Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

van 10 binh ngo dai cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.85 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Bình Ngơ đại cáo dưới ánh sáng của loại hình học văn
hố trung đại


Written by PGS.TS.Trần Nho Thìn
Saturday, 25 April 2009 23:33


<b>Lời tác giả: Nhân vừa đọc một bài rất thú vị của Liam C. Kelley về quan hệ văn hố Việt </b>
Trung, tơi nảy ý định gửi bài viết dưới đây cho talawas để bạn đọc cùng tham khảo. Hiện
nay trong nước đang có phong trào viết lại lịch sử văn học và lịch sử văn hoá Việt Nam,
những bài như của Liam C. Kelley cần được tham khảo và tranh luận. Nghiên cứu mối
quan hệ giao lưu văn hố nói chung và văn học nói riêng giữa Trung Quốc và Việt Nam
hiện khơng cịn là việc làm mới mẻ nữa. Trong công việc này, cùng với các nhà nghiên
cứu ở trong nước, có sự tham gia của nhiều học giả nước ngoài và cả các học giả người
Việt trên khắp thế giới. Thống nhất về quan điểm, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu
do đó là chuyện khơng tưởng. Tuy nhiên, có lẽ cũng cần có sự thống nhất chí ít trên một
vài phương diện căn bản nào đó. Chẳng hạn, theo chúng tơi, trước hết, cần có một cái nhìn
lịch sử về mối quan hệ này. Hiển nhiên đây là mối quan hệ thay đổi theo thời gian, cần
móc nối từng thời điểm với những nét riêng biệt lại thành bức tranh tồn thể, sau đó mới
có thể kết luận chung. Thứ hai là cần tính đến tư liệu khảo sát mối quan hệ giao lưu này.
Các tư liệu của văn học, sử học hoặc khảo cổ học có thể khơng hồn tồn “ăn khớp” nhau.
Nhưng điều đó khơng có nghĩa là tư liệu này có giá trị hơn tư liệu kia. Trống đồng thuộc
về thời kỳ văn hố cổ đại, có thể cho ta bức tranh văn hoá Hoa - Việt khác hẳn tài liệu thơ
văn chữ Hán vốn thuộc về thời kỳ muộn hơn nhiều. Khớp nối chúng lại, ta có thể hình
dung sự “thay bậc đổi ngơi” trong quan hệ nói trên và từ đó, tìm hiểu ngun nhân thay
đổi đó, may ra việc nghiên cứu quá khứ có ích cho hiện tại.


Một trong những đặc điểm cơ bản có tính bao trùm, chi phối mọi phương diện của văn
hố phương Ðơng thời cổ, trung đại là việc xem xét con người và thế giới trong mối quan
hệ chặt chẽ, không tách rời, là việc vũ trụ hoá thế giới con người, xem xét Thiên đạo (đạo
Trời) và Nhân đạo (đạo Người) như một thể thống nhất. Khái niệm Thiên (Trời) vừa chỉ
một nhân cách có ý chí tối cao, vừa chỉ đạo, tức là quy luật tự nhiên. Tuy nhiên, đằng sau


những quy luật vận hành của vũ trụ luận âm dương, người xưa vẫn cảm thấy có một thế
lực huyền bí nào đó chi phối. Do có đấng tối cao này mà tồn thể vũ trụ, trong đó có con
người, vạn vật sống và hoạt động trong cùng một nhịp điệu, một tiết tấu, một “đạo”
chung. Thuyết quái truyện khi giảng về bát quái, cho rằng đạo Trời là âm dương, đạo đất
là cương nhu, đạo người là nhân nghĩa. Song tất cả các phạm vi không gian Trời, Người
đều có thể giải thích, nhận thức bằng các vạch liền và vạch đứt (dương và âm) trong sự
thay đổi vị trí kết hợp của chúng. Giữa Trời và Người có một mối quan hệ liên thơng được
người ta gọi là thiên nhân tương dữ hay thiên nhân tương cảm. Việc cảm thụ thế giới, cụ
thể là không gian và thời gian của người xưa in đậm dấu ấn của vũ trụ luận này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

 <i>“Chớp đơng nhay nháy, gà gáy thì mưa”. </i>
 <i>“Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa”. </i>
 <i>“Tháng tám nắng rám trái bưởi”.</i>


Tuy nhiên, do hạn chế về nhận thức, do sống lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên nên người
nơng dân cịn sống trong một thứ khơng gian – thời gian mang tính chất tâm linh, mang
tính chất vũ trụ. Thế giới với họ khơng chỉ là các hiện tượng có thể cảm nhận một cách
duy lý mà còn là các hiện tượng huyền bí. Ðó là những khơng gian của những “thần cây
đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”, của đủ thứ thần thánh, Phật tiên mà kẻ có bệnh phải “vái
tứ phương”. Ðó là thời gian giỗ, tết, các lễ hội có phần lễ thiêng liêng, những thời điểm
giúp con người giao hoà với trời đất, thiên nhiên và các thế lực thánh thần.


Nhưng dẫu sao phải thừa nhận các nhà triết học cổ đại Trung Hoa đã dựng lên một hệ
thống khá chặt chẽ phản ánh mối quan hệ lệ thuộc, gắn bó giữa con người và thế giới.
Trong sự cảm nhận của họ, thế giới có tính lưỡng ngun rõ rệt, một mặt, đây là thế giới
<i>trần thế, hiện thực, mặt khác, đó cũng là một thế giới tâm linh, thế giới của những biểu </i>
<i>trưng của đạo Trời. Cuộc tranh hùng trong Tam quốc diễn nghĩa không chỉ là sân khấu </i>
hoạt động của các anh hùng mà còn được người xưa hình dung như là một biểu tượng vĩ
đại của quy luật huyền vi “thế lớn trong thiên hạ, chia lâu rồi lại hợp, hợp lâu lại chia”. Xã
hội Truyện Kiều trong sự cảm nhận của Nguyễn Du, một mặt như là tấn trò đời, mặt khác


là một cuộc biển dâu. Trình diễn trong Tấn trị đời là những con người hiện thực, song
hoạt động trong cuộc biển dâu lại là những thế lực bí ẩn. Ðược mùa lớn liên tiếp mấy năm
liền có thể là do công sức lao động của người nông dân cộng với mưa thuận gió hồ.
Nhưng người xưa lại có thể nhìn thấy ở đây một thực tại khác, một thực tại biểu trưng cho
đức sáng của nhà vua đã có thể cảm hoá trời và được trời giáng phúc. Thân Nhân Trung
đã hoạ ý thơ của Lê Thánh Tông như vậy :


<i>Cách thiên đế đức diệu toàn năng, </i>
<i>Hiệp ứng hưu trưng bách cốc đăng. </i>


(Ðức của vua hoà hợp với Trời nên tài đức được phú cho trọn vẹn,
Ðiềm lành hiện ra, mùa màng tươi tốt).


Mùa xuân về là một hiện tượng bình thường của tự nhiên, song người ta lại muốn cảm
nhận nhịp tuần hoàn vĩnh cửu của tự nhiên qua sự tương tác của hai khí âm, dương :
<i>Âm dương hai khí mặc xoay vần, </i>


<i>Nẻo q thì đơng đến tiết xuân. </i>


Chúng tôi tạm dùng khái niệm thực tại trần thế và thực tại vũ trụ để chỉ hai loại thực tại
của văn hoá trung đại. Ðể minh hoạ rõ hơn cho nội dung của hai khái niệm này, chúng tơi
sẽ phân tích một tác phẩm của Nguyễn Trãi trước khi đi vào tìm hiểu Bình Ngơ đại cáo.
Ðó là Dư địa chí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

ngịi, thành quách, thổ nghi, đặc sản các vùng, các xứ. Nhưng nếu tiếp tục đọc, ta sẽ thấy
tác giả khảo sát chất đất của từng xứ bên cạnh việc mô tả phong tục tập quán của dân địa
phương, tả cách ăn mặc và tiếng nói của các tộc người bên cạnh chuyện quỷ thần ở núi
sông, thậm chí kể cả các dân tộc ở bên ngồi “bốn biển”, tức là ở bên ngoài bản đồ địa lý
của Ðại Việt. Một cái nhìn duy lý, hiện đại sẽ thấy dễ dàng một tình trạng có vẻ như “lộn
xộn”, “tuỳ tiện” đến khó hiểu của tác giả. Viết về địa lý, hà cớ gì nói đến chuyện thần


thánh, chuyện người hiền, vật lạ ở mỗi vùng, thậm chí lại đề cập cả chuyện của người
nước khác? Tuy nhiên, nếu ta phục hồi phương thức mà nhà nho xưa cảm thụ khơng gian
địa lý thì mọi thắc mắc sẽ sáng tỏ. Với người xưa, không gian địa lý không đơn giản chỉ là
môi trường sinh tồn của dân tộc với mọi đặc điểm tự nhiên của nó cần phải nắm bắt để
khai thác và cải tạo. Trong con mắt của người xưa, đó cịn là vùng không gian chịu ảnh
hưởng năng lượng Ðức của hồng đế. Theo quan niệm này, nhà vua vì có Ðức lớn nên
nhận được mệnh Trời, thay mặt Trời (“Ðại thiên hành hoá”, “Thế thiên hành hoá”) làm
cơng việc hố dục, phổ năng lượng của mình vào tồn bộ Thiên hạ (dưới Trời). Khổng Tử
nói: “Làm chính trị nhờ vào Ðức cũng giống như sao Bắc Ðẩu đứng yên một chỗ mà các
vì sao khác đều châu tuần về”. Nói bằng ngơn ngữ hiện đại, có thể hình dung mơ hình
khơng gian địa lý – xã hội của nhà nho như là một từ trường mà nguồn phát ra từ trường
này chính là vua. Năng lượng Ðức mà nhà vua phát ra có khả năng thu hút vạn vật khắp
bốn biển châu tuần về quanh mình. Ðó là một trong những ngun tắc cơ bản chỉ đạo việc
biên soạn loại sách địa chí ngày xưa. Soạn giả ít nhất là triển khai cơng việc trên hai
phương diện:


1. Xem xét tất cả người, vật, đất đai, sông núi không ngoại trừ vật gì, thứ gì đều
thuộc vùng ảnh hưởng, thuộc “từ trường” năng lượng Ðức của nhà vua. Cả các
thần sông núi, các thần thánh khác cũng được sắc phong để chính thức, “hợp lệ”
nằm trong vùng từ trường này. (Ðiều đó rất phù hợp với ý của Nguyễn Ðình Chiểu
về “tấc đất”, “ngọn rau” cũng thuộc về vua hay câu chuyện Bá Di – Thúc Tề ở
Trung Quốc xưa đã cự tuyệt nhà Chu đến mức từ chối ăn rau vi và chết đói).
Khơng phải ngẫu nhiên mà sau này, viết chương mở đầu cho Ðại Nam nhất thống
<i>chí, cũng là một thứ dư địa chí người ta sẽ mơ tả tỷ mỷ kinh đơ Huế (kinh đô mới </i>
của Việt Nam), trước hết là cung điện của nhà vua như một tiêu điểm hội tụ năng
lượng vũ trụ. Ngay từ đời Lý, trong Thiên đô chiếu, Lý Thái Tổ đã ý thức rất rõ
rằng kinh đơ là điểm có thể quyết định chuyện “quốc tộ diên trường, phong tục
phú phụ” (vận nước dài lâu, phong tục thịnh vượng).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nước”. Ðức giáo rõ ràng có nội dung là năng lượng giáo hoá của văn minh, văn


hiến. Nguồn năng lượng phát ra chỉ một chiều chứ khơng thể có ngược chiều lại,
tức là chỉ từ trung tâm lan ra bốn bể chứ không thể từ bốn bể về trung tâm. Kể cả
trong quan hệ đối sánh với Trung Hoa thì cũng khơng có chuyện ta là vùng chịu
ảnh hưởng năng lượng của các hoàng đế thiên triều. Bởi vậy mà trong Dư địa chí,
Nguyễn Trãi cẩn thận ghi lại việc vua nhà Minh ban cho sứ thần của Trần Dụ
Tông bốn chữ “Văn hiến chi bang”! Cảm hứng của Dư địa chí là khẳng định một
vùng không gian độc lập nằm trong “từ trường” ảnh hưởng của Ðức của các nhà
vua Ðại Việt.


Ðể kết thúc Dư địa chí, Nguyễn Trãi viết: Hồng đế (chỉ Lê Thái Tông – T.N.T.) phán
rằng: “Ðức Thái Tổ vất vả mười năm mới bình định cả thiên hạ, truyền cho con cháu,
mong được muôn đời. Trẫm khơng có Ðức, lạm ở ngơi vua, nhờ các quan trung thành,
hiền lương cứu giúp để lo việc thủy chung, khiến cho Ðức của ta được sáng khắp bốn
biển”. Không gian đất nước từ Lê Lợi truyền qua Lê Thái Tơng, đó là khơng gian vũ trụ,
một không gian từ trường của năng lượng Ðức toả phát. Ngay từ thời Lê Lợi khởi nghĩa,
theo Nguyễn Trãi cho biết ở phần kết Dư địa chí, các bầy tơi đều tơn ơng là “Ðại thiên
hành hố” (Thay Trời để làm cơng việc giáo hố).


Như vậy, qua Dư địa chí, có thể thấy trong cách cảm thụ về thế giới của người thời xưa,
có hai thứ không gian cùng tồn tại: một không gian vũ trụ chồng xếp lên không gian trần
<i>thế. Miêu tả không gian trần thế, hiện thực chịu sự chế định của nhu cầu diễn đạt không </i>
gian vũ trụ, điều mà tư duy duy lý của con người hiện đại rất khó hình dung nếu khơng
phục hồi lại cách thức cảm thụ thế giới của chính người xưa. Theo chúng tơi, từ góc nhìn
này, cần hết sức thận trọng khi có chủ trương cho rằng Nguyễn Trãi đã nêu lên một định
nghĩa khá hoàn chỉnh về dân tộc. Rất có thể việc ơng mơ tả cương vực, văn hoá, hiền tài,
phong tục chỉ đơn giản là tạo lập một vùng không gian vũ trụ nằm trong vùng ảnh hưởng
năng lượng Ðức của các triều đại phong kiến Ðại Việt chứ không nghĩ về một thị trường
thống nhất, một ngôn ngữ thống nhất hay một nền văn hoá thống nhất... như ta ngày nay
hiểu về dân tộc. Nói cách khác, vấn đề “độc lập dân tộc” được Nguyễn Trãi hình dung
khác với chúng ta ngày nay.



Nguyên lý về sự đồng tồn tại của hai loại thực tại như một nguyên lý căn bản của văn hoá
trung đại cần được lưu ý khi phân tích một tác phẩm quan trọng như Bình Ngô đại cáo. Sự
tiếp cận chỉ riêng thứ thực tại trần thế sẽ làm nghèo đi những thông tin mỹ học lý thú của
tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

lối hành xử của kẻ cai trị, kẻ lãnh đạo với dân. Ví dụ “Ðạo làm tướng lấy nhân nghĩa làm
gốc”, “Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, viện công to phải lấy nhân nghĩa
làm đầu”, hoặc “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”.


Trong cách hiểu của Nguyễn Trãi, nhân nghĩa bao hàm những nội dung gì? Viết thư cho
tướng giặc Phương Chính, ơng tố cáo bản chất bất nhân bất nghĩa của chúng. Hãy xem
những lập luận của ông : “…bọn mày chỉ chuyên lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm người
vào chỗ chết mà khơng xót thương”, “nước mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng điếu
dân phạt tội, kỳ thực là làm việc bạo tàn, lấn cướp đất nước ta, bóc lột dân ta, thuế nặng,
hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được yên sống. Nhân nghĩa lại làm
thế ư?”. Ðến Bình Ngơ đại cáo, Nguyễn Trãi tố cáo sự bất nhân bất nghĩa của chúng một
cách cụ thể hơn, hùng hồn hơn:


<i>Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, </i>
<i>Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. </i>
<i>Dối trời, lừa dân, đủ mn nghìn kế, </i>
<i>Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm. </i>
<i>Bại nhân nghĩa nát cả đất trời, </i>
<i>Nặng thuế khố sạch khơng đầm núi. </i>


<i>Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng, </i>
<i>Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc. </i>


<i>Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng, </i>


<i>Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. </i>
<i>Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, </i>


<i>Nheo nhóc thay kẻ gố bụa khốn cùng... </i>


<i>… Ðộc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, </i>
<i>Dơ bẩn thay, nước Ðông Hải không rửa hết mùi ! </i>
<i>Lẽ nào trời đất dung tha ? </i>


<i>Ai bảo thần nhân chịu được ? </i>


Tổng hợp lại, ta thấy kẻ địch bất nhân nghĩa vì có những việc làm sau:


 Khơng có đạo chí thành (chúng lừa dối).
 Giết hại kẻ vô tội.


 Không để cho dân thường được sống yên ổn: thuế má nhiều, hình phạt lắm, bóc lột


nhân dân.


 Vơ vét, cướp bóc sản vật quý của nước ta.


 Chúng tàn phá cả thiên nhiên, cây cỏ, cả côn trùng, vạn vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>chinh phạt, càng đánh càng thua”. Ở một bức thư khác, sơ đồ lập luận cũng tương tự: </i>
“Phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc, viện công to phải lấy nhân nghĩa làm
nghĩa đầu. Duy nhân nghĩa có đủ thì cơng việc mới thành được. Nước mày nhân dịp họ
Hồ lỗi đạo, mượn tiếng điếu dân phạt tội, kỳ thực là làm việc bạo tàn, tấn cướp đất nước
ta, bóc lột dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được yên
sống. Nhân nghĩa lại làm thế ư ? Nay ở nước mày, dân oán thần giận, kế tiếp có đại tang,


thế mà đã khơng biết tự xét lỗi mình, lại cịn cùng binh độc vũ...”.


<i>Nhân nghĩa không chỉ thuộc phạm vi nhân sự mà cịn thuộc phạm vi thiên đạo. Khơng </i>
gian đất nước qua lăng kính nhân nghĩa hiện hình như một khơng gian vũ trụ, tâm linh.
Nếu ở Dư địa chí, ta đã thấy đằng sau một không gian đất nước là một không gian vũ trụ,
nơi chịu ảnh hưởng từ trường của Ðức thì ở Bình Ngơ đại cáo ta lại bắt gặp không gian vũ
trụ này. Dấu hiệu căn bản của vùng từ trường toả phát năng lượng của Ðức nhà vua là
hiền tài, là phong tục tốt đẹp, là các đặc sản, kỳ trân dị thú của các miền... Các dấu hiệu
này cũng được liệt kê trong Bình Ngơ đại cáo khá đầy đủ.


Ðiều đặc biệt của Bình Ngơ đại cáo là Nguyễn Trãi giới thiệu cả ảnh hưởng tiêu cực của
sự bất nhân bất nghĩa của kẻ thù. Vậy thì khơng gian vũ trụ có thể là phạm vi toả phát
năng lượng tích cực của Ðức mà cũng có thể là phạm vi ảnh hưởng tiêu cực của sự vô đạo
đức. Chỉ có điều, kẻ xây dựng nên vùng khơng gian ảm đạm, bi thảm như giặc Minh
không thể tránh khỏi sự trừng phạt của người và trời “Lẽ nào trời đất dung tha, ai bảo thần
nhân chịu được”.


Ðiều đáng chú ý là trong Bình Ngơ đại cáo, Nguyễn Trãi không đề cao quyền mưu bằng
<i>nhân nghĩa. Quyền mưu thực chất là các yếu tố hiện thực dẫn đến thắng lợi, đó là binh </i>
pháp, là chiến lược, chiến thuật, các biện pháp tổ chức v.v. Cố nhiên, không thể cứ ngồi
ôm đức nhân nghĩa chờ cho chiến thắng tự đến. Nguyễn Trãi không phủ nhận quyền mưu,
song ông không coi đây là nhân tố cơ bản. Ông có nhắc tới:


<i>Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, </i>
<i>Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. </i>


Ơng nói tới việc “điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong” hay việc “sai tướng chẹn
đường, tuyệt nguồn lương thực” của kẻ thù. Ðó là những “mưu kế kỳ diệu” góp phần đem
lại chiến thắng. Nhưng như ơng viết:



<i>Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn, </i>
<i>Lấy chí nhân để thay cường bạo. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

những “nguyên nhân hưng vong, đắc thất”, có bận ơng nói: “Ngày nay thành cơng là do
hồng thiên giúp đỡ mà tổ tiên của trẫm chứa đức tích nhân đã lâu cũng ngấm ngầm phù
hộ nên mới được thế này”. Viết Lam Sơn thực lục, Nguyễn Trãi trung thành với ý tưởng
này. Không phải ngẫu nhiên mà ông kể về việc tích tụ năng lượng Ðức của gia đình Lê
Lợi: tổ tiên của Lê Lợi chọn thế đất làm nhà; Lê Lợi được một nhà sư Ai Lao tìm cho một
thế đất táng mộ cha rất tốt khiến cho chính kẻ địch cũng lo sợ, đã cho người lén đào hài
cốt này đem đi và Trịnh Khả, Lê Bị đã đội cỏ bơi theo thuyền giặc lấy lại tiểu đựng hài
cốt đem về chôn lại chỗ cũ. Những điều này có thực hay khơng thật khó mà biết, chỉ có
điều chắc chắn là chúng phản ánh quan niệm xưa về phong thuỷ như là sự tương tác, kết
hợp của hai khí âm dương để tạo ra một tiêu điểm tích hợp năng lượng cao nhất, có lợi
nhất cho thân chủ. Ðồng thời Nguyễn Trãi cũng kể lại những yếu tố thuộc về đạo người
cũng có giá trị dẫn đến sự tích luỹ năng lượng Ðức: “Tổ của vua [... ] nối dõi nghiệp nhà,
theo chí người trước, tính hiền hồ, hay vỗ về dân chúng, khoan nhân và thương người, xa
gần hướng về, ngày càng mến phục”, “thân phụ của vua, tính vui vẻ, hiền lành, hay làm
việc thiện, mến đãi tân khách, yêu thương dân chúng. Phàm có người đói khổ, túng thiếu,
bệnh tật, chết chóc tất chu cấp giúp đỡ, dân cõi láng giềng cũng coi như người cùng một
nhà, do đó chẳng ai là không cám ơn và phục nghĩa”. Bản thân Lê Lợi thì gặp thời loạn
lạc, “ngầm ni kẻ sĩ mưu trí, bỏ của phát thóc giúp người cơ bần, nhún lời, hậu lễ để thu
hào kiệt”. Những nội dung chủ yếu của nhân nghĩa ở đây có thể quan sát thấy: yêu thương
con người và làm điều thiện một cách vô tư, không vụ lợi.


Chúng ta ngày nay khó hình dung nổi cảm giác của người dân Ðại Việt khi đánh bại quân
Minh xâm lược. Còn với Nguyễn Trãi, sau khi chiến tranh kết thúc, trong bài thơ Hạ quy
<i>Lam Sơn, dường như ông vẫn chưa hết kinh ngạc vì thắng lợi diễn ra một cách chóng </i>
vánh, mau lẹ “Nhất nhung đại định hà thần tốc” (Một chiến dịch đem lại nền đại thịnh,
sao mà mau chóng vậy). Trong Lam Sơn thực lục, ơng cũng ghi lại nhận định của các bầy
tôi khi bàn luận với Lê Lợi về cuộc chiến đã qua, cũng nhấn mạnh về sự thành cơng mau


<i>chóng. Thành cơng mau chóng, thắng lợi thần tốc khơng phải chỉ do mưu kế, do sức </i>
người thuần tuý mà còn do việc “chứa đức tích nhân” của cả dịng họ Lê Lợi. Khơng gian
đất nước trong đó Lê Lợi hoạt động được miêu tả như là không gian nơi toả phát năng
lượng Ðức tích tụ của Lê Lợi. Ðiều này có thể cảm nhận được nếu chú ý kết cấu của bài
Cáo. Sau khi miêu tả không gian đất nước chịu những ảnh hưởng tiêu cực của kẻ thù, sau
khi liệt kê những khó khăn, gian truân của buổi đầu khởi nghĩa, Nguyễn Trãi chuyển ý :
“Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo” và từ đây, tình thế
thay đổi mau chóng. Có cảm tưởng kẻ thù càng đánh càng thua và thua rất nhanh, tưởng
như có bàn tay vơ hình giật đổ hệ thống đồn luỹ của chúng:


<i>Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế, </i>
<i>Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu. </i>
<i>Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong, </i>
<i>Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Trận Bồ Ðằng sấm vang chớp giật, </i>
<i>Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. </i>
<i>Gươm mài đá, đá núi cũng mòn, </i>
<i>Voi uống nước, nước sông cũng cạn. </i>
<i>Ðánh một trận, sạch không kình ngạc, </i>
<i>Ðánh hai trận, tan tác chim mng. </i>
<i>Nổi gió to qt sạch lá khơ, </i>


<i>Thơng tổ kiến phá toang đê vỡ. </i>


Những tổn thất, thất bại của kẻ thù cũng phải đo bằng tầm kích vũ trụ, bởi đó là sự trừng
phạt của trời, thần và người cộng lại:


<i>Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm </i>
<i>Tốt Ðộng thấy chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. </i>


<i>Ghê gớm thay, sắc phong vân phải đổi, </i>


<i>Thảm đạm thay, ánh nhật nguyệt phải mờ. </i>


<i>Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc, </i>
<i>Thành Ðan Xá thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. </i>


*


Chúng ta đều biết, bài Cáo được Nguyễn Trãi viết thay mặt Lê Lợi sau khi giặc Minh thất
bại nhục nhã phải rút về nước. Phải chăng đây là một thông điệp cho nhà Minh? Khả năng
này hầu như khơng thể có vì giặc xâm lược đã rút về, nhiệm vụ lịch sử lớn nhất là giành
lại độc lập dân tộc với giá hy sinh thấp nhất đã hoàn thành. Với chủ trương hoà hiếu, để
nhân dân hai nước nghỉ sức, Lê Lợi và Nguyễn Trãi chủ trương khoan hồng, cấp lương
thực và phương tiện cho chúng về nước. Do vậy, khơi gợi lại thất bại của chúng không
cần thiết nữa. Mặt khác, việc xưng đế trong bài Cáo đã nhằm vào nhân dân Ðại Việt, bởi
lẽ tất cả các triều đại phong kiến Việt Nam đều theo đuổi đối sách “trong xưng đế ngoài
xưng vương”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

sục sơi là những cảm xúc có thực. Song biện luận cho ngai vàng của Lê Lợi vẫn là một
nhiệm vụ quan trọng của bài Cáo. Và sự biện luận này được thực hiện khá chặt chẽ. Mở
đầu bài Cáo, Nguyễn Trãi với sự thật lịch sử, khẳng định một vùng không gian ảnh hưởng
Ðức của riêng các triều đại Việt Nam, nằm ngồi vùng khơng gian ảnh hưởng Ðức của
các triều đại phong kiến Trung Hoa. Việc khẳng định này sẽ được tiếp tục một cách hệ
thống hơn, chặt chẽ hơn trong Dư địa chí. Sau đó, bài Cáo, cũng với những sự thật lịch sử
hùng hồn, quy tụ về Ðức của Lê Lợi, người có đủ điều kiện toả phát từ trường ảnh hưởng
trong vùng khơng gian vũ trụ hố mà các đời trước đã tạo dựng, tức là đủ điều kiện kế tục
<i>đế quyền của “Triệu, Ðinh, Lý, Trần”. Người xưa nhìn nhận vua là người có năng lượng </i>
Ðức đủ mạnh để đứng ở vị trí liên thơng Trời và Người (vua là kẻ duy nhất có quyền tế
trời – tế giao). Nhưng, từ đời Chu đã biết, Trời không biết đến họ hàng và chỉ giúp kẻ có


Ðức. Một người bình thường nếu có Ðức thì có thể trở thành Thiên tử (con Trời), cịn con
Trời khơng có Ðức sẽ bị biến thành dân thường. Ðức lớn nhất, đó là hiếu sinh, biểu hiện
cụ thể nhất qua nhân nghĩa. “Từ xa xưa, người ta đã coi chức năng cơ bản của Trời là sự
sinh thành muôn vật nên tất nhiên, một trong những đặc điểm quan trọng của hoạt động
nhà vua vốn được cắt nghĩa như là sự tiếp tục một cách trực tiếp công việc của Trời, được
định nghĩa là lịng hiếu sinh. Tất nhiên ở đây khơng phải là tình u theo kiểu Platơng mà
là trách nhiệm trên phương diện quốc gia đối với sự sống của muôn vật đứng dưới quyền
lãnh đạo của Thiên tử. Ðiều này trong các văn bản quan phương xác định ngắn gọn bằng
công thức hiếu sinh, một đặc điểm quan trọng nhất của Ðức nhà vua trong phạm vi thế tục
[...]. Hiếu sinh, hiển nhiên là một trong những định nghĩa thường được sử dụng nhiều nhất
về Ðức của vua, cái Ðức không hướng lên trên, về các thế lực thần thiêng mà hướng
xuống dưới, trải rộng khắp Thiên hạ” [1]<sub> . Hiếu sinh áp dụng cho muôn vật, nhân nghĩa là </sub>


hiếu sinh áp dụng cho con người. Lê Lợi tích luỹ đủ năng lượng Ðức qua lòng nhân nghĩa,
qua đức hiếu sinh được trời, người mến mộ và Ðức đó đã được kiểm chứng thực tế qua
cuộc kháng chiến vừa xảy ra. Vì vậy, lên ngơi Thiên tử, thế thiên hành hố, đại thiên
<i>hành hố là một việc hết sức tự nhiên. Ơng David G. Marr đã nhận định khá tinh tế: </i>
“Những cơ sở tư tưởng của việc đồn kết đời đời có những điều chưa rõ. Nho giáo đã có
một sự hỗ trợ nho nhỏ, được quan tâm tới việc nâng cao khả năng của vua và các quân sư
để quản lý các dòng họ ngỗ nghịch đang cầm quyền và giảm bớt đi các cơ hội làm loạn
của những người nông dân không được học hành” [2]<sub> . Nguyễn Trãi vận dụng văn hoá cổ </sub>


để củng cố quyền lợi Lê Lợi và sự thống nhất của đất nước vào đầu đời Lê.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

[1]<sub>Xem A. X. Máctưnốp. “Phạm trù Ðức, sự tổng hợp giữa “trật tự” và “sự sống””, trong </sub>


sách Từ sức mạnh ma thuật đến chuẩn tắc đạo đức: Phạm trù Ðức trong văn hố Trung
<i>Hoa, NXB Văn học Ðơng phương Maxcơva, 1998, tr. 55 (Nga văn).</i>


[2]<sub>Xem: “Khái niệm nghệ thuật trị quốc ở Việt Nam”, sách Nghiên cứu Huế của Trung tâm</sub>



</div>

<!--links-->
Bình ngô đại cáo
  • 4
  • 960
  • 7
  • Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

    Tải bản đầy đủ ngay
    ×