nhỏ nhưng nền kinh tế, giáo dục phát triển,
trình độ dân trí dẫn đầu Châu Á. Chính phủ Singapore có
chiến lược phát triển hệ thống trường ngồi cơng lập, ít đầu
tư cho các trường cơng lập. Khuyến khích, tạo điều kiện
cho các trường ngồi cơng lập liên kết với nước ngồi, ưu
tiên cho sinh viên các nước du học tại Singapore không phải
xét thị thực, khơng phải chứng minh tài chính.
Chương trình giáo dục của Singapore luôn hướng tới việc
ứng dụng khoa học tiến bộ và công nghệ mới vào dạy học; đề
cao giáo dục nhân cách, truyền thống văn hóa dân tộc; khuyến
khích học sinh phát huy năng khiếu, sở thích cá nhân.
Với sự đầu tư và những chính sách giáo dục đó, giáo dục
Singapore nhanh chóng phát triển và thu hút được lượng lớn
du học sinh trong các lĩnh vực đào tạo.


Các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vấn đề NNL GV và chất lượng NNL GV
đã được Đảng và Nhà nước nhìn nhận và đánh giá tầm quan
trọng của nó.
Vấn đề phát triển giáo dục và phát triển NNL GV đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta rất quan
tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng "...nếu
khơng có thầy giáo thì khơng có giáo dục"[23].. Người cịn
chỉ rõ vai trị và ý nghĩa quan trọng của nghề dạy học: "Có

gì vẻ vang hơn là đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp
phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng
sản"[23].. Thực hiện lời dạy của Hồ Chủ Tịch, hơn nửa thế
kỷ qua, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng chỉ đạo, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng phát triển NNL GV.
Nhiều nhà khoa học, nhà quản lý giáo dục có tâm huyết đã
nghiên cứu nhiều khía cạnh về NNL GV trong đó có vấn đề
nâng cao chất lượng NNL GV.
Xuất phát từ những tư tưởng có tính định hướng đó,
nhiều cơng trình nghiên cứu về NNL GV đã được triển khai.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ đạo nhiều cơng trình nghiên
cứu về mơ hình nhân cách của GV của các bậc học, cấp


học. Trong những năm 70 của thập kỷ 20, nhiều nhà khoa
học, các nhà quản lý giáo dục và nhiều nhà sư phạm đã
nghiên cứu các vấn đề về quản lý giáo dục, các giải pháp
quản lý phát triển NNL GV và nâng cao chất lượng NNL
GV, điển hình như các giáo sư Hà Thế Ngữ, Nguyễn Văn
Điềm,Nguyễn Minh Đường, Phạm Minh Hạc, Đặng Vũ
Hoạt...
“Quyết định số 732/QĐ-TTg ngày 29/4/2017 của Thủ
tướng Chính phủ” [15] đã chỉ rõ: “Mục tiêu là đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục
bảo đảm chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ nhằm đáp
ứng yêu cầu đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục
phổ thơng; góp phần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo” [15].
Các cơng trình khoa học của các nhà khoa học với
tầm vóc quy mơ về giá trị lý luận và thực tiễn đã được áp

dụng rộng rãi và mang lại những hiệu quả nhất định trong
quản lý giáo dục, quản lý nhà trường. Phần lớn các cơng
trình đó chủ yếu đi sâu nghiên cứu lý luận có tính chất
tổng quát về quản lý giáo dục, quản lý nhà trường, xây
dựng và nâng cao chất lượng NNL GV.Việc phát triển
NNL GV nói chung và phát triển NNL GV ở các trường


THCS nói riêng là rất cần thiết, bởi lẽ GV là một trong
những nhân tố quyết định chất lượng giáo dục. Chăm lo xây
dựng NNL GV sẽ tạo được sự chuyển biến về chất lượng
giáo dục, đáp ứng được những yêu cầu đổi mới cả về lý
luận và thực tiễn, biến mục tiêu chiến lược phát triển giáo
dục của Đảng và Nhà nước trở thành hiện thực. Vì vậy
trong thời gian qua có nhiều tác giả tập trung nghiên cứu
vấn đề quản lý, xây dựng và phát triển NNL GV, giảng viên
phù hợp với thực tế của địa phương, từ đó tìm ra các giải
pháp, biện pháp thiết thực. Cụ thể: “Một số giải pháp bồi
dưỡng đội ngũ GV trung học cơ sở thành phố Hà Nội theo
chuẩn nghề nghiệp” và “Một số yêu cầu cơ bản trong quy
hoạch phát triển đội ngũ GV trung học cơ sở quận Cầu
Giấy thành phố Hà Nội đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục”
của tác giả Phạm Ngọc Anh; “Dự báo quy hoạch phát triển
đội ngũ GV huyện Nho Quan - Ninh Bình đến năm 2015”
của tác giả Nguyễn Thị Yến; “Các biện pháp phát triển đội
ngũ GV trung học cơ sở trong giai đoạn cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước (phân tích thực tiễn tại Thừa Thiên
Huế)” của tác giả Lê Khánh Tuân; “Quy hoạch phát triển
đội ngũ GV trung học cơ sở huyện Điện Biên năm 2020”
của tác giả Phạm Ngọc Canh; “Quản lý phát triển đội ngũ

GV trung học cơ sở quận Ngô Quyền – Thành phố Hải


Phòng” của tác giả Trần Thị Hồng Hiệp...Các đề tài nghiên
cứu nói trên đã có sự tổng kết về lý luận và đưa ra các giải
pháp khá cụ thể cho việc phát triển NNL GV, GV các
trường Tiểu học và GV các trường THCS tại địa phương
mang tính thực tiễn cao. Các luận văn trên chủ yếu đi theo
hướng nghiên cứu phát triển NNL GV về quy mô, số lượng,
cơ cấu, ít đi sâu vào các giải pháp phát triển NNL GV về
chất lượng nhằm đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông
mới.
Cho đến nay, vấn đề phát triển NNL GV ở các trường
THCS trên địa bàn thành phố Hà Nội nói chung, huyện
Thanh Oai nói riêng chưa được quan tâm đầy đủ, cịn có
những khía cạnh chưa được nghiên cứu, cịn thiếu những
giải pháp mang tính hiệu quả, đồng bộ. Chưa có cơng trình
nào nghiên cứu về Phát triển nguồn nhân lực GV ở các
trường THCS huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội theo
hướng tiếp cận phát triển NNL GV ở các trường THCS
nhằm đáp ứng chương trình giáo dục phổ thơng mới. Trong
khn khổ luận văn này, ngồi những cơ sở lý luận mà tôi
tiến hành khảo sát thực tiễn và trên cơ sở đó đề xuất một số
biện pháp phát triển NNL GV các trường THCS huyện
Thanh Oai, thành phố Hà Nội cho phù hợp với yêu cầu đổi


mới giáo dục nhằm đáp ứng chương trình giáo dục phổ
thông mới.
Một số khái niệm cơ bản

Nhân lực
Theo cuốn “Từ điển Tiếng Việt" của Nhà xuất bản
Khoa học xã hội (1994) [41], “nhân lực là sức lực con
người, nằm trong mỗi con người và làm cho con người hoạt
động. Sức lực đó ngày càng phát triển cùng với sự phát
triển của cơ thể con người và đến một mức độ nào đó, con
người đủ điều kiện tham gia vào quá trình lao động – con
người có sức lao động” [41].
Giáo viên
Hiện nay có nhiều khái niệm về người GV. Theo Tiến
sĩ Philip Jackson “GV là người hiểu được học sinh và có
khả năng cấu trúc lại nội dung giảng dạy để học sinh có thể
tiếp thu được nội dung đó, đồng thời trong khi dạy biết khi
nào phải dạy cái gì”.
Theo từ điển tiếng Việt: “GV là người dạy học ở bậc
phổ thông hoặc tương đương”[41].Người GV là nhân vật
trung tâm của nhà trường, người chỉ đạo, điều khiển quá


trình sư phạm. Người được gắn kết với xã hội bằng hàng
ngàn mối quan hệ, với những quan hệ xã hội cụ thể là thành
phần của tập đoàn nghề nghiệp có tính chất quần chúng
nhất của giới trí thức.
Người GV là chuyên gia đặc biệt với lối sống, nội
dung và phương hướng lợi ích tinh thần, với những mối
quan hệ đặc biệt giữa cá nhân, với đạo đức nghề nghiệp và
hàng loạt những nét khác biệt vốn có của họ.
Chương IV - Điều 70 – “Luật Giáo Dục của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005” đã ghi rõ:
“1. Nhà giáo là người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo

dục trong nhà trường, cơ sở giáo dục khác.
Nhà giáo phải có những tiêu chuẩn sau đây:
Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn,
nghiệp vụ;
Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
Lý lịch bản thân rõ ràng” [35].


“Nhà giáo giảng dạy ở cơ sở giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thơng, giáo dục nghề nghiệp trình độ sơ cấp, trung
cấp gọi là GV. Nhà giáo giảng dạy trong các trường cao
đẳng, cơ sở giáo dục đại học gọi là giảng viên” [35].
Đồng thời, “Ðiều 72, Luật Giáo Dục của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005” đã ghi rõ:
“Nhiệm vụ của nhà giáo; Ðiều 73 Luật Giáo Dục cũng quy
định Quyền của nhà giáo; Chính Sách Đối Với Nhà Giáo”
được thể hiện ở điều 80, 81,82 trong Luật này[35].
Mặc dù có sự diễn đạt khác nhau, nhưng các quan niệm
về người GV được trình bày ở trên đều nhấn mạnh đến các
yếu tố cơ bản, mang tính đặc thù của nghề dạy học của
người GV.
Tóm lại: Người GV là nhân tố có vai trị quyết định
chất lượng của sự nghiệp giáo dục và được tồn thể xã hội
tơn vinh. Người GV cần phải có đủ đức, trí và tài; vì vậy
cần thực hiện các giải pháp để huy động tối đa tiềm lực của
NNL GV hiện có và từng bước phát triển NNL GV với số
lượng, cơ cấu phù hợp, chất lượng đảm bảo nhằm thực hiện
mục tiêu giáo dục là “phát triển phẩm chất, năng lực” của
học sinh nhằm đáp ứng chương trình giáo dục phổ thông



mới phục vụ yêu cầu của mục tiêu chiến lược phát triển
giáo dục, của sự nghiệp đào tạo NNLc ho đất nước.
Nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực: Theo nghĩa rộng, NNL được hiểu là
NL con người (Human resources) của một quốc gia, một
vùng lãnh thổ, là một bộ phận của các NL có khả năng huy
động, quản lý để tham gia vào quá trình phát triển kinh tế xã hội. Theo quan niệm của kinh tế học hiện đại, NNL là
một trong bốn NL cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Các
NLđó là: NL vật chất (physical resouces ), NL tài chính
( finalcial resources )….. Theo nghĩa hẹp, NNL tương
đương với nguồn lao động hay NNL xã hội. Đó là một bộ
phận dân số trong độ tuổi lao động có khả năng lao động.
NNL được nghiên cứu trên góc độ số lượng, chất lượng. Số
lượng NNL được xác định dựa trên quy mơ dân số, cơ cấu
tuổi, giới tính và sự phân bố theo khu vực và vùng lãnh thổ
của dân số. Ở nước ta, số lượng NNL được xác định bao
gồm tổng số người trong độ tuổi lao động (Nam: 15 đến 60;
nữ: 15 đến 55 ) vì người lao động phải ít nhất đủ 15 tuổi và
được hưởng chế độ hưu trí hàng năm khi có đủ điều kiện về
tuổi đời (Nam đủ 60 tuổi, nữ đủ 55 tuổi ) và thời gian đóng
bảo hiểm xã hội ( 20 năm trở lên). Đây là lực lượng lao


động tiềm năng của nền kinh tế - xã hội. Sự gia tăng tổng
dân số là cơ sở để hình thành và gia tăng nguồn nhân lực,
có nghĩa là sự gia tăng dân số sau 15 năm sẽ kéo theo sự gia
tăng nguồn nhân lực. Nhưng nhịp độ tăng dân số chậm lại
cũng không giảm ngay lập tức nhịp độ tăng nguồn nhân lực.

Chất lượng NNL thể hiển trạng thái nhất định của NNL với
tư cách vừa là một khách thể vật chất đặc biệt, vừa là chủ
thể của mọi hoạt động kinh tế và các quan hệ xã hội. Chất
lượng NNL là tổng thể những nét đặc trưng phản ánh bản
chất, tính đặc thù liên quan trực tiếp tới hoạt động sản xuất
và phát triển con người. Do vậy chất lượng NNL bao gồm:
Tình trạng sức khoẻ, trình độ văn hố, trình độ chun mơn
và năng lực phẩm chất… Chất lượng NNL liên quan trực
tiếp đến nhiều lĩnh vực như đảm bảo dinh dưỡng, chăm sóc
sức khoẻ, giáo dục và đào tạo, lao động và việc làm gắn với
tiến bộ kỹ thuật, trả công lao động và các mối quan hệ xã
hội khác.
.Nguồn nhân lực giáo dục:
“Là một bộ phận NNL có học vấn cao nhất. Nhìn
chung, NNL giáo dục là lực lượng lao động được đào tạo cơ
bản, hệ thống là chủ yếu. Đội ngũ nhân lực GD&ĐT đều có
một trình độ học vấn khá cao so với NNL nói chung trong


nền kinh tế. Đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc
đào tạo NNL quốc gia có một chất lượng tốt phục vụ đắc
lực cho phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế” [38].
Nguồn nhân lực GV THCS:
GV trung học cơ sở: Theo “Điều lệ Trường trung học
cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có
nhiều cấp học ban hành kèm theo Thơng tư

số:

12/2011/TT-BGDĐT ngày 28/3 /2011 của Bộ trưởng Bộ

Giáo dục và Đào tạo” đã nêu:“GV trường trung học là
người làm nhiệm vụ giảng dạy, giáo dục trong nhà trường,
gồm: Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng, GV bộ mơn, GV làm
cơng tác Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (bí thư,
phó bí thư hoặc trợ lý thanh niên, cố vấn Đoàn), GV làm
tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
(đối với trường trung học có cấp tiểu học hoặc cấp THCS),
GV làm cơng tác tư vấn cho học sinh.”[6].
GV THCS có những nhiệm vụ sau đây: “Dạy học và
giáo dục theo chương trình, kế hoạch giáo dục; soạn bài;
dạy thực hành thí nghiệm, kiểm tra, đánh giá theo quy định;
vào sổ điểm, ghi học bạ đầy đủ, lên lớp đúng giờ, quản lý
học sinh trong các hoạt động giáo dục do nhà trường tổ


chức, tham gia các hoạt động của tổ chuyên môn; Tham gia
công tác phổ cập giáo dục ở địa phương; Rèn luyện đạo
đức, học tập văn hoá, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để
nâng cao chất lượng, hiệu quả giảng dạy và giáo dục; Thực
hiện Điều lệ nhà trường; thực hiện quyết định của Hiệu
trưởng, chịu sự kiểm tra của Hiệu trưởng và các cấp quản lý
giáo dục; Giữ gìn phẩm chất, danh dự, uy tín của nhà giáo,
gương mẫu trước học sinh, thương yêu, tôn trọng học sinh,
đối xử công bằng với học sinh, bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của học sinh, đồn kết, giúp đỡ đồng nghiệp;
Phối hợp với GV chủ nhiệm, các GV khác, gia đình học
sinh, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội Thiếu
niên Tiền phong Hồ Chí Minh trong dạy học và giáo dục
học sinh. Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của
pháp luật. Tham gia làm công tác chủ nhiệm lớp với một số

nhiệm vụ cụ thể khác như Tìm hiểu và nắm vững học sinh
trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát
đối tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp;Cộng tác
chặt chẽ với gia đình học sinh, chủ động phối hợp với các
GV bộ mơn, Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Đội
Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có
liên quan trong hoạt động giảng dạy và giáo dục học sinh
của lớp mình chủ nhiệm; Nhận xét, đánh giá và xếp loại học


sinh cuối kỳ và cuối năm học, đề nghị khen thưởng và kỷ
luật học sinh, đề nghị danh sách học sinh được lên lớp
thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm
trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp, hoàn chỉnh việc ghi vào sổ
điểm và học bạ học sinh ; Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất
về tình hình của lớp với Hiệu trưởng” [6].
“GV (cá nhân) là yếu tố cơ bản, “tế bào” của nguồn
nhân lực. Khi tất cả GV đều đã đạt được các yêu cầu về cá
nhân nêu ở trên, thì tất yếu đã có được tiền đề cho một NNL
mạnh. Như vậy, yêu cầu về NNL GV còn lại chủ yếu nằm ở
khía cạnh của một tổ chức. Theo lý thuyết nguồn nhân lực,
dưới góc độ kinh tế đó là quy hoạch để có được sự đồng bộ
về chất lượng, cơ cấu và số lượng; dưới góc độ giáo dục thì
tập trung vào công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng; dưới gốc
độ tâm lý là sự phát triển nhân cách cá nhân đặt trong sự đồng
thuận, trong môi trường của tổ chức; dưới góc độ chính trị,
xã hội là các chính sách bảo đảm quyền tự do, dân chủ, sự an
ninh về việc làm và đời sống”[22].
Những yêu cầu đó là nhằm đáp ứng với chương trình
giáo dục phổ thơng mới.

Từ những khái niệm trên, chúng ta có thể hiểu NNL


GV THCS là NL về đội ngũ GV ở các cơ sở giáo dục thuộc
bậc học THCS tham gia vào q trình thúc đẩy phát triển sự
nghiệp giáo dục nói chung và sự phát triển giáo dục ở bậc
THCS nói riêng.
Phát triển nguồn nhân lực
Về phát triển NNL (Human resources development) có
nhiều cách tiếp cận khác nhau. UNESCO sử dụng khái niệm
phát triển NNL dưới góc độ hẹp là làm cho tồn bộ sự lành
nghề của dân cư ln ln phù hợp trong mối quan hệ phát
triển của đất nước. Các nhà kinh tế có quan niệm phát triển
NNL gần với quan niệm của UNESCO là phải gắn với phát
triển sản xuất và chỉ nên giới hạn phát triển NNLtrong phạm
vi phát triển kĩ năng lao động và thích ứng với yêu cầu về
việc làm. Tổ chức lương thực và nông nghiệp Liên Hợp Quốc
(FAO): Sự phát triển NNL như một quá trình mở rộng các
khả năng tham gia hiệu quả vào phát triển nông thôn bao gồm
cả tăng năng lực sản xuất. Tổ chức lao động quốc tế (ILO)
cho rằng phát triển NNL khơng chỉ chiếm lĩnh trình độ lành
nghề hoặc bao gồm cả vấn đề đào tạo nói chung mà còn là
phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để
phát triển tiến tới có việc làm hiệu quả, cũng như thoả mãn
nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân. Mặc dù có sự diễn đạt


khác nhau, song có một điểm chung nhất của tất cả các định
nghĩa là đều coi phát triển NNL là quá trình nâng cao năng
lực của con người về mọi mặt để tham gia một cách hiệu quả

vào quá trình phát triển quốc gia. Do vậy, có thể hiểu, phát
triển NNL là quá trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng
và cơ cấu NNL ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền
kinh tế - xã hội. Quá trình đó bao gồm phát triển thể lực, trí
lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề; tính
năng động xã hội và sức sáng tạo của con người; nền văn hoá,
truyền thống lịch sử dân tộc…. Phát triển NNL bị tác động
bởi nhiều yếu tố: Sinh đẻ và sức khoẻ sinh sản; chăm sóc sức
khoẻ ( dinh dưỡng, vệ sinh mơi trường, phịng ngừa bệnh
tật…); giáo dục và đào tạo nghề nghiệp; văn hoá và truyền
thống dân tộc; mối quan hệ xã hội và gia đình; việc làm và trả
công lao động; thu nhập và mức sống; trình độ phát triển kinh
tế - xã hội.
Phát triển nguồn nhân lực trong giáo dục
“Phát triển NNL trong giáo dục - phát triển NNL GV chính là tạo ra
một đội ngũ (một tổ chức) các nhà giáo, đủ về số lượng đảm bảo về chất
lượng (có trình độ, được đào tạo theo quy định, có phẩm chất đạo đức trong
sáng lành mạnh, có năng lực trong các hoạt động dạy học- giáo dục)... trên
cơ sở đó đội ngũ GV đảm bảo thực hiện hết các yêu cầu của Giáo dục - Đào
tạo, hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục trong từng


giai đoạn, nhất là trong việc thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới
của nước ta hiện nay” [26].
Phát triển NNL GV ở các trường THCS là bộ phận của tồn bộ
cơng tác phát triển NNL GV của hệ thống giáo dục. Thực chất đó là phát
triển NNL giáo dục THCS, việc phát triển NNL GV ở các trường THCS
đều hướng đến đồng thời cả ba yếu tố cơ bản: quy mô, số lượng; cơ cấu;
chất lượng.
Phát triển NNL GV phản ánh sự tăng trưởng, sự biến đổi về cơ cấu,

sự cải thiện về chất lượng, sự thích nghi với các thành tố trong hệ thống giáo
dục. Theo quan điểm phát triển nguồn nhân lực, phát triển NNL GV không
phải bắt đầu từ đào tạo mới, mà kể từ lúc kế hoạch hóa nguồn nhân lực, khai
thác và tạo nguồn, bồi dưỡng thường xuyên, sử dụng và bổ nhiệm, miễn
nhiệm cho đến đào tạo lại và phát triển trong chính thực tiễn giảng dạy của
GV ở các trường THCS theo những u cầu của chương trình giáo dục phổ
thơng mới.
Vai trò của nguồn nhân lực GV ở các trường THCS và phát
triển nguồn nhân lực GV ở các trường THCS
Vai trò của nguồn nhân lực GV ở các trường THCS đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội
“Kinh tế - xã hội có mối quan hệ biện chứng với giáo dục, khi
kinh tế - xã hội được nâng cao, tất yếu nhu cầu về GD&ĐT cũng được
gia tăng và ngược lại” [25].
Do đó, NNL GV THCS ln phải cân đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội. Dân số và dân số trong độ tuổi đến trường là một trong những
yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến việc phát triển kinh tế xã hội. Chính
thành phần này sẽ làm nên diện mạo cho sự phát triển đi lên của một xã
hội, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Và thành phần có
tác động tích cực đến nhận thức, năng lực, trình độ của đối tượng này


khơng ai khác chính là NNL GV và đặc biệt là NNL GV THCS. Họ
chính là người trang bị cho thế hệ trẻ những kĩ năng, kiến thức mang
đậm bản sắc văn hóa dân tộc và xu thế hội nhập, các quan niệm về đạo
đức, thẩm mỹ, lối sống, phong tục tập quán, những quan tâm và ưu tiên
của xã hội có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vai trò của nguồn nhân lực GV ở các trường THCS và phát
triển nguồn nhân lực GV ở các trường THCS trong GD&ĐT
NNL GV là nhân tố quan trọng quyết định sự nghiệp giáo dục.

Đảng và nhân dân ta luôn đánh giá cao công lao của đội ngũ GV và các
nhà trường trong việc đào tạo thế hệ trẻ.
Lúc sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nếu khơng có
thầy giáo thì khơng có giáo dục” [23].
Nghị quyết Trung ương 2 - khóa VIII của Đảng đã khẳng định:
“Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và được xã hội tôn
vinh”. Luật giáo dục của Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Điều 15 đã ghi rõ: “Nhà giáo giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo
chất lượng giáo dục” [35].
NNL GV có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng. Họ là những người
trực tiếp giảng dạy và giáo dục học sinh, giúp học sinh phát triển toàn
diện về đức, trí, thể mĩ và hồn thiện nhân cách. Họ là nhân tố quyết
định chất lượng giáo dục và đào tạo. Trong các cuộc cải cách, đổi mới
giáo dục, GV là người trực tiếp thực hiện nội dung cải cách, đổi mói đó.
Với vai trị quan trọng như vậy, việc phát triển NNL GV nói chung và
NNL GV ở các trường THCS nói riêng đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo
dục và xu thế hội nhập toàn cầu đối với nước ta hiện nay là hết sức cần
thiết.
Trong thời đại mà khoa học công nghệ đem lại những biến đổi
mạnh mẽ và sâu sắc trong đời sống kinh tế - xã hội, khối lượng tri thức


tăng lên một cách nhanh chóng, tri thức trở thành yếu tố tham gia trực
tiếp vào sản xuất hàng hóa, người GV phải được đào tạo ở trình độ cao
về học vấn, không chỉ yêu cầu cao về các khoa học tự nhiên, kỹ thuật và
cơng nghệ mà cịn phải chú trọng về khoa học xã hội và nhân văn. Người
GV phải có ý thức, nhu cầu và khả năng tự hồn thiện mình, chủ động,
sáng tạo ừong hoạt động sư phạm cũng như biết họp tác trong việc thực
hiện các mục tiêu giáo dục. Người GV không thể chỉ đóng vai trị truyền
thụ kiến thức mà quan trọng hơn phải giúp người học chủ động, tích cực,
sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức, biết làm chủ và biết ứng dụng

những kiến thức đã tiếp thu được. Cùng với đó là quan tâm đến sự phát
triển ở người học ý thức về các giá trị đạo đức, tinh thần, thẩm mỹ tạo nên
bản sắc tồn tại của loài người, vừa kế thừa, vừa phát triển các giá trị truyền
thống, vừa sáng tạo ra những giá trị mới phù họp với thời đại. Chính vì vậy,
chức năng của người GV ở các trường THCS trong việc thực hiện chương
trình giáo dục phổ thông mới là tổ chức điều khiển các hoạt động dạy học
và giáo dục, hướng tới các mục tiêu giáo dục con người toàn diện, giúp học
sinh phát triển hài hịa về đức, trí, thể, mĩ; giúp học sinh phát triển phẩm
chất và năng lực một cách hiệu quả hơn đáp ứng yêu cầu mới của xã hội.
Đặc điểm nguồn nhân lực trong giáo dục phổ thông
Nguồn nhân lực trong giáo dục phổ thơng
Vai trị của NNL được đặt trong sự gắn kết giữa giáo dục, chính
trị, kinh tế, vãn hoá, xã hội. NNL làm cho kinh tế và văn hố tích hợp lại
với nhau, kinh tế và chính trị hồ động với nhau, chính tri và xã hội
tương hỗ vói nhau, hai nhân tố văn hố và xã hội hồ quyện với nhau.
NNL cịn đảm bào cho các vấn đề kinh tế - xã hội đồng đẳng với nhau, là
nhân tố đảm bảo cho văn hoá gắn với chính trị. Những điều này cho ta
thấy NNL là cái hiện hữu vơ hình trong từng tế bào của đời sống xã hội.
Thực sự mỗi chúng ta đều nhận thấy rõ được trong mỗi sản phẩm vật


chất kể cả tinh thần đâu là giáo dục, nhưng ở mỗi sản phẩm đều tồn tại
giáo dục.
Nguồn nhân lực trong giáo dục cấp THCS
NNL trong giáo dục THCS có một vị trí đặc biệt quan trọng, luật
Giáo dục đã xác định mục tiêu của giáo dục THCS là: “Giúp HS củng cố
và phát triển những kết quả của giáo dục tiểu học; có học vấn phổ thơng
ở trình độ cơ sở và những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp
để tiếp tục học trung học phổ thông, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc
sống lao động” [35].

Theo quy định tại luật Giáo dục về nội dung, phương pháp của
Giáo dục THCS bao gồm: “củng cố, phát triển những nội dung đã học ở
tiểu học, bảo đảm cho học sinh có những hiểu biết phổ thơng cơ bản về
tiếng Việt, toán, lịch sử dân tộc; kiến thức khác về khoa học xã hội, khoa
học tự nhiên, pháp luật, tin học, ngoại ngữ; có những hiểu biết cần thiết
tối thiểu về kỹ thuật và hướng nghiệp” [35].
Như vậy NNL bậc THCS có vai trị là “cầu nối” giữa Tiểu học và
Trung học phổ thông, nhiệm vụ của NNL trong giáo dục cấp THCS là củng
cố, phát triển kiến thức đã học ở Tiểu học để có được học vấn phổ thông và
những hiểu biết ban đầu về kỹ thuật và hướng nghiệp để tiếp tục học trung
học phổ thông.
Các yêu cầu đối với đội ngũ GV đáp ứng chương trình giáo
dục phổ thơng mới
Nội dung cơ bản của chương trình giáo dục phổ thơng mới
Nội dung cơ bản của chương trình giáo dục phổ thơng mới cụ thể
như sau:
“- Chương trình giáo dục sẽ chuyển căn bản từ tập trung trang bị
kiến thức, kỹ năng sang phát triển phẩm chất và năng lực người học,


đảm bảo hài hoà giữa “dạy chữ”, “dạy người” và định hướng nghề
nghiệp”. [36]
“Nội dung chương trình đảm bảo chuẩn hố, hiện đại hố, hội
nhập quốc tế; đảm bảo tính chỉnh thể, linh hoạt, thống nhất trong và giữa
các cấp học; tích hợp và phân hố hợp lý, có hiệu quả”. [36]
“Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức giáo dục nhằm phát
triển phẩm chất và năng lực học sinh” [36].
“Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá
chất lượng giáo dục theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học
sinh”. [36]

“Quản lý việc xây dựng và thực hiện chương trình đảm bảo tính
khả thi, linh hoạt, phù hợp địa phương và đối tượng học sinh”. [36]
“Thực hiện chủ trương một chương trình, nhiều sách giáo khoa”
[36]
Các yêu cầu của đội ngũ GV đáp ứng chuẩn nghề nghiệp
Các yêu cầu của đội ngũ GV THCS đáp ứng chuẩn nghề nghiệp bao
gồm: Quy mô và số lượng; cơ cấu đội ngũ; chất lượng đội ngũ. Cụ thể như
sau:
Quy mô và số lượng đội ngũ GV trung học cơ sở: Được thực hiện
theo quy định tại “Thông tư liên tịch số: 35/2006/TTLT-BGDĐT-BNV
ngày 23 tháng 8 năm 2006 về hướng dẫn định mức biên chế viên chức
các cơ sở giáo dục phổ thông công lập” và “Thông tư số 28/2009/TTBGD&ĐT ngày 21 tháng 10 năm 2009 của Bộ GD&ĐT quy định chế độ
làm việc đối với GV phổ thông” [5].như sau:
“Đối với trường THCS: Mỗi trường có 01 Hiệu trưởng và khơng
q 02 Hiệu phó (đối với trường hạng 1); 01 Hiệu trưởng và không quá
01 Hiệu phó (đối với trường hạng 2 và hạng 3). Mỗi trường được bố trí
01 Tổng phụ trách Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, 01 thư viện;


01 Văn thư và Thủ quỹ, 01 Kế toán, 01 Y tế trường học; ngoài ra đối với
trường hạng 1 được bố trí 02 biên chế; trường hạng 2, hạng 3 được bố trí
01 biên chế cơng tác thiết bị, thí nghiệm”. [5].
“Mỗi lớp được bố trí biên chế khơng quá 1,9 GV; Định mức tiết
dạy của GV THCS là 19 tiết/ tuần; của Hiệu trưởng là 02 tiết/ tuần và
Phó Hiệu trưởng là 04 tiết/ tuần. Ngồi ra trong định mức biên chế 1,9
GV/ trên lớp, Thành phố Hà Nội có hướng dẫn chia tỷ lệ để tính GV cho
các mơn, ví dụ: mơn Ngữ văn 0,33 GV/lớp; mơn Tốn 0,31 GV/ lớp...
[5].
Như vậy để tính số GV cần có của một trường, của một huyện ta
sẽ căn cứ vào kế hoạch phát triển năm học, kế hoạch phát triển mạng

lưới trường lớp và thực hiện tính như sau: Lấy số lớp nhân với 1,9 được
số GV cần có, trừ đi số GV hiện có (chú ý tính cả số GV nghỉ chế độ,
thuyên chuyển...) sẽ xác định được số GV cần bổ sung. Đối với từng
môn học ta cũng tính theo cơng thức trên, đó cũng là cơ sở để lập kế
hoạch đào tạo nguồn nhân lực.
Tuy nhiên, khi xem xét số lượng GV cần chú ý đến những biến
động chi phối việc tính tốn số lượng như việc bố trí, sắp xếp đội ngũ,
tình trạng nhập học, định mức tiết dạy, khả năng chi trả cho GV hợp
đồng...
Cơ cấu đội ngũ GV trung học cơ sở
Cơ cấu đội ngũ GV ở các trường THCS được xác định theo 3 tiêu chí
sau:
Cơ cấu đội ngũ GV ở các trường THCS theo trình độ đào tạo bao
gồm: Cao đẳng Sư phạm; Đại học Sư phạm; Thạc sĩ; Tiến sĩ. Xác định
được một cơ cấu hợp lý về trình độ đào tạo và thực hiện các hoạt động
liên quan để đạt đến cơ cấu đó cũng chính là biện pháp nâng cao chất
lượng đội ngũ.


×