Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Phan tich Vieng lang Bac Bep lua Doan thuyen

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (81.75 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b> Những bài văn mẫu lớp 9 hay</b>


Nhằm giúp các em có thêm thơng tin tham khảo, Tour.edu.vn xin gửi đến một số bài văn mẫu lớp 9
được chọn lọc. Chúc các em học tốt!


<b>Bài 1: Phân tích bài thơ Viếng lăng Bác của Viễn Phương</b>


Bao giờ cũng thế, một tác phảm đặc sắc phải bao gồm cái đặc sắc và thành công về
cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm ấy như một nguồn nước giếng trong,
khơi mãi vẫn không hết cái ngọt ngào, lắng sâu của tình u con người, vẫn khơng
cạn nguồn sức mạnh truyền vào trong cuộc sống. Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn
Phương là một tác phẩm như thế. Được sáng tác vào năm 1976, bài thơ mang đậm
chất trữ tình này đã ghi lại tình cảm sâu lăng, thành kính cảu nhà thơ khi hồ vào
dịng người viếng lăng Bác. Bài thơ cũng là tiếng nói, là nỗi niềm tâm sự của nhận
dân Nam bộ và nhân dân cả nước dành cho Bác.


Mở đầu bài thơ là cảm xúc của tác giả khi vừa bước chân vào lăng. Nhà thơ xưng
“con” và gọi “Bác”; lời thơ giản dị, mộc mạc mà chát chức bao tình cảm gần gũi,
thân thương, kính trọng chủ tịch Hồ Chí Minh của ơng. Điều đó càng cho thấy Bác là
một con nguời rất hồ đồng và gần gũi. Chính vậy nhà thơ Tố hữ có viết “Người là
Cha, là Bác, là Anh”. Chi tiết thơ “Con ở miền Nam” còn mang một sắc thái đầy xúc
độgn. Khúc ruột miền Nam là miền đất xa xơi mà Bác khơng ngi ngóng chờ, cho
đến những ngày trước luc lâm chung thì trái tim ngươờ vẫn ln huớng về mìen Nam
ruột thịt. Nơi đó có biết bao đồng bào ta đang ngày đêm chiến đấu và anh dũng hy
sinh vì một nàgy mai nước nhà thống nhất. Nhưng…Bác đã khơng chờ được đến
ngày đó. Người đã ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng để lại muôn vàn niềm thương tiếc
cho nhân dân ta. Câu thơ đầu gọn như một lời thông báo nhưng lại chứa chan bao
tình cảm xúc độgn, bồi hồi của tác giả đối với vị cha già kính yêu của dân tộc.


Và trong cái mênh mang sương mù của mọt ngày mùa thu Hà Nội, qua con mắt thi
nhân của Viễn Phương, ta chợt tìm thấy một “hàng tre” Việt Nam. Đến với Bác, đến


với hàng tre, ta như đến với quê hương làng mạc, đến với mái nhà tranh âm vang lời
ru của bà, của mẹ; đén với Bác là đến với dân tộc mình, thế mới đẹp làm sao! Hình
ảnh nhân hoá hàng tre “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” còn là biểu tượng bất diệt
của con người VN kiên cường, bất khuất biền bỉ. Màu xanh của tre chính là màu
xanh của sức sốg VN, màu xanh của hy vnọg, hạnh phúc và hồ bình. Đây quả là một
tứ thơ độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng:


“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàg”


Và nhà thơ phải kính yêu Bác lắm mới viết được những hình ảnh ẩn dụ tài tình này:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng


Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

rọi con đừơng giúp dân tộc ta thoát khỏi kiếp đời nô lệ, là sức mạnh giúp nhân dân ta
chèo lái con thuyền cách mạng cập bến vinh quang, đi đến bờ thắng lợi. Dù rằng đã
ra đi mãi mãi nhưng Bác vẫn luôn bất tử, tư tưởng HCM vẫn luôn trường tồn, soi
đường dẫn lối cho dân tộc ta đứng lên.


Hoà nhịp với gần trăm triệu bàn chân VN, hàng triệu bàn chân lao độgn trên thế giới,
Viễn Phương bùi ngùi xúc động bước vào lăng:


“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xn”


Hình ảnh dịng người vào lăng viếng Bác được tác giả ví như nhưng trànghoa dâng
lên người. “Bảy mươi chín” tràng hoa, ấy là bày mươi chín màu xuân, bày mươi chín


năm cống hiến, hy sinh hết mình của Bác đối với dân tộc và nhân dân ta. Và quả thật,
Bác chính là mùa xuân, và mùa xuân ấy đã làm cho cuộc đời người dân VN nở hoa.
Điệp ngữ “ngày ngày” đứng mỗi ý thơ giữ vị trí “nhãn tự”, vừa thể hiện một qui luật
trình tự của dịng người vào lăng viếng Bác, lại vừa thể hiện một qui luật tự nhiên
của tạo hoá.


Đứng trước sự vĩ đại, to lớn của Bác, ta cũng vơ thức bị dịng thơ cuốn và trong lăng
lúc nào không hay:


“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vãn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”


Bác đang nằm đây, ngay trước mắt nhà thơ, hiền hậu, nhân từ như một vầng trăng
“dịu hiền”, mát mẻ mà vãn trong sáng rạng ngời.Ta có cảm giác như Bác vẫn chưa đi
xa, vẫn chưa rời khỏi thế gian này mà Người đang ngủ đấy thơi. Lí trí thì nói bác
đang ngủ, nghĩa là Bác vẫn cịn sống mãi với đất nước, với dân tộc ta như trời xanh
cịn mãi trên đầu. Mỗi ngày ngẩng đầu nhìn ta lại thấy trời xanh, lại thấy Bác. Bác
không bao giờ mất, Bác sống mãi cùng dân tộc ta, trong mỗi cuộc đời, trong mỗi sự
việc mà chúng ta làm vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội. Ta biết thế, ta nghĩ thế
nhưng sao tim ta vẫn “đau nhói”, mắt ta vẫn trào dâng khi nhận ra rằng: Bác đã
khơng cịn nữa! Khổ thơ thứ hai và ba là một chuỗi các hình ảnh vũ trụ: mặt trời,
vầng trăng, trời xanh lồng vào nhau như để ca ngời tầm vóc lớn lao của Bác; đồng
thời thể hiện lịng tơn kíh vơ hạn của tác giả, của nhân dân đối với vị cha già kính
yêu của dân tộc.


Bài thơ bắt đầu bằng sự kiện “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” và cũng kết thúc
bằng chi tiết “Mai về miền Nam”. Đây là giờ phút sắp chia tay với Bác, tâm trạgn
nhà thơ tràn đầy niềm cảm thương xen lẫn bùi ngùi, lưu luyến. Điều đó được thể hiện


qua hình ảnh cuờng điệu: “Thương trào nước mắt” :


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Tình thương xót nén giữa tam hồn đã làm nảy sinh bao ước muốn: “muốn là con
chin” để dâng lên tiếng hót vui, “muốn là đố hoa” dâng hương thơm ngát, “muốn
làm cây tre trung hiếu” canh gác chi giấc ngủ yên lành của Bác. Nhịp điệu khổ thơ
lúc này dồn dập với điệp ngữ “muốn làm” nhắc lại đến ba lần và các hình ảnh liên
tiếp xuất hiện như một dòng khát khao mãnh liệt của nhà thơ muốn được gần Bác
mãi mãi.


Bằng tất cả tình cảm chan thành, Viễn Phương đã làm “Viếng lăng Bác” trở thành
một bản tình ca bất tận để lại ấn tượgn sâu sắc cho bao người dân Việt Nam. Bài thơ
hay khơng chỉ vì các nghệ thuật, kĩ sảo độc đáo mà quan trọgn hơn, đó là sự kết hợp
nhuẫn nhị giữa cái “tâm” của một nguời con yêu nước và cái “tài” của người nghệ sĩ.
Rất nhiều năm tháng đã đi qua nhưng mỗi thế hệ đọclại “Viếng lăng Bác” đều đón
nhận vào tâm hồn mình một ánh sáng tư tưởng, tình cảm của nhà thơ và đồng thời
cũng thấm nhuần vẻ đẹp trong suốt, lấp lánh toả ra từ chính cuộc đời, trí tuệ và trái
tim Bác Hồ.


<b>Bài 2: Bếp lửa (Bằng Việt)</b>


Bằng Việt thuộc thế hệ trưởng thành trong thịi kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Bằng
Việt mượt mà, trong trẻo, khai thác những kỉ niệm và mơ ước của tuổi trẻ. Bài thơ
“Bếp lửa” được bằng Việt sáng tác năm 1963, khi ấy tcá giả là ính viên đang du học
tại Liên Xô. Bằng sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, giữu tự sự và
bình luận, bài thơ gợi lại những kỉ niệm về người bà và tình bà cháu vừa sâu sắc
thấm thía, vừa rất quen thuộc với mọi người; đồng thời thể hiện lịng kính u, trân
trọgn và biết ơn của ngừoi cháu đối với bà và cũng là đối với gia đinh, quê hương,
đất nước.


Mạch cảm xúc của bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm. Bài


thơ mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi lại những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà làm
hiện lên hình ảnh bà và tình yêu thương bà dành cho cháu, từ kỉ niệm tuổi thơ, người
cháu suy ngẫm về cuộc đời bà và cuối cùng người cháu dửi niềm mong nhớ về bà.
Mở đầu bài thơ là sự hồi tưởng của tác giả về bà và tình bà cháu được khơi gợi qua
hình ảnh bếp lửa:


“Một bếp lửa…….


………biết mấy nắng mưa”


“Bếp lửa chờn vờn sương sớm” mà một hình ảnh rất quen thuộc trong mỗi gia đình
từ mn đời nay. Bếp lửa nồng đượcm ấy mang tình thương che chờ, “ấp iu” của bà.
Từ láy “ấp iu” gợi bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lịng chi chút của người nhóm
lửa, lại rất chính xác với cơng việc nhóm bép cụ thể. Bếp lửa của bà là bếp lửa của
một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”, nghèo khổ, vất vả. Nghĩ về bếp lửa,
nghĩ về bà mà người cháu thương bà khơn xiết.


Từ đó, bài thơ gợi lại cả một thời thơ ấu bên người bà. Tuổi thơ ấy có nhiều gian khổ,
thiếu thống nhọc nhằn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Đó là những năm tháng tuổi thơ có bóng đen ghê rợn của nạn đói năm 1945, có mối
lo giặc đốt phá xóm làng: “giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi”, có những hồn cảnh
chung của các gia đình VN:


“Mẹ cùng cha công tác bận ko vè
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”


Trong chiến tranh, mẹ và cha bận công tác xa nhà, cháu sống trong sự cưu mang, dạy
dỗ của bà. Các từ ngữ “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc tấm


lịng đơn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà đối với đứa cháu nhỏ. “Bà” và
“cháu” được điẹp lại bốn lần gợi tả tình bà cháu quán quýt yêu thương.


Được sống trong tình thương là hạnh phúc. Người cháu trong bài thơ tuy phải sóng
xa cha mẹ nhưng em thật hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương, che
chở của bà. Vì thế, cháu mới cảm nhận một cách nồng hậu:


“Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”


Đoạn thơ tiếp thao, 10 câu đã tơ đậm thêm phẩm chất cao q của ngưịi bà kính u:
“Năm giặc đốt làng ………..


………….dai dẳng”


Bà là chỗ dựa vững chắc cho cháu. Sống trong những năm dài chiến tranh, khi “giặc
đốt làng cháy tàn cháy rụi”, được sự “đỡ đàn” của bà con làng xóm, hai bà cháu
“dựng lại túp lều tranh”; thế nhưng bà vẫn ln vững lịng trước thử thách.


Từ “bếp lửa”, người cháu nghĩ về “ngọn lửa”. “Bếp lửa” bà nhen sớm sớm chiều
chiều đã sứng bừng lên ngọn lửa bát diệt, ngọn lửa của tình u thương “ln ủ sẵn”,
ngọn lửa của niềm tin “dai dẵn”. Kỉ niệm về bà và những năm tháng tie thơ ln
gắn liền với hình ảnh bếo lửa. Bếplửa hiện diện như tình bà ấm áp, như chỗ dựa tinh
thần, như sự cưu mang đầy chi chút của bà dành cho cháu.


Bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình bà cháu gợi một liên tưởng khác- tiếng chim tu
hú:


“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà


Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”



Tiếng chim quen thuọoc của đồng quê mỗi độ hè về, tiếng chim như giục giã, như
khắc khoải một điều gì đó da diết lắm, khiến lịng người trỗi dậy những hồi niệm
nhớ mong.


Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu suy ngẫm về cuộc đời bà:
“Lận đận đời bà…….


………..thói quen dậy sớm”


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Bà đã nhóm bếp lửa suốt cuộc đời, đã trải qua mấy nắng mưa “mấy chục năm rồi”.
Bà khơng chỉ nhóm bép lửa bằng đôi tay già nua, gầy gụôc mà bằng cả tấm lịng đơn
hậu “ấp iu nịng đượm” của bà:


“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
….


Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”


Điệp ngữ “nhóm đan kết với những chi tiết chân thực, biểu hiện một tấm lòng. Vị
ngọt bùi của khoai sắn, hương vị ngọt ngào của nồi xôi gạo mới đều do bàn tay tần
tảo của bà “nhóm” nên. Bà đã nhen nhóm, ni dưỡng trong lịng con cháu bao
“niềm yêu thương”, bao ước mơ hoài bão. Tâm hồn và khát vọng của tuôit thơ đã
sáng bừng lên từ ngọn lửa của bà. Cảm xúc dồn nén bỗng ùa ra, tn trào:


“Ơi kì lạ và thiên liên bếp lửa”


Bốn câu cuối kết thúc bài thơ thể hiện một cảnh đằm thắm. Đó chính là tình cảm
thương nhớ, lịng kính u và biết ơn của người cháu nay đã trưởng thành và đã đi
xa:



“Giờ cháu đã đi xa…..


………nhóm bếp lên chưa?”


Ngươờ cháu năm xưa giờ đã lớn khôn, đã được chắp cánh bay xa, đã được làm quen
với những khung trời rộng lớn, những niềm vui được mở rộng ở chân trời xa. “Có
khói………trăm ngả” nhưng vẫn ko thể ngi qn ngọn lửa của bà, tấm lòng đùm
bọc, ấp iu của bà. Ngọn lửa ấy trở thành kỷ niệm ấm lòng, thành niềm tin thiêng
liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt đoạn đường dài.


“Bếp lửa” là bài thơ hay và độc đáo. Lời thơ đẹp, chất thơ trong trẻo, trẻ trung; sáng
tạo hình ảnh bếp lửa vừa mang ý nghĩa biểu tượgn, kết hợp miêu tả-biểu cảm, tự
sự-nghị luận; giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy
ngẫm. Bài thơ chứa đựng một triết lí sâu sắc: Những gì thân thiết nhất của tuổi thơ
mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài của cuộc đời.
Tình u thương và lịng biết ơn bà chính là một bình hiện cụ thể của tình u
thương, sự gắn bó với gia đình, q hương và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu
con người, tình yêu đất nước.


<b>3/ Về bài thơ "Đòan thuyền đánh cá" của Huy Cận</b>


Trước đây nữa thế kỉ, khi mới cầm bút, nhà thơ Huy Cận trình làng bài "Tràng giang
với khổ thơ đầu rất đặc sắc:


Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,
Củi một cành khơ lạc mấy dịng



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

ấy, thi sĩ đã bâng khuâng thương mình, thương người, muốn chia sẻ tấm lòng "sầu
trăm ngả" tới chúng ta. Và, từ đó trở đi, hình tượng thơ: "vũ trụ" và "con người" trở
thành một nét rất riêng, rất riêng trong thi pháp Huy Cận.


Và sau đó, từ cái "riêng" ấy, Huy Cận làm cho nó ngày một rõ rệt hơn qua "Đòan
thuyền đánh cá". Cảm hứng của nhà thơ vè thiên nhiên, vũ trụ, về người lao động
ln ln hài hịa theo 3 nhịp.


Khúc ca khởi hành đc cất lên ở 2 câu thơ đầu:
Mặt trời xuống biển như hịn lửa


Sóng đã cài then đêm sập cửa


Biển hịang hơn - Mặt Trời lặn, như "hịn lửa" bị nhúng nước. Sóng cồn lên, cài chặt
then, nhốt ánh sáng vào một vùng tối bí mật. Đêm bao trùm. Khuya. Vũ trụ đẹp
huyền bí, mênh mang đầy thử thách. Vậy mà con người - những ngư dân - không
ngại ngần, e sợ. Xưa kia, khi đất nước chìm đắm trong bóng đem xâm lược, con
người thường rợn người, hãi hùng trước cái bao la rộng lớn của vũ trụ. Ngày nay, đất
nước đc giải phóng, con người đc làm chủ, thì vũ trụ, thiên nhiên trở thành nơi vươn
tới những ước mơ:


Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Hát rằng cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như địan thoi
Đêm ngày dệt biểng mn luồn sáng
Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi


Nhịp thơ nhanh. mạnh như 1 quyết định dứt khóat. Địan ngư dân ào xuống, đẩy
thuyền ra khơi va cất cao khúc ca khởi hành. Niềm vui và quyết tâm của họ tràn ngập


cà không gian, vũ trụ, đánh thức tất cả. Họ gọi cá như bạn bè gọi nhau, họ gọi biển,
tiếng gọi vơ vàn trìu mến.. Những cánh tay săn chắc cuồn cuộn sức người, sôi nổi
hào hứng như trong một trận đấu vậy. Gió khơi, biển cả, nhất là trăng sao - những
vùng sáng thay thế Mặt Trời - tất cả đã hiệp đồng để động viên, giúp đỡ con người.
Vũ trụ không đối lập mà trở thành bố mẹ, bạ bè thân thương của con người:


Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng
Ta đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
...


Ta hát bài ca gọi cá vào


Gõ thuyền đã có nhip trăng cao
Biển cho ta cá như lịng mẹ
Ni lớn đời ta tự thuở nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

với nhau đã tạo cho ngôn ngữ thơ những vẻ đẹp kì diệu, âm hưởng của thơ ngân
vang, xáo động, h`ả trog thơ mỗi lúc một lớn lao, bay bổng, ngòi bút tả thực hài hòa
với ngòi bút lảng mạn, bút pháp tượng trưng. Tình yêu cuộc sống, yêu biển trời quê
hương xứ sở của những người lao động đã đc vũ trụ, thiên nhiên đền đáp xứng đáng:
Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng


Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng
Vảy bạc đi vàng lóe rạng đơng
Lưới xếp buồm căng đón nắng hồng.


Vẩy cá, đi cá lóe sắc vàng sắc bạc, hay chính là bạc vàng trong kho trời vô tận
thưởng công cho nguồn tài sử dụng ngơn từ, phép liên tưởng, ví von cùg với tình cảm


mê say, hào hứng của nhà thơ đã hòa nhập với cuộc sống, đem lại cho nhà thơ cảm
thú vị. Nhạc thơ lên đến cao trào.


Và bài ca của đòan ngư dân chuyển dần vào đọan cuối, đọan khải hòan tràn ngập
niềm vui chiến thắng:


Câu hát căng buồm với gió khơi
Đàon thuyền chạy đua cùng Mặt Trời
Mặt Trời đội biển nhơ màu mới
Mắt cá huy hịang mn dặm phơi.


Thi sĩ như người trọng tài đang nhìn địan thuyền, chuyển sang phía Mặt Trời, rồi từ
Mặt Trời nhìn lại. Đội biển nhơ cao, Mặt trời tới đích...thì địan thuyền đã tới lâu rồi!
Trang trải mênh mang muôn dặm chỉ thấy cá và cá. Cá nhiều, chen chít nhau, xếp
dày, khơng tách ra đc, chỉ thấy "mắt cá huy hịang" nhấp nháy theo trời, hóa thành
triệu bụi màu nhỏ, huy hoàng, ấm áp cả 0 gian. Nghệ thuệt nhân hóa và điểm nhìn
linh họat của nhà thơ khiến cho Mặt Trời nơi xa xơi trở nên gần gũi, hiền hịa, và cái
chân dung con người bỗng dưng trở nên lớn lao, kì vĩ...


</div>

<!--links-->
Bài ôn tập HK2 : Phân tích Viếng lăng Bác khổ 3 + 4
  • 2
  • 31
  • 186
  • ×