Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Đóng góp của các nhà thơ thế hệ đổi mới trong thơ việt nam sau 1986 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (628.17 KB, 29 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

PHẠM THỊ TRỊNH

ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ THƠ
THẾ HỆ ĐỔI MỚI
TRONG THƠ VIỆT NAM SAU 1986
Mã số: 9220121
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGHỆ AN - 2021



Cơng trình được hoàn thành tại Trường Đại học Vinh

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS LƯU KHÁNH THƠ
2. TS. LÊ THỊ HỒ QUANG

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp
tại Trường Đại học Vinh, 182 Lê Duẩn, Vinh, Nghệ An


Vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm 2021.

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia
- Trung tâm Tư liệu - Thư viện Nguyễn Thúc Hào, Trường
Đại học Vinh



1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lịch sử văn học là một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của nhiều
thế hệ tác giả. Đó cũng là q trình vận động theo quy luật kế thừa, nối tiếp, cách
tân hệ hình thẩm mĩ giữa các thế hệ. Mỗi thời kì lịch sử văn học thường có một thế
hệ đóng vai trò chủ lực trong việc kiến tạo nên diện mạo và hệ giá trị riêng của thời
kì văn học ấy, biểu hiện và thông qua nhiều mối quan hệ: giữa nhà văn và hiện thực
đời sống được phản ánh; giữa tác giả và tác phẩm; giữa tác phẩm và độc giả… Đó
là lớp người cầm bút được kết nối với nhau bởi hệ giá trị chung của thời đại mà họ
vừa là kẻ sản sinh, kiến tạo, vừa là sản phẩm của hệ giá trị đó. Nghiên cứu lịch sử

văn học từ góc độ thế hệ tác giả, do đó, là một hướng nghiên cứu triển vọng, giúp
việc phân định, đánh giá các thời kì lịch sử văn học được chính xác, khách quan,
khoa học.
1.2. Sau 1986, cùng với chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước, những thay đổi to lớn trong bối cảnh văn hóa, chính trị của thế giới và đất
nước đã tác động mạnh mẽ tới đời sống văn học nghệ thuật, đòi hỏi và thúc đẩy
văn nghệ sĩ phải đổi mới tư duy, quan niệm và lối viết. Đây là lí do tạo nên những
thành tựu nổi bật trên nhiều phương diện của văn học Việt Nam từ sau 1986 đến
nay. Văn học Việt Nam giai đoạn này có một lực lượng tác giả đông đảo, bao gồm
nhiều thế hệ tiếp nối, song hành, trong đó, nổi bật là lớp tác giả thuộc thế hệ Đổi
mới, với nhiều cá tính sáng tạo độc đáo. Cùng với các thế hệ trước và sau đó, các
tác giả thế hệ Đổi mới đã có những đóng góp hết sức ý nghĩa trong tiến trình vận
động của văn học Việt Nam hiện đại.
1.3. Nhắc đến các tác giả thơ thế hệ Đổi mới là nhắc đến khá nhiều tên tuổi
nổi bật và gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả. Tác phẩm của họ thể hiện một quan
điểm mĩ học mới, rất khác so với quan điểm mĩ học truyền thống. Không chỉ dừng
lại ở những tìm tịi kĩ thuật có tính manh mún, riêng lẻ, chủ đích của họ hướng tới
việc hình thành một hệ hình tư duy thơ, một “loại hình” thơ hiện đại. Dĩ nhiên, với


2

những cách tân, đổi mới ráo riết trong quan điểm và thi pháp, sáng tác của họ cũng
đã gây ra những ý kiến tiếp nhận trái chiều gay gắt và không phải lúc nào thơ của
các tác giả này cũng nhận được sự ủng hộ. Nhưng chính sự tiếp nhận đa chiều này
cho thấy sáng tác của thế hệ Đổi mới đã và đang hiện diện như một hiện tượng
cần được lưu tâm nghiên cứu, lí giải, đánh giá một cách kĩ lưỡng và khách quan,
thỏa đáng hơn.
1.4. Hiện tại, chương trình giáo dục phổ thơng mơn Ngữ văn 2018 đang có
những thay đổi hết sức căn bản. Mục tiêu phát triển năng lực người học và tính

mở là những đặc điểm nổi bật của chương trình này. Điều này buộc người dạy,
người học phải hết sức chủ động trong việc mở rộng diện đọc, đánh giá, lý giải
các hiện tượng văn học hiện đại, trong đó có thơ Việt Nam sau 1986. Đây cũng là
một lí do khiến tác giả luận án, vốn là giáo viên Ngữ văn ở phổ thơng, lựa chọn
vấn đề nghiên cứu này.
1.5. Có thể nói, sáng tạo thơ của thế hệ nhà thơ Đổi mới đã làm phong phú
thêm đời sống thi ca Việt Nam đương đại, góp phần đưa thơ ca và tiếng Việt hội
nhập vào xu thế phát triển chung của nhân loại. Tuy nhiên, đến nay, vẫn chưa có
nhiều cơng trình nghiên cứu chun sâu về vai trị, vị trí và đóng góp của thế hệ
tác giả này.
Trên đây là những lý do cơ bản thúc đẩy chúng tôi nghiên cứu đề tài Đóng
góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong thơ Việt Nam sau 1986.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới
trong thơ Việt Nam sau 1986, cụ thể là những tìm tịi, đổi mới trong tư duy, quan
niệm và thi pháp.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án xác định phạm vi nghiên cứu là những đóng góp nghệ thuật thể
hiện qua/ trong tác phẩm của các nhà thơ thuộc thế hệ Đổi mới, đặc biệt tập trung
khảo sát sáng tác của các tác giả Dư Thị Hoàn, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều


3

Minh, Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Inrasara.
Ngoài ra, luận án cũng mở rộng phạm vi khảo sát về các hiện tượng thơ Việt Nam
hiện đại khác khi cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của luận án là nghiên cứu những tìm tịi, sáng tạo nghệ thuật của
các nhà thơ thế hệ Đổi mới, cụ thể trên các phương diện như tư duy nghệ thuật,
quan niệm thẩm mỹ, hệ thống thi pháp…; trên cơ sở đó, nhận ra những đặc điểm
mang tính quy luật trong tiến trình vận động, cách tân của thơ Việt Nam hiện đại
và có sự lý giải, đánh giá khách quan, thỏa đáng về vai trị, vị trí và đóng góp của
các nhà thơ thế hệ Đổi mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày tổng quan về lịch sử nghiên cứu vấn đề, cụ thể là những nghiên
cứu trong nước và ngồi nước về đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới.
- Xác định các khái niệm công cụ (tác giả, thế hệ tác giả/ nhà thơ, nhà thơ
thế hệ Đổi mới) và phân tích bối cảnh xuất hiện nhà thơ thế hệ Đổi mới sau 1986.
- Phân tích, đánh giá đóng góp của nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan niệm
về sáng tạo và bản chất cái tơi trữ tình.
- Phân tích, lí giải đóng góp của nhà thơ thế hệ Đổi mới trên phương diện
thể loại, kết cấu, ngôn ngữ.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp loại hình
4.2. Phương pháp cấu trúc - hệ thống
4.3. Phương pháp nghiên cứu lịch sử
4.4. Phương pháp tiếp cận thi pháp học
4.5. Nhóm thao tác nghiên cứu phân tích - tổng hợp, thống kê - phân loại,
so sánh


4

5. Đóng góp của luận án
Luận án là cơng trình nghiên cứu mang tính bao quát, hệ thống về đặc điểm
và đóng góp của nhà thơ thế hệ Đổi mới trong thơ Việt Nam sau 1986 trên phương
diện hệ hình tư duy, quan niệm sáng tạo và nghệ thuật thể hiện. Trên cơ sở xác

định những khái niệm công cụ và phương pháp luận nghiên cứu, phân tích, luận
giải về một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu, luận án góp phần định vị và đánh giá
một cách khách quan, thỏa đáng về vai trị và đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi
mới trong thơ Việt Nam hiện đại.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận án sẽ được triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Bối cảnh xuất hiện của các nhà thơ thế hệ Đổi mới
Chương 3: Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan niệm về
sáng tạo và bản chất cái tôi trữ tình
Chương 4: Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trên phương diện thể
loại, kết cấu, ngôn ngữ
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý thuyết của đề tài
1.1.1. Giới thuyết khái niệm
1.1.1.1. Tác giả
Tác giả (tiếng Anh: author; tiếng Pháp: auteur) là khái niệm đã được bàn
đến trong khá nhiều cơng trình, tài liệu khoa học. Hiểu theo nghĩa rộng, tác giả là
người sản xuất ra các sản phẩm sáng tạo trí tuệ, bao gồm nhiều lĩnh vực như khoa
học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật... Hiểu theo nghĩa hẹp, khái niệm tác giả
thường được đồng nhất với khái niệm tác giả văn học, là người sáng tạo ra các tác
phẩm nghệ thuật ngôn từ. “Tác giả”, cùng với “tác phẩm”, “thể loại”, “thời kỳ văn


5

học” là những khái niệm then chốt trong phê bình, nghiên cứu lịch sử văn học.
1.1.1.2. Thế hệ tác giả/ thế hệ nhà thơ

Một thế hệ nhà thơ chỉ được thừa nhận khi họ xác lập được một hệ giá trị
thẩm mỹ mới cùng một diện mạo văn học mới, mang tính khác biệt so với trước
(và sau) đó. Hệ thẩm mỹ ấy được nhìn nhận trong mối quan hệ đan bện giữa hiện
thực được phản ánh, chủ thể phản ánh và chủ thể tiếp nhận, thể hiện qua tác phẩm
- trung tâm của các mối quan hệ ấy. Nó bao gồm “một chuẩn mực đặc thù về cái
đẹp, một điệu tình cảm thẩm mỹ nổi bật và một hệ thống thi pháp tương ứng”. Hệ
thẩm mỹ ấy được tạo ra thông qua sự phủ định và kế thừa những giá trị truyền
thống, thông qua trải nghiệm và kiến tạo cái mới. Tựu trung, có thể hiểu, thế hệ
tác giả/ nhà thơ thực sự “phải là chủ thể cốt lõi của một chặng đường văn học. Đó
là một lớp người cầm bút được kết nối bởi cùng một hệ giá trị chung của thời
mình. Họ vừa là kẻ sản sinh lại vừa là sản phẩm của hệ giá trị đó”.
1.1.1.3. Nhà thơ thế hệ Đổi mới
Trên cơ sở tham khảo, tổng hợp ý kiến các nhà nghiên cứu đi trước, chúng
tôi đề xuất cách hiểu khái niệm “nhà thơ thế hệ Đổi mới” trong luận án như sau:
“Nhà thơ thế hệ Đổi mới” là một cách định danh mang tính quy ước, nhằm
chỉ thế hệ nhà thơ Việt Nam xuất hiện và thành danh chủ yếu vào thời kỳ Đổi mới
(sau 1986). Về độ tuổi, họ chủ yếu thuộc thế hệ 5x, 6x. Về thời điểm xuất hiện, họ
chủ yếu sáng tác và thành danh từ khoảng sau 1986 đến 2000. Sáng tác của họ thể
hiện quan niệm và thi pháp sáng tạo mới, khác biệt so với các thế hệ nhà thơ trước
đó. Đó là kiểu tư duy thuộc hệ hình hiện đại và hậu hiện đại. Thế hệ nhà thơ này
hội tụ khá nhiều cá tính nghệ thuật riêng biệt, độc đáo, gây chú ý, ảnh hưởng, tác
động khá mạnh mẽ trong giới sáng tác và độc giả. Họ được “điểm danh” bởi các
nhà phê bình nhạy bén, được ghi nhận, nhắc nhớ, tôn vinh của những người sáng
tạo đồng thời, đồng lứa, có ảnh hưởng, tác động tới những cây bút đồng thời hoặc
kế tiếp... Đây là một thế hệ sáng tác có đội ngũ đơng đảo, sức sáng tạo dồi dào,
mạnh mẽ. Nhiều tác giả của thế hệ này vẫn đang trong thời kỳ sáng tác sung sức
và có những đóng góp nổi bật cho thơ Việt Nam đương đại.


6


1.1.2. Tiêu chí nhận diện nhà thơ thế hệ Đổi mới
1.1.2.1. Xác định tiêu chí nhận diện nhà thơ thế hệ Đổi mới
- Tiêu chí về độ tuổi. Nhà thơ thế hệ Đổi mới chủ yếu là 5x - 6x. Về mặt
lịch sử, nhà thơ thế hệ Đổi mới được xem là thế hệ trung gian giữa thế hệ thơ
kháng chiến chống Mỹ 1945 - 1975 với thế hệ thơ sau này (những người sinh sau
1975, sống và sáng tác trong thời bình).
- Tiêu chí về thời gian xuất hiện. Các nhà thơ thế hệ Đổi mới chủ yếu sáng
tác và cơng bố tác phẩm từ sau 1986.
- Tiêu chí về tính cách tân trong hình thức, kỹ thuật thơ các tác giả thế hệ
Đổi mới. Thơ của các tác giả thế hệ Đổi mới, nhìn chung, thể hiện tư tưởng và nỗ
lực cách tân hình thức, kỹ thuật thơ một cách mạnh mẽ. Thơ của các tác giả này
thường hướng đến những tìm tịi thi pháp theo hướng chủ nghĩa hiện đại và hậu
hiện đại.
1.2.2.2. Xác định tiêu chí nhận diện sự đổi mới, cách tân trong thơ của thế
hệ nhà thơ Đổi mới
- Một là, họ cùng kiến tạo nên một kiểu tư duy và hệ giá trị thẩm mĩ mới,
hiện đại. Hàng loạt các cây bút của thế hệ Đổi mới đã ra sức vượt thoát khỏi hệ
hình thi pháp cũ, và bằng tư duy và bút pháp phi sử thi, họ đã gây nên tiếng vang
với Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn, Củi lửa của Dương Kiều Minh, Từ nước, ngày sinh
lại của Nguyễn Lương Ngọc, Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều…
- Hai là sự cách tân, đổi mới về mặt thi pháp. Sau 1986, nhiều trào lưu,
khuynh hướng, phương pháp sáng tác cùng tồn tại. Cá tính sáng tạo của nhà thơ
được chú ý, coi trọng. Thay vì thứ ngơn ngữ đơn giọng, mang tính “đồng phục”,
các nhà thơ thế hệ Đổi mới đã sản sinh ra những lớp ngôn ngữ đa giọng, đa sắc,
“gây hấn”, “thách thức” gay gắt với mĩ cảm truyền thống. Thay vì kiểu kết cấu
đóng kín thường thấy trong thơ như trước đây, giờ đây phổ biến trong thơ là lối
kết cấu mở…
1.1.2.3. Xác định tiêu chí nhận diện tác giả tiêu biểu của thế hệ Đổi mới
Trước hết, dựa trên thái độ, ý thức cách tân của các tác giả đối với thơ ca



7

đương đại. Hai là, sáng tạo của họ phải mang tính mới, thể hiện được tư tưởng,
mĩ học riêng, và nhờ đó, có ảnh hưởng, tác động tích cực tới đời sống văn học. Ba
là, các tác giả phải đạt được thành tựu nổi bật trong quá trình sáng tạo, và được
đánh giá, ghi nhận. Đây là điểm quan trọng nhất trong tiêu chí nhận diện gương
mặt tiêu biểu của thế hệ Đổi mới nói riêng, của cả nền văn học trong tất cả các giai
đoạn nói chung.
Ba tiêu chí cơ bản giúp chúng tơi dựa vào đó để đánh giá những gương mặt
tiêu biểu của thế hệ Đổi mới. Dĩ nhiên, chúng tôi cũng ý thức rất rõ rằng, các tiêu
chí này vẫn chưa thực bao quát được hết các tác giả tiêu biểu của thế hệ Đổi mới
trên thực tế. Vả chăng, như đã nói trên, việc xác định, lựa chọn này dù sao vẫn có
tính chủ quan, nó phụ thuộc nhiều vào tính chất, năng lực đọc, khả năng bao quát
tài liệu của chủ thể.
1.1.3. Một số lý thuyết hữu quan
1.1.3.1. Lý thuyết loại hình học tác giả
Loại hình học (typology), là khoa học nghiên cứu về loại hình. Bằng tư duy,
nguyên tắc và phương pháp loại hình, lí thuyết loại hình xác định, phân chia các
hiện tượng thành các loại, kiểu để nhận diện cấu trúc bên trong và tìm ra những
quy luật phát triển của đối tượng. Nói một cách ngắn gọn, loại hình học văn học
là khoa học nghiên cứu những tương đồng mang tính quy luật của các hiện tượng
văn học. Trên cơ sở lý thuyết này, chúng tơi sẽ chú ý tìm hiểu về những dấu hiệu,
đặc điểm, phẩm chất chung của các nhà thơ thuộc thế hệ Đổi mới, qua đó cố gắng
xác định kiểu/ loại diện mạo riêng của thế hệ tác giả này, trong tương quan đối
chiếu, so sánh để nhận ra sự khác biệt so với các kiểu/ loại thế hệ tác giả trước và
sau đó.
1.1.3.2. Lý thuyết về mối quan hệ giữa lịch sử, văn hóa và văn học
Nhìn chung, những lý thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa lịch sử - văn

hóa và văn học đều xuất phát từ quan điểm khoa học nhấn mạnh, coi trọng mối
quan hệ biện chứng và sự chi phối, tương tác chặt chẽ giữa hoàn cảnh lịch sử (bao
gồm các yếu tố văn hóa, kinh tế, xã hội, tiểu sử tác giả…) và hiện tượng văn học


8

hình thành, phát sinh trong/ trên hồn cảnh lịch sử cụ thể đó. Trên thực tế, các lí
thuyết, trường phái nghiên cứu về văn học từ góc độ lịch sự phát sinh khá đa dạng,
phong phú.
Tìm hiểu các lý thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa lịch sử - văn hóa và
văn học, lựa chọn và kết hợp các quan điểm nghiên cứu, chúng tơi nhằm mục đích:
Xem xét, phân tích bối cảnh xuất hiện của thế hệ nhà thơ Đổi mới, các yếu tố chi
phối, tác động (điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội…) dẫn đến sự hình thành các
đặc điểm của thế hệ tác giả này; Tìm hiểu một số yếu tố về tiểu sử, tâm lý, đặc
điểm cá tính cá nhân, hồn cảnh đời sống riêng tư… của nhà thơ, qua đó, phần
nào nhận ra sự tác động, ảnh hưởng, cũng như dấu ấn của các yếu tố đó tới phong
cách, cá tính sáng tạo của tác giả; Tìm hiểu những đặc điểm thời đại, bối cảnh lịch
sử cụ thể của xã hội Việt Nam giai đoạn hậu chiến và Đổi mới (từ 1975 đến cuối
thế kỉ XX), tìm hiểu trạng thái tâm lí - xã hội tương ứng, tạo nên “diễn ngơn” nghệ
thuật có tính đặc thù của các nhà thơ thế hệ Đổi mới.
1.1.3.3. Lý thuyết thi pháp học
Thuật ngữ “thi pháp học” (póetique, poetics) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp
(Poietike), nhằm chỉ một lĩnh vực của những quy tắc thuộc về chuyên ngành sáng
tác nghệ thuật, được tập trung thể hiện trong cơng trình Poetica của Aristote ra đời
cách đây 2.400 năm. Theo nhiều nhà nghiên cứu, thi pháp học lí thuyết phương
Tây xuất hiện từ thời cổ đại Hi Lạp. Trong sách Aristote và văn học cổ đại, T.A.
Miller cho rằng trước Aristote, thuật ngữ “thi pháp” chỉ cẩm nang dạy các quy tắc,
thủ thuật làm thơ (Pinda), hoặc chỉ triết học về thơ như là sự hoài niệm về một thế
giới tuyệt đối (Platon). Còn đến Aristote, “thi pháp học” mới bắt đầu được xem là

lí luận về thơ (văn học) [163, 24]. Ở Trung Quốc cổ đại, từ đời Đường đã có chữ
“thi học” với nghĩa là học vấn về thơ, phép làm thơ… Có thể nói, thuật ngữ thi pháp
và thi pháp học đã có từ xa xưa, cả ở phương Tây và phương Đông, như Trung Quốc,
Ấn Độ, Triều Tiên, Việt Nam [163, 27]. Trong luận án này, chúng tôi áp dụng lý
thuyết thi pháp học như một điểm tựa, công cụ phương pháp nhằm tiếp cận đối
tượng là các văn bản thơ của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong tính chỉnh thể hình


9

thức của nó.
1.1.3.4. Lý thuyết tiếp nhận văn học
Lý thuyết tiếp nhận văn học là một lí thuyết nghiên cứu văn học hiện đại,
xuất hiện ở phương Tây từ thập kỉ 60 của thế kỉ XX. Người đầu tiên đưa ra được
mơ hình hồn thiện cho mỹ học tiếp nhận là Hans Robert Jauss, giáo sư giảng dạy
văn học tại trường Đại học Konstanz (Đức). Trường phái “mỹ học tiếp nhận”
Konstanz cịn có nhiều tác giả nổi tiếng như Wolfgang Iser, Manfred Fuhrmannn,
Rainer Warning… Lý thuyết này cũng là một điểm tựa phương pháp luận quan
trọng với tác giả luận án khi nghiên cứu về đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi
mới, bởi trên thực tế, việc tiếp nhận đối tượng này cũng là một vấn đề hết sức phức
tạp, đòi hỏi phải được cắt nghĩa, lý giải, đánh giá trên/ bằng những cơ sở và phương
pháp khoa học.
1.2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2.1. Những nghiên cứu trong nước
1.2.1.1. Nghiên cứu về bối cảnh ra đời và đội ngũ sáng tác của thế hệ Đổi mới
Trong nhiều cơng trình, khi “điểm danh” đội ngũ nhà thơ hậu chiến và Đổi
mới, các nhà nghiên cứu thường sắp xếp theo giai đoạn sáng tác, chẳng hạn đội
ngũ sáng tác trong giai đoạn sau 1975, sau 1986… Lưu Khánh Thơ, trong cơng
trình Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại; Vũ Tuấn Anh trong cơng
trình Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1945 - 1995 (1997); Lê Lưu Oanh trong cơng trình

Thơ trữ tình Việt Nam 1975 - 1990 (1998); Văn Giá trong bài Đợt sóng cách tân
đầu tiên của thơ Việt sau 1975: Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn
Quang Thiều (2016)…
1.2.1.2. Nghiên cứu về đóng góp và hạn chế của nhà thơ thế hệ Đổi mới
Theo nhiều nhà nghiên cứu, thơ sau 1986 là thời kỳ thơ có nhiều tác giả,
tác phẩm đặc sắc, góp phần xác lập nên diện mạo mới của một chặng đường văn
học với quan niệm thẩm mỹ và thi pháp mới. Đáng chú ý là cơng trình, bài viết
của các nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Thành, Lê Lưu Oanh, Đỗ Lai Thúy Nguyễn
Đăng Điệp, Trần Đình Sử, Chu Văn Sơn, Văn Giá... Các nhà nghiên cứu đã đi từ


10

bối cảnh văn hóa, chủ thể sáng tạo, hệ giá trị thẩm mĩ để nhận diện đóng góp của
thế hệ nhà thơ Đổi mới.
Những đóng góp trong tư duy, quan niệm, thi pháp: Nguyễn Đăng Điệp,
trong tiểu luận phê bình Vọng từ con chữ (2003), trong Thơ Việt Nam hiện đại tiến
trình và hiện tượng (2014); Phong Lê, trong chuyên luận Phác thảo văn học Việt
Nam hiện đại thế kỉ XX (2013); Lê Hồ Quang, trong Tư duy thơ Việt Nam sau 1975
qua sáng tác của một số tác giả thế hệ mới (2016)...
Nghiên cứu về đóng góp của các tác giả tiêu biểu: Thành tựu thơ Việt Nam
giai đoạn sau 1986, có sự đóng góp của một đội ngũ sáng tác hết sức đơng đảo,
với nhiều cá tính sáng tạo mới mẻ, độc đáo. Số lượng cơng trình, bài viết bàn về
các tác giả tiêu biểu của thế hệ nhà thơ Đổi mới, nhất là các tác giả như Nguyễn
Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn
Bình Phương, Inrasara, Dư Thị Hồn… hết sức phong phú.
Đánh giá chung về ưu điểm và hạn chế của nhà thơ thế hệ Đổi mới: Các
nhà phê bình nghiên cứu đứng trên các tiêu chí đánh giá, các góc nhìn khác nhau,
đã có những những ý kiến, thái độ đánh giá trái chiều về thế hệ nhà thơ này. Một
là, thái độ đề cao, đánh giá một cách tích cực, ủng hộ cho những thể nghiệm, cách

tân của các tác giả thuộc thế hệ Đổi mới, coi đó là sự “chuyển mình” cần thiết, rất
đáng ghi nhận của thơ ca Việt Nam hiện đại. Về quan điểm này có thể kể đến một
số ý kiến nổi bật của các nhà thơ, nhà phê bình như Thanh Thảo, Hồng Hưng,
Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Việt Chiến, Inrasara, Mai Văn Phấn… Hai là, thái độ
đề cao có chừng mực, đi cùng sự đề cao là việc chỉ ra những hạn chế trong sáng
tác của các tác giả thuộc thế hệ Đổi mới. Điều này có thể thấy trong ý kiến của
nhiều nhà phê bình, nghiên cứu như Trần Đình Sử, Phong Lê, Nguyễn Đăng Điệp,
Chu Văn Sơn, Đỗ Lai Thúy, Văn Giá, Lưu Khánh Thơ, Inrarsara, Mã Giang Lân,
Lê Lưu Oanh, Trần Ngọc Hiếu, Nguyễn Thanh Sơn… Ba là, thái độ phê phán gay
gắt, phủ nhận một cách triệt để, chối bỏ mọi thể nghiệm sáng tạo của thế hệ Đổi
mới. Tiêu biểu cho ý kiến này là các bài viết của Trần Mạnh Hảo, Chu Giang Nguyễn Văn Lưu, Đỗ Hoàng, Nguyễn Hoàng Đức…


11

1.2.2. Những nghiên cứu ở nước ngoài
Về những nghiên cứu ở nước ngồi, chúng tơi tìm được một số cơng trình,
tài liệu bàn về thơ Việt Nam giai đoạn hậu chiến và Đổi mới của một số tác giả
như Nguyễn Hưng Quốc, Nguyễn Đức Tùng, Đỗ Quyên... Cụ thể, Nguyễn Hưng
Quốc trong lời giới thiệu tuyển tập 26 nhà thơ Việt Nam đương đại; Đỗ Quyên
trong Đến trường phái thơ Việt trong cảm thức hậu hiện đại; Nguyễn Đức Tùng
trong Thơ Mới hơm nay cần những phẩm chất gì?...
Ngồi ra, cịn có một số bài viết lẻ của một số nhà phê bình, nghiên cứu viết
về một số nhà thơ thế hệ Đổi mới như: Viết về Mai Văn Phấn, Inrasara…
1.3. Tiểu kết Chương 1
Trong chương 1, chúng tôi tập trung trình bày hai nội dung chính. Thứ
nhất là cơ sở lý thuyết của đề tài luận án. Phần này có ba luận điểm cơ bản. Thứ
nhất là xác định các khái niệm trung tâm của luận án; thứ hai, xác định tiêu chí
nhận diện đối tượng nhà thơ thế hệ Đổi mới; thứ ba, trình bày về một số lý thuyết
hữu quan, đóng vai trị cơ sở phương pháp luận giúp chúng tôi thực hiện nghiên

cứu đề tài. Ở nội dung thứ hai, chúng tơi trình bày lược thuật về các cơng trình
nghiên cứu về các nhà thơ thế hệ Đổi mới, bao gồm những nghiên cứu trong nước
và nước ngồi. Theo tìm hiểu, khảo sát của chúng tơi, cho đến nay, thơ Việt Nam
thời hậu chiến và Đổi mới là đối tượng quan tâm nghiên cứu của nhiều cơng trình
khoa học trong nước. Hệ thống các chun luận, báo cáo, bài báo khoa học, luận
văn, luận án…về đối tượng này rất phong phú. Đây là những góc nhìn, những cách
đọc khác nhau , giúp luận án tham chiếu, có cơ sở để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề
đóng góp của thế hệ nhà thơ Đổi mới trong thơ Việt Nam hiện đại.


12

Chương 2
BỐI CẢNH XUẤT HIỆN CỦA CÁC NHÀ THƠ THẾ HỆ ĐỔI MỚI
2.1. Bối cảnh lịch sử, văn học Việt Nam sau 1986
2.1.1. Về bối cảnh lịch sử
Những sự kiện lịch sử - chính trị: Năm 1986, Đại hội VI của Đảng Cộng
sản Việt Nam đề ra đường lối Đổi mới đất nước một cách tồn diện. Cơng cuộc
đổi mới ấy không chỉ làm thay đổi diện mạo đất nước trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, xã hội mà cịn tác động trực tiếp đến đời sống văn hóa nghệ thuật, trong
đó có văn học.
Xu hướng tồn cầu hóa về mặt kinh tế, văn hóa: Sau 1986, với chủ trương
đổi mới, mở cửa và hợp tác đa phương, Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với
Mỹ, gia nhập các tổ chức khu vực như ASEAN, APEC, WTO...
Sự phát triển của khoa học công nghệ và internet: Sự phát triển của các
phương tiện kĩ thuật cùng internet và xu thế tồn cầu hóa về mặt kinh tế, thương
mại, văn hóa đã đưa Việt Nam xích gần hơn với thế giới, trên nhiều phương diện.
Nó hình thành nên một “nền văn hóa mới” - văn hóa số, văn hóa mềm, văn hóa
ảo… mà ở đó, các cá nhân trực tiếp liên hệ với toàn thế giới”.
2.1.2. Về bối cảnh văn học

Tình hình dịch thuật, xuất bản: Sự phát triển của hệ thống các nhà xuất
bản, nhà in, sự phát triển của báo chí ở Việt Nam thời kì cuối thế kỉ XX cũng là
một yếu tố tác động tích cực, thúc đẩy sự phát triển của văn học nghệ thuật. Tác
phẩm văn học không chỉ xuất bản trên giấy mà cịn mở rộng thêm các hình thức
khác như: sách điện tử, các trang blog, wesite,…
Sự phát triển của lí luận, phê bình văn học: Giai đoạn văn học kể từ những
năm sau 1986 có những chuyển biến mạnh mẽ trong đời sống lí luận, phê bình văn
học. Điều này tạo nên ảnh hưởng rất đáng kể trong sự thay đổi về tư tưởng, nhận
thức của giới sáng tác.
Sự đổi mới trong các sáng tác văn học: Sự chuyển biến của đời sống xã hội,
văn hóa, lí luận, phê bình văn học nói trên địi hỏi sáng tác văn học cũng phải đổi


13

mới. Sự đổi mới này thể hiện trên nhiều phương diện của sáng tác: trong quan
niệm, tư tưởng; trong nghệ thuật thể hiện.
Sự xuất hiện các hiện tượng thơ mới: Sau 1986, bên cạnh lớp nhà thơ thời
chống Pháp, chống Mỹ, đã xuất hiện nhiều hiện tượng thơ mới, gây chú ý trong
độc giả và giới nghiên cứu. Có thể nhắc đến những hiện tượng thơ như Dư Thị
Hoàn (với Lối nhỏ - 1988), Nguyễn Lương Ngọc (Từ nước - 1990); Nguyễn Quang
Thiều (Sự mất ngủ của lửa -1992); Mai Văn Phấn (Bầu trời không mái che 2010),...
2.2. Sự tiếp nối và song hành của các thế hệ nhà thơ sau 1986
2.2.1. Thế hệ chống Pháp, chống Mỹ
Trước tiên cần nói tới các tác giả thuộc thế hệ nhà thơ chống Pháp, cụ thể
là các tác giả như Nguyễn Đình Thi, Hồng Cầm, Văn Cao, Chính Hữu, Dương
Tường, Lê Đạt, Đặng Đình Hưng, Trần Dần... Bên cạnh thế hệ nhà thơ chống
Pháp, thế hệ nhà thơ chống Mỹ cũng tiếp tục sáng tác góp phần tạo nên diện mạo
mới cho thơ Việt Nam sau 1986. Ở đây phải kể đến Bế Kiến Quốc, Thanh Thảo,
Hữu Thỉnh, Hoàng Hưng, Thi Hoàng, Nguyễn Khoa Điềm, Vũ Quần Phương, Ý

Nhi, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Nguyễn Trọng Tạo, Bằng Việt, Trần Đăng
Khoa, Y Phương, Trúc Thông... Họ chủ yếu thuộc thế hệ 4X, 5X thành danh trong
kháng chiến chống Mỹ. Sau 1986, nhiều tác giả thuộc thế hệ này vẫn giữ được nội
lực sáng tạo mạnh mẽ và có những đóng góp rất đáng kể cho nền thơ Việt Nam
đương đại.
2.2.2. Thế hệ Đổi mới
Nói đến thế hệ Đổi mới là nói đến nhiều gương mặt, tên tuổi nhà thơ đáng
chú ý như Dư Thị Hoàn, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang
Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn, Inrasara, Trần Tiến Dũng, Nguyễn
Linh Khiếu, Trần Quang Quý, Phùng Khắc Bắc, Nguyễn Việt Chiến, Thảo
Phương, Trần Anh Thái, Trần Hịa Bình, Đỗ Trọng Khơi, Đỗ Trung Quân, Y
Phương, Trần Hùng, Giáng Vân, Đặng Huy Giang, Đỗ Minh Tuấn, Phan Hoàng,
Nguyễn Quốc Chánh, Thu Nguyệt, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Trương Nam Hương,


14

Bùi Chí Vinh.…
2.2.3. Thế hệ tiếp nối Đổi mới
Thế hệ tiếp nối Đổi mới hầu hết thuộc thế hệ thơ 7x, 8x, bắt đầu sáng tác
khoảng từ sau 2000 cho đến nay. Ở đây phải kể đến: Vi Thuỳ Linh, Ly Hoàng Ly,
Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Vĩnh Tài, Lê Anh Hồi, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ
Dỗn Phương, Đỗ Trí Vương, Đinh Thị Như Thuý, Trương Quế Chi, Trần Lê Sơn
Ý, Trang Thanh, Đồng Chuông Tử, Vũ Lập Nhật, Pháp Hoan...
2.3. Một số nhà thơ tiêu biểu của thế hệ Đổi mới
Trong giới hạn của cơng trình này, chúng tơi xin được “điểm mặt” bảy nhà
thơ - theo sự nhìn nhận và đánh giá của tác giả luận án - là đã gặt hái được những
thành công nhất định và có nhiều đóng góp cho sự phát triển của thơ thế hệ Đổi
mới nói riêng và thi ca Việt Nam hiện đại nói chung. Về cơ bản, chúng tơi sắp xếp
theo thời gian xuất hiện của tác giả (tính từ tập đầu tiên). Chúng tơi tập trung đi

tìm hiểu về con người và vị trí, đóng góp nổi bật của bảy nhà thơ: Dư Thị Hoàn,
Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình
Phương, Mai Văn Phấn, Inrasara.
2. 4. Tiểu kết chương 2
Sau năm 1986, các nhà thơ thế hệ Đổi mới đã có những đóng góp quan
trọng vào q trình hiện đại hóa thơ Việt Nam vốn đã được khởi động từ những
năm đầu thế kỷ XX. Với tinh thần và nỗ lực cách tân thơ ca một cách triệt để, các
nhà thơ thế hệ Đổi mới, tiêu biểu là Dư Thị Hoàn, Dương Kiều Minh, Nguyễn
Lương Ngọc, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn,
Inrasara đã có những tìm tịi, đổi mới mạnh mẽ nhằm phá vỡ những quy phạm,
chuẩn mực đã dần trở nên cứng nhắc trong thơ đương thời. Như vậy, tìm hiểu thơ
của các nhà thơ thế hệ Đổi mới không chỉ là tìm hiểu những đóng góp quan trọng
của họ trong sự đổi mới của nền thơ ca hiện đại Việt Nam mà cịn là tìm hiểu
những đặc điểm và xu hướng chuyển động của thơ ca Việt Nam đương đại.


15

Chương 3
ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ THƠ THẾ HỆ ĐỔI MỚI
TRONG QUAN NIỆM VỀ SÁNG TẠO
VÀ BẢN CHẤT CÁI TÔI TRỮ TÌNH
3.1. Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan niệm về sáng tạo
3.1.1. Tầm quan trọng của việc xây dựng quan niệm mới về sáng tạo
Quan niệm về sáng tạo là gì? Đó chính là những tư tưởng, nhận thức đóng
vai trị điểm tựa cho hoạt động sáng tạo, bao gồm cách nhìn của nhà thơ về cuộc
đời, con người, hiện thực và những quan niệm về sáng tạo (trong sáng tác cụ thể,
đó là bài thơ với cách thức tổ chức kết cấu, sử dụng ngơn từ, cách thể hiện nội
dung, tổ chức hình tượng…). Trong khi đó, bản chất của hoạt động sáng tạo chính
là việc tạo ra những giá trị mới, tạo ra cái khác biệt. Thực tế chứng minh rằng, mỗi

thời đại thi ca đều đánh dấu sự hiện diện của mình bằng sự khác biệt trong hệ hình
tư duy thẩm mỹ mà một điểm cốt lõi là sự mới mẻ trong quan niệm sáng tạo.
3.1.2. Sự thay đổi trong quan niệm về thơ và nhà thơ của thế hệ Đổi mới
3.1.2.1. Những tìm tịi, đổi mới trong quan niệm về thơ
Quan niệm về thơ của thế hệ nhà thơ Đổi mới tập trung về nghệ thuật thơ
(về bản chất của thơ, chức năng của thơ, mối quan hệ giữa thơ và hiện thực đời
sống…); về nhà thơ (vai trò, nhiệm vụ của nhà thơ…). Đó là những quan niệm
được phát biểu một cách trực tiếp, thông qua các bài viết có tính tun ngơn, trao
đổi, phê bình, trả lời phỏng vấn… của tác giả; hoặc, được thể hiện thông qua các
tác phẩm của họ. Trong luận án, chúng tôi sẽ tập trung tìm hiểu quan niệm của các
tác giả thuộc thế hệ nhà thơ Đổi mới về các vấn đề sau: a) Về bản chất của thơ; b)
Về mối quan hệ giữa thơ và hiện thực đời sống; c) Về tính mới của thơ và sự cần
thiết phải cách tân thi pháp thơ; d) Về ý nghĩa và sự tồn tại của thơ trong bối cảnh
tồn cầu hóa.
3.2.2.2. Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan niệm về nhà thơ
Các nhà thơ thế hệ Đổi mới coi trọng, đề cao tác giả - nhà thơ trước hết
trong tư cách, vai trò chủ thể sáng tạo thẩm mĩ. Vấn đề này, chúng tôi nhận thấy


16

trong quan niệm của họ có những điểm đáng chú ý sau: a) Họ nhấn mạnh quan
niệm về nhà thơ trong vai trò chủ thể sáng tạo; b) Họ chú trọng tính chuyên nghiệp
trong hoạt động sáng tạo của nhà thơ; c) Họ nhấn mạnh vai trò nghệ sỹ - trí thức
trong bối cảnh sáng tạo tồn cầu.
3.1.3. Thơ của các tác giả thế hệ Đổi mới - từ quan niệm đến sáng tác
Các nhà thơ thế hệ Đổi mới quan niệm rằng sáng tạo thơ hồn tồn khơng
tách rời hiện thực. Hiện thực trong thơ thế hệ Đổi mới giờ đây không chỉ là hiện
thực của đám đông, của ý thức hệ, của đấu tranh giai cấp…, mà còn là hiện thực
nội tâm, tư tưởng, của vô thức, tâm linh… Chính quan niệm sáng tạo ấy đã chi phối

các nhà thơ thế hệ Đổi mới đến cách lựa chọn đề tài, chủ đề, cảm hứng sáng tác;
xây dựng hình tượng; lựa chọn hình thức thể hiện, cơng bố tác phẩm …
3.2. Đóng góp của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trong quan niệm về bản
chất cái tôi trữ tình
3.2.1. Tầm quan trọng của việc ý thức về bản chất cái tơi trữ tình
3.2.1.1. Giới thuyết khái niệm
Cái tơi là một khái niệm đã được đề cập đến trong nhiều cơng trình khoa
học và dưới nhiều góc độ nghiên cứu, tiếp cận, chẳng hạn của triết học, tâm lí học,
lí luận văn học v.v. Trong phạm vi luận án, chúng tôi chỉ dừng lại ở những giới
thuyết sơ giản về khái niệm. Về nguồn gốc, cái tôi trong tiếng La tinh cổ đại là
persona, trong tiếng La tinh trung cổ là personalitas. Từ góc độ tâm lý học, các
nhà nghiên cứu quan niệm “cái tôi” là biểu hiện nét độc đáo và tính tích cực của
nhân cách. Vì vậy, cái tơi vừa là một quan niệm, một cách nhìn nhận, lí giải về
hiện thực ngưng kết trong thế giới nghệ thuật được xây dựng bởi nhà thơ, đồng
thời vừa có thể hiện diện khách quan trong văn bản trong tư cách nhân vật trữ tình
với những biểu hiện cảm xúc, suy ngẫm cụ thể.
3.2.1.2. Ý nghĩa của việc xác định bản chất cái tơi trữ tình
Sau 1986, những tìm tịi thể nghiệm hiện đại hóa trong thơ đã phản ánh tinh
thần nhận thức lại một cách toàn diện về cái tôi cá nhân. Đấy là cái tôi đang trên
hành trình vận động, tiếp biến trong thực tiễn hoạt động sáng tạo. Cái tơi ấy có


17

những biểu hiện phong phú, đa dạng, không thuần nhất.
3.2.2. Sự thay đổi trong quan niệm về cái tôi trữ tình của nhà thơ thế hệ
Đổi mới
Sau 1975, nhất là từ 1986 quan niệm về nghệ thuật, về thơ có nhiều thay
đổi. Chiến tranh kết thúc, đất nước bước sang trang mới, cảm hứng ngợi ca tạm
lắng lại và thay vào đó là mối quan tâm trước đời sống thế sự, các mối quan hệ

người, sự xáo trộn, thay đổi của hệ giá trị sống và sáng tạo… Lúc này, bên cạnh
chức năng xã hội (mà giờ đây nội hàm nội dung của nó đã được mở rộng, đào sâu,
so với thời kỳ trước đó, tương ứng với những địi hỏi mới, phức tạp của bối cảnh
đời sống), thơ ca còn được nhấn mạnh, đề cao ở chức năng thẩm mỹ. Đó là một lý
do quan trọng khiến thơ thời kỳ này đổi mới cả nội dung và hình thức.
3.2.3. Đặc điểm cái tơi trữ tình trong thơ thế hệ Đổi mới
3.2.3.1. Cái tôi thân phận, số phận
Thể hiện cái tôi thân phận, số phận trở thành nội dung lớn trong thơ thế hệ
Đổi mới. Từ đây, hình tượng cái tôi dần trở về những chiêm nghiệm, hướng nội.
Nhà thơ qua đó, bộc lộ những cách nhìn, quan điểm riêng, độc đáo của mình với
hiện thực cuộc sống.
3.2.3.2. Cái tơi vô thức, tâm linh
Với nhiều tác giả thuộc thế hệ Đổi mới, vô thức, tâm linh được quan niệm,
nhận thức như một đối tượng nghệ thuật cần chiếm lĩnh, và hơn thế, như một
phương tiện sáng tạo hiệu quả để đào sâu hơn vào đời sống tinh thần phong phú,
bí ẩn của con người. Nhờ đó, hiện thực được mơ tả trong thơ trở nên phong phú
hơn, đa dạng hơn, sâu sắc hơn và cũng nhiều chiều hơn.
3.2.3.3. Cái tôi sáng tạo
Cái tôi sáng tạo là một sự tự thể hiện độc đáo của các tác giả thế hệ Đổi
mới. Nó bộc lộ cách nhìn, sự lý giải về thơ, về hoạt động sáng tạo và sự ý thức
nghề nghiệp cần thiết của chủ thể. Nó phản ánh chiều sâu nhận thức thẩm mĩ của
từng cá nhân tác giả, qua đó giúp họ khẳng định tiếng nói của mình trên thi đàn.
Và cũng nhờ đó, nó góp phần giúp độc giả “nhận diện” từng gương mặt, phong


18

cách thơ của mỗi người.
3.3. Tiểu kết Chương 3
Sau 1986, thơ Việt Nam đổi mới trên nhiều phương diện. Trước hết, phải

nói đến sự đổi mới trong quan niệm về sáng tạo. Trong các tác phẩm của thế hệ
Đổi mới, người đọc nhận ra môt sự thay đổi rất ý nghĩa trong quan niệm về bản
chất thơ, về mối quan hệ giữa thơ và hiện thực, về vai trò, trách nhiệm của người
nghệ sỹ trong bối cảnh tồn cầu hóa... Và trên thực tế, sáng tác của nhiều tác giả
trở thành minh chứng cụ thể cho những cuộc “vong thân”, vượt thoát khỏi các giá
trị cũ, quan điểm, thi pháp cũ, xác lập một hệ giá trị thẩm mỹ mới. Để làm được
điều đó, chính họ phải trở thành những nghệ sỹ - trí thức, ln ý thức và tự ý thức
trong tư cách là “kẻ hành nghề sáng tạo”. Bên cạnh đóng góp về quan niệm sáng
tạo, các nhà thơ thế hệ Đổi mới còn đạt được những thành tựu mới trong việc thể
hiện hình tượng cái tơi. Hình tượng cái tôi phản ánh những trăn trở suy tư về thân
phận con người, đồng thời thể hiện những quan điểm và hướng tìm tịi, sáng tạo
nghệ thuật mới mẻ.
Chương 4
ĐÓNG GÓP CỦA CÁC NHÀ THƠ THẾ HỆ ĐỔI MỚI
TRÊN PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI, KẾT CẤU, NGƠN NGỮ
4.1. Những tìm tịi, đổi mới về mặt thể loại
4.1.1. Những tìm tịi đa dạng trong hình thức thể loại
Nhìn chung, các tác giả thế hệ Đổi mới có những tìm tịi khá đa dạng trong
hình thức thể loại. Những tìm tịi này được thể hiện trên nhiều cấp độ, từ thể thơ,
kết cấu bài thơ, dịng thơ đến ngơn ngữ cũng như cách trình bày văn bản... Bên
cạnh đó, xuất hiện hiện tượng nới lỏng cấu trúc các thể loại thơ truyền thống và
sự giao thoa, thâm nhập giữa thơ và các loại hình nghệ thuật gần gũi.
4.1.2. Thơ tự do
Thơ tự do xuất hiện từ các giai đoạn văn học trước, từ phong trào Thơ mới
nhưng phát triển mạnh ở văn học Cách mạng và đặc biệt từ thời kỳ Đổi mới. Thể


19

loại chiếm số lượng lớn nhất trong các sáng tác của thế hệ nhà thơ Đổi mới là thơ

tự do.
4.1.3. Thơ văn xuôi
Thơ văn xuôi trong các sáng tác của thế hệ nhà thơ Đổi mới thường là sự
thể hiện hành trình đi tìm chính mình, khẳng định mình, đi sâu vào khám phá thế
giới nội tâm, vùng mờ khuất tâm linh. Thơ văn xi, do đó trở thành phương tiện
chuyển tải những nguồn cảm xúc mới mẻ, những hình ảnh, chi tiết đan xen của các
nhà thơ thế hệ Đổi mới, từ đó, giúp họ chuyển tải được những tư tưởng phức tạp và
mọi khía cạnh của đời sống nhân sinh.
4.2. Những tìm tịi, cách tân về mặt kết cấu
4.2.1. Kết cấu mở - kiểu kết cấu phổ biến trong thơ hiện đại
Trong luận án này, chúng tôi tập trung tìm hiểu về kiểu kết cấu mở, một
kiểu kết cấu phổ biến trong thơ hiện đại. Đấy là cách tổ chức bài thơ trong một
cấu trúc vận động, không hồn kết, khép kín về nghĩa. Kết cấu mở được xem là
một dấu hiệu nổi bật của tính hiện đại trong văn học, giúp phân biệt đặc điểm trong
sáng tác của tác phẩm hiện đại với những sáng tác cổ điển.
4.2.2. Đặc điểm của kết cấu mở trong thơ thế hệ Đổi mới
4.2.2.1. Làm mờ sự hiện diện của cái tôi trên bề mặt văn bản
Trong thơ thế hệ Đổi mới, việc sáng tạo theo lối kết cấu mở khiến các nhà
thơ thường có xu hướng làm mờ sự hiện diện của hình tượng cái tơi trữ tình trên bề
mặt văn bản. Việc xóa mờ, che giấu cảm xúc cái tôi đã tạo ra các hiệu quả về mặt
gián cách trong thơ thế hệ Đổi mới.
4.2.2.2. Phá vỡ những dấu hiệu liên kết logic về mặt văn bản
Sự phá vỡ ở đây được hiểu như những cố gắng cắt đứt tính liên tục của dịng
cảm xúc, mạch liên tưởng của thi phẩm. Điều này, một mặt xuất phát từ bản chất
của thơ ca là tính cơ đọng, hàm súc, khác với sự kể lể các sự kiện, sự việc như trong
văn xi. Mặt khác, chính những sự đứt đoạn, tưởng như rời rạc ấy có thể tạo ra cho
thơ những cú nhảy, cú hích, đột phá về mặt liên tưởng, ý nghĩa.


20


4.2.2.3. Tổ chức bài thơ theo dịng chảy của vơ thức, tiềm thức
Các sáng tác của nhà thơ thế hệ Đổi mới thường được tổ chức theo hướng
vận động của trực giác, vô thức. Đây là một đặc điểm nổi bật trong thi pháp thơ hiện
đại. Các bài thơ của thế hệ Đổi mới thường kết cấu nương theo tiếng nói của cảm
giác, trực giác, từ đó, phá hủy logic thực tại giữa các sự vật, tạo nên những tương
quan mới mẻ giữa các sự vật, hiện tượng.
4.3. Những tìm tịi, đổi mới trong ngơn ngữ
4.3.1. Ngơn ngữ mang tính đời thường, suồng sã
Với các nhà thơ thế hệ Đổi mới, ngơn ngữ là chất liệu giúp nhà thơ có thể
thâm nhập, diễn tả được bản chất của hiện thực. Đó khơng chỉ là một hiện thực bề
ngồi, có thể nhìn thấy, mà cịn là hiện thức bề sâu bề xa, hiện thực được cảm thấy.
Do đó, nhãn quan ngơn ngữ của các tác giả ngày càng được mở rộng theo hướng
hiện thực hóa, bám vào những biểu hiện cụ thể, sống động của đời sống đương đại,
mặt khác, ngày càng đào sâu, theo hướng siêu thực.
4.3.2. Ngôn ngữ mang tính tượng trưng, siêu thực
Ngơn ngữ tượng trưng, siêu thực khiến cho nghĩa của thơ trở nên mờ nhòe,
đa nghĩa, giải phóng sức liên tưởng mạnh mẽ từ phía độc giả. Các nhà thơ thế hệ
Đổi mới thường có xu hướng tạo cho ngơn ngữ sự lạ hóa, mờ nhịe khi diễn đạt
những cơn mơ, mộng, tưởng tượng. Đó cịn là sự thể hiện của những “trị chơi
ngơn ngữ” mang tính lắp ghép, được tổ chức một cách dị thường, tạo sinh nghĩa
mới cho ngôn ngữ trong thơ.
4.3. Tiểu kết Chương 4
Trong chương 4, chúng tôi đã tập trung làm rõ một số tìm tịi, đổi mới trên
phương diện hình thức trong sáng tác của thế hệ nhà thơ Đổi mới, cụ thể trên các
phương diện thể loại, kết cấu, ngôn ngữ. Những phương diện này đã cho thấy khá
rõ những tìm tịi, đóng góp về mặt thi pháp của thế hệ Đổi mới. Nhìn một cách
bao qt, có thể nói, các nhà thơ thế hệ Đổi mới đã có những tìm tịi đa dạng, đa
chiều về mặt hình thức thể loại. Họ cũng đặc biệt chú trọng kiểu kết cấu mở, với
sự gia tăng những “khoảng trắng”, “khoảng trống” giữa các câu thơ, dòng thơ, các



21

hình ảnh thơ... Bên cạnh đó, việc sử dụng ngơn ngữ đa dạng, phong phú, từ ngơn
ngữ mang tính đời thường chân mộc, suồng sã đến ngơn ngữ bí ẩn của vô thức,
tâm linh... đã giúp thơ thế hệ Đổi mới đi sâu hơn vào bản chất hiện thực và đời
sống tinh thần của con người. Tuy nhiên, những cách tân về mặt thi pháp ấy cũng
khiến thơ thế hệ Đổi mới trở nên, bên cạnh những thành công và đã được đón
nhận, cũng trở nên khó đọc, khó lý giải với số đông công chúng, đặc biệt đối với
những ai vốn chỉ quen với mĩ cảm thơ truyền thống. Sự khó đọc, khó hiểu này
cũng cần được nhận thức và phân tích, lý giải từ cả hai phương diện sáng tạo và
tiếp nhận.
KẾT LUẬN
1. “Nhà thơ thế hệ Đổi mới” là một thuật ngữ mang tính quy ước, nhằm
chỉ thế hệ nhà thơ Việt Nam xuất hiện và thành danh chủ yếu vào thời kỳ Đổi mới
(sau 1986). Về độ tuổi, họ chủ yếu thuộc thế hệ 5x, 6x. Các sáng tác của họ thể
hiện một quan niệm và thi pháp sáng tạo mới, táo bạo, hiện đại, có nhiều điểm
khác biệt so với thế hệ chống Mỹ trước đó. Đó là một thế hệ hội tụ khá nhiều cá
tính nghệ thuật riêng biệt, độc đáo. Nói đến thế hệ này là nói đến những tên tuổi
nổi bật như Dư Thị Hoàn, Dương Kiều Minh, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn
Quang Thiều, Mai Văn Phấn, Nguyễn Bình Phương, Inrasara... Thơ họ cho thấy
ý thức và nỗ lực tìm tịi, cách tân quan niệm, thi pháp một cách mạnh mẽ, quyết
liệt.
2. Ra đời trong một bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa đặc biệt; cùng với
sự thay đổi trong tư duy, quan niệm về thơ đã khiến nhà thơ thuộc thế hệ Đổi mới
mang một diện mạo riêng, khác biệt so với các nhà thơ thế hệ trước và sau đó. Các
nhà thơ thế hệ Đổi mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam đã mang đến những đóng
góp nghệ thuật hết sức đáng chú ý. Những đóng góp ấy khơng chỉ có ý nghĩa về
mặt lý thuyết, trong quan niệm sáng tạo (quan niệm về thơ, nhà thơ) mà cịn ở sự

thể hiện hình tượng cái tơi trữ tình mang nhiều nét khác biệt so với các thế hệ làm
thơ trước đó. Đó là sự đào sâu, khám phá cái tôi thân phận, số phận với những ẩn


×