Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Day thon vi da Le Van Hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (341.67 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐÂY THÔN VĨ DẠ </b>



Trong phong trào Thơ mới 1932 - 1942 có một nhà thơ hết sức đặc biệt. Đặc biệt về tài thơ trác tuyệt, đặc biệt về
cuộc đồi bất hạnh, ngắn ngủi, về cái chết trong đau đớn và về cả những mối tình đơn phương, vơ vọng. Nhưng chính
đó lại là một trong những nguồn cảm hứng để thi nhân viết được nhũng tuyệt tác. Hàn Mặc Tử với <i><b>Đây thôn Vĩ Dạ</b></i> là
một trường hợp như thế.


Thôn Vĩ Dạ (Giạ) chỉ là một trong nhũng thôn làng nhỏ nhắn xinh xinh với những ngơi nhà vườn thanh thống đáng
yêu nơi ngoại vi thành phố Huế, nơi gia đinh cơ gái Hồng Thị Kim Cúc từng sống một thời. Nhưng từ hơn 60 năm
nay, thôn Vĩ Dạ đã trở nên rất nổi tiếng, đi vào trí nhớ của hàng triệu người đọc, ấy là nhờ bài thơ hay một cách kì lạ
của chàng thi sĩ đa tình và tài hoa Hàn Mặc Tử - Nguyên Trọng Trí vốn q ở Đồng Hới (Quảng Bình).


<b>1. Tác giả Hàn Mặc Tử - Nguyễn Trọng Trí (1912 - 1940) </b>


về cuộc đời bất hanh và ngắn ngủi của Hàn (bị bệnh phong hành hạ).
Về bút danh Hàn Mặc Tử và các bút danh khác: <i><b>Lệ Thanh, Phong Trần...</b></i>


Về vị trí trong phong trào Thơ mói và thơ hiện đại Việt Nam, một trong những nhà thơ có sức sáng tạo mạnh, dồi dào
nhất trong <i><b>Trường thơ loạn</b></i> (Bình Đinh) gồm Yến Lan, Bích Khê, Chế Lan Viên và phong trào Thơ mới.


Thơ ơng kì dị, đầy bí ẩn và phức tạp, qua đó thấy một tài năng lớn, một tình yêu đau đớn với con người và cuộc
sống.


<b>2. Tác phẩm - hoàn cảnh sáng tác (1939) </b>
<b>3. Thể thơ và bố cục </b>


Thất ngôn trường thiên (3 khổ/bài, mỗi khổ 4 câu).


Bố cục: tự chia làm ba khổ: (1) Thôn Vĩ buổi bình minh trong hồi tưởng và tưởng tượng; (2) Tưởng tượng dịng sơng,
con thuyền chở trăng đêm nay; (3) Nghi ngờ, trách móc, mộng mơ khi ngắm hình ứong bưu ảnh.



<b>II. PHÂN TÍCH </b>
<b>1.Khổ 1 </b>


Mở đầu là một câu hỏi tu từ đé gợi lên ấn tượng chung của bài thơ: đó là nỗi nhớ, là hồi tưởng về cảnh và người thôn
Vĩ Dạ. ở khổ này là cảnh và người thơn Vĩ trong buổi bình minh sáng đẹp.


Cầu thơ mở đầu là một câu hỏi tu từ rất có dụng ý, có những cách hiểu khấc nhau:


+ Tác giả mượn lời của cô gái thơn Vĩ Dạ (Hồng Cúc) trách người bạn xa lâu không vể chod. Từ <i><b>anh</b></i> là lời cô gái nói


vể chàng trai ấy (ngơi thứ hai).


+ Lịi chính tác giả tự hỏi mình, trách mình; là ao ước thầm kín được về thăm thơn Vĩ. Từ <i><b>anh</b></i> chính là để chỉ mình


(tơi, ngơi thứ nhất).


Về <i><b>chơi</b></i> thân mật hơn, gần gũi hơn về <i><b>thăm</b></i> có vẻ khách sáo, xa cách.


Bức tranh thôn VI ứong sáng bình minh được vẽ qua vài nét bút gọi tả, qua cái nhìn trong hồi tưởng và tưởng tượng
từ những quan sát tinh tế.


Hình ảnh nhũng hàng cau thẳng tắp vươn lên trong nắng mới. Điệp từ <i><b>nắng </b></i>đi liền với <i><b>hàng cau</b></i> và <i><b>mới lên</b></i> cho thấy
vẻ riêng của nắng miền Trung, nắng Huế, nắng chiếu trên thân nhũng hàng cau trong vườn, nắng rực rỡ, mới lên,
trong trẻo, tinh khiết.


Hình ảnh lá <i><b>xanh mướt</b></i> trong <i><b>vườn ai.</b></i> Đại từ <i><b>ai</b></i> nói trống và hỏi bâng quơ một cách duyẽn dáng, còn thêm nghĩa "ở


đây", thành phố - vườn, làng - vườn, thì vườn ai mà chẳng thế, đều đẹp như thế)! <i><b>Mướt</b></i> chứ không phải <i><b>mượt,</b></i> là
màu xanh mỡ màng, non tơ, như là loáng nước, mềm mại, phản ánh sức sống của vườn. So sánh <i><b>xanh như ngọc</b></i>



làm hiện rõ vẻ quý phái, sang trọng của lá hoa trong vườn. <i><b>(Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá -</b></i> Xuân Diệu).
Hình ảnh <i><b>mặt chữ điền</b></i> đã gây nên nhiều cách hiểu khấc nhau:


Đó là khn mặt của cơ gái thôn Vĩ, khuôn mặt của người ngay thẳng, phúc hậu theo quan niệm truyền thống.
Đó là khn mặt chàng trai thơn VI.


Khn mặt của chính anh - chủ thể trữ tìnhễ


Khn cửa sổ hình vng.


Dù hiểu theo cách nào thì hình ảnh ấy cũng là hình ảnh của con người và cuộc sống làm cho cảnh vật, hoa lá trong
vườn cây càng thêm sức sống sinh động. Và đó cũng chỉ là hình ảnh tưởng tượng của nhà thơ gợi lên cái thần thái
của thôn VI: cảnh xinh xắn, người phúc hậu, thiên nhiên và con người hài hồ trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng.


<b>2. Khổ 2 </b>


Nét độc đáo của nghệ thuật (tư duy thơ) Hàn Mặc Tử là <i><b>ở</b></i> sự đứt đoạn bên ngoài của bố cục, cấu tứ nhưng vãn chìm
ẩn mạch cảm xúc thống nhất. Đang từ cảnh bình minh, thơn VI, khơng hề báo trước, chuẩn bị, bắt ngay sang cảnh
đêm trăng trên sông Hươngỗ Tâm trạng đang từ bồi hồi vui, mong đợi, ao ước, bỗng chuyển sang buồn thiu - như


dòng nước buồn thiu.


Ở hai câu đầu, thiên nhiên có gì đó ứái ngược, khác thường, rời rạc, khơng liên hệ hài hồ: <i><b>gió theo lối gió, mây </b></i>
<i><b>đường mây</b></i> chứ khơng phải gió thổi mây bay cùng hướng, thuận chiều. Trong cảm nhận của nhà thơ, dịng sơng
Hương vẫn thế êm ả trơi xi trở nên buồn thiu vì ít mây, ít gió. cả những bơng hoa ngơ (bắp) tím nhạt bên bờ cũng
chỉ đu đưa, lay động khe khẽ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

kịp thòi hiện tại, cái bây giờ. Nhưng tại sao lại <i><b>kịp tối nay?</b></i> Có gì ảnh hưởng, gây cản trở làm chậm trễ con thuyền
trăng ấy? Chẳng có gì! Cũng chỉ mình nhà thơ tưởng tượng phóng túng, lãng mạn vậy mà thơi! Đến đây, Hàn Mặc Tử
lại gặp lại truyền thống trong thi tứ con thuyền - vầng trăng - dòng sơng. Đóng góp của tác giả là sự biến đổi xuất kì


bất ý và mong mỏi về kịp, SỢ muộn thuyền trăng.


<b>3. Khổ 3 </b>


Câu thơ vóri điệp ngữ <i><b>khách đường xa</b></i> rất có dụng ý. Nó làm tăng nhịp độ cảm xúc đang từ chậm buồn, phiêu diêu
ở khổ 2 chuyển thành nhanh gấp, phiêu bồng hơn nữa, mờ ảo hơn nữa (mơ, trong mơ, giấc mơ, hoàn toàn ảo).


<i><b>Khách đường xa</b></i> là chủ thé trữ tình đang hồi nhớ khi đắm mình ngắm chiếc bưu ảnh từ xứ Huế gửi vào; là hình ảnh
trong mơ của người trong mộng (cô gái - người u).


Một chữ <i><b>em</b></i> cụ thể hố hình ảnh cơ gái (trong bưu ảnh là cô gái áo trắng chèo thuyền trong sương mờ trên sông


Hương) nhưng lập tức lại mờ nhoà thành ảo ảnh trong màu trắng của áo lẫn vói màu trắng của sương khói mịt mờ.
Màu trắng hư ảo rất được Hàn Mặc Tử ưa thích <i><b>{dọc bờ sông trắng nắng chang chang).</b></i> Liên tưởng đến câu thơ
Nguyễn Gia Thiều <i><b>(Cung oán ngâm khúc): Cái quay búng sẵn trên trời -Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm.</b></i>


Nếu ở hai khổ trên, tác giả hoà với cảnh, đến khổ này, tâm tình với ngưịi xứ Huế, nhà thơ lại lùi ra xa. Giữa người
trong cảnh và ngưịi ngắm cảnh, ngắm người lại có màn sương khói che ngăn, khiến cho người chỉ cịn là bóng ảnh
nhạt nhồ.


Câu hỏi chất chứa hồi nghi, băn khoăn: <i><b>Ai biết tình ai có đậm đà?</b></i> mang hai ý nghĩa trái ngược:


+ Làm sao mà biết được tình cảm của ngưịi xứ Huế phương xa có đậm đà hay không, hay cũng chỉ như làn sương
khói mù mịt rồi tan đi?


+ Và cơ gái Huế thương yêu và thương nhớ ấy làm sao mà biết được tình cảm nhớ thương tha thiết, đậm đà của


<i><b>khách đường xa,</b></i> là <i><b>anh</b></i> đây?


+ Cầu thơ thể hiện nỗi cô đơn, trống vắng, khắc khoải của một tâm hồn thiết tha yêu mến cuộc sống và con người


trong hoàn cảnh đã nhuốm bi thương, bất hanh.


<b>III. TỔNG KẾT </b>


(Cảm động, thông cảm, cảm thương, khâm phục một thi sĩ tài hoa, đa tình mà bất hanh, vượt lên hoàn cảnh để sáng
tạo nghệ thuật).


<b>IV. THAM KHẢO </b>


1. Tôi mệt lả sau gần tháng trời đọc thơ Hàn Mặc Tử. Vườn thơ người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng


ớn lanh... Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhật trình (báo) che mái nhà cho
đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người khơng sao nuốt được vì ăn khổ quá. Cảnh cơ hàn và chứng bệnh kinh khủng đã
bắt người chịu bao cảnh phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng, người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng
một nơi, xa hẳn hết thảy mọi ngưcd thân thích. Bao nhiêu năm người bó tay nhìn cả thể xác lẫn linh hồn mình cùng
tan rã... Một ngưòi đau khổ chừng ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất rồi, ta xúm lại chê khen. Chê hay
khen đều có gì bất nhẫn.


<b>(Theo Hoài Thanh - Hoài Chân, </b><i><b>Thi nhân Việt Nam,</b></i><b> sđd)</b>


2. Là một trong những bài thơ hay nhất của Hàn Mặc Tử, lần đầu in ở tập <i><b>Nắng xuân</b></i> (1937), <i><b>Đây thôn Vĩ Dạ</b></i>
dược sáng tạo từ hai nguồn cảm hứng - cảnh đẹp của thôn Vĩ Dạ:


<i><b>Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn,</b></i>


<i><b>Biếc che cần trúc không buồn mà say.</b></i>


<b>(Bích Khê)</b>


Thiên nhiên đẹp, làng quê đất đai trù phú tạo cho tác giả tình yêu cuộc sống, con người. Nguồn mạch thứ hai là tình


yêu nửa thực nửa hư như một mong ước được tỏ bày. Tấm bưu ảnh của Hoàng Cúc gửi gợi cho Hàn những cảm
hứng thơ. Đó là nguyên nhân trực tiếp sự ra đời của bài thơ.


Câu mở đầu như một lời chào mời, thăm hỏi, trách móc, dường như tất cả đều có và ẩn ý trong lịi thơ.


Thôn Vĩ bên bờ sông Hương là một làng quê đẹp, có nhiều khu vườn xanh tươi. Buổi sáng, khi mặt tròi mọc, cảnh
thiên nhiên rất gợi cảm. Nắng mai và vườn cây tươi tốt tạo nên tình cảm gắn bó tha thiết với cuộc sống. Những hàng
cau thân vút cao trong nắng mới khoẻ khoắn và trong lành, gợi khơng khí làng q lâu đời. Chữ <i><b>mướt</b></i> dùng rất khéo,
nói cái tươi tốt của sự sống trong vườn. <i><b>Mướt</b></i> là trạng thái tơ non, mượt mà, mềm dịu. "Xanh như ngọc" là màu xanh
lọc qua ánh sáng đẹp và gợi cảm, màu xanh ban mai bừng sáng, trong ứẻo. Vườn cây vừa chiếm lĩnh chiều cao của
không gian với những hàng cau vút thẳng và bề rộng cây trái xanh tốt.


Trong vườn, ẩn hiện khuôn mặt phúc hậu: <i><b>lá trúc che ngang mặt chữ điển.</b></i>


Cảnh và người hài hoà, phù hợp và gắn bó tuy chỉ thấp thống nhưng cũng gợi lên ấn tượng về những con người
chân chất quê kiểng lao động trung thực "khn mặt chữ điền".


Nhìn chung, khổ 1 miêu tả vẻ đẹp vùng quê xứ Huế, chủ quan là tình cảm mến yẽu cuộc sống, tình cảm u địi, tình
cảm riêng gắn bó với mảnh đất, con người thân quen. Khổ 1 gây ấn tượng về sự hiện diện của nhà thơ trong cách
miêu tả làng quê bên sông Hương. Tuy nhiên đọc kĩ cả bài, thấy tất cả ứơi trên dịng tâm tưởng của tình cảm tha thiết
và dè dặt của nỗi nhớ thương như nén lại trong cảnh ngộ của riêng mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Bức ứanh thiên nhiên ở khổ 2 gợi buồn, gợi nhớ.


Nỗi buồn nhẹ nhưng không kém phần tha thiết; cảnh có thực phản ánh tâm trạng thật của nhà thơ.
Hàn Mặc Tử tả sông Hương thành sơng Trăng, khơng gian ngịi ngợi ánh trăng.


Thơ Hàn đầy trăng:


<i><b>-Khơng gian đắm đuối tồn trăng cả —Tôi cũng trăng má nàng cũng trăng.</b></i>


<i><b>-Mới lớn lên, trăng đã hẹn hị - Thom như tình ái của ni cơ.</b></i>


<i><b>- Trăng nằm sóng sồi trên cành liễu -Đợi gió đơng về để lả lơi.</b></i>


Khổ cuối có hình ảnh mơ mộng khách đường xa.


Phải chăng khách đường xa nhớ đến miền đất này để tìm lại một hình ảnh, một kỉ niệm như đã có trên địi hay đúng
hơn chỉ là niềm mong ước? Như thực như hư. Một tình cảm lãng mạn, một bóng dáng xa xơi, một ước mơ đẹp. Vì
thế mới nảy câu hỏi rất thực mà rất văn chương cuối cùng.


Thiên nhiên đẹp và tình người với những mơ ước, dè dặt, tình đời nửa thực nửa hư, bộc lộ nhiều mơ ước và hiểu rõ
giói hạn mà mình có thể tìm đến với địi. Đó là bài thơ vào loại ứong sáng nhất của Thơ mới.


<b>(Theo Hà Minh Đức, </b><i><b>Văn học Việt Nam hiện đại: bình giảng và phân tích tác phẩm,</b></i>


<b>NXBHàNội, 1998)</b>


7.4. Thơ Hàn Mặc Tử có những bước nhảy về ý. Đặc sắc của thơ ông là ở đó. Những ý thơ rất xa nhau lại có chỗ rất
liền nhau. Đó là trạng thái xúc cảm. Mà trạng thái này càng về cuối càng kì lạ, độc đáo. Đó là chìa khố mở vào thế
giới thơ điên của Hàn.


<i><b>Đây thơn Vĩ Dạ</b></i> hình ảnh dễ tiếp nhận, câu nào cũng dễ hiểu, chữ dùng bình dị, âm điệu quen thuộc. Tuy vậy vãn có
sự đứt ý. Đoạn đầu tả vườn rất gần vói thơn VI. Đoạn 2 tả sơng vái gió, mây, trăng, hoa bắp lay, khơng thấy gì gắn
với thơn Vĩ, mặc dù thơn Vĩ cũng có thể có những cảnh ấy. Đoạn 3 nói đến lịng người, tuy có áo trắng, đường xa
nhưng thật mờ nhân ảnh. Câu cuối khơng biết là tình q hay tình u.


Đọc theo tâm trạng, sẽ thấy bài thơ liền khối lạ lùng, khơng có câu nào lạc kênh, lạc nhịp ngồi từ trường cảm hứng.
Thôn Vĩ ở câu đầu, cảnh thôn Vĩ ở khổ đầu, thì ra chỉ là cái hích cho tâm tình, tâm ừạng ở hai khổ tiếp theo.


Thơ tả cảnh của Hàn rất ít nét nhưng gợi nhớ lâu, đã chọn lọc kĩ ưong tiềm thức. Nói tói hàng cau vì có chi tiết khó


qn: <i><b>nắng mới lên.</b></i> sắc nắng ấy giữ chính xác khoảnh khắc của cái cảnh này. Như cảnh <i><b>nắng chiều đột kích mấy </b></i>
<i><b>hàng cau (Nhớ -</b></i> Hồng Nguyên). Tả vườn, chỉ nói tới cái mướt xanh của nó. <i><b>Mướt</b></i> là chủ yếu và so sánh <i><b>như ngọc</b></i>


cũng là trong cảm giác khơng gì thay thế được. Trong màu xanh có ánh sáng. Tả như thế là đã đến chỗ linh diệu.
Tiền hô là tả cây, hậu ủng tả lá. Câu thơ rất tạo hình, hai nét <i><b>ờ</b></i> hai bình diện lá trúc và mặt chữ điền. Hoi hướng Á
Đông, cổ điển sinh ra từ cách chọn lá, tả mặt. Gương mặt nam giới ứng vái câu đầu: <i><b>Sao anh...</b></i>


Bốn câu sau hoàn toàn khác nhung tâm trạng vãn thế: xa cách, ngóng đợi, vắng vẻ. Khơng thấy bóng người, chỉ thấy
tâm trạng khơng cịn chỉ là tình q nữa. Cầu cuối là câu thơ của cõi mộng. Tác giả quay vào lịng mình.


Đến đoạn cuối, tác giả lặng di trong mơ tưởng. Người <i><b>khách đường xa</b></i> này hình như khơng liên quan gì đến nhân
vật <i><b>anh ở</b></i> câu đầu mà lại gợi ta nghĩ đến người khách má hồng thoáng gặp mà nhớ mãi. Đọc câu tiếp lại càng thấy
thế. Màu trắng cũng là màu tâm tưởng, màu kí ức hư hư ảo ảo. Thơn Vĩ đến đây chỉ cịn là địa điểm có liên quan đến
màu trắng ấy. Bài thơ cảnh quê đã thành bài thơ tình yêu. Một tình yêu đơn phương khó xác định.


Câu thơ cuối dẫn ta đến cõi nào của tâm tưởng. Ở đây là ở mối tình mới nhen, là khoảng khắc đắm đuối nhìn khơng
ra. Ý thơ choi vơi, gợi mở, cảm được mà khó cắt nghĩa...


Nhận xét bao quát: ở bài thơ này, mỗi câu thơ đều ơm chứa một chất thơ hồn chỉnh, có thé trích độc lập mà vẫn có
vị. Mỗi khổ là một bài tứ tuyệt. Nhưng gộp cả lại thì tất cả lại ràng buộc với nhau, khơng thể tháo bỏ, không cần thêm
ý, không thể đảo lộn vị trí từng câu, khơng thể thay thế các từ. Bài thơ thật trong sáng. Hình như ai cũng cảm nhận
được vẻ đẹp của nó nhưng phân tích mãi, vẻ đẹp ấy vẫn cịn bí ẩn. Nỗi buồn của bài thơ trong sáng và thấm thìa.


<b>(Theo Vũ Quẩn Phương, </b><i><b>Thơ với lời bình,</b></i><b> NXB Giáo dục, 1987)</b>


<i><b>Mặt chữ điền</b></i> là khuôn mặt của:


Những cô gái thôn VI phúc hậu, đoan trang;


Mặt tác giả (Trong chuyến về thăm thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử không dám vào nhà Hồng Cúc, chỉ đứng ngồi cổng nhìn


vào nên khn mặt bị những chiếc lá trúc trong vườn che ngang!).


Mặt tám bình phong chữ điền (vng) vẽ cành trúc...


Theo tác giả Mai Văn Hoan: <i><b>Mặt chữ điền là mặt chữ điền,</b></i> thế thôi! Hư thực làm sao phân biệt được! Vì <i><b>ở đây </b></i>
<i><b>sương khói mờ nhân ảnh, vì ai biết tình ai, thuyền ai, vườn ai...</b></i> Khơng cần thiết phải giải thích cặn kẽ, triệt để đó
là khuôn mặt của ai, cứ để người đọc tha hồ phỏng đoán theo mạch liên tưởng đồng tác giả.


<b>(Theo Mai Văn Hoan)</b>


Mặt chữ điền là khuôn mặt đầy đặn, cân đối, đẹp, phúc hậu. Ca dao có những câu:


<i><b>Mặt má bầu ngó lâu muốn chửi Mặt chữ điền tiền rưỡi cũng mua.</b></i>


<i><b>Anh thương em không thương bạc thương tiền Mà thương cái khuôn mặt chữ điền của em.</b></i>


Đây là khuôn mặt người yêu của Hàn Mặc Tử. Khơng thể là khn mặt Tử vì chẳng ai lại tả mặt mình toong hồn
cảnh trữ tình như thế. Lá trúc che ngang mặt thiếu nữ thì mới thơ mộng, mới đẹp, mới hợp, cịn che mặt đàn ơng,
phái manh thì thật vơ dun! Đó là khn mặt của ngưcd yêu nhà thơ trong bức ảnh chụp ở vườn nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

7.7. Câu mở đâu là lời trực tiếp của đối tuợng trữ tình. Chủ thé phát ngơn là một cơ em nào đó đang trách hờn anh -
chủ thể trữ tình của bài thơ. Ba câu tiếp theo là lời giải thích cho nguyên nhân trách dỗi <i><b>sao anh kliơnq về,</b></i> cịn <i><b>nắng </b></i>
<i><b>mới lên</b></i> có thé ngắt thành câu độc lập. <i><b>Nắng mới lên</b></i> là lời cơ gái đã ít nhiều nhập giọng của cái "tơi" trữ tình, thấp
thống bóng người thứ hai. Phát ngơn này giữ vai trị then chốt, mở đường cho ý thức trữ tình xâm nhập manh hữn
vào đối tượng trữ tình. Hai câu sau là lcd tả thơn Vĩ của cơ gái hay dịng hồi tưởng của người đi xa, thật khó phân
biệt. Tính chất giao thoa tăng cường độ, song xét trong chỉnh thể thì lời cơ gái vẫn chiếm ưu thế. Khổ 2 có bước
chuyển về chất vẫn là dịng hồi tưởng của nhân vật trữ tình nhập vai kỉ niệm tràn về mãnh liệt đến nỗi, từng bước lời
chàng trai lan toả, ken dày cả không gian để cuối cùng xúc cảm ứào dâng, xoá tan ranh giới từng câu riêng lẻ, tạo
thành tứ mênh mang dịng trăng.



Đó là lời cơ gái? Bóng hình chàng giờ chỉ cịn là dư âm trong tâm thức chàng.


Câu thơ thứ 9 nếu tách khỏi văn bản thì có thể là lời cô gái hay chàng trai, nhung đặt toong quan hệ với câu 10 thì nó
phải là lời chàng trai...


Chuyển dịch từ <i><b>em</b></i> sang <i><b>anh,</b></i> chủ thể thay đổi khiến giọng điệu cũng biến chuyển theo làm nảy sinh lòi nửa trực tiếp


trong bài thơ. Dòng nội tâm của em lan toả trong tôi cùng cất lên lời cho quá tình tan rã, hợp quy các điệu thức cảm
xúc, phức điệu ngôn từ. Trừ câu đầu tiên - lời cô gái; câu cuối cùng - lời chàng trai, 10 câu còn lại là sự khuếch tán
âm thanh của lời trực tiếp sang lời gián tiếp. Tiếng nói của hai chủ thể cùng ngân lên ữong vỏ ngơn từ. Tính chất giao
thoa giọng điệu làm cho hình tượng thơ dàn trải, mơng lung... Đưa lời trực tiếp theo phong cách riêng của mình vào
thơ, Hàn Mặc Tử đã thực hiện hiện đại hoá giọng điệu thơ, khơng chỉ nói cùng q khứ, hiện tại mà còn với cả tương
lai. Nhưng lời trực tiếp đưa vào thơ trữ tình sẽ bị nhược hố, hồ tan trong giọng điệu của chủ thể trữ tình. Tính chất
này tạo nên lời nửa trực tiếp của Hàn Mặc tử mang âm hưởng lạ mà còn mở rộng phạm vi lời thơ đến ranh giới đa
thanh của văn xi hiện đại. Có điều trong văn xi, lời gián tiếp của người kể chuyên xâm nhập vào lời trực tiếp của
nhân vật, để tiếng nói cuối cùng thuộc về nhân vật, thì trong thơ trữ tình, quá trình ấy diễn ra theo chiều ngược lại.
Lời trực tiếp của nhân vật hay của tôi nhập vai bị chủ thể trữ tình lắh át. [...]


Từ lời trực tiếp biến tấu trong lòi nửa trực trực tiếp, lời gián tiếp xuất hiện, chất giọng rạn võ, biên giới các loại hình
ngơn từ rạn vỡ, vừa cách tân vừa cổ điển, tạo nên nét đặc trưng độc đáo của bài thơ...


<i><b>Đây thôn Vĩ Dạ</b></i> led thơ trang nhã, tha thiết, vừa mãnh liệt, táo bạo, vừa pha chút dỗi hờn; với sự hài hoà độc đáo của
truyền thống và cách tân được biểu hiện qua nhiều kiểu lời thơ nhưng giọng điệu chủ âm của nó vẫn là giọng diệu trữ
tìnhduy nhất. Em hay tơi vẫn là sự phân thân của cái "tơi" trữ tình. Tiếng nói bài thơ được đinh hướng trong trường
cảm xúc thống nhất. Nhung khơng phải vì thế mà nói thơ trữ tình chỉ có một giọng duy nhất. Càng phát triển, tính chất
giao thoa giữa các giọng điệu của các loại hình văn học càng mạnh, càng rộng và sâu. Từ góc độ ấy, <i><b>Đây thơn Vĩ Dạ</b></i>


xứng đáng là một trong nhũng bài thơ tiêu biểu của thế hệ mới, tiếng nói mới trên diễn đàn thơ ca Việt Nam hiện đại.
(Theo Lê Huy Bắc, trong sđd)



7.8 ĐÓ là bài thơ gây ra nhiều bất đồng, trái ngược nhất khi phân tích, bình giảng. Ngun nhân: thói quen xã hội học
dung tục; khơng thuộc phong cách nghệ thuật của Hàn Mặc tử. Chỉ phân tích khách thé mà chưa chú ý đến tầng sâu
của nội tâm, tâm trạng; vì cảm thụ nghệ thuật chưa nhạy bén và thái độ tuỳ tiện khi xác đinh tư liệu, khảo chứng...
Tứ thơ cơ bản của <i><b>Đây thôn Vĩ Dạ</b></i> phải chăng là nỗi niềm lo âu cho hanh phúc, trong khát vọng cái Đẹp hoá giải
trạng huống đau thương. Tứ thơ này thể hiện tập trung trong hai câu thoảng ý nghi vẫn:


<i><b>Có chở trăng về kịp tối nay?</b></i> (Có diễm phúc chăng được hưởng hạnh phúc của đất trời?)


<i><b>-Ai biết tình ai có đậm đà?</b></i> (có diễm phúc được hưởng nhận chăng, cái đẹp của tình người?)
(Theo Văn Tâm, trong <i><b>Giảng văn văn học lăng mạn Việt Nam,</b></i> sđd)


Điểm tựa cấu trúc bài thơ là bốn câu hỏi nghi vấn: <i><b>Sao anh không về? Thuyền ai? Vườn ai? Ai biết tình ai?</b></i>


Muốn nắm bắt được nội dung tình cảm của bài thơ phải xác định ai hỏi, hỏi ai, hỏi gì và hỏi để làm gì?


Cái "tơi" trữ tình của nhà thơ chính là chủ thé phát ngơn ba câu hỏi sau. Riêng câu hỏi đầu thường được hiểu là lời
của cô gái Huế, của nhân vật trữ tình khác bên cạnh tiếng nói của chủ thé trữ tình - nhà thơ.


Thực ra khơng phải vậy. Ở đây chẳng có tiếng chào mời phiền trách nào cả, ở đây, <i><b>anh</b></i> là chủ thể phát ngôn, không


phải là đối tượng tác động của lịi nói trữ tình. Cái "tơi" trữ tình xung <i><b>anh</b></i> để bộc lộ tâm trạng, trị chuyện với lịng


mình.


Diễn xi: Sao anh (ta, mình, tơi) khơng về choi thơn Vĩ để được nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên như thế này!
Tiếng nói trữ tình trong bài thơ là tiếng nói độc thoại, một giọng, cái "tơi" trữ tình của nhà thơ là chủ thể phát ngôn duy
nhất của tiếng nói ấy.


Vấn đề hỏi ai khơng cẩn đặt ra khi phân tích bốn câu hỏi trên, vì đó là những câu hỏi tu từ, câu hỏi chứa đụng q
nhiều thơng tin trong câu ứả lời. Khơng có ai hỏi nhà thơ và nhà thơ cũng chẳng hỏi ai. Nhà thơ hỏi mình để bày tỏ


lịng mình trị chuyện với lịng mình về thế giớiề


Tiếng nói độc thoại nội tâm được liên kết bằng bốn câu hỏi mà mỗi câu bộc lộ một trạng thái của cảm xúc. Mọi chi tiết
đều đẫm cảm xúc, tâm trạng trữ tình, cảnh - người hồ quyện nhưng khơng theo lơgic khách quan nào cả. Vì thế bài
thơ bảy chữ ba khổ mà khơng có bóng dáng Đường thi, Tống thi nào. Đây là bản tốc kí tâm trạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Mọi chi tiết gần gũi với cảnh làng quê, lại có danh từ xác định địa danh, thành có khơng ít người lầm tưởng đây là tả
phong cảnh thôn Vĩ, vẻ đẹp thơ mộng của ngoại thành Huế. Thật ra nét đẹp chủ yếu trong khổ thơ này là vẻ đẹp lãng
mạn kín đáo, e ấp, trong sáng, non tơ, tinh khôi, trinh nguyên của bức tranh quê.


Cảm hứng này cất lên thành tiếng nói trữ tình rưng rưng, tha thiết. Hai nhịp thơ tổ chức thành hai câu nghi vấn. Bao
nhiêu thiết tha trong hai từ <i><b>về chơi, nhìn</b></i>, và luyến láy <i><b>nắng hàng cau, nắng mới lên...</b></i> câu nghi vấn biến thành câu
cảm thán kết tụ vào từ <i><b>quá,</b></i> vào cách so sánh mang tính lí tưởng hố, ước lệ. Câu thơ thứ tư đột ngột chuyển gợi tả
càng giàu chất mộng mơ.


Vẻ đẹp trinh nguyên đầy bí ẩn, khơng thé chiếm hữu. Vườn ai? Thuyền ai? Tình ai? Ai biết? Cho nên càng mê đắm
say sưa rạo rực bao nhiêu, càng cảm thấy trống vắng, cô đơn bấy nhiêu. Đó là đặc trưng của cảm hứng lãng mạn.
Bỏi vậy, đằng sau các câu nghi vẵh, khổ đầu bài thơ đã thổi ra khí lạnh của chút thoáng buồn man mác. Đến khổ 2,
hoá thành đám mây đen phủ kín tâm hồn thi nhân.


Đó là một thế giói rất khác. Phân lìa, chia li, trái ngược, buồn thiu, xám xịt, trống vắng, hờ hững, thoắt cái thay thế tất
cả cái nắng mới hàng cau, vườn xanh như ngọc thoáng qua như mộng. Tiếng nói trữ tình rạo rực lắng xuống thay
vào tiếng nói hờ hững của cõi lịng băng giá, nguội lạnh.


Đó là hai mặt sáng - tối, trái ngược của cảm hứng lãng mạn, hai cách biểu hiện của niềm ham sống, yêu đời. Nửa
đầu vừa khép lại nửa sau nổi dậy những con sóng mới.


Mở đầu bài thơ là cảnh nắng, tiếp theo là cảnh trăng. Trăng, nắng đều là ánh sáng. Nhưng nắng là thực, trăng là
mộng. Lời thơ miên man, phiêu lãng trong mộng ảo, xố nhồ những nét nghĩa thơng thường để phủ lên cả vũ trụ
màu bạc của trăng.



Bồng bềnh trên con thuyền trăng, ngưòi mơ vẫn phấp phỏng một chữ <i><b>kịp. </b></i>Khát khao, đồng cảm dồn vào chữ này.
Nhưng cũng chính chữ <i><b>kịp</b></i> đầy tục luỵ đã trả nhà thơ về cõi thực.


Ảnh trăng vụt tắt, thanh âm khổ lanh, ánh nắng xa xăm, người trong mộng thành ảo ảnh. Lồ lộ trắng lạnh. Giọng điệu
trữ tình kết tụ vào từ <i><b>q</b></i> như nghẹn ngào, xót xa, tiếc nuối... Nàng thơ cất cánh thần tiên tan vào khói sương lãng
đãng. Tiếng nói trữ tình day dứt vang lên pha chút ốn trách, giận hờn.


<i><b>Tình ai, ai biết?</b></i> Đại từ phiếm chỉ <i><b>ai</b></i> đã biến tâm trạng riêng tư của thi nhân thành câu hỏi ngàn đời, dành cho tất cả


những ai đang khao khát u đương, đồng điệu, cảm thơng.


Đi tìm cái đẹp của cõi thực, cõi thực hờ hững. Tìm đồng cảm, đồng điệu trong cõi mộng, cõi mộng hư ảo, mờ mịt.
Cho nên, đắm say rồi nguội lạnh, mộng rồi tỉnh đó là lơgic vận động của cái "tơi" ham sống, u địi trong bài thơ này.
Lơgic tâm trạng chi phối lôgic phong cảnh và tổ chức giọng điệu trữ tình. Cảnh lúc như gần, lúc như xa, lúc thực, lúc
ảo. sắc điệu trữ tình lúc âm u, lúc chói lanh. Nhưng giọng điệu chủ yếu của tiếng nói ấy vẫn là giọng bâng khuâng,
đầy mơ mộng.


Bài thơ là tiếng nói của cái "tơi" bơ vơ, cô đơn, là khát vọng ngàn đời của con người về sự đồng cảm, đồng điệu mà
tình yêu lứa đôi và hạnh phúc là biểu hiện cao nhất.


Là bản tốc kí tâm ứạng nhưng nhạc thơ chưa vượt khỏi lời thơ, phá vỡ lơgic ngữ ngtìĩa thơng thường. Led thơ chưa
thành chuỗi phát ngôn thác loạn mà trong sáng, tao nhã, giản dị. Lấy tình làm điểm tựa để vẽ cảnh nhưng tình chưa
tràn ra ngồi cảnh, biến cảnh thành những hình thù méo mó, dị dạng như bóng yẽu ma. Tắm trong cảm hứng lãng
mạn, cảnh sắc trong bài thơ lung linh, kì diệu mà khơng kì bí. <i><b>Đây thơn Vĩ Dạ</b></i> chưa bước qua điạ hạt chủ nghĩa
tượng trưng, siêu thực. Cho nên bài thơ vẫn là sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại. <i><b>Nó ra đời giữa những vui </b></i>
<i><b>buồn của loài người và sẽ kết bạn với loài người cho đến ngày tận thế.</b></i>


<b>(Theo Lã Nguyên, sđd)</b>



7.10. Trong các nhà thơ mới, Hàn Mặc Tử lạ nhất, phức tạp nhất, bất hanh nhất, bí ẩn nhất. Như ngơi sao chổi xoẹt
qua bầu tròi...


Là sản phẩm của nguồn thơ điên bằng đau thương đặc biệt, <i><b>Đây thôn Vĩ Dạ</b></i> là lời tỏ tình với cuộc đời của một tình
yêu tuyệt vọng.


Bên dưới mỗi hàng chữ sáng tươi là cả một mối u hồi.


Tuy khơng có những tiếng rên la, những hình ảnh kì dị, ma quái, nhưng mạch liên tưởng toàn bài cũng rất lạ lùng, đứt
đoạn, phi lơgic, cóc nhảy: ngoại cảnh - tâm cảnh, tươi sáng - âm u, hi vọng - thất vọng kết nối tương phản. Đó là hai
phía của một khối u hồi uẩn khúc. Có chuyển điệu của phía sáng: "hàng chữ gấm" và phía tối: "mắt mờ lộ".


Khổ đẩu: ước ao thầm kín ngấm ngầm bên trong lại cất lên như lời mòi mọc từ bên ngoài, hoài niệm âm u lại mang
gương mặt sáng sủa, khát khao, rạo rực.


Khổ 2 ước mong khẩn thiết dâng lên hố thành hồi vọng chới với, nghẹn ngào.
Khổ 3: mong ngóng vừa ló rạng hố thành nỗi hồi nghi.


Liên tưởng điên - phi lôgic tạo ra âm hưởng nhất quán, vẻ đẹp độc đáo của bài thơ. Tất cả xuất phát từ tình yêu tuyệt
vọng - mặc cảm sâu xa của Hàn Mặc tử. [...]


Trong bệnh tật, tâm hồn Hàn hình thành hai thế giới: trong này và ngoài kia phân định nghiệt ngã, cách nhau bằng cả
tầm tuyệt vọng. Ngoài kia là mùa xuân, thắm tươi, trăng, nhạc, ánh sáng, hạnh phúc, thiên đưcmg, hi vọng,... Trong
này chẳng có mùa, là đêm tối, địa ngục, khổ hạnh, âm u, mờ nhân ảnh, lãnh cung... trong này chỉ còn về lại được
ngoài kia bằng ước ao thầm lén, khắc khoải hi vọng và tuyệt vọng mà thôi!


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Sự tương phản giữa hai miền không gian không chỉ là mặc cảm của con người đang sắp chia lìa cuộc địi mà cịn là
mặc cảm của thi sĩ đang phải lìa xa cái đẹp mà anh đang tôn thờ, chiêm ngưỡng. Cái đẹp, theo quan niệm của Tử là
thanh khiết, thanh tú, trinh nguyên. Yẻ đẹp của vườn, nắng, trăng, thuyển, khách đường xa là biểu hiện cụ thể của vẻ
đẹp ấy. Và mặc cảm chia lìa là mặc cảm tuyệt vọng khiến cho nó trở nên khắc khoải, da diết. Cầu hỏi mở đầu là led


Tử phân thân để hỏi chính mình. Ba câu sau tả vườn. Nắng tinh khiết thanh tân lan toả trên những hàng cau, thân
cau, lá cau, biến cả vườn thành viên ngọc lớn. Vườn toả vào không gian những ánh xanh của ngọc thanh tú và cao
sang. Chữ <i><b>ai</b></i> chuyển tải cảm giác xa xót, thực tại xa vời, tồn tại mong manh <i><b>ờ</b></i> ngoài tầm với, thuộc thế giới ngoài kia.
Từ <i><b>quá</b></i> chỉ mức độ, là tiếng kêu ngạc nhiên, ngỡ ngàng như chợt nhận ra vẻ đẹp của vườn toong khoảnh khắc hiếm
hoi ấy. Mặt chữ điền là mặt ngưịi thơn Vĩ hay người trở về thôn VI? Nếu là mặt người thơn Vĩ thì sẽ là mặt phụ nữ vì
một người đàn ông thôn Vĩ trở về không phải để ngắm khuôn mặt đàn ông. Nếu là mặt người trở về thơn Vĩ thì chỉ có
thể là khn mặt của Tử. Tử tự hoạ chân dung của mình đầy kiêu hãnh và vơ vào. Có thể hiểu cả hai cách như trên.
Qua lăng kính chia lìa, tuyệt vọng tình yêu, nhưng cảnh vật đan sơ cũng trở nên vơ cùng lộng lẫy. Đó là thiên đường
trần gian nhưng khơng thuộc về mình nữa. Về thơn Vĩ là việc bình thường nhưng với Tử lại quá tầm tay với, thành
hanh phúc ngoài tầm tay.


Khổ 2 khơng chỉ tả dịng sơng Hương mà dịng sơng nào đó thể hiện mặc cảm chia lìa, phiêu tán. Tất cả như đang bỏ
đi, ngang trái trớ ứêu. Chữ <i><b>lay</b></i> rất hay. Từ câu ca dao hiện về trong hồn Tử chăng?


<i><b>Ai về trồng dứa qua trng Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em!</b></i>


Hay là:


<i><b>Lá ngô lay ở bờ sơng,</b></i>


<i><b>Bờ sơng vẩn gió người khơng thấy về.</b></i>


(Trác Thông)


Sông trăng và thuyền trăng: huyền ảo càng thêm huyền ảo. Nhưng đó cũng mái là vẻ đẹp bề nổi, dễ thấy. Chữ <i><b>kịp</b></i>


mới mang bi kịch tâm hồn nhà thơ. Mặc cảm thân phận trong hiện tại ngắn ngủi, sống chạy đua với thời gian, từng
ngày, từng khắc. Cuộc chia li vĩnh viễn đang tới gần. Mong mỏi, đau thương và tuyệt vọng.


Khổ 3 khắc khoải hoá thân thành nhịp điệu. Gấp gáp hơn, khẩn khoản hơn.



Hình ảnh người con gái áo trắng tinh khiết được Tử tôn thờ là hiên thân của thế giới ngoài kia với sắc áo trắng nhoà
nhạt đến mức nhìn khơng ra.


Đến đây, Tử mói trở về noi tồn tại của mình, với lãnh cung chia lìa bất hanh của mình.


Cuộc đời ngồi kia vãn thắm sắc và vẫn cách ở đây một tầm tuyệt vọng, vẫn cách xa một tầm tay với. Chỉ có cái tình
kia là sợi dây duy nhất níu Tử với trần gian. Mà xem ra cái tình ấy cũng mong manh làm sao!


(Theo Chu Văn Sơn, sđd)


7.11. Bây giờ Hàn Mặc Tử đã nằm ứên một điổm cao Gềnh Ráng (Quy Nhơn, Bình Đinh) đối diện với bể Đơng. Bể
chói lồ như thơ anh và dơng bão tựa hồ đời anh. Nằm vái trăng sao như anh từng mơ ưởc:


<i><b>Với trăng sao, anh nằm chết như trăng...</b></i>


Hàn Mặc Tử có tài rất sớm. Bài thơ <i><b>Cửa sổ đêm khuya</b></i> (thuận nghịch độc) có thể đọc xi, ngược bỏ chữ đầu,
cuối... sáu cách, rất giỏi:


<i><b>Hoa cười nguyệt rọi cửa lổng gương Lạ cảnh buồn thêm nợ vấn vương</b></i>


<i><b>Tha thướt liễu in hồ gợn sóng Hững hờ mai thoảng gió đưa hương Xa người nhớ cảnh tình lai láng Vắng bạn </b></i>
<i><b>ngâm thơ rượu bẽ bàng Qua lại yêh ngàn dâu ủ lá Hoà đàn sẵn có dế bên đường...</b></i>


Tử là người dìu dắt tơi (CLV) vào thơ những năm 1936 - 1937. Từ một nhà thơ biền ngẫu theo lối cổ phương Đông,
anh đã hiện đại như những nhà thơ hiện đại nhất châu Âu. Hơn nữa, thiên hạ hiện đại bằng óc, bằng lời, còn anh
hiện đại bằng máu:


<i><b>Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra...</b></i>



Hàn Mặc Tử không phải là nhà thơ siêu thực. Anh là nhà thơ lãng mạn dùng nhiều yếu tố siêu thực, hiện thực, nhưng
chưa có ai dùng đậm đặc như anh...


<i><b>Trăng, Trăng, Trăng! Là Trăng! Trăng! Trăng!</b></i>


Cảm cho được cái nhip điệu <i><b>tăng, tăng, tăng</b></i> như tiếng trăng chạm vào tâm hồn, như cái ngân vang của tâm hồn
khơng dứt, là bí mật và huyền diệu. Có khi đọc từng câu, từng ý, cầm từng bộ phận lên ta không hiểu. Nhưng ào đi,
đọc một hoi hết cả bài cho nó cuốn ta đi trong dịng chảy của nó, cảm cho hết cái hồn, cái khí lự, khơng khí, nhịp điệu
tồn bài thì ta mới ngợ ra. Rung động toàn bài giúp ta quay lại hiểu từng câu, từng chữ, từng bộ phận. Bị truy kích bởi
cái chết, Tử hối hả, dồn dập sáng tạo chứ đâu có làm văn. Anh trút lịng mình từng trận, từng hơi chứ đâu có ngồi
điêu khắc từng chữ, chạm trổ từng câu...


Hàn Mặc Tử có ý chê tài vua Tự Đức qua bài thơ thuận nghịch độc, anh mới chính là vua:


<i><b>Ta đi tìm mộng tầm xuân Gặp vua nhà Nguyễn bay trong mây...</b></i>


Rực rỡ như vua: <i><b>Đầy mình lốm đốm những hào quang.</b></i>


Trên Gềnh Ráng, mộ Tử bỗng dung ngời chói. Cách đó khơng xa, lâu đài của vua Nguyễn đang lụi tàn...


Trước khơng có ai, sau khơng có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đi chói
lồ, rực rỡ.


<b>(Theo Chế Lan Viên, trong </b><i><b>Hàn Mặc Tử-Về tác gia và tác phần,</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

7.12. Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Tế Hanh... là các nhà thơ lãng mạn thuần khiết, Huy Cận
cườm vào những yếu tố tượng trưng thì Hàn Mặc Tử là sự hoà sắc của cả lãng mạn, tượng trưng, siêu thực. Tuy
nhiên từ căn cốt Đông phương thâm hậu làm cho tượng trưng của ơng có bóng dáng Đường thi, và siêu thực thì đậm
màu Liêu Trai. Đó là bản sắc độc đáo của phong cách thơ trữ tình của ơng.



Thơ ơng gọi cảm chứ khơng truyền cảm. Nhà thơ khơng truyền thẳng cảm xúc của mình tới người đọc qua ngôn từ
mà bằng bản thân ngơn từ, thức dậy năng lượng tiềm ẩn trong lịng ta. Vì vậy mà cảm giác của người đọc no đủ hơn,
sâu sắc hơn bởi tránh được sự áp đặt từ bên ngồi...


Hàn Mặc Tử thường trình bày trạng thái tĩnh của thiên nhiên như là hoà điệu của tâm hồn, đồng thời chi phối nó trong
một nét tương quan thuỷ chung, thanh thốt. Ơng tan biến vào thiên nhiên và không ai siêu thực bằng ông ở Việt
Nam thời ấy. Yì sao vậy? Vì tạng thơ ơng. Kiểu tư duy, khí chất, bệnh tạt làm cho ông luôn luôn phân thân, mơ mộng
và hoang tưởng. Siêu thực không phải là kĩ thuật mà là bản chất sáng tạo của Hàn...


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×