Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Xây dựng chương trình tham quan và viết thuyết minh cho điểm du lịch Làng cổ Đông Ngạc.Thực hành hướng dẫn tại điểm du lịch đó.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.73 KB, 21 trang )

NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Đề tài: Xây dựng chương trình tham quan và viết thuyết minh cho điểm du
lịch Làng cổ Đông Ngạc .Thực hành hướng dẫn tại điểm du lịch đó.
Tơi tên là Nguyễn Thị Huyền - hướng dẫn viên đến từ công ty Du lịch
Việt Nam Open Tour. Hôm nay, tôi rất hân hạnh được đồng hành cùng quý vị
trong chuyến tham quan này. Tôi hy vọng quý vị sẽ có một chuyến đi thật thú
vị, bổ ích, đặc biệt là quý vị sẽ hiểu thêm về một trong những làng cổ của Việt
Nam. Đó chính là làng cổ Đông Ngạc.
Thưa quý khách, Bên cạnh những làng khoa bảng nổi tiếng của Việt
Nam như: Tiên Điền, Mộ Trạch, Đông Ngạc là làng khoa bảng nổi tiếng là có
nhiều tiến sĩ nhất ở Thăng Long xưa.
Chúng ta đang trên đường đến với làng cổ Đông Ngạc - ngôi làng văn
hiến có truyền thống khoa bảng lẫy lừng với nhiều “ danh gia, thế tộc, trâm
anh dòng dõi”. Nơi đây đã sản sinh ra nhiều nhân tài xuyên suốt cả chiều dài
lịch sử dưới các triều đại phong kiến và cả thời đại hiện nay.
Trước hết, tôi xin giới thiệu về lịch trình ngày hơm nay. Điểm dừng
chân đầu tiên của chúng ta là đình Đơng Ngạc ( đình Vẽ) nơi thờ ba vị phúc
thần tượng trưng cho tam tài (Thiên-Địa-Nhân), mỗi vị đại diện cho một thế
lực trong xã hội.Tiếp theo, chúng ta sẽ tham quan nhà thờ họ Phạm ở xóm 3,
đây là dịng họ có nhiều tiến sĩ nhất ở làng. Điểm dừng chân tiếp theo của
chúng ta là nhà thờ họ Đỗ, thờ cụ Đỗ Thế Giai, đây là dịng họ có nhiều người
giỏi về võ khoa Sau đó, đồn chúng ta sẽ đến nhà thờ họ Phan- nơi thờ Phan
Phu Tiên, người đỗ tiến sĩ đầu tiên, khai khoa cho làng Đông Ngạc. Tiếp đến
là chùa Tư Khánh- nơi có nhiều đóng góp trong sự nghiệp cách mạng, đặc biệt
là trong chiến tranh chống Pháp. Cuối cùng, chúng ta sẽ đến chợ Vẽ để được
thưởng thức những đặc sản ở Đông Ngạc là: nem Vẽ, bánh khoai, bánh sấy…
1
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C




NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Thưa quý vị, trước mắt quý vị là cầu Thăng Long- một trong năm cây
cầu lớn của Hà Nội( Long Biên, Chương Dương, Vĩnh Tuy, Thanh Trì, Thăng
Long). Cây cầu này được khởi cơng năm 1974, khánh thành năm 1985, dài
1688m gồm 15 nhịp. Cầu có 2 tầng, tầng trên rộng 19,5m có 4 làn ô tô, 2 làn
dành cho người đi bộ. Tầng dưới rộng 17m đặt 2 đường xe lửa.Nếu kể cả cầu
dẫn thì tầng trên dài 3116m, tầng dưới dài 5503m.
Chỉ một lát nữa thơi, chúng ta sẽ có mặt tại làng cổ Đơng Ngạc. Tại đó
có rất nhiều điều thú vị đang chờ chúng ta khám phá !
Đông Ngạc được coi là một trong những làng cổ nhất của Hà Nội. Làng cịn
được gọi là "làng tiến sĩ" do có rất nhiều vị tiến sĩ Hán học và Tây học là
người làng. Làng còn nổi tiếng về một số nghề thủ cơng truyền thống như
chun sản xuất nem ( giị Chèm, nem Vẽ ), làm quang gánh, nặn nồi đất...
Theo các thư tịch cổ, cuối thời Trần ( cuối TK 14 ) lần lượt các dòng họ Phan,
Phạm, Nguyễn, Đỗ từ các đất Ái Châu, Hoan Châu ra định cư ở làng, có cơng
mở mang và đặc biệt là nổi tiếng vè khoa bảng. Thời vua Lê Trung Hưng làng
đào được một chiếc chng cổ có khắc chữ “ Đơng Ngạch Phường - Diên
Hựu nhị niên chú “ ( Chuông ở Phường Đơng Ngạch đúc năm Diên Hựu II ),
làng cịn có tên Nơm là Kẻ Vẽ. Về chữ Đơng Ngạc có tài liệu viết rằng : xưa
làng ở trên một gị đất cao bên bờ sơng, trên gị có nhiều hàng quán phục vụ
khách vãng lai, học trò tụ tập để học bài tiếng đọc bài râm ran như tiếng ếch vì
thế dân chúng gọi vui là Đống Ếch, từ đó đọc chệch ra là Đơng Ngạc. Về tên
gọi Vẽ có người giải thích rằng trong làng có đường đi lối lại thẳng tắp tựa
như bàn cờ đẹp như vẽ, cũng có người cho rằng tại làng có người làm quan to
nên hay bày vẽ trong cách ăn ở và sinh hoạt.

2

Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Làng hiện có 12 xóm chia theo dọc bờ đê và phân chia thành các xóm
trong đê và ngồi đê : xóm Đơng ( xóm 1A ) bên kia sơng là xóm 1B ( mới lập
) – xóm Ngác ( xóm 2 ) – xóm Vẽ ( xóm 3 ) – xóm Trung ( xóm 4A ) – xóm
Ngấn ( xóm 4B ) – xóm Chùa ( 4C ), xóm Lị Nồi – xóm Vạn – xóm Vườn
( xóm 5A ), Hàng Quan , Thượng Khu – Trung Khu – Hạ Khu ( xóm 5B ),
xóm 6 xưa là ấp trại, xóm 7 là dọ theo đê từ Sơng Nhuệ vào làng Giàn, xóm 8
là xóm mới lập cạnh xóm 1B nơi có nghĩa trang và ủy ban nhân dân. hiện tồn
tại trên 100 ngôi nhà cổ có thời gian xây dựng trên 100 năm, nhiều ngôi nhà
gỗ được đục chạm công phu thể hiện nét tài hoa của các nghệ nhân xưa. Làng
Đông Ngạc đã góp cho đất nước 25 vị Tiến sĩ và cả ngàn Hương cống, Cử
nhân, Sinh đồ, Tú tài... Làng Đơng Ngạc vì thế đã nổi tiếng với các danh nhân
như thời phong kiến có Phan Phu Tiên, Đỗ Thế Giai, Lê Đức Mao, Phạm Gia
Chuyên, Hoàng Nguyễn Thự... thời cận đại với Phan Văn Trường, Hồng
Tăng Bí... và ngày nay là Hoàng Minh Giám (cố Bộ trưởng Bộ Văn Hố) và
nhiều nhà khoa học, chính khách danh tiếng... Người Đông Ngạc làm quan
khắp nơi và không thời nào không có các vị triều quan về làng đóng góp tiền
của và trí tuệ để xây dựng quê hương.
Điểm dừng chân đầu tiên của chúng ta là Đình Vẽ. Tọa lạc tại xóm 1
ngơi đình nằm hướng ra sơng, đây là một ngơi đình cổ đã được cơng nhận là
di tích lịch sử văn hóa nghệ thuật 6/ 1/ 1993. Chúng ta đang đứng trước tam
quan ngoại của đình, có thể thấy hai Hán tự “ Hạ Mã ”ở hai bên cổng với ý
nghĩa: “ xuống ngựa ”, bởi đình là một nơi linh thiêng, mọi người bất kể vua
chúa hay thường dân đi qua đều phải xuống ngựa để tỏ lịng tơn kính. Người

Việt Nam có câu: “ qua đình ngả nón trơng đình ”. Bên trong cổng đình có thờ
hai tượng đại tướng quân có nhiệm vụ bảo vệ cho đình.
Bây giờ xin mời q vị vào trong.
3
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Chúng ta đang đứng trước cửa tam quan nội. Hai bên là hai ao Nhật Nguyệt tượng trưng cho hai mắt rồng, ngơi đình được đặt trên một thế đất đẹp
có hình đầu rồng. nói về thế đất này dân làng có truyền nhau một bài thơ:
Đình làng Đơng Ngạc dáng đầu rồng
Chính mũi tam quan thẳng hướng sơng
Hai giếng to trịn hình mắt ngọc
Một tòa đại bái đỉnh đầu long
Nội cung u tĩnh thờ ba vị
Miếu mạo trang nghiêm nức một vùng
Tam thánh tối linh ban phúc lớn
Dân n, tục đẹp, q vơ cùng.
Đình được xây dựng theo kiến trúc “ Nội công ngoại quốc ” gồm có
tam quan, đại đình, trung cung, hậu cung. Ngồi khu đình về phía đằng xi
như các bạn thấy bên tay trái của các bạn là nhà Văn Chỉ, đây là nơi thờ
Khổng Tử và các vị tiên hiền.
Bây giờ xin mời các bạn vào trong sân của đình !
Bên trái các bạn là hành lang Tả mạc nơi lưu giữ 7 tấm bia nói về cơng
lao của các vị đã cống hiến để xây dựng ngơi đình và những lần trùng tu ngơi
đình. Các bạn nhìn thấy có một tấm bia duy nhất đặt trên lưng rùa, đó là tấm


4
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

bia của cụ Phan Phu Tiên, đây là người đầu tiên đỗ đạt tiến sĩ mở đầu cho
khoa bảng làng Đông Ngạc.
Bên phải là ban thờ cụ Phạm Thọ Lý là người có cơng hiến đất để xây
dựng đình. Dân làng gọi cụ là cụ Đường vì tấm lịng hào hiệp của cụ đã dời
nhà đi chỗ khác để hiến toàn bộ đất cho làng dựng đình. Khi làng đang tìm đất
thì có thầy địa lý nói rằng “ khu đất này có tú khí trung tụ, nếu làm đình thì
dân làng sẽ được thịnh vượng, hiển đạt đời đời”.
Ngơi đình được xây dựng năm 1637, thực chất nền xưa của ngơi đình là
một ngơi miếu cổ xây dựng vào thời Bắc Thuộc ( nhà Đường ) thế kỉ VII ,
Trước mắt quý vị là đại đình với 5 gian 2 dĩ. Mái đình lợp bằng ngói
mũi hài, một loại ngói cổ của Việt Nam. Các đao đình vút cong ở 4 góc mái
làm cho 2 mái đình trở nên thanh thốt, nhẹ nhàng. Mặt ngồi của các đầu đao
được đắp nhiều hình rồng sinh động như quý vị có thể thấy. Bây giờ xin mời
quý vị cùng vào bên trong đại đình.
Nơi chúng ta đang đứng là bái đường ngoại, phía sau là bái đường nội
tượng trưng cho đỉnh đầu rồng. Mỗi bái đường này gốm 40 cột gỗ lim to đều
được kê trên các tảng đá vuông chắc chắn như qúy vị thấy ở đây.Bên tay trái
của quý vị là chiếc chuông, bên phải là chiếc trống sấm được dung mỗi khi có
hội họp, tế lễ. Theo quan niêm của người Việt, hai đồ vật này được bài trí theo
ngun tắc “tả chng hữu trống”, tiếng chuông vang lên để thức tỉnh mọi
người, tiếng trống để mời dân làng ra đình hội họp, tế lễ. Trước kia, dân làng
đặt một chiếc mõ đại ở vị trí của chiếc trống này. Chiếc mõ đại được làm bằng

cả một cây gỗ to được khoét ở giữa. Tiếng mõ hiệu vang lên vào lễ khai đạc
hàng năm với ý nghĩa báo hiệu một năm mới đã đến. Như quý vị thấy, hai bên
của gian thờ này là một đôi hạc đậu trên lưng rùa cao 3m làm bằng gỗ.Xưa kia
5
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

đình cịn một đơi hac bằng đồng cao 2m nhưng rất tiếc là đôi hạc đã bị kẽ gian
lấy mất. Hạc là yếu tố dương, rùa là yếu tố âm. Hạc rùa chính là biểu tượng
của sự hòa hợp âm dương cùng với sự trường cửu của thần thánh. Đây là một
biểu tượng trang trí phổ biến trong các kiến trúc đình chùa Việt Nam.
Bên trái của gian thờ này là bàn thờ đức Lê Quận Công, vốn là người
làng, tên Phạm Công Dung, đỗ Đình Ngun tiến sĩ khoa Bính Tuất(1706)
dưới thời vua Lê Dụ Tông. Cụ giữ nhiều chức vị quan trọng trong triều đình,
khi mất, cụ được phong chức Cơng bộ Thượng thư, tước Lê Quận Cơng. Cụ
chính là người hiến tồn bộ số gỗ để xây dựng ngơi đình này.
Bên phải của gian thờ này là bàn thờ đức Mạc Quận Cơng. Vị thần này
đã có cơng giúp vua Trần đánh quân Nguyên xâm lược, có bùa phép. Nhân
dân trong làng đã rước chân nhang tữ xã Trân Vệ(vùng ven song Đà) về thờ ở
bờ sơng của làng, sau đó mới chuyền về thờ ở đình.
Xin mời quý vị hướng tầm mắt lên phía trên của gian thờ trung tâm.
Trước mắt quý vị là bộ tranh cổ được vẽ bằng sơn màu vào gỗ rất quý hiếm
được lưu giữ tại đình này.Chất liệu cổ truyền là sơn ta với ba màu: đen, đỏ và
vàng. Xưa kia làng có 48 bức nhưng 8 bức đã bị kẽ gian lấy mất vào đêm
mùng 2 tháng 3 năm Ất Hợi( 1995) cùng với đôi hạc đồng. Đình trưng bày 32
bức ở ngoại bái đường này,8 bức cịn lại chỉ đến khi có lễ hội mới mang ra cho

dân làng xem.Những bức tranh này không chỉ tơ điểm cho ngơi đình mà cịn
phản ánh một thú chơi tao nhã của tầng lớp trí thức trong làng. Trên 16 bức
tranh lớn kia có 16 đại tự, 16 bức tranh nhỏ kề bên mỗi bức lớn có 16 câu thơ
của hai bài thơ Đường luật, lấy 16 chữ trên làm tiếng đầu câu. 16 đại tự ấy là:
“Bách cốc phong đăng tư dân an thái, chúc thọ thánh vạn niên kì phúc”. Hai
bài thơ nghĩa là :”Được mùa, dân yên vui thái bình” và “Chúc vua sống lâu,
muôn năm cầu phúc”. Nội dung của các bức tranh này là ca ngợi cảnh thái
bình thịnh trị, dân chăm lo thờ cúng để thánh ban phúc lành.8 bức tranh được
6
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

cất đi là tranh “tứ hỷ”(bốn điều vui: niềm vui khi bảng vàng treo, khi nắng hạn
gặp mưa, khi xa quê gặp bạn cũ và khi có phịng cưới trong đêm đuốc hoa),
tranh “ngư tiều canh mục” .Các quý vị có thể thấy tại gian này có hai bức
hồng phi, bức bên tay trái q vị là “Kỳ phúc tang lưu”( nơi xin thẻ cầu
phúc), bức kia là “Đông lân thụ phúc”(làng Đông Ngạc nhận phúc).Hai bên
của hương án này là bộ bát bửu tức là 8 đồ trang trí gồm 8 vật tượng trưng cho
sự đầy đủ về vật chất, giàu có, tốt lành, chiến thắng: quạt, gươm, bầu rượu, cái
sênh, giỏ hoa, nhành trúc, sáo, hoa sen. Mỗi cái đều được chạm lộng tinh vi
trên đầu một cán dài sơn son thiếp vàng cắm trên giá.Trước hương án này là
bộ bát kích( tám vũ khí thời xưa) gồm : thanh long đao, cây mác trường, chùy,
thanh kiếm, câu liêm, đinh ba, tay thước, cái nắm tay.Còn đây là đồ lỗ bộ với
lọng, tàn, quạt làm bằng vóc, nhiễu xung quanh thêu hình “lưỡng long chầu
nguyệt” hoặc cửu long tranh châu”
Thưa quý khách!

Ở hai bên tả hữu của tịa đại đình này là 8 bệ đá được dùng khi có hội họp
trong làng, mỗi bệ cho một giáp ngồi, mỗi giáp cử ra 4 người. Giáp là đơn vị
hành chính nhỏ hơn cấp làng, Đơng Ngạc có 8 giáp ở 4 xóm chính: xóm
Đơng, Ngác, Vẽ, Trung. Mỗi xóm chia làm 2 giáp như sau:Đơng nhất, Đơng
nhị….
Ngơi đình này thờ ba vị thần, ba vị đó là ai? Xin mời q vị cùng theo
tơi vào phía trong của đình. Chúng ta đang đứng tại trung cung, đây là ban thờ
Hạ thần quan. Phía sau trung cung này là hậu cung. Trước mắt quý vị là hai
ơng phỗng có nhiệm vụ bảo vệ các vị thần ở bên trong, họ đang giơ tay lên để
ngăn không cho ai vào trong hậu cung. Bởi lẽ đây là nơi linh thiêng nhất của
ngơi đình, chỉ mở cửa mỗi khi có lễ hội và chỉ những ai có trách nhiệm như
sắp đặt đồ lễ mới được vào.Trong hậu cung này thờ “Tam vị Đại vương
Thượng đẳng tối linh thần” tức là 3 vị thần tượng trưng cho tam tài". Đầu tiên
7
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

là Đệ nhất đẳng thần (thiên thần) là thần Độc Cước còn gọi là Hỏa Quang
Tiêu, Sơn Tiêu đại thánh, thần có năng lực trừ yêu quái, bảo vệ dân biển. Phan
Phu Tiên đã rước chân nhang thần từ Cửa Roi- Nghệ An về thờ tại đình. Đệ
nhị đẳng thần (nhân thần) là Lê Khơi- cháu gọi vua Lê Thái Tổ bằng chú ruột
vô . Thần có cơng bảo vệ dân vùng song nước được bình an vơ sự. Cụ Đơ đốc
đồng tri Đơng Xun Hầu đã rước chân nhang từ vùng Trào Khẩu- Hưng
Nguyên- Nghệ An về thờ.Vị cuối cùng là Đệ tam đảng thần( địa thần) là thần
cai quản vùng đất này. Thần vốn được thờ ở ven sông để trừ tai, bảo vệ và ban
phúc cho dân làng.

Sau đây, chúng ta sẽ ra bên ngồi của đình để tiếp tục hành trình tham
quan. Thưa q khách, bên phải của ngơi đình này là nhà văn chỉ- nơi thờ
Khổng Tử và các vị tiền hiền. Từ vị trí này, chúng ta có thể ngắm nhìn tồn bộ
cảnh quan ngơi đình với những nét kiến trúc cổ kính, xứng đáng với diện mạo
của làng q có truyền thống văn hiến lâu đời này. Chính vì thế mà ngơi đình
đã được chọn làm địa điểm để quay bộ phim “Đêm hội Long Trì” và “ Làng
Vũ Đại ngày ấy”- những bộ phim rất nổi tiếng của Việt Nam. Hàng năm, làng
mở hội đình vào các ngày 8-11 tháng 2 âm lịch, chính hội vào ngày mồng 9.
Lễ hội gồm có lễ rước, lễ tế, rước bài vị bên cạnh đó trong lễ hội cịn diễn ra
hát chèo, chơi cờ người và một số trò chơi dân gian khác.
Quý khách có 10 phút để tham quan và chụp ảnh tại đình, sau đó chúng
ta sẽ tiếp tục hành trình tham quan vì có rất nhiều điều thú vị đang chờ chúng
ta ở phía trước !
Chúng ta đang đi trên con đường cổ bằng gạch, xưa kia tất cả các con
đường trong làng đều được lát bằng gạch này, đó là kết quả của những lần nộp
cheo.Theo quy định của làng, các chàng trai khi lấy vợ phải nộp cheo cho làng
nhà gái. Tiền hoặc lễ vật tùy theo quy định của từng làng. Cheo cho trai làng
8
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

lấy gái làng rất nhẹ, có khi chỉ cần trầu cau trình làng là đủ, cheo cho trai thiên
hạ lấy gái làng nặng hơn, phải nộp tiền hoặc lễ vật. Ở nhiều làng, như làng
Đông Ngạc, lệ bắt nộp cheo bằng 100 viên gạch để xây dựng đường làng.Dân
gian có câu:
“Có cưới mà chẳng có cheo

Dẫu rằng có giết mười heo cũng hồi”
Thưa q khách, chúng ta đang có mặt tại nhà thờ họ Phạm làng Đơng
Ngạc. Đây là dịng họ lớn nhất, lâu đời nhất trong làng. Họ Phạm đến đây có
lẽ muộn nhất là khoảng năm 1370- 1380 khi giặc Chiêm tiến vào thành Thăng
Long. Cả họ Nguyễn và họ Phạm trong làng đều từ Thanh Hóa đến. Theo thư
tịch cổ thì có ba anh em họ Phạm từ Thanh Hóa lên ba vùng khác nhau: Đôn
Thư( Thanh Oai), Bát Tràng, và Đông Ngạc. Khi đến Đơng Ngạc thì dịng họ
này nổi tiếng ngay vì tinh thần hiếu học.
Người đỗ đại khoa đầu tiên của họ Phạm là cụ Phạm Lân Định, thi đỗ tam
giáp đồng tiến sĩ khoa Giáp Tuất 1514, khai khoa họ Phạm .Cụ cũng chính là
người đầu tiên ở làng có tên khắc trên bia đá ở Văn Miếu vào thời Lê.Từ đó
cho đến năm 1849 có 11 người đỗ đại khoa( 9 tiến sĩ và 2 sĩ vọng), đến trước
cách mạng tháng Tám, họ có tổng cộng 16 tiến sĩ và 78 cử nhân.Trong 16 tiến
sĩ đó có 11 người đỗ đại khoa Hán học và 5 người đỗ tiễn sĩ Tây học ở Pháp.
Thưa quý khách, trước mắt quý khách là hòn non bộ. Đây là một hòn núi
giả thường được đặt ở trước sân của mỗi nhà thờ họ cũng như ở một số ngôi
nhà ở Việt Nam để tượng trưng cho sự hòa hợp âm dương, gia đình, họ tộc sẽ
thịnh vượng, khang ninh. Như quý vị thấy, hòn non bộ là cảnh rừng núi thu
nhỏ xây bằng đá, có cảnh nước non, hang động được đặt trong một bể nước
gọi là bể cạn. Điều đặc biệt ở hòn non bộ trong nhà thờ này là nó được tạc
9
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

theo hình tứ linh, gồm có long, ly. quy, phượng, đây là một đề tài trang trí
truyền thống trong kiến trúc đình, chùa Việt Nam.

Xin mời quý khách tiến lên phía trước của nhà thờ !
Trên hai cây cột này là đơi câu đối:
“Tịng qn kiệt tiết mãn xoan trung nghĩa quán hồng luân”- bên trái
“Học cổ chí than dịch thề khoa danh khai xích xí”-bên phải của q khách
Đơi câu đối này nói về truyền thống hiếu học và khoa bảng của dòng họ
Phạm. Phía trên đỉnh hai cột có đắp nổi hình con Nghê. Q khách có biết vì
sao lại có hình tượng con Nghê ở đây không ạ? Theo quan niệm tâm linh của
người Việt thì đây là con vật thiêng, có khả năng nhận ra kẻ ác hay kẻ thiện.
Đó là lý do tại sao con nghê được tạc ở đây, bởi nó có nhiệm vụ trơng giữ,
giám sát tư cách của người ra vào nhà thờ, bảo vệ cho sự tơn nghiêm của nơi
thờ tự.
Phía sau hai chiếc cột này là hai bức tường với hai bức tranh vinh quy
bái tổ, thể hiện khung cảnh của làng quê mỗi khi trong làng cị người đỗ đạt.
Làng Đơng Ngạc, đặc biệt là họ Phạm có truyền thống Nho học lâu đời nối
tiếp nhau qua “cửa Khổng sân Trình” nên những phong tục tập quán và cả
cách thức giao tiếp, xử thế của dân làng cũng có những nét đặc trưng, mang
ảnh hưởng của Nho giáo.Mọi việc cưới xin ma chay đều lấy tình nghỉa làm
trọng, khơng có thủ tục nặng nề. Việc khao vọng ở làng là khi các ông Nghè
về vinh quy bái tổ, nhưng cũng tùy nghi mà làm, cái cốt lõi là ở sự thành tâm,
gia đình nào có điều kiện thì làm to và ngược lại. Nhà Vua đã ban cho lang mĩ
tự “ Mĩ tục khả phong” là vì lẽ đó.
Xin mời q khách hãy nhìn sang bên tay phải, đây là tấm bia do người
trong họ tạc nên để ghi danh sách những vị tiến sĩ của dòng họ. Trên tấm bia
này khắc tên 9 vị tiến sĩ và hai cụ đỗ sĩ vọng. Đó là các cụ : Phạm Lân Đính,
Phạm Thọ Chỉ, Phạm Hiển Danh, Phạm Quang Trạch, Phạm Quang Hoàn,
10
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C



NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Phạm Thế Anh, Phạm Công Liêu. Điều đặc biệt là cụ Phạm Quang Trạch
chính là thầy dạy của Trạng Quỳnh. Riêng họ Phạm có 9 tiến sĩ, cịn các dịng
họ khác trong làng chỉ có từ 4 đến 5 tiến sĩ. Họ Đỗ thì có Đỗ Thế Giai và Đỗ
Thế Dân( tạo sĩ- tiến sĩ võ). Họ Nguyễn có 5 tiến sĩ thuộc 5 họ khác nhau:họ
Nguyễn gốc có tiến sĩ Nguyễn Văn Tùng, họ Nguyễn ở Mai Dịch có Nguyễn
Dự,họ Nguyễn ở Thanh Trì có phó bảng Nguyễn Văn Hội, họ Nguyễn Hữu có
Nguyễn Hữu Tạo, họ Nguyễn Đình có Nguyễn Đình Thạc. Ngồi ra, cịn có
họ Hồng, là dịng họ đền làng muộn nhất, người khai khoa là Hồng Ngun
Thự, sau đó là Hồng Tế Mĩ, Hồng Tướng Hiệp, Hồng Tăng Bí.
Thưa q khách!
Trước mắt quý khách là cửa nhà thờ họ với bức hồnh phi ở giữa có các
Hán tự “Phạm tộc từ đường” (nhà thờ tổ họ Phạm), bức hoành phi bên trái có
chữ “Ất chi” (chi Ất), bên phải là “Giáp chi” (chi Giáp)
Xin mời quý khách cùng vào bên trong nhà thờ. Tại đây là bàn thờ gia
tộc họ Phạm, gian giữa thờ ba ông tổ họ Phạm- những người đầu tiên đến đây,
hai bên là bàn thờ hai chi Giáp và Ất.Họ lấy chi Ất làm chi trưởng vì những
người thuộc chi Giáp ở đây khơng nhiều bằng chi Ất.Ngày mồng 3 tháng
Giêng hàng năm là ngày xuân tế của họ Phạm. Vào ngày này con cháu dù ở xa
đến đâu cũng về dự ngày giỗ họ để tỏ long biết ơn đến tổ tiên.Theo phong tục
của người Việt thì tiền chung góp giỗ thường tính theo đầu người, chỉ con trai
từ 18 tuổi trở lên mới phải đóng góp, đàn bà con trẻ thì được miễn. Có nhiều
họ, con gái không được dự giỗ họ mà chỉ có con dâu mới được dự vì khi con
gái đã lấy chồng thì thuộc về họ khác. Họ khơng mời khách khứa trong ngày
này mà chỉ có con cháu trong họ. Của hương hỏa không được bán , phải để
gây hoa lợi dùng trong việc tế tự, cúng giỗ. Tiền cúng giỗ nếu còn thừa sẽ
được dùng để sắm sửa đồ thờ và trang hoàng nhà thờ họ.Người trong họ luôn
nhắc nhở và giáo dục con cháu về truyền thống hiếu học tốt đẹp của dòng họ

11
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

mình. Họ có nhiều người đỗ đạt như GS-TS Phạm Gia Khánh (Giám đốc Học
viện Quân Y), GS-TS Phạm Gia Khải (Viện trưởng Viện Tim Mạch), TS
Phạm Gia Khiêm (đương kim Phó Thủ tướng Chính phủ) và nhiều nhà khoa
học, chính khách danh tiếng... Truyền thuyết kể lại rằng: có một thầy địa lý
Tàu đi qua đây và cho biết làng này có 2 huyệt thiêng là huyệt thương mại và
huyệt văn. Nếu đặt mộ vào huyệt thương mại thì se phát đạt ngay cịn huyệt
văn thì đời sau mới phát được.Đúng như lời thầy địa lý nói, họ Phan đặt mộ
vào huyệt đầu tiên và nhanh chóng phát đạt. Họ Phạm thì khiêm nhường hơn,
đã đặt mộ tổ vào huyệt văn và đúng một đời sau thì có người đỗ đạt.Từ đó, số
người đỗ đạt trong làng và đặc biệt là trong họ Phạm ngày càng nhiều. Vì thế,
dân giân có câu “Đất kẻ Giàn, quan ke Vẽ”. Cả vùng đất rộng lớn ven đô từ
Cổ Nhuế, Thụy Phương qua Vẽ đến Xuân La, Xn Đỉnh có hình đàn cá chép,
trong đó có 1 con quay đầu về hướng làng Vẽ, theo thuật phong thủy thì làng
này sẽ phát quan.Tạo hóa đã cho ngơi làng này địa thế ‘sơn chầu thủy tụ, phía
Bắc có sơng Nhị chảy qua, phía Tây Bắc và Đơng Bắc có dãy núi Tam Đảo,
Ba Vì chầu về, đúng là thế đất địa linh nhân kiệt. Thêm vào đó, làng lại gần
sông, thuận tiên cho buôn bán, kinh tế phát triển nên đã tạo điều kiện tốt cho
việc học hành.Cả năm dòng họ trong làng đều lấy việc học làm đầu để dạy
con cháu. Bây giờ, xin mời quý khách cùng ra bên ngồi để tiếp tục hành trình
tham quan. Phía sau của nhà thờ này là nhà thờ của chi Ất nhất họ
Phạm.Chúng ta se đến một nhà thờ họ tiếp theo cũng có truyền thống khoa
bảng đó la nhà thờ họ Đỗ.

Trước mắt quý vị là cổng của xóm 3. Nếu như mỗi làng cổ Việt Nam
đều có 1 cổng chung cho cả làng thì đến với Đơng Ngạc chúng ta sẽ bắt gặp
rất nhiều cổng làng bởi xưa kia mỗi xóm có 1 cổng ở cả đầu xóm và cuối
xóm, 1 cổng giáp đê gọi là cổng cái, cổng đi ra đồng là cổng đồng. ban ngày
cổng xóm mở và bắt đầu từ 11h đêm là giờ giới nghiêm nên tất cả các cổng
12
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

xóm đều đóng, ai muốn đi qua đều phải trình báo. Vì thế mà ngày xưa cổng
làng có cánh và bánh xe. Chiếc cổng xóm bây giờ chỉ có mái và chỉ mang tính
hình thức thôi.
Bây giờ tôi sẽ dẫn các bạn tham quan ngôi nhà đã có niên đại trên 300
năm tuổi và được coi là ngơi đình thứ hai của làng Vẽ.
Họ Đỗ ở làng Đơng Ngạc thì xuất hiện muộn hơn dịng họ Phạm, nhà
thờ họ được xây dựng khoảng năm 1740, thờ cụ tổ Đỗ Thế Giai – là người đỗ
tiến sĩ đầu tiên của dòng họ Đỗ. Cụ sinh ngày 21/ 10 năm Kỷ Sửu, đời Vĩnh
Thịnh (1079), là một quan chức cao cấp thời Lê – Trịnh. Năm Bính Thìn niên
hiệu Vĩnh Hựu, cụ thi hội và đỗ Tam trưởng, được phong làm Huấn đạo huyện
Trà Vinh. Năm Mậu Ngọ cụ làm hai bài văn chức, và được vào phủ chúa Trịnh
giảng kinh. Khi chúa Trịnh Minh Vương lên ngôi, giao cho cụ làm Quân hậu
nội thủy đội. Năm Quý Hợi được thăng làm Tham nghị tỉnh Tuyên Quang.
Năm Cảnh Hưng thứ 3 được phong làm Phó Chi binh phiên. Năm Cảnh Hưng
thứ 11 lại được phong làm Suy trung tán trị cương chính cơng thần. Cùng năm
ấy chúa Trịnh lại phong cụ làm Thái tể. Cụ được chúa Trịnh ban 4 chữ: “ Thiết
thạch tinh trung ”, để ghi nhận tấm lịng trung kiên, chính trực của cụ. Sau khi

cụ mất, đền thờ cụ được Ân Vương ( Trịnh Doanh ) phong là Đỗ Đại Vương
từ với bức hoành phi ghi 4 chữ “ Thượng đẳng phúc thần ”. Cụ là một trong
số ít người được phong Vương lúc cịn sống và được tơn thành Thần khi qua
đời. Năm nào người trong họ cũng tổ chức sinh nhật cho cụ, giỗ cụ vào ngày
8/ 8 và ngày mùng 2/1 là ngày xn tế.
Dịng họ Đỗ có hai người đỗ tiến sĩ, ngồi cụ Đỗ Thế Giai sau đó có Đỗ
Thế Giân nhưng là tiến sĩ võ ( tiến sĩ vọng).
Chúng ta đang đứng trước ngôi nhà thờ tổ, Các bạn có thể nhìn thấy,
kiến trúc nhà gồm 5 gian và 2 dĩ, mái đầu đao, được lợp ngói mũi hài. Khung
13
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

nhà được bố trí theo hình chữ Nhị phía ngồi là tiền tế có 6 hàng chân cột.
Tuy có 5 gian nhưng được bưng 2 gian đầu để cho con cháu ở, có 3 gian giữa,
chiều rộng của mỗi gian là 3m, lòng nhà 9,5m. Nền nhà được lát bằng gạch
Bát Tràng đỏ. Qua thời gian, ngôi nhà này đã được trùng tu nhiều lần nhưng
vẫn giữ được phong cách kiến trúc của thế kỉ XVII, XIX.
Tiền bái gồm đơi hạc và 4 bức hồnh phi. Như chúng ta thấy, từ thế kỉ
XVII trở về sau hạc chỉ cao 2,5 – 3,5m; cũng như ở đình Vẽ mà các bạn vừa
được tham quan đơi hạc chỉ là sự phóng to hơn về kích thước so với những
đơi hạc thơng thường. Cịn hạc ở đây thì cơ thể trù phú hơn, cổ mập hơn và
đặc biệt đơi chân khơng có tỷ lệ cao như những hạc khác. Đơi hạc này có dáng
đầm ấm và gần gũi với thực hơn.
Trước mắt chúng ta từ phải sang là 4 bức hoành phi đề:
 “Vạn phúc du đồng”( vạn phúc lành cùng nhau kéo đến, niên hiệu Cảnh

Hưng 18 năm 1757).
 Bên dưới là “Thiết thạch tinh trung” ( lòng trung hiếu vững như sắt,
niên hiệu Cảnh Hưng 21 năm 1760).
 Bên trên là 4 chữ “ Đỗ Đại Vương từ” do chúa Trịnh ban cho khi phong
Vương.
 “Ngũ phúc lâm môn” ( 5 phúc: phú, quý, thọ, khang, ninh tràn ngập cửa
nhà, niên hiệu Cảnh Hưng 17 năm 1756.
Phía dưới hồnh phi là 2 bức tranh long – mã có nghĩa là “ tung hồnh”,
rồng bay lên, ngựa phi nước đại tức là chí khí nam nhi tung hoành trời đất.
Bây giờ chúng ta sẽ tham quan hậu cung. Hậu cung cũng được kết cấu
kiểu 5 gian 2 dĩ giống tiền bái. Cũng giống như nhiều nhà thờ họ khác, nơi
đây thờ các vị tổ của dòng họ và còn lưu giữ nhiều đồ đạc và những vật phẩm
liên quan đến công đức to lớn của danh nhân Đỗ Thế Giai.
14
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Phía trước hậu cung là bức hoành phi gồm 4 chữ : “ Thượng đẳng phúc
thần ” do Ân Vương ( Trịnh Doanh ) đề tặng khi cụ đã qua đời. Chúng ta thấy
ở đây hoa văn trên các bộ cửa, bàn, xà, ngưỡng,… được chạm trổ kĩ hơn. Điều
đặc biệt là ở bàn thờ chính giữa có 2 ơng phỗng chầu hai bên, ơng phỗng ở
đây có sự khác biệt so với phỗng thế kỉ XVII mắt xếch, mũi sư tử, miệng
rộng, phỗng ở đây có nhiều nét chân dung, hiện thực, gần gũi hơn.
Thông thường đa số nhà thờ tổ mang chức năng vừa là nhà thờ vừa là
nhà ở. Sự đặc biệt ở nhà thờ họ Đỗ so với các nhà thờ họ khác là có hậu cung.
Các đồ thờ đều là những vật được vua, chúa ban cho cụ Đỗ Thế Giai lúc

sinh thời. Tất cả đều có niên đại từ thế kỷ XVII. Chính vì thế mà nơi đây được
coi như đình làng thứ hai của làng Vẽ. Đây cũng là ngôi nhà được chọn làm
bối cảnh quay nhiều phim truyện, phim truyền hình.

Điểm dừng chân tiếp theo của chúng ta là nhà thờ họ Phan trong ngõ xóm 4A
đây là nơi thờ Phan Phu Tiên-ông tổ họ Phan làng Đông Ngạc và cũng là
người mở đầu cho khoa bảng làng.
Trước mắt các bạn là tứ trụ được đắp hình con Nghê để phân biệt người tốt kẻ
xấu trước khi vào nơi thờ tự. Phía sau là bức tượng thờ của cụ Phan Phu Tiên.
Tộc phả họ Phan ghi:
“Làng ta là một làng văn hiến, đỗ to và làm quan khơng phải từ họ nào mà
chính người khởi xướng ra là đấng tiền hiền Phan Công ta” (tức là ông Phan
Phu Tiên, con trưởng ông Phan Quang Minh , hậu duệ ông Phan Hách từ ( Hà
Tĩnh ) rời ra ở làng Ðơng Ngạc từ khi lên 10 tuổi. Ơng đã 2 lần thi đậu Thái
học sinh nên được phong danh là “ Lưỡng Triều Tiến Sĩ ”. Lần đầu Khoa đỗ
15
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Thái học sinh năm Quý Dậu 1393 đời vua Trần Thuận Tơng, đồng khoa với
Hồng Quán Chỉ là anh vợ của ông. Lần 2 ông đỗ khoa Minh Kinh vào năm
Kỷ Dậu 1429 Sau khi đỗ đạt ơng có quan và có một số cống hiến nhất định :
+ Ông là người viết tiếp cuốn sử “ Đại Việt sử kí tục biên ”
+ Sưu tập tất cả văn thơ của các vua quan từ thời tiền Lê, Lý đến đầu
hậu Lê được gọi là “ Việt Âm thi tập ” ( là văn thơ của người Việt làm đọc
theo âm Hán Việt ) gồm 7 tập.

+ Thực vật toản yếu là bộ sưu tầm các bài thuốc trong dân gian.
+ Ngồi ra ơng cịn soạn luật là cơ sở để xây dựng Luật Hồng Đức.
Ơng làm quan nhưng sau đó vì bất mãn với thời cuộc nên ông xin nghỉ về
quê vợ là em ông Hoàng Quán Chỉ ở làng Hạ Yên Quyết, ông làm thuốc, viết
sách, rồi mất ở đó vào năm 1472. Sau đó Mạc chiếm Lê con cháu dịng họ
Phan di tản đi nhiều nơi. Đầu thời Lê Trung Hưng, sau quá trình lưu lạc gần
100 năm, họ kéo về đây và hình thành nên 7 chi họ Phan. Tuy nhiên khơng
biết chi nào là trưởng chi nào là phó. Năm Minh Mạng thứ 14 (1834) , 7 chi
họ họp lại quyết định cùng thờ tổ Phan Phu Tiên chọn ngày 13 tháng 1 là ngày
tế tổ gọi là ngày Xuân tế. Để gọi tên các chi, họ lấy tên 28 vị sao, viết vào
giấy, sau đó người đứng đầu mỗi chi sẽ bốc thăm để chọn tên cho chi của
mình, từ đó tên các chi ra đời và mỗi năm mỗi chi đăng cai một lần làm giỗ
theo thứ tự.
Quý vị hãy hướng tầm mắt sang bên trái, đây là tấm bia khắc dòng chữ “
Nơi đây 1907 - Nhà tập luyện võ nghệ của hội Đông Kinh Nghĩa Thục Làng
Đông Ngạc ”. Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục diễn ra vào đầu thế kỉ 20
16
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

nhằm thực hiện cải cách xã hội Việt Nam, với mục đích khai thơng dân trí,
dạy học cho dân khơng mất tiền đúng với ý nghĩa chữ “ nghĩa thục ”. Vào
những năm kháng chiến chống Pháp, làng Đông Ngạc là một trong những nơi
diễn ra hoạt động yêu nước của hội Đông Kinh Nghĩa Thục mà thành phần
chủ chốt có những người trong dịng họ Phan làng Đông Ngạc như : Phan Văn
Trường ( Tiến sĩ luật tại Pháp), Phan Trọng Kiên, Phan Tuấn Phong…Nhà thờ

này xưa kia là một trong những nơi tập luyện võ nghệ của hội.
Xin mời quý khách tiến lên phía trước !
Trên cửa chính là hồnh phi màu đỏ ghi các chữ Hán tự và dịch ra tiếng việt
có nghĩa là : Lưỡng Triều Tiến Sĩ – nói về cụ Phan Phu Tiên đã hai lần đỗ tiến
sĩ ở hai triều đại khác nhau. Chúng ta đang đứng trước gian thờ chính của nhà
thờ dịng họ Phan, như các bạn có thể thấy hai bên hiên của gian thờ có hai
tấm bia, hai tấm bia này ghi lại xuất xứ dòng họ, về cuộc đời sự nghiệp cụ
Phan Phu Tiên và tên tuổi các hậu duệ đời sau đỗ đạt trong làng như Phan Thọ
Chỉ, Phan Công Phúc, Phan Lê Phiên…Họ Phan có 7 tiến sĩ , 28 người đỗ cử
nhân, 50 người đỗ tú tài. Đây cũng là một dịng tộc khoa bảng hiển vinh.
Khơng gian bên trong, chính giữa có bàn thờ cụ Phan Phu Tiên, trên
bàn thờ có một tấm bia ghi cơng danh cụ đã đạt được dưới cùng là tên bảy chi
trong dòng họ Phan. Ngồi ban thờ cụ ra trên tường cịn treo rất nhiều tranh
ảnh về các hoạt động của họ trong những lần tế giỗ, đáng lưu ý là bức ảnh của
Hồ Chủ Tịch, Phan Chu Trinh – một trong những người lãnh đạo phong trào
Đơng Kinh nghĩa thục.
Phía sau của ban thờ là phần hậu lâu thờ các tổ vị dòng họ Phan và chỉ mở cửa
vào dịp tế giỗ.
Tiếp theo chươnng trình chúng ta sẽ đến Chùa Tư Khánh. Chỉ một lát thơi các
bạn sẽ được ngắm tồn bộ cảnh quan ngôi chùa.
17
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Làng Đơng Ngạc có 2 chùa : Diên Khánh và Tư Khánh. Chùa Diên
Khánh lập ở ngồi cánh đồng phía cuối làng. Hồi kháng chiến chống Pháp,

địch phá mất. Hiện nay khơng cịn dấu tích gì. Đất chùa ngày trước, bây giờ là
khu tập thể nhà máy bê tông Chèm.
Chúng ta đang đứng trước tam quan chùa Tư Khánh. Bên trên cổng có
đắp hình con nghê, có nhiệm vụ phân biệt kẻ tốt kẻ xấu, nhận diện tư cách của
mỗi người vào chùa.
Chùa được xây dựng từ đời nào hiện nay không rõ, nhưng chùa đã qua
nhiều lần trùng tu. Chùa do quan Thái giám lập nên, cụ là người làng Đông
Ngạc nhưng không biết rõ thuộc dòng họ nào. Tương truyền cụ đỗ tiến sĩ,
khơng có con ra làm quan ít lâu rồi từ quan về làng mở trường dạy học. Sau
đó cụ đã “biến gia vi tự” tức là “biến nhà thành chùa”. Đất của chùa bây giờ
chính là của nhà quan Thái giám. Vì sợ con cháu trong họ đời sau đến quẫy
nhiễu chùa, nên cụ đã không khắc họ tên thật vào bia. Tấm bia cổ nhất đặt
trong hậu cung chùa có ghi năm Hồng triều Thịnh đức. Vào thời vua Lê Thần
Tông (1653 - 1661) chùa được tu sửa lại, bây giờ cịn tấm bia ghi cơng đức
của ơng bà Nguyễn Phúc Ninh đã cúng gia tư điền sản để tu bổ, dựng lại chùa.
Chùa có tới 59 gian, kiến trúc nội tự chữ Đinh, ngoại tự chữ Quốc. Đây
là ngôi chùa duy nhất ở thành phố Hà Nội được phong tặng danh hiệu "Toàn
gia kháng chiến" trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1946 - 1954). Chùa là
nơi nuôi dưỡng bộ đội. Thượng toạ Thích Thanh Lộc sư trụ trì chùa đã từng
bị giặc bắt giam ở nhà tù Hoả Lò và Liễu Giai và bị tra tấn rất dã man, nhưng
vẫn giữ bí mật cho cách mạng. Sau khi ra tù, Thượng toạ vẫn hoạt động bí mật
và ni quân, và còn giác ngộ được hai sư bác cùng tham gia kháng chiến.
Sau này hai sư bác đã được phong tặng danh hiệu liệt sĩ.

18
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C



NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Chùa đã được nhà nước xếp hạng di tích Lịch sử Nghệ thuật ngày
16/02/1993.
Kiến trúc của chùa bao gồm tam quan, gác chuông, nhà vuông, tiền
đường, hữu vu, hậu cung và nhà Tổ.
Bây giờ chúng ta sẽ đi vào trong, tôi sẽ dẫn các bạn đi tham quan ngơi
chùa này. Các bạn nhìn sang hai bên chính là hai hồ nước, đây là kiến trúc
thơng thường của một ngơi đình hay chùa cổ, tạo nên thế “ sơn chầu thủy tụ”
nghĩa là có sự kết hợp hài hịa giữa âm và dương.
Đây là gác chng treo quả chuông đúc năm Đinh Sửu tức năm Gia
Long thứ 16 ( 1817) và hai quả chuông nhỏ hơn cũng được đúc vào thời
Nguyễn. Chuông cao 2 thước không kể quai, rộng 2 thước với trọng lượng:
đồng đỏ 750 kg, thiếc 450 kg, vàng 3 lạng.
Phía trước là ngơi nhà vuông trước đây là nơi họp bàn của các vị chức
sắc trong làng khi làng có việc quan trọng.
Hai bên là 4 tháp cổ được xây dựng từ ban đầu khi xây dựng chùa, nơi
đây chứa đựng tro của các vị tổ sư của chùa.
Chính điện có 8 pho tượng phật kim cương, đây là những pho tượng
được tạo tác công phu mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII - XIX và
Chùa còn ba bộ cửa võng, nhang án, hồnh phi, câu đối chạm trổ tinh xảo
càng tơn thêm giá trị cho chùa.
Hậu cung thờ vợ chồng ông Nguyễn Phúc Ninh, đã cúng gia tư điền sản
để tu bổ, dựng lại chùa, và được dân làng tôn làm Hậu Phật, hiện cịn tấm bia
có niên đại Thịnh Đức ghi rõ công đức của hai người.
Bây giờ chúng ta sẽ đi thăm vườn tháp, ở đây gồm 5 tháp mới được xây
đựng để đựng tro của sư trụ trì và các sư trong chùa – những người đã gắn bó
cả cuộc đời với ngơi chùa này.
19
Nguyễn Thị Huyền


Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

Khi đến thăm Đông Ngạc nếu khơng thưởng thức nem Vẽ, bánh khoai
thì thật là điều đáng tiếc. Bây giờ xin mời các bạn theo tơi đến chợ Vẽ.
Xin mời các bạn thưởng thức món bánh khoai ( còn gọi “ nạp thiểu thu
đa” ). Nguyên liệu làm bánh từ chính là gạo nếp, khoai sọ, thêm gia vị gừng,
riềng, gấc, bồ kếp, đường kính, rượu, mỡ nước. Món bánh này thường làm
vào mùa nắng hanh theo dân làng tức là mùa bổ cau mới đảm bảo phơi đúng
kĩ thuật. Đây là đặc sản mà mỗi người con của làng Vẽ dù đi đâu cũng không
thể quên được. Cách làm cũng đơn giản:
Lấy bồ kếp và bắc nước ngâm gạo nếp rồi thổi xôi. Dùng cối chày máy,
giã xơi, giã khoai sọ sống ( có nhựa) thành một thứ bột quánh. Dùng bột
quánh ấy “bắt” xôi lên trong cối, nhào nhuyễn, dát mỏng, rồi cắt thành từng
miếng bằng đồng 5 xu, đặt vào nong thưa đem phơi nắng hanh một tuần lễ.
Thắng đường kính có pha nước riềng và gừng, cho những miếng bột
gạo ấy vào trộn kỹ. Đun chảo mỡ sôi, thả những miếng bột ấy vào, đun đều.
Khi đã chin và nở vừa tầm thì lấy gầu (đan bằng giang) xúc ra, lấy khăn lót
tay chọn bánh, phân loại đặt và phên, sàng thưa. Bánh chín tới rất xốp, trắng
muốt trơng như quả muỗm hay quả trứng ngỗng. Khi ăn các bạn sẽ cảm nhận
được vị thơm, dòn, ngon ngọt, thưởng thức cùng với nước trà hương. Cái
hương vị làm say lòng khách mỗi khi đến với làng.
Các bạn có thấy ngon khơng?
Bên cạnh món bánh khoai cịn có bánh sấy, q khách sẽ cảm nhận
được hương vị của nó khơng thua kém gì món bánh khoai. Ngun liệu từ:
Thịt lợn, thăn nõn và mơng quả, nước mắm ngon, gừng, riềng, đường kính.
Cách làm: Thịt lợn lạng mỏng, pha thành từng miếng tròn bằng đồng bạc hoa

xòe cũ. Riềng gừng giã nhỏ lấy nước nguyên chất pha vào với nước mắm
ngon có trộn nước đường kính. Tẩm những miếng thịt đó vào nước này khi
gia vị ngấm đủ vào thịt thì lấy lá chuối tươi mềm, chọn những lá không dày
20
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C


NGHIỆP VỤ HƯỚNG DẪN DU LỊCH

quá không mỏng quá, đặt lên thớt. Sau đó đặt thịt lên trên dùng dao đập mạnh,
đến khi thịt mỏng như bánh đa nem, mới bóc lá chuối, đem đạt từng miếng
vào trong cái cót quây chung quanh một lò than củi hồng rực trên đậy nong
thưa. Đến khi chin có màu nâu là được. Nếu quý vị thưởng thức luôn sẽ rất
ngon, nếu sau mới ăn thì trước khi ăn tẩm qua gia vị, hơ trên than hồng.
Các bạn cảm thấy thế nào, có ngon không ạ? Bây giờ chúng ta sẽ vào
chợ đê thưởng thức hương vị đặc sản của làng Vẽ. Chúc quý khách ngon
miêng.
Thưa quý khách, chúng ta vừa cùng nhau khám phá những nét đẹp của làng
cổ Đông Ngạc. Tôi hi vọng các bạn đã hiểu them nhiều văn hóa làng khoa
bảng Đơng Ngạc. Chúc các bạn có một ngày vui vẻ, hữu ích. Bây giờ chúng
ta sẽ quay trở về khách sạn và ăn tối. Tối nay chúng ta sẽ tự do tham quan phố
cổ Hà Nội.

21
Nguyễn Thị Huyền

Lớp: VHDL 15C




×