Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường: Khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất Đại học Thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.84 MB, 42 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TIẾNG ANH
------

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG

Khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên
năm thứ nhất Đại học Thương mại

Người thực hiện : Nguyễn Thị Thanh Huyền
Đơn vị công tác : Bộ môn Lý thuyết tiếng Anh, Khoa tiếng Anh

HÀ NỘI – 3/2017

1


TĨM LƯỢC
Trong qua trình dạy và học ngoại ngữ nói chung và học tiếng Anh nói riêng, phát âm
chuẩn ln đóng vai trị quan trọng. Nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc học các kỹ năng cơ
bản để nắm bắt một ngoại ngữ đặc biệt là kỹ năng nghe nói. Tuy nhiên, đa số người học ngoại
ngữ chưa thực sự chú trọng đến việc phát âm chính xác và nâng cao khả năng phát âm. Xuất
phát từ thực tế đó kết hợp với những đánh giá về khả năng phát âm của sinh viên trường Đại
học Thương mại (ĐHTM) nói chung và sinh viên năm thứ nhất khơng chun của trường nói
riêng đúc rút từ kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, tác giả đã tiến hành nghiên cứu đề tài
“Khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất Đại học Thương mại” nhằm
tìm hiểu những lỗi phát âm của sinh viên năm thứ nhất khơng chun, trường ĐHTM, ngun
nhân gây ra những lỗi đó và trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng
phát âm chính xác của đối tượng sinh viên này, đồng thời góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy các học phần tiếng Anh trong nhà trường.
Thơng qua việc tìm hiểu các khái niệm cơ bản liên quan đến phát âm như: Khái niệm phát


âm, âm tiết, trọng âm, ngữ điệu, thanh điệu, các đặc điểm của hệ thống âm tiếng Anh, tác giả
đã tiến hành phân tích hai hệ thống âm tiếng Anh và tiếng Việt làm căn cứ khoa học để xá
định các lỗi phát âm của sinh viên một cách chuẩn xác hơn; điều tra thực trạng phát âm của
sinh viên năm thứ nhất không chuyên trường ĐHTM, nguyên nhân gây ra các khó khăn cho
sinh viên trong q trình học phát âm và mong muốn của sinh viên trong việc nâng cao khả
năng phát âm của bản thân và chất lượng giảng dạy các học phần tiếng Anh tại trường
ĐHTM. Điều tra được tiến hành với sinh viên chính quy năm thứ nhất K52 và sinh viên năm
thứ nhất khoa Đào tạo Quốc tế, và một số giáo viên trong Khoa. Công cụ được sử dụng để
điều tra gồm một phiếu điều tra phát cho sinh viên chính quy năm thứ nhất K52 và sinh viên
năm thứ nhất khoa Đào tạo Quốc tế, các từ và các phát ngôn tiếng Anh để ghi âm cách đọc
của sinh viên, một bản câu hỏi phỏng vấn dành cho giáo viên giảng dạy các học phần tiếng
Anh cho sinh viên năm thứ nhất. Kết quả điều tra chỉ ra rằng sinh viên Khoa Tiếng Anh hay
mắc phải các lỗi phát âm sau: lỗi phát âm nguyên âm (cụ thể là không phân biệt được các
nguyên âm ngắn, nguyên âm dài và các nguyên âm khó khơng có trong tiếng Việt), lỗi phát
âm phụ âm (phát âm sai các phụ âm khơng có trong tiếng Việt, phát âm sai phụ âm trong từ
gốc và không đọc phụ âm cuối, sai cách đọc phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed, ngọng n, l, và
phát âm sai các cụm phụ âm), lỗi trọng âm (từ và câu), lỗi ngữ điệu. Nguyên nhân dẫn tới các
lỗi này là do: sinh viên ít luyện tập phát âm, thiếu trang thiết bị và cơ sở vật chất khi học mơn
ngữ âm nói riêng và các mơn tiếng Anh nói chung, những thói quen phát âm cũ, ảnh hưởng
của tiếng địa phương, phương pháp sửa lỗi của giáo viên chưa phù hợp, sinh viên chưa biết/
2


chưa tra cách đọc khi gặp từ mới dẫn tới tình trạng phát âm theo cáh phán đốn của bản thân,
khác biệt giữa âm tiếng Anh và tiếng Việt, tốc độ nói (quá nhanh hoặc quá chậm).
Dựa trên các kết quả thu thập được, tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế việc lỗi
phát âm của sinh viên năm thứ nhất, nâng cao khả năng phát âm của họ, đồng thời đề xuất
một số hoạt động để giáo viên có thể linh hoạt áp dụng vào quá trình giảng dạy nhằm nâng
cao chất lượng giảng dạy các học phần tiếng Anh trong nhà trường.


3


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tác giả muốn gửi lời cảm ơn tới Nhà trường, Phòng Quản lý Khoa học, các
giáo viên dạy tiếng Anh của Khoa Tiếng Anh đặc biệt là Bộ môn Lý thuyết tiếng đã tạo điều
kiện cho tác giả hoàn thành dự án đúng thời hạn và đạt kết quả khả quan.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các em sinh viên năm thứ nhất K52và
sinh viên năm thứ nhất khoa Đào tạo Quốc tế và giáo viên Bộ môn Lý thuyết tiếng đã nhiệt
tình tham gia trả lời phiếu khảo sát, ghi âm và tham gia phỏng vấn, giúp nhóm tác giả thu thập
được những tài liệu, số liệu quý giá phục vụ cho nghiên cứu.

4


MỤC LỤC
Trang
TÓM LƯỢC ............................................................................................................................... 1
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................................. 4
MỤC LỤC .................................................................................................................................. 5
DANH MỤC BẢNG BIỂU ........................................................................................................ 7
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ..................................................................................................... 8
Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI................................................................... 9
1.1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................................... 9
1.2. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................................... 10
1.3. Mục tiêu nghiên cứu ...................................................................................................... 10
Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN .................................................................................................. 11
2.1

Một số khái niệm cơ bản: ......................................................................................... 11


2.2

Những đặc điểm của hệ thống âm tiếng Anh: .......................................................... 12

2.3. Sự khác biệt giữa hệ thống âm tiếng Anh và hệ thống âm tiếng Việt: .......................... 12
2.3.1. Về trọng âm ............................................................................................................ 12
2.3.2. Về ngữ điệu ............................................................................................................ 13
2.3.3. Về cách nối các từ trong chuỗi lời nói .................................................................... 14
2.3.4. Về cách phát âm các cụm phụ âm .......................................................................... 15
2.3.5. Về phát âm dạng mạnh (strong form) và dạng yếu (weak form) ........................... 15
2.3.6. Về hệ thống âm ....................................................................................................... 16
2.3.7. Về ngữ pháp............................................................................................................ 19
Chương 3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA ..................................................................... 20
3.1. Đối tượng điều tra .......................................................................................................... 20
3.2. Câu hỏi điều tra ............................................................................................................. 20
3.3. Công cụ điều tra............................................................................................................. 20
3.4. Phân tích đối tượng nghiên cứu ..................................................................................... 20
3.5. Phân tích lỗi phát âm ..................................................................................................... 21
3.5.1. Phát âm sai nguyên âm ........................................................................................... 22
3.5.2. Phát âm sai phụ âm ................................................................................................. 23
3.5.3. Phát âm sai các phụ âm khơng có trong tiếng Việt ................................................ 24
3.5.4. Phát âm sai phụ âm trong từ gốc và không đọc phụ âm cuối ................................. 24
3.5.5. Phát âm sai phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed .......................................................... 25
3.5.6. Ngọng l, n ............................................................................................................... 26
5


3.5.7. Phát âm sai các cụm phụ âm................................................................................... 27
3.5.8. Phát âm sai trọng âm .............................................................................................. 27

3.5.9. Sử dụng sai ngữ điệu .............................................................................................. 28
Chương 4. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP ................................................................................. 32
4.1 Về phía sinh viên ............................................................................................................ 32
4.2. Về phía Nhà trường và giáo viên ................................................................................... 33
4.2.1Về phía Nhà trường .................................................................................................. 33
4.2.2Về phía giáo viên ...................................................................................................... 34
KẾT LUẬN .............................................................................................................................. 35
Một số phần mềm học tiếng Anh tham khảo ............................................................................ 36
PHIẾU ĐIỀU TRA DÀNH CHO SINH VIÊN ........................................................................ 39
BẢNG CÂU HỎI PHỎNG VẤN DÀNH CHO GIÁO VIÊN ................................................. 41
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................................ 42

6


DANH MỤC BẢNG BIỂU
- Biểu đồ 1: Sở thích của sinh viên đối với tiếng Anh
- Biểu đồ 2: Nhận thức của sinh viên về tầm quan trọng của việc học phát âm
- Biểu đồ3: Đánh giá của sinh viên về khả năng phát âm của bản thân
- Biểu đồ 4: Đánh giá của sinh viên về độ khó của việc học phát âm
- Biểu đồ 5: Tỷ lệ mắc lỗi phát âm nguyên âm
- Biểu đồ 6: Tỷ lệ mắc lỗi phát âm các phuậm độc lập
- Biểu đồ 7: Tỷ lệ phát âm sai phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed
- Biểu đồ 8: Tỷ lệ ngọng l,n
- Biểu đồ 9: Tỷ lệ phát âm sai các cụm phụ âm
- Biểu đồ 10: Tỷ lệ sinh viên sử dụng sai trọng âm từ, trọng âm câu
- Biểu đồ 11: Nhận thức của sinh viên về ngữ điệu
- Biểu đồ 12: Nguyên nhân dẫn tới các lỗi phát âm của sinh viên.

- Bảng 1: Hệ thống âm nguyên âm tiếng Việt

- Bảng 2: Hệ thống âm phụ âm tiếng Anh
- Bảng 3: Hệ thống âm phụ âm tiếng Việt
- Bảng 4: Số lượng sinh viên phát âm sai nguyên âm trong các từ cho trước
- Bảng 5: Số lượng sinh viên phát âm sai phụ âm trong các từ cho trước
- Bảng 6: Số lượng sinh viên sử dụng sai ngữ điệu

7


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- ĐHTM

: Đại học Thương Mại

- PÂ

: Phát âm

- PV

: Phát ngôn

- SV

: Sinh viên

- T.A

: T.Anh : Tiếng Anh


- T.Việt

: Tiếng Việt

8


Chương 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Với xu thế hội nhập, toàn cầu hoá hiện nay, việc học và sử dụng tiếng Anh để giao tiếp
là nhu cầu thiết yếu, đặc biệt là đối với sinh viên. Làm thế nào để giao tiếp có hiệu quả phụ
thuộc rất lớn vào việc phát âm chuẩn xác của người tham gia giao tiếp và mục đích cuối cùng
và cốt lõi của việc dạy và học tiếng Anh là người học có thể sử dụng nó như một phương tiện
giao tiếp hiệu quả. Việc sử dụng tiếng Anh khẩu ngữ có hiệu quả hay khơng phần lớn phụ
thuộc vào độ chính xác trong phát âm của người tham gia giao tiếp bởi vì “ngữ âm đóng vai
trị quan trọng giúp người khác hiểu ta muốn nói gì và ngược lại” (Brazil (1994)). Phát âm là
một trong ba thành tố ngơn ngữ giữ vai trị vơ cùng quan trọng trong việc hỗ trợ người học
tiếp cận khả năng phát và nhận của người bản ngữ, đồng thời cũng giúp phát triển các kĩ năng
ngơn ngữ của mình. Tench (1981) đã chỉ ra rằng thiếu chuẩn xác trong hình thức từ hay cấu
trúc câu và mệnh đề, việc lựa chọn sai từ trong văn cảnh hay sai văn phong, tất cả đều tạo ra
những cản trở trong giao tiếp nhưng khơng có thành tố ngơn ngữ nào làm méo mó nội dung
như sự thiếu chính xác trong phát âm. Điều này có nghĩa là phát âm sai có thể gây ra những
hiểu nhầm trong giao tiếp hằng ngày. Do đó việc phát âm chuẩn và nắm được các cách phát
âm chính xác đã ngày càng được chú trọng trong việc học tiếng Anh hiện nay..
Phát âm luôn là một trở ngại đáng kể đối với người Việt học tiếng Anh ở tất cả các cấp
độ. Học sinh ở các trường phổ thông ở Việt Nam vẫn chủ yếu chú trọng nhiều về kỹ năng đọc
và viết nên kỹ năng nghe và nói của các em cịn yếu, đặc biệt các em vẫn chưa coi trọng và
chưa có phương pháp để phát âm chuẩn. Chính vì vậy lên Đại học các em gặp rất nhiều khó
khăn trong các giờ học có các phần nghe nói. Hầu hết sinh viên không nắm kỹ về đặc điểm
cấu âm, sự khác nhau giữa tiếng Anh và tiếng Việt nên các em thường bị tiếng mẹ đẻ ảnh

hưởng tiêu cực đến việc phát âm và nói tiếng Anh.
Hiên nay, sinh viên ra trường đi xin việc hầu hết phải tham dự phỏng vấn bằng tiếng
Anh nếu thi tuyển có tiếng Anh. Có rất ít nơi chỉ tổ chức thi viết. Hơn nữa các vị trí việc làm
có mức lương cao đặc biệt các cơng ty có giao dịch bằng tiếng Anh ln địi hỏi nhân viên
phải có khả năng giao tiếp tiếng Anh tốt. Vì vậy, việc dạy nghe nói tiếng Anh trong các
trường đại học đã và đang được chú trọng . Trong đó việc phát hiện ra các lỗi phát âm của
sinh viên trong quá trình dạy và học tiếng Anh là vô cùng cần thiết và cấp bách.
Phát âm tiếng Anh đối với những người học tiếng Anh như một ngoại ngữ là một vấn đề được
rất nhiều người quan tâm và nghiên cứu vì khả năng phát âm tiếng Anh ảnh hưởng trực tiếp
đến khả năng nói trơi chảy cũng như quá trình giao tiếp. Ở Việt Nam, một số nhà nghiên cứu
đã tiến hành các nghiên cứu về những khó khăn của học viên Việt Nam trong việc phát âm
9


tiếng Anh và khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của người Việt như Hà Cẩm Tâm và một số giáo
viên của các trường phổ thông, đại học như Khảo sát việc thể hiện âm tắc tiếng Anh của sinh
viêntrường cao đẳng Cơng nghiệp Tuy hịa của Võ Thị Thao Ly và Nguyễn Thị An. Tuy
nhiên việc nâng cao, cải thiện phát âm và dạy phát âm cho học sinh vẫn chưa được chú trọng.
Thậm chí nhiều giáo viên dạy tiếng Anh nhất là vùng nơng thơn cịn chưa phát âm chuẩn. Một
số trường phổ thông cũng chỉ tổ chức các khoá học nâng cao khả năng phát âm cho giáo viên.
Trên thực tế các nghiên cứu về lỗi phát âm của sinh viên không chuyên thuộc khối trường
Kinh tế chưa nhiều và chưa được triển khai sâu rộng. Đồng thời các giải pháp đưa ra cũng
chưa được áp dụng nhiều hay chưa có tính thực tế cao. Hiện tại vẫn chưa có nghiên cứu nào
nghiên cứu, khảo sát về các lỗi phát âm của sinh viên không chuyên năm thứ nhất được tiến
hành tại Trường Đại học Thương Mại. Vì vậy tác giả đã đề xuất nghiên cứu đề tài này với
mong muốn tìm ra những lỗi phát âm tiếng Anh sinh viên năm thứ nhất trường Đại học
Thương mại nói riêng và người Việt nói chung thường mắc khi nói tiếng Anh, tìm ra ngun
nhân và nêu ra một số đề xuất khắc phục.
1.2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài Khảo sát lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất không chuyên trường

Đại học Thương mại nghiên cứu những lỗi phát âm tiếng Anh của sinh viên năm thứ nhất
không chuyên tại trường đại học Thương mại.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu đề tài này tác giả mong muốn sẽ thực hiện được một số mục tiêu
sau đây:
-

Tìm ra các lỗi phát âm mà sinh viên năm thứ nhất không chuyên Trường Đại học Thương
mại hay mắc phải

-

Xác định nguyên nhân gây ra những lỗi đó.

-

Tìm ra những giải pháp nhằm giúp giáo viên cũng như bản thân sinh viên hạn chế những
lỗi phát âm này và nâng cao khả năng phát âm chuẩn, chính xác cho sinh viên năm thứ nhất
Đại học Thương mại và giúp nâng cao hiệu quả giảng dạy và học tập trong các giờ học tiếng
Anh trong trường.

10


Chương 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN
Thực tế cho thấy phát âm tiếng Anh luôn là một trở ngại đối với người Việt học tiếng
Anh. Trong quá trình dạy và học ngoại ngữ đặc biệt là phát âm, tiếng mẹ đẻ ln là một yếu
tố có ảnh hưởng lớn đến việc tiếp nhận mgoại ngữ khác. Và việc tiếp nhận một hệ thống âm
tiếng nước ngồi ln là một vấn đề khó khăn lớn đối với người học. Theo Nunan (1991), các
vấn đề trong việc tiếp nhận ngữ âm của ngôn ngữ thứ hai là một thách thức lớn đối với bất cứ

một học thuyết nào về việc tiếp nhận ngôn ngữ thứ hai.
Trong quá trình học ngoại ngữ, tiếng mẹ để có thể có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực
đối với người học. Ảnh hưởng tích cực gọi là chuyển di tích cực. Hiện tượng này xảy ra khi
có sự giống nhau giữa các hệ thống ngữ âm và âm vị của tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ, tạo thuận
lợi cho việc tiếp nhận phát âm. Còn ảnh hưởng tiêu cực gọi là chuyển di tiêu cực. Hiện tượng
chuyển di tiêu cực thường gây cản trở và làm chậm quá trình học tập. Chuyển di tiêu cực là
hiện tượng xảy ra khi có sự nhầm lẫn của người học cho rằng cấu trúc của ngoại ngữ cũng
giống như cấu trúc của tiếng mẹ đẻ, trong khi giữa các cấu trúc của hai thứ tiếng có sự khác
biệt. Sự áp đặt cấu trúc tiếng mẹ đẻ cho cấu trúc ngoại ngữ dẫn đến việc phạm lỗi. Những lỗi
này nếu không được sửa chữa kịp thời thì sẽ được người học ghi nhớ trở thành thói quen của
người học và rất khó sửa.
Để nâng cao hiệu quả giảng dạy ngoại ngữ, cần phải tìm cách khắc phục hiện tượng
chuyển di tiêu cực và lợi dụng những chuyển di tích cực, nghĩa là phải tìm ra những điểm
tương đồng và khác biệt giữa tiếng mẹ đẻ và ngoại ngữ. Vì vậy, để tìm hiểu những lỗi phát âm
mà sinh viên khơng chun năm thứ nhất trường Đại học Thương mại mắc phải, tác giả đã
tiến hành tìm hiểu một số khái niệm cơ bản liên quan đến phát âm, những đặc trưng cơ bản
của tiếng Anh, từ đó so sánh hai hệ thống âm tiếng Anh và tiếng Viêt. Phân tích sự khác biệt
giữa hệ thống âm tiếng Anh và Tiếng Việt có thể kiểm tra các lỗi này một cách dễ dàng hơn,
ngồi ra cũng giúp cho q trình dạy và học giao tiếp tiếng Anh hiệu quả hơn.
2.1 Một số khái niệm cơ bản:
* Âm tiết:
Âm tiết là đơn vị phát âm nhỏ nhất của lời nói mang những sự kiện ngơn điệu như
thanh điệu, trọng âm. Vì vậy người ta cịn gọi nó là điệu vị.
* Thanh điệu:
Thanh điệu là sự thay đổi cao độ của giọng nói, tức là tần số âm cơ bản trong một âm
tiết có tác dụng khu biệt các từ có nghĩa khác nhau
- Thanh điệu gồm hai loại: Thanh điệu âm vực và thanh điệu hình tuyến.

11



+ Thanh điệu âm vực là loại trong đó các thanh phân biệt nhau bằng các mức trên thang bậc
cao độ, có thể miêu tả như những điểm. Ví dụ: tiếng Yoruba được nói ở Nigeria.
+ Thanh điệu hình tuyến là loại thanh điệu phân biệt nhau bằng sự di chuyển cao độ từ thấp
lên cao hoặc từ cao xuống thấp, không được miêu tả đơn giản như những điểm mà bằng
những đường cong lên xuống. Ví dụ: thanh điệu tiếng Việt, tiếng Hán, tiếng Thái.
* Trọng âm: là một biện pháp âm thanh làm nổi bật một đơn vị ngôn ngữ học lớn hơn âm tố
(âm tiết, từ, ngữ đoạn, câu) để phân biệt với những đơn vị ngôn ngữ học khác cùng cấp độ.
Ví dụ :
* Ngữ điệu: là sự biến đổi cao độ của giọng nói diễn ra trong một chuỗi âm thanh lớn hơn âm
tiết hay một từ.
2.2 Những đặc điểm của hệ thống âm tiếng Anh:
Peter Roach (1998) cho rằng tiếng Anh là một ngôn ngữ có những đặc trưng cơ bản
sau:
- Tiếng Anh có trọng âm từ và trọng âm câu.
- Là ngôn ngữ có ngữ điệu, lên xuống giọng tùy thuộc vào chức năng giao tiếp của câu.
- Có dạng yếu và dạng mạnh trong phát âm một số từ chức năng.
- Có hiện tượng nối âm trong chuỗi lời nói.
- Có cách phát âm các phụ âm cuối của từ rất đặc trưng.

2.3. Sự khác biệt giữa hệ thống âm tiếng Anh và hệ thống âm tiếng Việt:
2.3.1. Về trọng âm
Tiếng Việt là ngơn ngữ đơn âm tiết và có thanh điệu, trong khi tiếng Anh là một ngôn
ngữ đa âm tiết với những đặc tính phức tạp về trọng âm, ngữ điệu. Do sự khác biệt này mà
người Việt thường gặp phải các khó khăn khi học phát âm tiếng Anh. Vấn đề đầu tiên mà sinh
viên Việt Nam gặp phải do sự khác biệt trên là trọng âm.
Tiếng Việt mỗi từ được phát âm thành một tiếng (một âm tiết) và tất cả các từ đều
được phát âm như nhau về độ dài, độ cao, độ mạnh. Trong tiếng Anh, những từ hai âm tiết trở
lên ln có một âm tiết được phát âm khác biệt hẳn so với những âm tiết còn lại về độ dài, độ
lớn, độ cao.

polysemy/’polisimi/, invent /in’vent/, expensive /ik’spensiv/
Một số từ có thể có hai trọng âm, trọng âm chính và trọng âm phụ. Examplify /ig’zempli,fai/
Ngồi trọng âm trong từ tiếng Anh cịn có trọng âm của câu. Nghĩa là một số từ trong
chuỗi lời nói được phát âm mạnh hơn so với những từ cịn lại. Những từ được nhấn mạnh
trong chuỗi lời nói thường là những từ miêu tả nghĩa một cách độc lập như: danh từ (shirt,
12


flower, people..), động từ chính (do, eat, read, travel,..) trạng từ (rapidly, fluently,
correctly…), tính từ (lovely, nice, beautiful,…), từ để hỏi (what, why, who…). Những từ
không được nhấn trong chuỗi lời nói là những từ chức năng như: giới từ (in, on, at…), mạo từ
(a, an the), trợ động từ (must, can, have…), đại từ (he, she it,…), từ nối (and, but, or,…), đại
từ quan hệ (which, what, when,…).
Người Việt quen với ngơn ngữ đơn âm tiết nên rất khó cho họ để nhớ một từ dài có
nhiều hơn một âm tiết. Do đặc điểm đơn âm tiết nên các từ tiếng Việt khơng có trọng âm. Vì
vậy, càng khó khăn cho học viên Việt Nam hơn khi họ phải đọc đúng trọng âm của từ. Ngoài
ra, trọng âm từ trong tiếng Anh khơng có một dấu hiệu chính tả cụ thể nào nên rất khó cho
người học học thuộc lịng. Đó là lý do tại sao phát âm sai trọng âm hoặc khơng có trọng âm là
một lỗi phổ biến đối với người Việt học tiếng Anh. Vì vậy, nguwoif Việt cần phải quen với
khái niệm trọng âm từ, khái niệm này khác với khái niệm thanh điệu trong tiếng Việt. Trong
tiếng Việt, thanh điệu luôn luôn thuộc về âm vị, trong khi trong tiếng Anh, trọng âm không
phải lúc nào cũng thuộc âm vị. Sự khác biệt này gây khó khăn cho người học khi học phát âm
tiếng Anh. Hơn nữa, trọng âm tiếng Anh có thể thay đổi khi thêm tiền tố, hậu tố hoặc các yếu
tố từ vựng khác, nên trọng âm dường như là một thách thức lớn đối với người Việt nói chung
và sinh viên năm thứ nhất không chuyên trường đại học Thương mại nói riêng.
2.3.2. Về ngữ điệu
Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự lên và xuống của giọng nói. Trong
tiếng Anh có hai loại ngữ điệu đó là ngữ điệu lên (the rising tune) và ngữ điệu xuống (the
falling tune). Ngồi ra có thể kết hợp cả hai và gọi là ngữ điệu kết hợp lên xuống (the rising
– falling / the falling – rising tune).

Trên thực tế, tiếng Việt cũng có ngữ điệu nhưng vai trị của ngữ điệu rất mờ nhạt
không rõ như tiếng Anh và một số ngơn ngữ khác. Vì vậy, người Việt Nam thường ít khi chú
ý đến ngữ điệu. Đoàn Thiện Thuật, nhà Việt ngữ học giải thích rằng họ khơng chú ý nhiều
đến ngữ điệu vì ngơn ngữ sử dụng thanh điệu như tiếng Việt thường có giới hạn về ngữ điệu.
Thay vào đó, người Việt thường thêm một số thành tố nhằm làm thay đổi ý nghĩa của câu, ví
dụ họ có thể thêm các từ: hả, hử, á, ạ,... để tạo thành câu hỏi, hoặc một số từ như: ôi, ối, á,
quá, thật, làm sao,... để có được câu cảm thán. Điều này có nghĩa là người Việt Nam thay đổi
tình thái các loại câu khác nhau bằng các yếu tố từ vựng chứ không phải bằng ngữ điệu. Tuy
nhiên, những yếu tố này thường được phát âm với giọng mạnh hơn và cao hơn, điều này có
nghĩa là ngữ điệu cũng đóng một vai trị nhỏ trong việc tạo lập các loại câu khác nhau. Mặt
khác, trong tiếng Anh, ngữ điệu đóng vai trị rất quan trọng trong việc thay đổi nghĩa của câu.
Với ngữ điệu khác nhau, nghĩa của cùng một phát ngơn có thể thay đổi khác nhau.

13


Ví dụ:
A:Excuse me?
B: -Yes. (ngữ điệu xuống – khơng nhiệt tình giúp , có thể đang bận )
- Yes. ( ngữ điệu lên – Nhiệt tình, sẵn sang giúp đỡ = How can I help you?)
Do đặc điểm về ngữ điệu này của Tiếng Anh mà sinh viên Việt Nam thường có rất nhiều
khó khăn trong việc tiếp nhận đúng thơng tin của người nói khi họ giao tiếp bằng tiếng Anh.
Họ không đánh giá cao tầm quan trọng của ngữ điệu tiếng Anh. Khi nói, họ khơng chú trọng
hoặc chú trọng ít đến ngữ điệu. Vì vậy, khi nói tiếng Anh, họ thường bị sai về ngữ điệu. Đây
cũng là lý do tại sao ngữ điệu có thể được xem là một vấn đề nghiêm trọng đối với sinh viên
Việt Nam trong quá trình học Tiếng Anh.
2.3.3. Về cách nối các từ trong chuỗi lời nói
Trong tiếng Anh, hiện tượng nối từ trong chuỗi lời nói rất phổ biến. Hiện tượng nối từ
có thể được xem xét ở các khía cạnh sau:
+ Phụ âm - nguyên âm

Trong một chuỗi lời nói, khi một từ kết thúc là một phụ âm và ngay sau nó là một từ bắt đầu
bằng một nguyên âm, phụ âm của từ đứng trước sẽ được đọc liền với từ đứng sau.
+ Phụ âm - phụ âm
Khi một từ kết thúc là một trong các phụ âm /p/, /b/, /t/, /d/, /k/,/g/ theo sau là các từ bắt
đầu là một phụ âm thì việc phát âm các âm trên sẽ không được thực hiện.
Bad- judge stop- trying keep- speaking
/d/-/də / /p/-/t/ /p/-/s/
Các âm /d/, /p/ trong các ví dụ trên sẽ bị nuốt đi (khơng được phát âm)
+ Nối các âm giống nhau
Khi các phụ âm ở cuối từ trước chính là phụ âm ở đầu từ sau ta có xu hướng phát âm
những âm này thành một phụ âm kéo dài.
Top- position black- cat big- girl
/p/-/p/ /k/ - /k/ /g/-/g/
Các âm /p/, /k/, /g/ chỉ được phát âm một lần nhưng kéo dài.
Như vậy, trong tiếng Anh, các âm tiết cũng như các từ được kết nối chặt chẽ. Sự cấu
âm trong các giới hạn cuối cùng của từ và âm tiết thường mạnh hơn. Do đó, người nói tiếng
Anh phải sử dụng hơi mạnh hơn so với khi nói tiếng Việt. Ngược lại, những từ tiếng Việt
thường được nói với luồng hơi nhẹ hơn ở cuối từ và có sự tách rời rõ ràng giữa các từ. Do sự
khác biệt này, sinh viên Việt Nam thường hay mắc lỗi khi phát âm tiếng Anh. Họ thường có
khó khăn khi đọc nối các âm tiết trong một từ đa âm tiết cùng nhau và thường nói các từ và
các âm tiết tiếng Anh một cách rời rạc. Vì vậy, rất khó để họ hiểu khi họ nghe người bản xứ
14


nói vì những người bản xứ thường nối phụ âm cuối cùng của từ với từ sau đó bắt đầu bằng
một nguyên âm. Trong cùng một từ việc nối từ là một vấn đề lớn đối với sinh viên Việt Nam
vì tiếng mẹ đẻ của họ khơng có đặc điểm này.
2.3.4. Về cách phát âm các cụm phụ âm
So với tiếng Anh thì tiếng Việt có cấu trúc âm tiết đơn giản hơn. Đoàn Thiện Thuật
kết luận rằng một từ trong tiếng Việt thường có ba hoặc ít hơn 3 âm vị. Do đặc điểm này, các

cụm phụ âm không tồn tại trong tiếng Việt, trong khi trong tiếng Anh hiện tượng này là phổ
biến. Trong tiếng Anh, các cụm phụ âm có thể xuất hiện ở đầu hoặc cuối từ, một từ có thể bắt
đầu bằng một phụ âm (ví dụ: go), hai phụ âm (ví dụ: glitter), hay ba phụ âm (ví dụ: stream) và
kết thúc với một phụ âm (ví dụ: then), hai phụ âm (ví dụ: last), ba phụ âm (ví dụ: attempt) hay
bốn phụ âm (ví dụ: attempts). Đặc điểm này gây khó khăn khơng nhỏ đối với các học viên
Việt Nam. Tuy nhiên, các người Việt thường có khó khăn hơn khi phát âm các cụm phụ âm
cuối từ và họ thường bỏ một hoặc hai phụ âm cuối.
2.3.5. Về phát âm dạng mạnh (strong form) và dạng yếu (weak form)
Một số từ chức năng (function words) trong tiếng Anh như trợ động từ, giới từ, liên từ,
có thể có hai cách phát âm-dạng mạnh và dạng yếu. Dạng phát âm yếu (weak form) là dạng
phát âm thông thường của loại từ này, chúng chỉ được phát âm dưới dạng mạnh(strong form)
trong các trường hợp sau:
- Khi từ đó xuất hiện ở cuối câu nói.
I’m looking for a book. Which book are you looking for?
/fə(r)/

/fɔ:(r)/

- Khi từ đó được đặt trong tình huống đối lập.
- Khi từ đó được nhấn mạnh vì mục đích của người nói.
I can speak Japanese so let me talk with him. /kæn/ dạng mạnh
I can drive./ kən / dạng yếu
Thực tế là người Việt thường đọc tất cả các âm giống nhau và đều như nhau, không
chú ý đến dạng mạnh và dạng yếu khi phát âm. Họ không quen với dạng yếu của nguyên âm
trong các âm tiết khơng có trọng âm. Điều này có nghĩa là những âm tiết mang trọng âm được
đọc mạnh và rõ hơn, trong khi những âm tiết không mang trọng âm được đọc nhẹ hơn và các
nguyên âm trong các âm tiết khơng có trọng âm bị làm yếu đi. Tiếng Việt khơng có đặc điểm
này, vì vậy, người Việt thường đọc tất cả các âm tiếng Anh với giọng đều đều, và cũng rất
khó để họ nhớ rằng họ phải đọc các ngun âm trong các âm tiết khơng có trọng âm ở dạng
yếu.


15


2.3.6. Về hệ thống âm
Tiếng Anh và tiếng Việt có hệ thống phát âm cũng rất khác nhau. Tiếng Anh có 24 âm
phụ âm, 20 âm nguyên âm (bao gồm 12 nguyên âm đơn và 8 nguyên âm đôi), trong khi tiếng
Việt chỉ có 23 âm phụ âm, 13 âm ngun âm và 3 ngun âm đơi. Có nhiều ngun âm và
phụ âm có trong tiếng Anh nhưng khơng có trong tiếng Việt và ngược lại. Sự khác biệt này
làm cho người Việt khó tiếp nhận hệ thống âm tiếng Anh.
Theo Trung tâm từ điển học, Tiếng Việt có 16 âm vị là nguyên âm (trong đó có 13
nguyên âm đơn, 3 nguyên âm đôi) và 2 âm vị là bán nguyên âm*. Trong 16 âm vị nguyên âm
và 2 âm vị bán ngun âm thì có 17 cách đọc (phát âm), và được ghi lại bằng 20 chữ viết. 20
chữ viết này được hình thành từ 12 chữ cái (con chữ).

Bảng 1: Hệ thống âm nguyên âm tiếng Việt
(Nguồn: Trung tâm từ điển học)
16


Trong tiếng Anh, số lượng này lớn hơn nhiều. Tiếng Anh có 20 âm nguyên âm bao
gồm 7 nguyên âm ngắn, 5 nguyên âm dài và 8 nguyên âm kép. Sự khác biệt rõ ràng nhất giữa
hai hệ thống nguyên âm là ở chỗ tiếng Việt khơng có ngun âm dài. Đó là lý do tại sao nhiều
sinh viên Việt Nam không quen với khái niệm nguyên âm dài trong tiếng Anh và họ thường
phát âm nguyên âm ngắn thay vì nguyên âm dài. Hơn nữa, trong tiếng Việt, nguyên âm kép
hiếm khi theo sau bởi một phụ âm cuối, nhưng trong tiếng Anh, hiện tượng này là phổ biến
nên khi sinh viên Việt Nam gặp phải một cụm gồm một nguyên âm kép và kết thúc bởi một
phụ âm, rất khó cho họ để phát âm cả từ trọn vẹn, họ thường khơng phát âm phụ âm cuối. Ví
dụ, họ có thể phát âm từ “five” /faiv/ mà khơng phát âm phụ âm cuối /v/
Vấn đề thứ hai là sự khác nhau giữa hệ thống phụ âm trong hai ngơn ngữ. Theo

Roach, P. (1983), tiếng Anh có 24 phụ âm.
/p/

pen /pen/

/b/

bad / bæd/

/t/

tea /ti:/

/d/

do /du:/

/k/

cat /kæt/

/ɡ/

gap /ɡæp/

/tʃ/

chin / tʃIn/

/də/


June / dəu:n/

/m/

man /mæn/

/n/

nap /næp/

/f/

fat /fæt/

/v/

van /væn/

/θ/

thin / θIn/

/ð/

then / ðen/

/s/

sap /sæp/


/z/

zoo /zu:/

/ʃ/

she /ʃi:/

/ə/

vision /vIən/

/h/

hat /hæt/

/l/

leg /leg/

/w/

wet /wet/

/ŋ/

rang /ræŋ/

/r/


red /red/

/j/

yes /jes/

Bảng 2: Hệ thống âm phụ âm tiếng Anh
(Nguồn: Từ điển Oxford University Press, 2008)
Việc phân loại các phụ âm trên dựa vào vị trí và phương thức cấu âm

17


Tiếng Việt có 23 âm vị là phụ âm. Tương ứng với 23 âm vị phụ âm thì có 24 cách đọc (phát âm), và
được ghi lại bằng 27 chữ viết. 27 chữ viết này được hình thành từ 19 chữ cái (con chữ)

Bảng 3: Hệ thống âm phụ âm tiếng Việt
(Nguồn: Trung tâm từ điển học)
Việc phân loại các phụ âm tiếng Việt cũng dựa trên hai tiêu chí trên nhưng đặc biệt
hơn. So sánh hai hệ thống âm của hai ngơn ngữ, chúng ta có thể thấy rằng, trước hết, có một
vài phụ âm chỉ tồn tại trong hệ thống âm tiếng Anh mà khơng có trong hệ thống âm tiếng Việt
như: tʃ, də, ʃ, f, θ, ð, w, z, ə, ŋ. Vì vậy sinh viên có khó khăn lớn trong việc nắm bắt các âm
này. Do không quen thuộc với những âm này nên rất khó cho sinh viên để phát âm một cách
chuẩn xác những âm phụ âm này. Nhiều em không biết cách phát âm những phụ âm khó trong
18


tiếng Anh. Ngồi ra, các học viên cịn lẫn lộn các âm giống nhau như: /b/ và /p/, / də / và / ð/
hay / ə/... và có khó khăn trong việc phát âm các cụm phụ âm như /desks/, /fIfθ/.

Hơn thế nữa trong tiếng Việt, một âm chỉ thể hiện qua một chữ cái, trong khi trong
tiếng Anh, một chữ cái có thể được thể hiện bằng nhiều âm khác nhau. Ví dụ, trong tiếng
Anh, chữ cái “a” có thể được phát âm là: /a:/ (car /ka:/), /æ/ (hat /hæt/), /eI/ (say /seI/, /ə/
(intimate /’IntImət/), hay /ɔ:/ (all /ɔ:l/). Vì vậy, nhìn vào một từ tiếng Anh, sinh viên không
thể biết cách đọc đúng nếu không tra từ điển. Việc dựa vào chữ cái để phát âm làm cho sinh
viên Việt Nam mắc phải rất nhiều lỗi khi phát âm vì khơng có một quy tắc cụ thể nào đối với
việc phát âm từng chữ cái.
2.3.7. Về ngữ pháp
Một trong những nguyên nhân dẫn tới các lỗi phát âm liên quan tới hiện tượng ngữ
pháp là có hiện tượng ngữ pháp tồn tại trong tiếng Anh mà không tồn tại trong tiếng Việt. Đó
là đi ‘s’ trong số nhiều và động từ ở ngơi thứ ba số ít (trong thời hiện tại đơn) và đuôi ‘ed’
trong các động từ và phân từ quá khứ có quy tắc. Các học viên Việt Nam thường bỏ không
phát âm hoặc phát âm đuôi ‘s’ là /s/ và đuôi ‘ed’ là /Id/ nhưng không phải lúc nào các đuôi
này trong tiếng Anh cũng được phát âm như vậy. Nguyên do của vấn đề này là trong tiếng
Việt khơng có khái niệm phụ âm vơ thanh và hữu thanh.
Ngồi ra, trong tiếng Anh có rất nhiều quy tắc phức tạp về âm vị như hiện tượng biến
đổi âm vị (hiện tượng đồng hoá, ngạc hố,...). Các hiện tượng này khơng tồn tại trong tiếng
Việt nên rất khó cho sinh viên khi nghe, hiểu và nói đúng theo người bản ngữ.
Tóm lại, có rất nhiều sự khác biệt giữa hệ thống âm của tiếng Anh và tiếng Việt có thể
là trở ngại cho người Việt nói chung và sinh viên khơng chun năm thứ nhất trường đại học
Thương mại khi học tiếng Anh. Sự so sánh giữa hai hệ thống âm của hai ngôn ngữ này đã cho
thấy lý do tại sao người Việt thường mắc lỗi khi họ học phát âm tiếng Anh.

19


Chương 3. PHÂN TÍCH KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
3.1. Đối tượng điều tra
Sinh viên năm thứ nhất k 52 chính quy và sinh viên năm thứ nhất hệ cử nhân thực hành
khoa Đào tạo Quốc tế, trường ĐHTM.

3.2. Câu hỏi điều tra
a. Sinh viên năm thứ nhất không chuyên Anh, Trường Đại học Thương mại thường mắc phải
những lỗi phát âm nào?
b. Nguyên nhân nào dẫn tới các lỗi này?
c. Các biện pháp nào nên được áp dụng để nâng cao khả năng phát âm của sinh viên và chất
lượng giảng dạy các học phần tiếng Anh cho sinh viên năm thứ nhất nói chung và sinh viên
tồn trường nói chung?
3.3. Công cụ điều tra
a) Phiếu điều tra được thực hiện đối với 50 SV K51 học học phần tiếng Anh 1, 50 SV năm
thứ nhất khoa Đào tạo Quốc tế.
b) Một bảng câu hỏi phỏng vấn dành cho 5 giáo viên đang giảng dạy sinh viên năm thứ nhất
thuộc Bộ môn Lý Thuyết Tiếng Anh, Khoa tiếng Anh, trường Đại học Thương mại.
c) Thu âm bằng điện thoại cách phát âm một số từ và câu và phần thuyết trình trong giờ thảo
luận của 20 sinh viên năm thứ nhất.
3.4. Phân tích đối tượng nghiên cứu
Tác giả đã tiến hành phát phiếu điều tra cho 100 sinh viên năm thứ nhất, trường Đại học
Thương mại, trong đó có 50 sinh viên năm thứ nhất k52, và 50 sinh viên năm thứ nhất khoa
Đào Tạo Quốc tế. ( cả sinh viên nam và sinh viên nữ). Những sinh viên này thuộc độ tuổi từ
19-21. 27 % sinh viên học tiếng Anh dưới 10 năm, số còn lại 73% học tiếng Anh từ 10 năm
trở lên. Đặc biệt có những sinh viên học tiếng Anh được trên 12 năm. Một số em thi đại học
môn tiếng Anh như khối D, A1 vào đại học nên các em có tinh thần và nhận thức đúng đắn
đối với việc học tiếng Anh. Điều này vơ cùng quan trọng vì khi có sự thích thú và thái độ học
tập rõ ràng, sinh viên sẽ có động cơ đúng đắn để học môn học này. Theo biểu đồ 1, 56% sinh
viên thích học tiếng Anh, 24% sinh viên rất thích tiếng Anh, trong khi số sinh viên có thái độ
bình thường với ngơn ngữ này chỉ chiếm 20%. Các số liệu trong biểu đồ 2 cho thấy tất cả sinh
viên năm thứ nhất đều cho rằng tiếng Anh quan trọng hoặc rất quan trọng 72% sinh viên thấy
rằng việc học phát âm rất quan trọng, số sinh viên có lựa chọn “quan trọng” chiếm 28%. Khi
đưa ra các lý do về tầm quan trọng của việc học phát âm, các sinh viên này cho biết việc học
phát âm quan trọng vì học phát âm “giúp nói và nghe tiếng Anh được chuẩn hơn”, “giúp
người học tự tin hơn trong giao tiếp”. Khi được yêu cầu tự đánh giá về khả năng phát âm của

20


bản thân, các sinh viên này đưa ra các con số không mấy khả quan. Không sinh viên nào nhận
thấy mình có khả năng phát âm rất tốt. 12% sinh viên cho rằng mình có thể phát âm tốt. Một
số lượng lớn sinh viên (76%) đánh giá khả năng phát âm của bản thân là “bình thường”. Số
sinh viên cịn lại (12%) tự nhận bản thân còn phát âm kém. Biểu đồ 5 thể hiện sự đánh giá của
sinh viên về độ khó của việc học phát âm. Quá bán số sinh viên (58%) thấy khó khăn trong
việc học phát âm, 30% sinh viên nhận thấy việc học phát âm vừa tầm với khả năng của họ,
10% sinh viên cho rằng học phát âm rất khó, chỉ một số lượng nhỏ sinh viên (2%) chọn
phương án “khơng khó chút nào”. Kết quả là, khả năng phát âm của sinh viên không cao,
cộng với thực tế là việc học phát âm khơng dễ dàng gì đối với sinh viên khiến 100% sinh viên
ít nhiều đều mắc lỗi khi phát âm. Các lỗi này sẽ được trình bày cụ thể trong mục 5.

0%

0%

20%

24%

Rất thích

28%

Rất quan trọng

0%


Quan trọng

Thích

Bình thường

Bình thường
72%

Khơng thích

56%

Biểu đồ 1: Sở thích của sinh viên đối với tiếng Anh

Khơng quan trọng
chút nào

Biểu đồ 2: Nhận thức của sinh viên về tầm quan
trọng của việc học phát âm

12%

0%

12%

Rất tốt

2%


10%

Rất khó

30%
Khó

T ốt

Bình thường

Bình thường
Kém

76%

Biểu đồ 3: Đánh giá của sinh viên về khả năng
học phát âm

58%

Khơng khó chút nào

Biểu đồ 4: Đánh giá của sinh viên về độ khó của việc
phát âm của bản thân

3.5. Phân tích lỗi phát âm
Để nắm bắt được thực trạng phát âm các nguyên âm trong tiếng Anh của sinh viên
năm thứ nhất không chuyên trường ĐHTM, tác giả đã sử dụng ba công cụ thu thập dữ liệu, đó

là ghi âm, phát phiếu điều tra cho sinh viên và phỏng vấn giáo viên. Kết quả được thu được
cho thấy sinh viên này của trường ĐHTM mắc lỗi phát âm ở cả bốn phương diện chính: phát
âm sai nguyên âm, phát âm sai phụ âm, phát âm sai trọng âm và sai ngữ điệu.
21


3.5.1. Phát âm sai nguyên âm
Tác giả đã phát phiếu điều tra cho 100 sinh viên cho sinh viên năm thứ nhất khơng
chun hệ chính quy và sinh viên năm thứ nhất khoa Đào tạo quốc tế có thi đại học môn tiếng
Anh và không thi môn tiếng Anh. Kết quả điều tra về lỗi sai nguyên âm dài, nguyên âm ngắn
được thể hiện ở bảng dưới:
6.c. Phát âm sai ngun âm dài, ngun âm ngắn
50%
45%
40%
35%
30%
25%
20%
15%
10%
5%
0%
SV có thi TA

SV khơng thi TA

Trung bình

Biểu đồ 5: Tỷ lệ mắc lỗi phát âm nguyên âm

Số liệu trên cho thấy khoảng gần 1/3 (30%) sinh viên năm thứ nhất khơng chun Anh
gặp khó khăn với các nguyên âm tiếng Anh. Tuy nhiên là có sự khác biệt theo chiều hướng lỗi
phát âm giảm hơn đối với các sinh viên có thi đại học môn tiếng Anh. Số lượng sinh viên năm
thứ 1 thi Tiếng Anh mắc lỗi phát âm (20%) chỉ bằng ½ so với sinh viên không thi dâị học
môn tiếng Anh (40%). Điều đó cho thấy việc chú trọng đến đào tạo tiếng Anh và sự cần thiết
phải đưa tiếng Anh là môn thi tốt nghiệp bắt buộc của Bộ Giáo Dục và Đào tạo để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ hội nhập quốc tế là một chủ trương đúng đắn.
Sinh viên được đề nghị đánh giá khả năng phát âm của mình đối với từng nguyên âm
trong 20 nguyên âm tiếng Anh (12 nguyên âm đơn, 8 nguyên âm đôi) để xem sinh viên
thường mắc lỗi tập trung ở các nguyên âm nào và Kết quả được thể hiện ở hình 2. Chúng ta
có thể thấy trong số 20 nguyên âm thì 17 nguyên âm gây khó khăn cho sinh viên năm thứ nhất
ĐHTM ở các tỷ lệ khác nhau, chiếm 85%. Đây là một con số rất đáng suy ngẫm. Nó cho thấy
hầu hết sinh viên năm thứ nhất ĐHTM gặp trở ngại trong giao tiếp khi không thể phát âm
chuẩn các nguyên âm của ngơn ngữ đích là tiếng Anh. Nhìn vào biểu đồ ta cũng có thể nhận
thấy những tỷ lệ mắc lỗi rất cao ở các nguyên âm /ɜ:/, /æ/, /ʊ/, /ʊ/ và /əʊ/ với tỷ lệ phần trăm
sinh viên mắc lỗi cao nhất là những ngun âm khơng có trong tiếng Việt như ngun âm /ỉ/
sinh viên khơng thi đại học mơn tiếng Anh có tỷ lệ mắc lỗi chiếm tới 50% trong khi sinh viên
22


thi khối D, A1 là 30% . Một số nguyên âm đôi phát âm không hẳn giống tiếng Việt cũng
thường bị nhầm lẫn với các nguyên âm gần giống của tiếng Việt như /əʊ/ thường bị phát âm
thành âm /ô/ của tiếng Việt. tỷ lệ này sinh viên có thi và không thi đại học môn tiếng Anh tỷ
lệ mắc lỗi là 45%. Kết quả này cũng giống với kết quả phỏng vấn giáo viên về lỗi nguyên âm
mà sinh viên thường mắc. Đây là các ngun âm khó, khơng có trong tiếng Việt, tiếng mẹ đẻ
của chúng ta. Vì vậy mà người Việt nói chung và sinh viên năm thứ nhất ĐHTM nói riêng
thường mắc lỗi khi phát âm những nguyên âm này.
Công cụ thu thập dữ liệu thứ hai, ghi âm, cũng cho thấy kết quả khá thống nhất với phiếu
điều tra. Tác giả đưa ra một số từ sinh viên đã học nhưng có cách phát âm các nguyên âm
đáng chú ý và yêu cầu 20 sinh viên phát âm độc lập các từ này.

Từ

Phát âm sai

Phát âm đúng

SV khơng
thi T A

SV thi TA

Appropriate

/ə’prəupraieit/

/ə’prəupriət/

3/10

3/10

Deposit

/’depozit/

/di’pozit/

4/10

5/10


Effort

/’ef t/

/’efət/

10/10

8/10

Emergency

/e’mə:d ənsi/

/i’mə:d ənsi/

5/10

4/10

Guarantee

/gerən’ti:/

/gỉrən’ti:/

7/10

8/10


/gʊərən’ti:/
Purchase

/pə’tʃeis/

/’pɜ:t∫əs/

9/10

8/10

Service

/sə’vais/

/sə’vis/

3/10

3/10

Bảng 4: Số lượng sinh viên phát âm sai nguyên âm trong các từ cho trước
Có thể thấy tỉ lệ phát âm sai các từ liệt kê ở trên rất cao. Việc đọc sai nguyên âm trong
các từ này không hẳn là do các từ này chứa các âm khó khơng phát âm được mà do nhiều yếu
tố khác như xác định sai trọng âm (deposit, purchase), ảnh hưởng của tiếng mẹ đẻ (effort,
emergency, guarantee), khái quát hoá quy tắc phát âm (appropriate) hay do thói quen phát âm
cũ (service). Các nguyên nhân này xin được phân tích kỹ hơn ở phần sau.
3.5.2. Phát âm sai phụ âm
Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng phát âm sai phụ âm sẽ khiến cho người nghe khó hiểu

được ý người nói diễn đạt hơn so với phát âm sai nguyên âm. Nói cách khác, phát âm sai phụ
âm sẽ nghiêm trọng hơn so với sai nguyên âm. Trong khi nguyên âm chỉ có 20 thì phụ âm lại
nhiều gấp gần 1,5 lần với số lượng là 28. Đồng thời, lỗi về phụ âm lại diễn biến đa dạng hơn
23


nguyên âm, dưới nhiều dạng như: sai cách đọc các phụ âm khơng có trong tiếng Việt, sai cách
đọc phụ âm trong từ gốc, sai cách đọc phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed, ngọng n, l, và phát âm
sai các cụm phụ âm.
3.5.3. Phát âm sai các phụ âm khơng có trong tiếng Việt
Theo kết quả tổng hợp từ phiếu điều tra, ghi âm và phỏng vấn giáo viên những lỗi thường
gặp rơi vào những phụ âm mà tiếng Việt khơng có. Biểu đồ dưới đây thống kê các lỗi này.

50
45
40
35
30
25
20
15
10
5
0

Sv có thi TA
Sv khơng thi TA

θ


ð

ʃ

ʒ

tʃ dʒ ŋ

j

z

Biểu đồ 6: Tỷ lệ mắc lỗi phát âm phụ âm độc lập
Với kết quả trên biểu đồ, sinh viên năm thứ nhất không thi TA mắc nhiều lỗi sai phụ âm
nhất, sinh viên có thi TA mắc ít lỗi phát âm hơn. Trong số các âm khơng có trong tiếng việt là
/θ/, /ð/, / / và /d / thì cả hai đối tượng sinh viên đều mắc nhiều lỗi. Sinh viên không thi đại
học môn TA mắc lỗi nhiều nhất ở các âm /ð/(42%), /d / (50%) và /θ/ (35%). Sinh viên thi
khối D, A1 gặp khó khăn nhiều nhất ở âm /θ/ (30%) và /ð/ (30%). Đây là các âm khó, sinh
viên thường đọc /θ/ thành /t’/ của tiếng Việt, /ð/ thành /d/, / / thành /z/ và /d thành /j/ hoặc
/z/. Ở hai âm /ŋ/ và /z/ sinh viên khơng thi đại học TA có tỷ lệ mắc lỗi là 12 % cao hơn so với
sinh viên thi khối D, A1 là 5 %.
3.5.4. Phát âm sai phụ âm trong từ gốc và không đọc phụ âm cuối
Người Việt có thói quen khơng phát âm phụ âm cuối do ảnh hưởng của tiếng Việt và phát
âm sai phụ âm trong từ do dùng cảm tính để xác định âm, tác giả đã đã yêu cầu 20 sinh viên
cả có thi đaịhọc TA và khơng thi đọc một số từ cho trước và ghi nhận lại lỗi phát âm sai.

24


Từ


PÂ sai

PÂ đúng

SV khối A

SV khối D

invent

/in’ven/

/in’vent/

4/10

6/10

conduct

/kodʌk/

/kodʌkt/

4/10

4/10

Job


/əɒb/

/dəɒb/

6/10

6/10

Skate

/skei/

/skeit/

7/10

6/10

Vision

/’vizn/

/’viən/

8/10

5/10

Bảng 5: Số lượng sinh viên phát âm sai phụ âm trong các từ cho trước

Số lượng sinh viên phát âm sai các từ trên trung bình là trên 50%. Điều đó phản ánh
sinh viên năm thứ nhất không chuyên tiếng Anh chưa chú trọng đến việc luyên tập phát âm.
Số lượng sinh viên thi khối D, A1 mắc lỗi không phải là cao nhất như phần tự đánh giá đối
với nguyên âm. Tuy nhiên, với tỷ lệ mắc lỗi còn cao 40% - 60% thì kể cả sinh viên có và
khơng thi đai học TA cho thấy khả năng phát âm của sinh viên năm thứ nhất còn yếu kém và
cần sớm được cải thiện.
Ngoài ra trong phiếu điều tra câu hỏi số 5: Bạn có mắc lỗi nào khi phát âm khơng? Nếu
có đó là những lỗi nào? kết quả thu được liên quan đến lỗi không chú ý phát âm các âm cuối
như sau:
Số liệu thu được đã cho thấy kết quả sinh viên không chú ý phát âm âm cuố là sinh viên
năm thứ nhất thi khối D, A1 chiếm tỷ lệ 46% và các khối khác không thi tiếng Anh là 54%.
Kết quả này cho thấy dù thi hay khơng thi đại học mơn TA thì tỷ lệ mắc lỗi phát âm này đều
rất cao. Một trong những nguyên nhân dễ thấy là trong tiếng việt chúng ta không phải phát âm
các âm cuối.Đay là hiện tương chuyển di tiêu cực.

3.5.5. Phát âm sai phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed
Trong tiếng Anh, phụ âm cuối dạng hậu tố -s, -ed thực hiện chức năng ngữ pháp của các
từ trong câu. Đây là hai hậu tố phổ biến trong tiếng Anh. Lỗi sinh viên thường mắc phải theo
kết quả phỏng vấn giáo viên đó là sinh viên thường nhầm hay phần lớn quên phát âm phụ âm
này. Hậu tố -s có thể được phát âm là /s/ sau các âm vô thanh như /p/, /t/, /k/, /f/ và /θ/ và phát
âm là /z/ sau các nguyên âm và phụ âm hữu thanh. Tuy nhiên nhiều sinh viên thường quên
phát âm hoặc phát âm hậu tố này là /s/ sau tất cả các âm.

25


×