Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Cơ sở văn hóa việt nam: Phong tục cưới xin của người Việt xưa và nay. Ý nghĩa của hình ảnh trầu cau?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.35 KB, 19 trang )

Đề bài: Phong tục cưới xin của người Việt xưa và nay. Ý nghĩa của
hình ảnh trầu cau?
Bài làm
1. Phong tục cưới xin của người Việt
Thời phong kiến, theo luân lý "tam cương ngũ thường", con cái mà còn cha
mẹ khi nào cũng ở địa vị phụ thuộc, việc hôn nhân của con cái cha mẹ có quyền
độc đốn và "đặt đâu ngồi đấy". Nếu con cái khơng bằng lịng với người vợ (hay
chồng) mà cha mẹ chỉ định thì chỉ có cách bỏ nhà ra đi. Chính sự khơng cần biết
ái tình của con cái, chỉ cốt tìm được nơi "môn đăng hộ đối" là cha mẹ nhờ "mối
lái" điều đình để đính hơn nên đã xảy ra tệ tảo hôn và tục phúc hôn.
Người xưa quan niệm mục đích hơn nhân cốt duy trì gia thống cho nên việc
hôn nhân là việc chung của gia tộc chứ không phải việc riêng của con cái. Bởi
vậy định vợ gả chồng cho con là quyền quyết định của cha mẹ. Nghĩa vụ của
mỗi người đối với tổ tiên, dòng họ là phải truyền giống về sau để "vĩnh truyền
tông tộc", do đó ln lý cho người "vơ hậu" là phạm điều bất hiếu rất lớn. Việc
hôn nhân không những chỉ có ngun nhân huyết thống mà cịn có ngun nhân
kinh tế. Người vợ không những phải sinh con đẻ cái nối dõi tơng đường mà cịn
phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho gia đình nhà chồng.
Chế độ "đa thê, đa thiếp" cho phép đàn ơng được phép có nhiều vợ mà
khơng phải vì vợ chính khơng sinh con hay chỉ sinh con gái. Lấy thiếp (còn gọi
là vợ lẽ, vợ hai, vợ ba, nàng hầu...) không cần tổ chức lễ cưới và vì người thiếp
khơng phải là một phần tử trọng yếu trong gia đình nên chồng hay vợ chính
muốn đuổi khi nào cũng được .
Dân gian ta có câu ca dao rằng:
Tậu trâu cưới vợ, làm nhà.
Trong ba việc ấy thật là khó thay.
Đám cưới mang nặng tính lễ nghi phong tục, đám cưới cổ xưa của người
Việt thường được tổ chức theo một cuốn sách cổ gọi là Thọ mai gia lễ – cuốn
1



sách dạy người ta những việc về quan, hôn, tang, tế. Về sau tuỳ từng vùng, từng
thời, từng gia cảnh mà việc cưới hỏi được tổ chức khác nhau.
Trước đây (và cả bây giờ) người Việt gọi lễ cưới là hơn lễ. Theo giải thích
của Giáo sư Đào Duy Anh, chữ "hôn" nguyên nghĩa là chiều hôm, theo lễ tục
xưa người ta làm lễ cưới vào buổi chiều tối
Ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc, hơn nhân của người Việt xưa có sáu lễ
chính. Để tiến đến lễ cưới, hai gia đình phải thực hiện những lễ chính sau:
Lễ nạp thái: sau khi nghị hôn, nhà trai mang sang nhà gái một cặp "nhạn"
để tỏ ý đã kén chọn ở nơi ấy.
Lễ vấn danh: là lễ do nhà trai sai người làm mối đến hỏi tên tuổi và ngày
sinh tháng đẻ của người con gái.
Lễ nạp cát: lễ báo cho nhà gái biết rằng đã xem bói được quẻ tốt, nam nữ
hợp tuổi nhau thì lấy được nhau, nếu tuổi xung khắc thì thơi.
Lễ nạp tệ (hay nạp trưng): là lễ nạp đồ sính lễ cho nhà gái, tang chứng cho
sự hứa hôn chắc chắn.
Lễ thỉnh kỳ: là lễ xin định ngày giờ làm rước dâu tức lễ cưới.
Lễ thân nghinh (tức lễ rước dâu hay lễ cưới): đúng ngày giờ đã định, họ
nhà trai mang lễ đến để rước dâu về.
Lễ cưới trong giới quý tộc, quan lại ở các triều đại phong kiến nhìn chung
giống với tục cưới gả của Trung Hoa là căn cứ vào sáu bước (lục lễ), có thể rút
bớt hay kết hợp nhưng được sắp đặt cầu kỳ, tỷ mỉ, trang trọng và xa hoa hơn
trong dân gian. Việc dựng vợ gả chồng hoàn toàn do cha mẹ chủ trương và theo
lối "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy". Hồng tử lấy vợ chính gọi là "nạp phi" và
"nạp thiếp" khi lấy vợ thứ (khi về nhà chồng, cô dâu được gọi là phủ phi hay
phủ thiếp), và công chúa lấy chồng gọi là "hạ giá" (chú rể được phong Phị mã
Đơ ).
Hồng tử khi đến 15-18 tuổi sẽ được phong tước, cấp đất và tiền để lập phủ
riêng, sau đó vua mới nghĩ đến việc cưới vợ cho con. Cơ dâu do chính vua kén
chọn qua việc dò hỏi các vị đại thần, ai muốn gả con gái đến tuổi cho hoàng tử.
2



Khi có vị nhận lời, vua mới chuẩn bị hơn lễ. Theo "Nghị định" năm Gia
Long thứ 7 (1808), hôn lễ được cử hành qua các bước:
 Truyền mệnh: vua cử hai đại thần lãnh cờ tiết đến nhà gái thông báo,
đúng ngày đã định, cha mẹ cô gái vào cung nhận mệnh, sau đó Khâm Thiên
giám chọn ngày tốt để tiến hành hôn lễ.
 Nạp thái: trước ngày nạp lễ, có một buổi thiết triều ở điện Cần Chánh để
vua truyền cho biết ngày giờ hôn lễ và cử các quan vào trong ban phụ trách việc
hôn lễ này. Hai quan đại thần và một số người khác và vài mệnh phụ, quân lính
bưng tráp thiếp và lễ vật đến nhà gái. Lễ vật được đặt sẵn trên các án sơn son
thếp vàng bao gồm: vàng, bạc, gấm, lụa, nữ trang, trầu, cau, trâu, bò, lợn, rượu.
Hòm thiếp đựng giấy ghi danh sách, số lượng vật phẩm và ngày giờ cử hành các
lễ tiếp theo.
 Nạp trưng: Theo ngày tốt đã chọn, nghi thức được tiến hành. Lần này,
ngoài những vật phẩm như trên cịn có mũ áo, xiêm, hài, kiệu, lọng và "tờ sách
vàng" khắc bài dụ của vua. Một nữ quan đọc tờ sách, cô dâu ngồi vào ghế để
nhận lạy mừng của mọi người. Lễ xong, một bữa tiệc được nhà gái bày ra để
khoản đãi những người tham dự, sau đó rước cơ dâu về phủ của hoàng tử. Hai
đại thần về điện nạp cờ tiết phục mệnh. Hôm sau, cha mẹ của cô dâu phải vào
cung để làm lễ tạ ơn (ông đến tiện điện và bà đến điện Khôn Đức).
Khác với dân gian, nếu hồng tử muốn cưới nàng hầu thì nghi lễ cũng phải
tiến hành tương tự. Khi cơng chúa hạ mình xuống để lấy chồng thì người chồng
được gọi là "thượng giá" và trở thành phò mã. Tuy nhiên, việc chọn phị mã
khơng hề đơn giản. Vua sai Bộ Lại, Bộ Binh lập danh sách 5 người là con cháu
và chắt các công thần từ nhị phẩm trở lên, những chàng trai này tất nhiên là
không bị tàn tật, nhưng phải thơng minh và đẹp. Một vị hồng thân và một vị đại
thần mà vợ chồng song toàn được cử làm chủ hôn và chiếu liệu (lo sắp đặt mọi
chuyện). Họ hội ý với nhau để cử người xứng đáng nhất và hợp tuổi với hoàng
nữ trong bản kê, tâu với vua vua sẽ khuyên son (quyết định).


3


Trong lịch sử triều Nguyễn, có những vua như Minh Mạng hay Thiệu Trị,
vì số hồng nữ q nhiều, con cháu công thần không đáp ứng đủ nên nhiều
người phải tìm cách trốn tránh, chạy chọt để khỏi bị ghi danh vì sợ mình lấy
phải cơng chúa nhiều tuổi hay kém nhan sắc, mà đã kết hôn với công chúa thì
phải suốt đời "một vợ một chồng".
Sau khi vua chọn, phò mã tương lai được vua ban tiền để tậu phủ và sắm
vật dụng, trang phục đúng nghi thức, trong đó có một chiếc thuyền bồng, đồng
thời cha mẹ phải vào lạy tạ ơn trên.
Khâm Thiên giám làm nhiệm vụ chọn ngày để tiến hành lục bộ (sáu lễ),
nhà trai phải liên hệ để biết mà chuẩn bị, cũng có thể kết hợp một ngày 2 đến ba
lễ, cách quãng nhau.
 Lễ nạp thái và vấn danh: gia đình phị mã sẽ đưa lễ vật vào cung, cúng
tổ tiên công chúa và được chủ hôn mở tiệc khoản đãi. Công chúa nhận vàng bạc
và nữ trang.
 Lễ nạp trưng và nạp cát: gia đình lại đưa lễ vật vào cung, sau đó hai bên
tự tổ chức lễ cáo với tổ tiên mình về việc cưới hỏi.
 Lễ điện nhạn và thân nghinh: trước đó, vua sai quan khâm mạng đến
phủ đệ phò mã, bày giường thất bảo, màn tiên. Đúng ngày giờ đã định, gia đình
phị mã lễ vật vào cung, trong đó có một cặp ngỗng. Vị đại thần làm chủ hơn lập
một phái đồn rước cơng chúa về phủ phò mã.
Phẩm vật cưới về số lượng mỗi khi mỗi khác và thường là khá nặng. Vào
năm 1833, lễ nạp thái được ghi nhận gồm: 20 lạng vàng, 100 lạng bạc, 2 mâm
trầu, 2 mâm cau; lễ vấn danh gồm: 1 con trâu, 2 con lợn, 2 hũ rượu; lễ nạp cát
gồm: 4 tấm gấm, 10 tấm lĩnh màu, 10 tấm sa màu; lễ nạp trưng gồm: 2 mâm
trầu, 2 mâm cau, 2 hũ rượu; lễ thỉnh kỳ gồm: 1 con bò, 2 con dê, 3 hũ rượu; lễ
điện nhạn gồm: 2 con chim nhạn (được thay bằng ngỗng), 1 hộp kim chỉ, 100

đồng tiền cổ, 20 lạng vàng, 100 lạng bạc...

4


Nhà nước phong kiến Việt Nam, triều đại nhà Nguyễn chấm dứt sau Cách
mạng tháng Tám (1945), cùng với sự hình thành của nhà nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hịa, đã có quy định như sau về hơn nhân:
Việc thực hiện đầy đủ chế độ hôn nhân tự do và tiến bộ, một vợ một chồng,
nam nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ và con cái, Xoá bỏ những tàn
tích cịn lại của chế độ hơn nhân phong kiến cưỡng ép, trọng nam khinh nữ, coi
rẻ quyền lợi của con cái, Cấm tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự
do, yêu sách của cải trong việc cưới hỏi, đánh đập hoặc ngược đãi vợ. Cấm lấy
vợ lẽ...
Thời nay, các tục lệ có giảm đi chút ít , nhưng để có một đám cưới mang
tính truyền thống cũng gồm các thủ tục, các bước chính là: kén chọn, giạm ngõ
(chạm mặt), hỏi, cưới, lại mặt và nộp cheo. Tục nộp cheo hiện giờ nhiều nơi đã
khơng cịn áp dụng nữa.
Kén dâu, chọn rể
Lệ xưa việc lấy vợ, gả chồng là việc của cha mẹ, vậy con cái đến tuổi
trưởng thành thì cha mẹ tiến hành kén rể, kén dâu. Kén rể, kén dâu là một công
việc tiền hôn lễ nhưng rất quan trọng. Trước hết là việc xem xét gia đình dự định
trở thành thơng gia xem thuộc loại gia đình như thế nào, có môn đǎng hộ đối
không?
Cô dâu tương lai phải “tam hợp” tránh “tứ xung” về tuổi. Khơng sành việc
xem tuổi thì cứ “Gái hơn hai, trai hơn một” là tốt. Đó là về tuổi cịn ngoại hình
thì người phụ nữ cũng phải “Lưng chữ vụ, vú chữ tâm” phải “thắt đáy lưng
ong’”. Và nếu được cả con mắt lá dǎm, lông mày lá liễu nữa thì thật “đáng trǎm
quan tiền”.
Giạm ngõ hay chạm mặt

Lễ chạm ngõ (còn gọi là lễ xem mặt, lễ dạm ngõ) là một nghi lễ trong
phong tục hơn nhân của người Việt. Lễ này nhằm chính thức hóa quan hệ hơn
nhân của hai gia đình.
Lễ chạm ngõ ngày nay là buổi gặp gỡ giữa hai gia đình. Nhà trai xin đến
nhà gái đặt vấn đề chính thức cho đơi nam nữ được tìm hiểu nhau một cách kỹ
5


càng hơn trước khi đi đến quyết định hôn nhân. Buổi lễ này, khơng cần vai trị
hẹn trước của người mối (kể cả những trường hợp yêu nhau nhờ mai mối),
không cần lễ vật rườm rà.
Về bản chất, lễ này chỉ là một ứng xử văn hóa, thơng qua đó hai gia đình
biết cụ thể về nhau hơn (về gia cảnh, gia phong), từ đó dẫn tới quyết định tiếp
tục hay khơng quan hệ hơn nhân của hai gia đình. Lễ vật của lễ chạm ngõ theo
truyền thống rất đơn giản: chỉ có trầu cau.
Xét về mặt chức năng: nếu bỏ qua lễ này mà đi thẳng vào lễ ăn hỏi thì mọi
việc sẽ bị cảm thấy đường đột, ngang tắt, khơng có khởi đầu. Vì thế, tuy khơng
phải là một lễ trọng nhưng lại là một lễ không thể thiếu trong tiến trình hơn lễ.
Hơn nữa, lễ này khơng tốn kém (lễ vật chỉ có trầu cau) mà lại biểu thị được bản
sắc văn hóa dân tộc (văn hố trầu cau) thì việc bỏ qua lễ này là điều không hợp
lý.
Đối với lễ này, thường người Việt Nam vẫn tiến hành theo khuôn mẫu cổ
truyền:
* Thành phần tham gia:
Nhà trai: Bố, mẹ, chú rể, người mối (nếu có.)Có thể có Ơng bà nội, ngoại
hoặc chú bác cậu dì bên nội, ngoại.
Nhà gái: Cả gia đình nhà gái(Cha, mẹ,cơ gái; ông bà nội, ngoại hoặc đại
diện nôi, ngoại).
*Trang phục:
Mọi người mặc trang phục lịch sự ăn nói nhẹ nhàng có văn hố. Khơng

nhất thiết mặc comple và áo dài (vì cịn phụ thuộc vào thời tiết nắng mưa và địa
hình, khoảng cách nhà gái…)
*Lễ vật của nhà trai:
Trầu, cau, chè, thuốc, bánh kẹo, hoa quả (nếu có điều kiện), mỗi thứ đều
phải tính chẵn. Lễ này đơn giản, khơng phải thủ tục rườm rà.
*Nhà gái:

6


Dọn dẹp nhà cửa sạch, đẹp. Ăn mặc đẹp, trang trọng. Khi đồn khách nhà
trai đến, đón chào niềm nở. Tiếp khách bằng trà (nếu có trà thơm là tốt nhất).
Khi nhà gái đồng ý nhận lễ vật, mang đặt lên bàn thờ thì cuộc lễ coi như kết
thúc. Sau đó hai bên có thể ngồi lại nói chuyện đơi chút.
Lễ ăn hỏi
Lễ ăn hỏi còn được gọi là lễ đính hơn là một nghi thức trong phong tục hơn
nhân truyền thống của người Việt. Đây là sự thông báo chính thức về việc hứa
gả giữa hai họ. Đây là giai đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân: cô gái trở
thành “vợ sắp cưới” của chàng trai, và chàng trai sau khi mang lễ vật đến nhà
gái là đã chính thức xin được nhận làm rể của nhà gái và tập gọi bố mẹ xưng
con.
Trong lễ ăn hỏi, nhà trai mang lễ vật tới nhà gái. Nhà gái nhận lễ ăn hỏi tức
là chính danh cơng nhận sự gả con gái cho nhà trai, và kể từ ngày ăn hỏi, đơi trai
gái có thể coi là đơi vợ chồng chưa cưới, chỉ cịn chờ ngày cưới để cơng bố với
hai họ.
*Thành phần tham gia:
Nhà trai: Chú rể, bố mẹ, ông bà, gia đình,bạn bè và một số thanh niên chưa
vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp). Thường thì người bê tráp là nữ nhưng do mâm
quả bây giờ khá nặng nên có thể thay thế bằng nam. Số người bê tráp là số lẻ, 3,
5, 7, 9 hoặc 11.

Nhà gái: Cơ dâu, bố mẹ, ơng bà, gia đình và một số nữ chưa chồng để đón
lễ ăn hỏi, số nữ đón lễ vật tương ứng với số nam bưng mâm.
*Lễ vật:
Trầu, cau; bánh cốm; mứt sen; rượu; chè; thuốc lá; bánh phu thê (bánh xu
xê), bánh đậu xanh,lợn sữa quay, tiền dẫn cưới v.v.
Những gia đình xưa thường dùng bánh cặp nghĩa là gồm hai thứ bánh
tượng trưng cho âm dương. Những cặp bánh thường dùng trong lễ ăn hỏi là
bánh phu thê và bánh cốm – bánh phu thê tượng trưng cho Dương, bánh cốm
tượng trưng cho Âm; hoặc bánh chưng và bánh dày – bánh chưng vuông là Âm,
7


bánh dày tròn là Dương. Thường thường cùng kèm với bánh chưng và bánh dày
thường có quả nem. Bánh cốm, bánh xu xê, bánh chưng, bánh dày và quả nem
dùng trong lễ ăn hỏi đều được đựng trong hộp giấy màu đỏ hoặc bọc trong giấy
đỏ, màu đỏ chỉ sự vui mừng. Cũng có gia đình thay vì các thứ bánh trên,
dùng xơi gấc và lợn quay.
Đó là những lễ vật tối thiểu theo tục lệ cổ truyền; tất nhiên, chất lượng và
số lượng thêm bớt thì tùy thuộc vào năng lực kinh tế của từng gia đình. Theo
phong tục Hà Nội truyền thống thường có lợn sữa quay, cịn theo phong tục
miền Nam có thể có một chiếc nhẫn, một dây chuyền hay bơng hoa tai đính hơn.
Tuy nhiên, số lượng lễ vật nhất thiết phải là số chẵn (bội số của 2, tượng trưng
cho có đơi có lứa), nhưng lễ vật đó lại được xếp trong số lẻ của tráp (số lẻ tượng
trưng cho sự phát triển).
Lễ vật dẫn cưới thể hiện lòng biết ơn của nhà trai đối với công ơn dưỡng
dục của cha mẹ cô gái. Nói theo cách xưa là: nhà trai bỗng dưng được thêm
người, cịn nhà gái thì ngược lại, “Con gái là con người ta”. Mặt khác, lễ vật
cũng biểu thị được sự quý mến, tôn trọng của nhà trai đối với cơ dâu tương lai.
Trong một chừng mực nào đó, đồ dẫn cưới cũng thể hiện thiện ý của nhà
trai: xin đóng góp một phần vật chất để nhà gái giảm bớt chi phí cho hơn sự. Tuy

nhiên, điều này ngày nay càng lúc càng trở nên mờ nhạt xét về vai trị, vì dễ dẫn
đến cảm giác về sự gả bán con, thách cưới.
Tổ chức lễ cưới ( Hôn lễ)
Sau khi các điều kiện nhà gái đã được nhà trai thực hiện, người ta chọn
ngày lành tháng tốt để tổ chức lễ cưới. Trước đó, cả hai nhà đã dựng rạp, sửa
sang nhà cửa đón khách. Ngày cưới, người ta chọn giờ "hồng đạo" mới đi,
thường là về chiều, có nơi đi vào chập tối. Dẫn đầu đám rước đàng trai là một cụ
già nhiều tuổi được dân làng kính nể vì tuổi tác, tư cách, địa vị xã hội, đóng vai
chủ hơn, “con cái đơng đàn dài lũ” cịn đủ vợ chồng kiêng người goá vợ, goá
chồng, lại giỏi ǎn nói, đối đáp, làm trưởng đồn cùng với nǎm đến mười thanh
niên trẻ, đẹp, còn “tân” gọi là phù rể, đi đón dâu. Trên đường đến nhà gái, trước
8


khi vào cổng, đồn đi đón dâu bị trai làng, trẻ con chặn lại bằng một sợi dây
thừng hay đóng cổng lại, ở đoạn này của lễ cưới thật vui. Nhiều khi bên họ gái
ra vế “đối” bắt bên kia phải “đáp” lại thật chỉnh, thật nhanh mới cho đi. Lại phải
tung tiền xu cho bọn trẻ con mới được vào cổng… Sau khi đã vào đến sân nhà
gái đoàn đi đón dâu được mời vào nhà ngồi chơi trên chiếu cặp điều ǎn trầu,
uống nước và sau đó dùng cơm chiều. Xong xi, đại diện nhà trai có “người”
xin dâu với họ nhà gái. Nhà gái bao giờ cũng làm ra vẻ dùng dằng, lần khần và
chỉ đồng ý cho dâu đi vào giờ cuối của buổi chiều.Đoàn đưa dâu của nhà gái
cũng gồm những thiếu nữ trẻ và xinh đứng đầu đoàn đưa dâu cũng là một bà có
tuổi cịn song tồn và “mắn” con.Trước khi lên đường về nhà chồng, cô dâu sẽ
được mẹ chuẩn bị cho 7 hoặc 9 chiếc kim nhỏ, cho vào một chiếc túi vải và
mang theo bên người. Trên đường đi, cô dâu sẽ lần lượt thả những chiếc kim này
đi. Ngoài ra, các bà mẹ cũng sẽ chuẩn bị cho cô dâu một tập tiền lẻ, để khi đi
qua cầu hoặc qua ngã ba, ngã tư, cô dâu sẽ trải tiền xuống đường.
Đoàn về đến nhà trai, ở đầu cổng, pháo đã nổ giịn để đón dâu. Ở miền Bắc
Việt Nam ngày xưa, tại nhà trai, người ta chờ đợi đám rước dâu về. Một quả lò

than đốt hồng đặt trước ngưỡng cửa để chờ cô dâu với nghĩa: lửa hồng sẽ đốt hết
những tà ma theo ám ảnh cô dâu và sẽ đốt vía của tất cả những kẻ độc mồm độc
miệng đã quở mắng cô dâu ở dọc đường.
Cô dâu vào lễ gia tiên nhà chồng xong, ông bà cũng như cha mẹ chồng tặng
cho cơ dâu món q, thường là tiền hoặc là đồ nữ trang. Tối đó là lễ tế tơ hồng
nguyệt lão, tiên thiên, là lễ mệnh. Sau cùng là lễ hợp cẩn. Cô dâu bước qua đống
lửa bước vào buồng mình. Có nơi đặt một cái cối trước cửa buồng khi cô dâu
bước qua, mẹ chồng cầm chày giã vào cối không ba cái. Giường của đôi vợ
chồng mới cưới đã được một người đàn bà có tuổi, nhiều con cái trải chiếu cho,
một chiếc sấp, một chiếc ngửa…
Lễ lại mặt
Hai ngày sau lễ cưới ( Sau đêm tân hôn), vợ chồng đưa nhau về thăm cha
mẹ vợ với một số lễ vật, tùy theo tập tục địa phương bên vợ. Xưa lễ này gọi là
9


"Nhị hỷ". Nếu nhà chồng ở cách xa quá, không về được trong hai ngày thì có thể
để bốn ngày sau, gọi là "Tứ hỷ".
Theo tục lệ vợ chồng đem lễ chay hoặc lễ mặn về nhà để cúng gia tiên, để
trình bày với gia tiên và cha mẹ, cùng họ hàng việc cưới đã xong xi tồn mãn.
Lễ lại mặt xưa là để cô dâu tỏ chữ hiếu với cha mẹ, mặt khác, cịn có ý nghĩa cơ
ấy, chị ấy đã làm toại nguyện chàng trai. Trường hợp có trục trặc gì trong đêm
tân hơn thì trong ngày lại mặt này bố mẹ cô dâu cũng sẽ được biết.
Lễ nộp cheo ( Hiện nay rất ít nơi cịn áp dụng)
Là một nghi lễ phụ trong đám cưới, nhưng nhất thiết phải có. Khơng có bữa
khao này thì đơi vợ chồng mới không được coi là thành viên của làng xóm.
Trong bữa khao, chú rể đóng vai chính, anh ta ngồi việc phải lo bữa khao cịn
phải nộp một số vật liệu như gạch, ngói để tu bổ các cơng trình cơng cộng của
làng xóm bên gái như đình, điếm, đường làng, chùa cổng.
Một số điều kiêng kị khi cưới xin

Nhà có tang
Khi nhà đang có tang, điều kiêng kỵ là không nên tổ chức các cuộc vui.
Đám cưới là việc “hỷ” nên đương nhiên phải hoãn lại, chờ đến khi hết tang mới
được tổ chức.
Theo quan niệm dân gian, con cái phải để tang cha mẹ 3 năm, cháu để tang
ơng bà một năm. Ngồi ra cịn u cầu cụ thể thời hạn để tang với những người
khác trong gia đình.
Cưới khi chưa ăn hỏi
Đây là điều kiêng kỵ dành cho nhà gái. Thông thường, nhà trai sẽ ấn định
ngày cưới dựa trên cơ sở thỏa thuận, đồng ý của nhà gái. Ngày ăn hỏi, hai bên
gia đình sẽ ấn định một lần cuối về ngày cưới. Trước lễ ăn hỏi, nhà trai có thể
mời cưới họ hàng, bạn bè xa gần nhưng nhà gái chỉ được mời sau lễ ăn hỏi, nếu
không sẽ bị chê là “vô duyên”, “chưa ai hỏi mà đã cưới”.
Cưới vào năm tuổi kim lâu của cô dâu

10


Khi xem xét tuổi cưới, người ta thường căn cứ vào ngày sinh tháng đẻ của
cô dâu. Năm kim lâu là năm mà cơ dâu có số tuổi với đi là 1, 3, 6, 8. Người ta
cho rằng nếu cưới hỏi vào năm kim lâu thì sẽ gặp nhiều rủi ro trong quan hệ vợ
chồng, hôn nhân dễ tan vỡ, khó ni con, vợ chồng khắc khấu, lục đục, hay cãi
cọ… Vì thế, người ta thường tránh tổ chức đám cưới vào năm kim lâu. Tuy
nhiên, một số người cho rằng với năm kim lâu vẫn có thể cưới được nếu qua
ngày Đơng chí.
Mẹ đẻ đưa con gái về nhà chồng
Thường thì chỉ có bố cơ dâu và những người họ hàng thân cận, các vị cao
niên trưởng bối mới được đưa cô dâu về nhà chồng. Một lý giải khá thú vị cho
phong tục này là sợ con dâu và mẹ đẻ sẽ tạo nên thế lực lấn át mẹ chồng.
Cơ dâu có bầu đi vào nhà từ cửa chính

Cơ dâu đang mang bầu thì khi về nhà chồng khơng được danh chính ngơn
thuận đi vào từ cửa chính mà phải đi vòng ra cửa sau để vào. Trường hợp nhà
khơng có cửa hậu, cơ dâu sẽ phải bước qua một chiếc chậu bồ kết nướng với
than hồng, hàm ý xua đi điều xui xẻo. Một số nơi giải thích rằng cơ dâu có bầu
mà đi về nhà chồng bằng cửa trước sẽ làm cho nhà trai sau này không ăn nên
làm ra. Tuy nhiên, phong tục này hiện nay khơng cịn được áp dụng nhiều.
Mẹ chồng chạm mặt con dâu khi đoàn rước dâu về nhà
Khi đoàn rước dâu về tới đầu ngõ, mẹ chồng sẽ cầm bình vôi lánh mặt đi
chỗ khác để cô dâu bước vào nhà. Điều này ngụ ý rằng: mẹ chồng vẫn muốn
nắm quyền hành trong nhà, không muốn con dâu thay thế. Theo quan niệm dân
gian, bình vơi là biểu hiện của tài sản trong nhà. Hình thức nắm giữ bình vơi
chính là nắm giữ tài sản.
Có đổ vỡ trong đám cưới
Đám cưới là ngày vui của hai họ nên đông người, vì thế chuyện đổ vỡ các
đồ vật cũng rất dễ xảy ra. Đặc biệt kỵ nhất là việc vỡ gương, vỡ cốc hay gãy
đũa. Nếu trong đám cưới mà xảy ra những chuyện như vậy thì người ta rất lo sợ,
thậm chí cịn phải làm lễ giải hạn
11


2. Ý nghĩa hình ảnh trầu cau
Ăn trầu là phong tục cổ truyền và phổ biến ở vùng nhiệt đới châu Á. Đặc
biệt Dân tộc nào ở Đông Nam Á cũng có những câu chuyện kể về cây cau, dây
trầu. Vùng Nam Á là vùng trầu cau rộng lớn – người dân ăn trầu trong suốt hàng
ngàn năm lịch sử.
Với người Việt Nam, trầu cau là biểu hiện nét văn hóa độc đáo của dân tộc.
Miếng trầu chứa đựng nhiều tình cảm, nhiều ý nghĩa thiêng liêng, gắn bó thân
thiết trong tâm hồn mỗi người. Trong mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay
và có lẽ là mãi mãi, trầu cau luôn hiện diện trong đời sống các dân tộc Việt
Nam và các dân tộc châu Á. Dù giàu nghèo ai cũng có thể có, miếng trầu thắm

têm vơi nồng cùng cau bổ tám, bổ tư quyện vào rễ vỏ chay đỏ luôn là sự bắt đầu,
sự khơi mở tình cảm. Dân gian có câu"Miếng trầu là đầu câu chuyện", miếng
trầu đi đôi với lời chào, lời thăm hỏi hay làm quen:
"Tiện đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng quê quán ở đâu chăng là
Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ mơi nhau thì làm".
Người ta ăn trầu có nhiều cách, thường thì quả cau tươi bổ ra làm 5, lá trầu
quệt ít vơi, cắt một miếng vỏ cây, cuộn tổ sâu lại mà nhai gọi là ăn trầu. Trong
các dịp lễ hội, vào cửa quan, đám ăn hỏi, người ta thường têm trầu cánh phượng
để tỏ lòng trịnh trọng và biểu hiện tài khéo léo, cái nét văn hoá trong tâm hồn
người. Trầu têm cánh phượng cùng với huyền thoại trầu cau mang ý nghĩa nhân
văn sâu sắc, nó vừa là tình u, vừa là nghệ thuật, là tài năng, là tính cách, là con
người cá nhân hoàn thiện, hoàn mỹ. Trong đời sống dân gian, trầu têm cánh
phượng đã trở thành một biểu tượng của quyền lực vua chúa: "con rồng, cháu
phượng", "cha rồng, mẹ phượng". Sự giáo dục của ông cha ta bằng biểu tượng

12


trầu têm cánh phượng có ý nghĩa sâu sắc. Đó là ước mơ, là tư tưởng nâng tri
thức bình dân thành quyền lực, thành sự trường tồn trong vũ trụ.
Miếng trầu khơng đắt đỏ gì, "ba đồng một mớ trầu cay"... nhưng "miếng
trầu nên dâu nhà người". Ngày xưa, khi đi xem mặt các cô dâu tương lai, nhà
trai đợi cơ gái ra têm trầu, rót nước. Vừa để xem mặt, vừa để quan sát cử chỉ rót
nước têm trầu mà phán đốn tính nết cơ gái. Nếu cơ gái giơ cao ấm nước, ấm
nước chảy tồ tồ là người không lễ phép. Miếng trầu têm vụng về là người không
khéo tay, không biết may vá. Lá trầu nhỏ, miếng cau lớn là người khơng biết
tính tốn làm ăn. Quệt nhiều vôi vào miếng trầu là người thiển cận, không biết lo
xa...

Đối với các nam nữ thanh niên nam nữ xưa kia thì miếng trầu là nguyên cớ
để bắt đầu một tình u, một cuộc hơn nhân - "Miếng trầu nên dâu nhà
người". Trong việc cưới, hỏi nhận lễ vật trầu cau là đồng nghĩa với việc nhận lời
cầu hôn, là giao ước giữa hai họ. Đó là một nghi thức độc đáo của người Việt.
Từ ngày ăn phải miếng trầu
Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu đăm chiêu
Biết rằng thuốc dấu bùa yêu
Làm cho ăn phải nhiều điều xót xa
Làm cho quên mẹ, quên cha
Làm cho quên cửa, quên nhà
Làm cho quên cả đường ra, lối vào
Làm cho quên cá dưới ao
Quên sông tắm mát, quên sao trên trời
Trong hôn nhân, trầu cau có một vai trị quan trọng. Tuy chỉ "Ba đồng một
mớ trầu cay" nhưng "Miếng trầu nên dâu nhà người". Trong lễ cưới, hỏi và
mâm cỗ cúng tơ hồng - vị thần của hôn nhân, bao giờ cũng phải có buồng cau và
tệp lá trầu. Người ta xem buồng cau có đẹp khơng, cuống lá trầu có tươi khơng
mà ước đốn được rằng đơi lứa ấy có đẹp dun khơng. Theo tục lệ, nhà ai có
con gái gả chồng, sau khi ăn hỏi xong cũng đem trầu cau biếu hàng xóm và bà
13


con nội ngoại. Vì miếng trầu là tục lệ, là tình cảm nên ăn được hay khơng cũng
khơng ai từ chối.
Trầu têm cánh phượng cau vừa chạm xong
Miếng trầu có bốn chữ tòng
Xin chàng cầm lấy vào trong thăm nhà.
Nào là chào mẹ chào cha
Cậu, cô, chú, bác mời ra xơi trầu.
Miếng trầu nồng thắm ln có mặt trong hơn lễ là sự khơi gợi, nhắc nhở

mọi người hướng về một tình yêu son sắt, một cuộc sống vợ chồng gắn bó, thủy
chung và ln lấy nghĩa tình làm trọng:
Trầu này trầu quế, trầu hồi
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình
Trầu này trầu tính, trầu tình
Trầu nhân, trầu ngãi, trầu mình với ta
Trầu này têm tối hơm qua
Trầu cha, trầu mẹ đem ra cho chàng
Trầu cau còn đi vào giấc ngủ của con người từ ngày này qua năm khác và
hiển nhiên đi vào cuộc sống sinh hoạt của người Việt bằng những câu ví, câu đố,
ca dao, ngạn ngữ, tục ngữ dân gian, những câu hát trao duyên, câu hát mời trầu
của trai gái. Bên cạnh những "vôi nồng", "miếng trầu cánh phượng", "cau bổ
bốn bổ ba", là những "trầu giải yếm giải khăn", "trầu loan, trầu phượng, trầu tơi
trầu mình" là những "trầu tính trầu tình", "trầu nhân, trầu ngãi"... để rồi thành
"trầu mình lấy ta", "trầu nên vợ nên chồng"…
- "Bồng em mà bỏ vô nôi,
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu,
Mua vôi chợ Quán, chợ Cầu,
Mua cau Bát Nhị, mua trầu Hội An."

14


Tục ăn trầu còn gắn với phong tục nhuộm răng đen để có những má hồng
răng đen tiêu biểu của cái đẹp con gái thuở nào - người thôn nữ má hồng răng
đen, một thời đã trở thành hình ảnh làm si mê biết bao chàng trai:
"Mình về mình nhớ ta chăng
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen."

Trầu cau cịn trở thành hình tượng của văn học dân gian qua sự tích Trầu
Cau – một câu chuyện bi ai mà thắm đượm nghĩa tình với hình tượng khó quên:
cây cau - người chồng, dây trầu - người vợ và hịn đá (vơi) - đứa em trai chồng...
Sự tích ấy có tự khi nào khơng ai biết. Sau này, trong một lần Vua Hùng đi qua,
được nghe câu chuyện cảm động đã sai người lấy quả bổ thành miếng nhỏ rồi
nhai với lá cây dây leo thì thấy vị cay nồng, nhai thêm với chút bột lấy từ tảng
đá thì thấy thơm và mơi đỏ thắm. Người bèn đặt tên cho lá cây dây leo là lá
Trầu, quả là quả Cau và bột từ phiến đá là Vôi rồi dạy cho dân Việt dùng ba thứ
vôi, cau và trầu làm biểu tượng tình nghĩa thắm thiết anh - em, vợ - chồng. Tục
ăn trầu có từ đó và được phổ biến trong dân gian.
Trong dân gian, một cơi trầu têm khéo léo có thể nói lên tài hoa của người
têm. Qua đó cịn phần nào thấy được cả nền nếp giáo dục của gia đình. Chỉ là
têm một miếng trầu mà dân gian đã tinh tế sáng tạo ra nhiều kiểu dáng khác
nhau: trầu cánh phượng, trầu cánh kiếm, trầu mũi mác, trầu cánh quế... Tùy
hoàn cảnh, tùy tình huống, miếng trầu được têm theo những cách khác nhau và ý
nghĩa tượng trưng của từng kiểu dáng cũng thật rõ ràng.
Tục ăn trầu đã trở thành một nét đẹp văn hố khơng phai nhịa trong tâm
hồn người Việt nên tháng nǎm có qua, miếng trầu vẫn khơng thể thiếu trong các
đám cưới, trong các môn đồ lễ của các bà, các cô dâng lên bàn thờ tổ tiên, cầu
khấn thần phật với lịng thành kính. Ngày nay, để răng trắng nên nhiều người
không ăn trầu nữa, nhất là ở thành phố. Tuy nhiên, quan niệm "miếng trầu là đầu

15


câu chuyện" của người Việt Nam vẫn được áp dụng ở những dịp hiếu, hỉ. Vì
biếu trầu là tục lệ, là tình cảm nên dẫu có ăn hay khơng cũng chẳng ai chối từ.

Một số hình ảnh


16


17


18


19



×