Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.34 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Bài 1 :
Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại được định đoạt tù một câu
chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh Trang Công trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao
chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi máu chảy chỉ vì bà ghét Trịnh Trang Cơng khi xưa sinh ngược khiến bà
phải đau đớn. Chuyện đời vẫn thế, đó là chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ kì bút của
Nguyễn Dữ là đã bắt nắm được một tình huống éo le như vậy. Trong văn chương nước ta cũng như thế giới không
hiếm những câu chuyện xen những yếu tố truyền kì. Nét riêng của Chuyện người con gái Nam Xương là hai yếu tố
thực và truyền kì khơng đan xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền kì vùa làm cho câu chuyện thêm
lung linh hư ảo, vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần thực. Phần thực là cơ sở để xây dựng phần truyền kì
(phần thực, tơi muốn nói thực của văn học). Bằng mối liên hệ giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật
và thể hiện chủ đề của tác phẩm.
Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết là nhân vật chính xuyên suốt hai phần của tác phẩm. Nguyễn Dữ khơng chú
trọng việc miêu tả hình thức, chúng ta chỉ biết Vũ nương là người “có tư dung tốt đẹp”. Tính cách nhân vật được thể
hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó diễn ra ở những thời điểm khác
nhau. Ở tùng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với Trương Sinh diễn ra trên bốn thời
điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết Trương Sinh là
người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khn phép” cho gia đình hồ thuận. Khi tiễn chồng đi tịng qn,
tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng
dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình n”. Nàng nghĩ đến
những khó nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của
những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh, thương chồng và giàu lịng
vị tha, một tâm hồn có văn hố. Trong những ngày xa chồng, nàng ni con thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của
mình. Ngịi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu
thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt…
xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là
“người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày không được thì tự vẫn,
chứ khơng sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.
Khi thì cách xủ thế, khi thơng qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương hiện lên là một người trong
Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương không chết, trở về sống trong Quy động của Nam Hải Long
Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế
- với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang
nhắc đến chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết
tha gắn bó với q hương đời sống mà khơng được sống. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu
một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện khơng chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn
khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở
cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.
Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của nhà văn trước những vấn đề của cuộc sống.
Nhà văn đã đi sâu khai thác những vẻ đẹp và nỗi đau khổ xót xa phức tạp của tâm hồn con người, nhất là người phụ
nữ trong xã hội đương thời như Vũ nương. Cũng qua đó, nhà văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như
trong các truyện cổ dân gian… Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì lạ mà cũng rất thực.
Bài 2 :
Người con gái Nam Xương Vũ Thị Thiết có "tư dung tốt đẹp".Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ
cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng.
-->cơ sự cũng vì vậy mà nảy sinh...
Trích:
Tính cách nhân vật được thể hiện qua hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với chồng và mẹ chồng. Mối quan hệ đó
diễn ra ở những thời điểm khác nhau. Ở tùng thời điểm ấy, nhân vật bộc lộ cá tính của mình. Mối quan hệ với
Trương Sinh diễn ra trên bốn thời điểm: khi chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung
sống với nhau, biết Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khn phép” cho gia đình hồ
thuận. Khi tiễn chồng đi tịng qn, tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng nói với chồng: “Lang
quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ
bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù
cách nói đến nội dung của những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, không hư danh,
thương chồng và giàu lịng vị tha, một tâm hồn có văn hố. Trong những ngày xa chồng, nàng ni con thơ, chăm
sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngịi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để cho chính người mẹ chồng ấy
nhận xét về tấm lịng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời: “Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch,
giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người
mẹ chồng ấy, nàng là “người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày
khơng được thì tự vẫn, chứ không sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.
Khi thì cách xủ thế, khi thơng qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương hiện lên là một người trong
trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn
đẹp, đẹp một cách có văn hố. Dường như Nguyễn Dữ đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt
Nam vào hình tượng Vũ nương. Con người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó chính là bi kịch về số
phận con người. Vấn đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của muôn đời. Bởi vậy,
vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, qt giàu ý nghĩa nhân văn. Phía sau tấn
bi kịch của Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt, nhưng căn bản là người chồng mù quáng
đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay tùng gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một
thứ sản phẩm hằng có trong xã hội con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của
cuộc sống. Tất nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác nhân.
Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là một bài học sâu sắc của muôn đời
Phần truyền kì trong câu chuyện là chuyện Vũ nương khơng chết, trở về sống trong Quy động của Nam Hải Long
Vương… đó là cuộc sống đời đời. Nhà văn đã tạo ra một cuộc gặp gỡ kì thú giữa Phan Lang - một người dương thế
- với Vũ Nương nơi động tiên. Cuộc gặp gỡ ấy đã làm sáng tỏ thêm những phẩm chất của Vũ nương. Khi Phan Lang
nhắc đến chuyện nhà của tổ tiên thì Vũ nương “ứa nước mắt khóc”. Nàng quả thật là một con người thiện căn, thiết
tha gắn bó với quê hương đời sống mà khơng được sống. Tính cách của nàng và bi kịch như được tô đậm khơi sâu
một lần nữa. Nhưng dụng ý của nhà văn đưa phần truyền kì vào câu chuyện khơng chỉ có thế. Nguyễn Dữ muốn
khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở
cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.
-Cái bóng: Phân thân và phản thân
"Con người là một thực thể xã hội sống, được quy định bởi những thiết chế đạo đức nhất định. Chiếc bóng sinh động
của con người âm thầm song hành với chủ nhân của nó qua những hành vi mang giá trị đạo đức - xã hội, đồng thời
khẳng định giá trị thực thể của chủ nhân."
Cái bóng có lúc lại trở thành một phân thân nổi loạn chống lại chủ nhân của nó, như trong truyện cổ của Hans
Christian Andersen (1805-1875) hay trong William Wilson[4] của Edgar Allan Poe (1809-1849). Trong mỗi con người
đều tồn tại nhiều “tiếng nói” khác nhau, thậm chí đối lập nhau, của ý thức (consciousness) và tiềm thức
(subconsciousness). Nhân cách tiềm thức được hình tượng hóa thành phân thân.
Chính do có thể được dùng như hình tượng văn học để thể hiện con người với tư cách một thực-thể-đạo-đức, cùng
những quan hệ biện chứng giữa ý thức và tiềm thức của nó, cái bóng tỏ ra rất hiệu quả trong việc diễn tả những
ngóc ngách tâm lý, tình cảm, đặc biệt là cái ghen.
Chỉ âu lo với niềm bất hạnh của chính mình, nàng chẳng hề muốn gieo tai họa cho ai khác.Câu chuyện về cái bóng
của mình mà Vũ Nương kể cho con nàng nghe chẳng qua như thể đang tâm sự với chính mình ,để an ủi ngóc ngách
nào đó trong tâm hồn nàng :chồng nàng đang ở một nơi nào đó ,và hình bóng người chồng khơng lúc nào xa rời
Bởi "con tim khơng chỉ đơn giản là một vật chỉ biết làm theo ý ta muốn.”
quan hệ nọ."
Trích:
Biên cương bị ngoại xâm, chàng Trương phải sung binh ra miền quan ải, chẳng kịp thấy mặt con. Nàng Vũ ở lại nhà,
tròn phận nàng dâu hiếu nghĩa, chinh phụ tiết trinh, mẹ hiền tần tảo. Mẹ chồng và con trẻ là hai chứng nhân khả tín
nhất cho tấm lòng son sắc của nàng. Thế nhưng, mẹ già sớm quy tiên, thác nguyện chỉ một điều: “Xin Trời xanh kia
chớ phụ dâu mới, bằng dâu mới chưng chẳng phụ mẹ già vậy.”[17] Lời trối trăng của người mẹ cũng là lời chứng
cho đức hạnh của nàng khi chồng đồn thú biên viễn xa xăm. Đáng tiếc, lời trối ấy chỉ mình nàng nghe, vì người chết
sẽ thơi khơng nói được nữa. Nhân chứng thân thiết duy nhất còn lại nay là bé Đản.
Khi chàng Trương xuất ngũ trở về, “thời mẹ già đã từ nhà, con trẻ đã học nói vậy.”[18] Bé Đản - nhân chứng nay sẽ
là người để chàng Trương thực hiện vế sau của câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.” Dắt con ra thăm mộ mẹ là việc
chàng làm trước tiên: “Hỏi mồ mẹ thửa ở đâu. Dắt con một mình đi, con bèn kêu khóc chẳng khứng đi.”[19] Sững sờ
khi thấy Đản khơng nhận mình là cha, chàng Trương gạn hỏi nguồn cơn. Đản bảo chàng chẳng giống người nó từng
gọi là cha, người chỉ đến lúc đêm về, lặng thinh theo mẹ không rời: “Ngươi chỉn hay nói, khác chẳng bằng cha thuở
nọ lặng vậy, bằn bặt vậy,”[20] “Mẹ Đản đi thời cũng đi, mẹ Đản ngồi thời cũng ngồi. Song chửa từng đến cùng con là
Đản này dắt ẵm vậy.”[21] Mấy lời miêu tả thơ ngây của Đản tựa như những câu thai đố mà chàng Trương phải giải.
Chỉ có điều do hướng giải đốn khơng rõ, cả người “đố” lẫn người “giải” đều chăm chắm vào một con người nào đấy
có thực (xuất nhân): với Đản, đó là cha; với chàng Trương, đấy hẳn phải là gian phu.[22] Trong tình huống đặc biệt
này, kiến văn hạn hẹp, cùng tính cả ghen của Trương đã khiến chàng lạc lối. Trương tri giác, lý giải sai lầm tình
huống nọ, ngỡ mình là nạn nhân, là người bị bội phản “Đến khi nghe lời con nói, thời chưng ngờ sự cuốn đay xin lửa
kia rễ bám càng sâu gắn mà chẳng khả cởi vậy.”[23] Chàng thụ khổ, quy hết tội tình cho vợ. Kênh giao tiếp song
phương giữa hai vợ chồng bị cắt đứt, chỉ còn là đơn tuyến. Trương nhiếc móc vợ, “sỉ nhục nhiều phương, địi thời
ruồng đuổi”; nhưng khi nàng Vũ “xin giãi lòng ấy, mặc cởi lo ngờ,”[24] Trương nín lặng, tự dằn vặt mình và làm khổ
người, “song dõi hỏi thửa lời ấy bởi đâu chưng lại, thời giấu lời con chẳng nói,” “láng giềng chưng bảo, họ hàng
Chiếc bóng -tấm lịng u thương ->trở thành nguyên nhân của nỗi oan bi kịch.
Bao nhiêu cơng sức, tâm sức chắt chiu để vun đắp gìn giữ cái gia đình bé nhỏ đã trở nên hồn tồn vơ nghĩa, nàng
đã trắng tay, bơ vơ, khơng lối thốt, nên tìm đến cái chết ...
Thực chất là Vũ Nương đã bị bức tử, nhưng nàng đi đến cái chết thật bình tĩnh : tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng
Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng ...
Cái chết ấy là sự đầu hàng số phận nhưng cũng là lời tố cáo thói ghen tng ích kỉ, sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông và
luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, tối tăm.
"Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.
Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,
Cung nước chi lo luỵ đến nàng.
Chứng quả đã dôi vầng nhật nguyệt,
Giải oan chẳng mấy lọ đàn tràng.
Qua đây bàn bạc mà chơi vậy,
Khá trách chàng Trương khéo phũ phàng."
(Lê Thánh Tơng)
-->Chiếc bóng giờ đây khiến ta hồi nghi nó có phải là một thế lực vơ hình ngăn cản con người ,đặc biệt là người
phụ nữ đến với hạnh phúc ...
"Hãy quan tâm đến thân phận người phụ nữ, đến số phận con người. Hãy tôn vinh hạnh phúc và đừng làm bất cứ
điều gì có thể làm huỷ hoại tổn thương đến hạnh phúc đơi lứa và gia đình. Và điều quan trọng hơn hết để có được
hạnh phúc là phải thực sự hiểu được nhau, tôn trọng lẫn nhau và tránh xa những ngộ nhận đáng tiếc. Có được hạnh
phúc đã là một điều khó khăn, nhưng giữ hạnh phúc cho được lâu bền lại càng là một điều khó khăn hơn.