Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Cac to chuc quoc te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 49 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỘT SỐ TỔ CHỨC QUỐC TẾ</b>



<b>1. Tổ chưc Phi chính phủ là gì?</b>


<b>(Nguồn </b>

<i><b>)</b></i>



Một tổ chức phi chính phủ (tiếng Anh: non-governmental organization–NGO; tiếng Pháp: organisation
non gouvernementale–ONG) là một tổ chức không thuộc về bất cứ chính phủ nào. Mặc dù về mặt kỹ thuật,
định nghĩa cũng có thể bao hàm các tổ chức phi lợi nhuận, thuật ngữ này thường giới hạn để chỉ các tổ chức
xã hội và văn hoá mà mục tiêu chính khơng phải là thương mại.


Một vài người cho rằng cái tên "NGO" là dùng sai vì nó hàm ý bất cứ cái gì "khơng phải là chính phủ" đều
là NGO. Vì NGO thường là các tổ chức phi chính phủ mà ít nhất một phần ngân quỹ hoạt động đến từ các
nguồn tư nhân, nên nhiều NGO ngày nay thích dùng từ <b>Tổ chức tình nguyện tư nhân</b> (Private voluntary
organization–PVO).


<b>Mục đích</b>



Các tổ chức phi chính phủ ra đời với nhiều mục đích khác nhau, thơng thường nhằm đẩy mạnh các mục
tiêu chính trị và/hay xã hội như bảo vệ mơi trường thiên nhiên (ví dụ Greenpeace), khuyến khích việc tơn
trọng các quyền con người (ví dụ Amnesty International), cải thiện mức phúc lợi cho những người bị thiệt
thòi, hoặc đại diện cho một nghị trình đồn thể. Có rất nhiều tổ chức như vậy và mục tiêu của chúng bao
trùm nhiều khía cạnh chính trị, xã hội, triết lý và nhân văn.


<b>Phương pháp</b>



Các tổ chức phi chính phủ hoạt động theo nhiều phương pháp khác nhau, tuy nhiên có thể coi thuộc vào
một trong hai kiểu sau. Một số chủ yếu tổ chức vận động hành lang để tạo áp lực chính trị, số khác chủ yếu
tiến hành các chương trình và hoạt động (chẳng hạn như Oxfam là tổ chức chống nạn đói và nghèo khổ có
các chương trình cung cấp phương tiện và thức ăn, nước uống sạch cho những người bị thiệt thòi).


<b>Quan hệ</b>




Quan hệ giữa các giới kinh doanh, chính phủ, và các tổ chức phi chính phủ vơ cùng phức tạp và đơi khi có
sự trái nghịch, đặc biệt là khi các tổ chức phi chính phủ hoạt động đi ngược lại với các chính phủ hay các tổ
chức kinh doanh.


<b>Danh sách các tổ chức phi chính phủ</b>



 Các tổ chức chun mơn/ nhân đạo


o AEGEE
o AIESEC


o Alliance for the Prudent Use of Antibiotics
o American Civil Liberties Union


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

o Front d'action politique en réaménagement urbain (FRAPRU)


o Greenpeace


o Human Rights Watch


o Humanitarian Services For Children Of Vietnam (HSCV)


o IAESTE


o Institute for International Assistance and Solidarity (IFIAS)


o JCI (Junior Chamber International)


o Oxfam



o Refugees International


o Saigon Children's Charity(SCC)
o Transparency International


o Vietnam les enfants de la dioxine (VNED)


 Các tổ chức từ thiện quốc gia


o Lions Clubs International


 International Relief and Development Organizations (PVOs)


o CARE


o Catholic Relief Services


o Christina Noble Children's Foundation
o Engineers Without Borders


o The Hunger Project


o Tổ chức chữ thập đỏ và lưỡi liềm đỏ quốc tế
o International Rescue Committee


o IRC International Water and Sanitation Centre


o Médecins Sans Frontières (Thầy thuốc không biên giới)



o Mercy Corps
o WaterAid
o World Vision


 Công nghệ thông tin


o FFII


o Free Software Foundation (FSF)


 Mạng lưới


o International Freedom of Expression Exchange


 Các tổ chức phi chính phủ gần như tự quản (QUANGO)


o Tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn (ISO) là một trường hợp ngoại lệ. Nó tự coi là một tổ chức
phi chính phủ nhưng lại là một mạng lưới các tổ chức tiêu chuẩn thuộc các chính phủ ở
147 quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

 Các tổ chức thương mại và các nhóm lợi ích được cơng nghiệp tài trợ


o Americans for Balanced Energy Choices, một tổ chức phi lợi nhuận chuyên vận động
hành lang do ngành cơng nghiệp than của Mỹ hỗ trơ kinh phí hoạt động


 Các tổ chức hiệp ước (là các tổ chức độc lập nhưng hoạt động như các tổ chức phi chính phủ,


được thành lập và hoạt động bởi các hiệp ước quốc tế)


o Ủy ban quốc tế Chữ thập đỏ



<b>2. Tổ chức liên chính phủ</b>



Trong xu thế hội nhập tồn cầu như hiện nay thì việc mở rộng hợp tác giữa các quốc gia về các mặt của đời
sống là điều tất yếu, các mơ hình hợp tác khác của quốc gia ngày càng mở rộng và phong phú: Tổ chức
quốc tế liên chính phủ, tổ chức quốc tế phi chính phủ, các diễn đàn hợp tác, các hội nghị quốc tế...Việc
phân biệt tổ chức quốc tế liên chính phủ( chủ thể của luật quốc tế) với các mơ hình hợp tác khác có ý nghĩa
quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn.


Tổ chức quốc tế liên chính phủ (IGO: international govermental organization) có thể là tổ chức quốc
tế chung như Liên hợp quốc (UN), ASEAN, cũng có thể là tổ chức quốc tế chun mơn như WTO... Mơ
hình hợp tác khác của quốc gia thì đa dạng hơn, ví dụ tổ chức phi chính phủ như tổ chức hợp tác SIDA giữa
trường đại học Luật Hà Nội với tổ chức SIDA Thụy Điển trong lĩnh vực giáo dục, tổ chức hịa bình
xanh1...hoặc là hình thức diễn đàn như diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương( APEC)...hoặc
là hội nghị quốc tế như ASEM,


Với tư cách là một trong các chủ thể của luật quốc tế, tổ chức quốc tế liên chính


phủ( IGO:international govermental organization)được hiểu là thực thể liên kết các quốc gia và các chủ thể
khác của luật quốc tế, hình thành trên cơ sở điều ước quốc tế, có quyền năng chủ thể luật quốc tế, có hệ
thống các cơ quan đề duy trì hoạt động thường xuyên theo đúng mục đích, tơn chỉ hoạt động của nó. Dựa
vào khái niệm trên ta có thể phân biệt IGO với các mơ hình hợp tác khác của quốc gia dưới một số khía
cạnh sau:


<b>1.Cơ sở pháp lý</b>



Các mơ hình hợp tác của quốc gia đều là kết quả của sự thỏa thuận nhưng hình thức pháp lý của sự thỏa
thuận đó lại có sự khác biệt nhất định.


IGO hình thành trên cơ sở một điều ước quốc tế được kí kết giữa các quốc gia thành viên- hình thức


pháp lý chứa đựng các nguyên tắc hoạt động của tổ chức đó, duy trì sự phối hợp hoạt động giữa các quốc
gia thành viên bình đẳng về chủ quyền và quyền lợi...Các điều ước quốc tế này có nhiều tên gọi khác nhau:
Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên bố Băng Cốc thành lập ASEAN...nhưng bề bản chất chúng đều có ý
nghĩa là điều lệ của tổ chức quốc tế đó quy định những mục đích, ngun tắc, cơ cấu tổ chức và hoạt động
của tổ chức quốc tế đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

WTO... đương nhiên có ngay quyền và thực hiện các nghĩa vụ được quy định trong Điều ước thành lập tổ
chức


<b>2.Cơ cấu tổ chức</b>



Tổ chức quốc tế liên chính phủ có tổ chức chặt chẽ, có cơ quan thường trực có những quyền hạn nhất định;
cịn các mơ hình hoạt động khác( các diễn đàn, các hội nghị quốc tế) thì khơng có bộ máy thường trực để tổ
chức hoạt động


Các tổ chức quốc tế liên chính phủ hình thành trên nhu cầu liên kết các quốc gia. Để thực hiện được sứ
mệnh của mình mà các quốc gia thành viên giao phó thì tổ chức quốc tế đó phải có cơ cấu tổ chức nhất
định. Các cơ quan của tổ chức quốc tế gồm cơ quan chính được quy định trong điều ước và cơ quan bổ trợ
do cơ quan chính thành lập nhằm giúp việc cho cơ quan chính. Ví dụ trong Hiến chương Liên Hợp Quốc
quy định Liên Hợp quốc có 6 cơ quan chính với chức năng riêng như Đại Hội Đồng là cơ quan tồn thể,
Hội đồng Bảo an có chức năng trong việc giữ gìn hịa bình và an ninh thế giới, Hội đồng quản thác, Tịa án
cơng lý quốc tế...


Để hoạt động được thường xuyên thuận lợi các tổ chức quốc tế liên chính phủ phải có trụ sở hoạt động.
Đây là điều phân biệt với diễn đàn và hội nghị quốc tế, khơng có trụ sở hoạt động, tới kỳ họp thì các hội
nghị hay diễn đàn thành lập ủy ban chuẩn bị, tiến hành hội nghị...Nhưng khi hội nghị kết thúc thì những ủy
ban đó cũng giản tán, không tồn tại nữa.


<b>3.Quyền và nghĩa vụ của các thành viên</b>




Thành viên của các tổ chức quốc tế liên chính phủ là các quốc gia, quyền và nghĩa vụ của các thành viên
này được quy định trong điều ước quốc tế, có giá trị pháp lý ràng buộc, nếu khơng thực hiện thì chịu trách
nhiệm pháp lý quốc tế. Trong khi đó mặc dù thành viên của các mơ hình hợp tác quốc gia đa phần là các
quốc gia nhưng quyền và nghĩa vụ không được quy định một cách chi tiết, chỉ quy định một cách chung
chung khơng có giá trị ràng buộc, quốc gia thành viên thực hiện tới đâu là phụ thuộc vào quốc gia đó mà
khơng có chế tài buộc phải thực hiện( vì các diễn đàn hay hội nghị thì thường hướng tới mục đích chính trị,
mà vấn đề chính trị giữa các quốc gia khó mà thống nhất được vì mỗi quốc gia đều bình đẳng với nhau trên
cơ sở chủ quyền...)


<b>4.Quyền năng chủ thể</b>



Vì IGO là chủ thể của luật quốc tế nên nó mang quyền năng chủ thể của luật quốc tế cịn các mơ hình
hợp tác khác khơng có quyền năng của chủ thể nó khơng thể là chủ thể của luật quốc tế được


Quyền năng chủ thể của IGO là khả năng của tổ chức này tham gia vào các quan hệ pháp luật quốc tế
với tư cách chủ thể độc lập. Trong khi quyền năng chủ thể của quốc gia là quyền năng tuyệt đối trên cơ sở
chủ quyền thì quyền năng IGO là quyền năng phái sinh và hạn chế. Tính phái sinh thể hiện ở chỗ tổ chức
quốc tế liên chính phủ quyền năng này khơng phải là thuộc tính vốn có của tổ chức quốc tế mà do các quốc
gia thừa nhận trao cho. Trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên thường
thỏa thuận về tư cách chủ thể của luật quốc tế, quy định phạm vi thẩm quyền của tổ chức đó. Tính hạn chế
là ở chỗ trong khi quốc gia có thể tự quyết định tham gia vào bất cứ quan hệ nào trên cơ sở chủ quyền thì
IGO chỉ có thể tham gia hoạt động trong các lĩnh vực mà các thành viên của nó trao cho ví dụ WTO chỉ
được hoạt động trong lĩnh vực thương mại mà không được hoạt động trong lĩnh vực hàng hải... hay là tổ
chức ASEAN chỉ hoạt động trong khuôn khổ các nước ĐNA, bị giới hạn phạm vi không gian...


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

phải là tổ chức, khơng có cơ quan thường trực. Các thành viên của diễn đàn hay hội nghị khi tham gia vào
quan hệ pháp luật quốc tế thì tham gia với tư cách là quốc gia- 1 chủ thể độc lập của luật quốc tế chứ không
tham gia với tư cách là thành viên của hội nghị hay diễn đàn...


Ngoài ra tổ chức quốc tế liên chính phủ với tổ chức quốc tế phi chính phủ có thể phân biệt với nhau


dựa vào yếu tố chủ thể. Chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ là quốc gia có chủ quyền, trong khi đó
chủ thể của các tổ chức phi chính phủ là các cá nhân, pháp nhân. Hay nói cách khác tổ chức quốc tế phi
chính phủ là sự mở rộng sự hợp tác của các cá nhân, tổ chức của quốc gia sang phạm vi lãnh thổ quốc gia
khác


Nhìn chung đều là các loại hình hợp tác của quốc gia, là kết quả của sự thỏa thuận trên cơ sở bình
đẳng chủ quyền, được thành lập và tổ chức trên những nguyên tắc chung của luật quốc tế nhưng tổ chức
quốc tế liên chính phủ và các mơ hình hợp tác khác của quốc gia có những nét khác biệt như đã trình bày ở
trên. Các sự khác biệt kể trên suy cho cùng cũng xuất phát từ vị trí của nó trong luật quốc tế, tổ chức liên
chính phủ là chủ thể của luật quốc tế cịn các mơ hình hợp tác khác không được coi là chủ thể của luật quốc
tế.




DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Trường Đại Học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, NXB. CAND, Hà Nội, 2007


2. Chuyên đề kỷ niệm 40 năm thành lập Hiệp hội các quốc gia Đơng Nam Á- ASEAN, Tạp chí Luật học, số
9/2007


3. Hiến chương Liên hợp quốc


<b>2.1. Liên Hiệp Quốc</b>



<i>(Nguồn )</i>



Cờ của Liên Hiệp Quốc huy hiệu của Liên Hiệp Quốc


<b>Ngơn ngữ chính thức</b> Tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Trung



Quốc, tiếng Ả Rập


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>Thành lập</b>


• với tư cách liên minh thời chiến:
• với tư cách một tổ chức quốc tế:


1 tháng 1, 1942
24 tháng 10, 1945


<b>Các nước thành viên</b> 193


<b>Trụ sở</b> New York, New York,Hoa Kỳ


<b>Địa chỉ internet</b> />


1<sub> Các tên gọi chính thức khác:</sub>


 United Nations (UN)


 Organisation Nations Unies (ONU)


 Naciones Unidas


 Организация Объединённых Наций (OOH)


 联合国


 ةدحتم مما



<b>Liên Hiệp Quốc hay Liên Hợp Quốc (United nion), viết tắt là LHQ là một </b>tổ chức quốc tế có mục đích
duy trì hịa bình và an ninh trên thế giới, phát triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành
hợp tác quốc tế giữa các nước trên cơ sở tơn trọng ngun tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân tộc.
Hiện nay, Liên Hiệp Quốc có 193 thành viên, bao gồm phần lớn các quốc gia có chủ quyền trên Trái Đất.
Liên Hiệp Quốc sử dụng 6 ngơn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp, tiếng Tây
Ban Nha và tiếng Trung.


Từ trụ sở trong lãnh phận quốc tế tại thành phố New York, Liên Hiệp Quốc và các cơ quan chun mơn
của nó quyết định các vấn đề về điều hành và luật lệ. Theo hiến chương LHQ thì tổ chức này gồm 6 cơ
quan chính, chủ yếu gồm: Đại hội đồng, Hội đồng Bảo An, Hội đồng kinh tế và xã hội, Ban thư kí, Tịa án
Quốc tế vì Cơng lý,Hội đồng Quản thác. Ngoài ra, một số tổ chức tiến hành quản lý các cơ quan của Hệ
thống Liên Hiệp Quốc, ví dụ như Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp


Quốc (UNICEF).


Nhân vật đại diện tiêu biểu nhất của Liên Hiệp Quốc là Tổng thư kí, đương nhiệm là Ban Ki-moon,
người Hàn Quốc.


Kinh phí hoạt động của Liên Hiệp Quốc được hình thành bằng tài trợ đóng góp tự nguyện và nguồn niên
liễm có kiểm sốt từ các nước thành viên.


<b>Lịch sử hình thành</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Tiền thân của Liên Hiệp Quốc là Hội Quốc Liên (League of Nations), vốn là một sáng kiến của Tổng thống
Hoa KỳWoodrow Wilson sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Hoa Kỳ tuy sáng lập nhưng lại khơng chính
thức làm hội viên, hơn thế quy chế hoạt động của hội lại lỏng lẻo, các cường quốc như Vương quốc Liên
hiệp Anh và Bắc Ireland, Pháp, Nga, Đức, Ý, Nhật Bản tham gia vốn chỉ để tranh giành ảnh hưởng cho
mình. Dù hội đạt được một số thành tựu đáng kể trong cơng cuộc giải phóng phụ nữ cũng như những hoạt
động nhân đạo nhưng chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ và buộc Hội quốc liên phải giải tán.



Sau Thế chiến thứ hai, các nước Khối Đồng Minh và nhân dânthế giới có nguyện vọng giữ gìn hịa bình và
ngăn chặn các cuộc chiến tranh thế giới mới. Tại Hội nghị Yalta, nguyên thủ ba nước Liên Xô, Mĩ, Anh đã
thống nhất thành lập tổ chức quốc tế để giữ gìn hịa bình và an ninh thế giới. Trên cơ sở Hội nghị


Durbarton Oaks ở Washington, D.C., từ 25 tháng 4 đến 26 tháng 6 năm 1945, đại diện của 50 quốc gia đã
họp tại San Francisco, California, Hoa Kỳ để thông qua Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Ngày 24 tháng 10
năm 1945, Liên Hiệp Quốc chính thức được thành lập. Tuy vậy, Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc (General
Assembly) đầu tiên, tham dự bởi 51 nước, không được tổ chức cho mãi đến ngày 10 tháng


1 năm 1946 (tại Nhà họp chính Westminster ở Luân Đôn).


"Một sự nghiệp vĩ đại để tạ ơn Đức Chúa toàn năng..." Tổng thống Mỹ Harry S. Truman đã nói như vậy về
thành tựu của hội nghị tại San Francisco, một hội nghị đã góp phần vào việc soạn thảo bảnHiến chương
Liên Hợp Quốc năm 1945. Câu nói của tổng thống Truman đã đại diện cho hàng triệu người, những người
tin rằng tổ chức mới này sẽ làm cho những cuộc chiến tranh thế giới lùi sâu vào dĩ vãng. Lời tựa của bản
Hiến chương đã nêu rõ mục đích của tổ chức này: "Chúng tôi, những dân tộc của Liên Hợp Quốc, quyết
tâm cứu những thế hệ mai sau khỏi thảm họa chiến tranh...".


<b>Thành viên</b>



Tới năm 2011 có 193 quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc, gồm tất cả các quốc giađộc lập được thế giới
công nhận. Trong số những nước không phải thành viên, đáng chú ý nhất là Trung Hoa Dân Quốc (Đài
Loan), ghế của họ tại Liên Hiệp Quốcđã được chuyển giao cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm
1971; Tòa Thánh(thực thể quản lý Thành Vatican), vốn đã từ bỏ quy chế thành viên nhưng vẫn là một quốc
gia quan sát viên; Nhà nước Palestine (là một quan sát viên cùng vớiChính quyền Quốc gia Palestine). Hơn
nữa, những dân tộc dưới chủ quyền nước ngồi và các quốc gia khơng được cơng nhận cũng không hiện
diện tại Liên Hiệp Quốc, như Transnistria. Thành viên mới nhất của Liên Hiệp Quốc là CH Nam Sudan,
chính thức gia nhập ngày 14 tháng 7 năm 2011.


Liên Hiệp Quốc đã vạch ra các nguyên tắc cơ bản cho tư cách thành viên:



1. Tư cách thành viên của Liên Hiệp Quốc mở rộng cho tất cả các quốc gia u chuộng hịa
bình và chịu chấp nhận các nguyên tắc được đặt ra trong Hiến chương hiện thời và trong
các phán quyết của Tổ chức, có thể và sẵn sàng thực thi những nguyên tắc đó.


2. Sự thu nhận một quốc gia như thế vào Liên Hiệp Quốc sẽ bị ảnh hưởng bởi quyết định
của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc với sự giới thiệu của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.


—Hiến chương Liên Hiệp Quốc, Chương 2, Phần 4, />


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Toà nhà trụ sở Liên Hiệp Quốc hiện nay được xây dựng trên một khu đất rộng 16 acre tại Thành phố New
York trong giai đoạn từ năm 1949 tới 1950, bên cạnh Khu phía Đơng của thành phố. Khu đất này


được John D. Rockefeller, Jr. mua với giá 8.5 triệu dollar, con trai ông Nelson là nhà thương thuyết chủ yếu
với chuyên viên thiết kế William Zeckendorf, vào tháng 12 năm 1946. Sau đó John D. Rockefeller, Jr. tặng
khu đất này cho Liên Hiệp Quốc.


Trụ sở được một đội các kiến trúc sư quốc tế gồm cả Le Corbusier (Thuỵ Sĩ), Oscar Niemeyer (Brasil) và
đại diện từ nhiều nước khác thiết kế.Wallace K. Harrison, một cố vấn của Nelson Rockefeller, lãnh đạo đội.
Đã xảy ra một vụ rắc rối giữa những người tham gia về thẩm quyền của từng người. Trụ sở Liên Hiệp Quốc
chính thức mở cửa ngày 9 tháng 1 năm 1951. Trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc nằm tại New York, trụ sở
một số cơ quan khác của tổ chức này nằm tại Geneva, La Hay, Wien, Montréal, Copenhagen, Bonn và
nhiều nơi khác.


Địa chỉ trụ sở Liên Hiệp Quốc là 760 United Nations Plaza, New York, NY 10017, USA. Vì những lý do
an ninh, tất cả thư từ gửi tới địa chỉ trên đều được tiệt trùng.[1]


Các tòa nhà Liên Hiệp Quốc đều không được coi là các khu vực tài phán chính trị riêng biệt,


[cần dẫn nguồn]<sub> nhưng thực sự có một số quyền chủ quyền. Ví dụ, theo những thỏa thuận với các nước chủ </sub>



nhà Cơ quan quản lý thư tín Liên Hiệp Quốc được phép in tem thư để gửi thư tín trong nước đó. Từ năm
1951 văn phịng tại New York, từ năm 1969 văn phòng tại Geneva, và từ năm 1979 văn phòng tại Wien đã
in ấn tem riêng của mình. Các tổ chức của Liên Hiệp Quốc cũng sử dụng tiền tố viễn thông riêng, 4U, và về
mặt không chính thức, các trụ sở tại New York, Geneva và Wien được coi là các thực thể riêng biệt đối với
các mục đích radio khơng chun.


Bởi trụ sở chính của Liên Hiệp Quốc đã trải qua một quá trình sử dụng khá dài, Liên Hiệp Quốc hiện đang
trong quá trình xây dựng một trụ sở tạm do Fumihiko Maki thiết kế trên Đại lộ thứ nhất giữa Phố 41 và Phố
42 để dùng tạm khi cơng trình hiện nay đang được tu sửa.[2]


Trước năm 1949, Liên Hiệp Quốc sử dụng nhiều địa điểm tại London và tiểu bang New York.[3]

<b>Tài chính</b>



Liên Hiệp Quốc hoạt động nhờ tiền đóng góp và tiền quyên tự nguyện từ các quốc gia thành viên. Những
ngân sách chính thức hai năm của Liên hiệp quốc và các tổ chức chuyên biệt của họ lấy từ những khoản
đóng góp. Đại hội đồng thơng qua ngân sách chính thức và quyết định khoản đóng góp của mỗi quốc gia
thành viên. Điều này dựa chủ yếu trên năng lực chi trả của mỗi nước, tính theo những số liệu thống kê thu
nhập cùng với những yếu tố khác.


Đại hội đồng đã đưa ra nguyên tắc rằng Liên hiệp quốc sẽ không quá phụ thuộc vào bất kỳ một quốc gia
thành viên nào trong lĩnh vực tài chính cần thiết cho những hoạt động của mình. Vì thế, có một mức "trần",
quy định khoản tiền tối đa một nước có thể đóng góp cho ngân sách. Tháng 12 năm 2000, Đại hội đồng đã
sửa đổi tỷ lệ đóng góp để phản ánh chính xác hơn cục diện thế giới hiện tại. Như một phần của sự sửa đổi
này, trần đóng góp được giảm từ 25% xuống 22%. Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đóng góp ở mức trần,
nhưng những khoản tiền họ còn thiếu lên tới hàng trăm triệu dollar (xem Hoa Kỳ và Liên Hiệp Quốc). Theo
mức đóng góp mới được thơng qua năm 2000, các nước đóng góp lớn khác vào ngân sách Liên Hiệp Quốc
năm 2001 là Nhật


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Các chương trình đặc biệt của Liên Hiệp Quốc khơng được tính vào ngân sách chính thức của tổ chức này
(ví dụ như UNICEF và Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc - UNDP), chúng hoạt động nhờ những


khoản quyên góp tự nguyện từ các chính phủ thành viên. Một số các khoản đóng góp dưới hình thức các
loại thực phẩm nông nghiệp viện trợ cho những người bị ảnh hưởng, nhưng chủ yếu vẫn là tiền mặt.

<b>Ngôn ngữ</b>



Liên Hiệp Quốc sử dụng sáu ngơn ngữ chính thức: tiếng Ả Rập, tiếng Hoa, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng
Nga và tiếng Tây Ban Nha.[5] Ban thư ký sử dụng hai ngôn ngữ làm việc: (tiếng Anh và tiếng Pháp).
Khi Liên Hiệp Quốc được thành lập, bốn ngơn ngữ chính thức được lựa chọn là: tiếng Anh, tiếng Trung,
tiếng Pháp và tiếng Nga. Tiếng Ả Rập và tiếng Tây Ban Nha được đưa vào thêm năm 1973. Hiện có những
tranh cãi trái chiều về việc liệu có nên giảm bớt số lượng ngơn ngữ chính thức (ví dụ chỉ giữ lại tiếng Anh)
hay nên tăng thêm con số này.[cần dẫn nguồn]<sub> Áp lực đòi đưa thêm </sub><sub>tiếng Hindi</sub><sub>thành ngơn ngữ chính thức đang </sub>


ngày càng gia tăng.[cần dẫn nguồn]<sub> Năm 2001, các nước nói tiếng Tây Ban Nha phàn nàn rằng tiếng Tây Ban Nha</sub>


khơng có tư cách ngang bằng so với tiếng Anh.[6]Những nỗ lực chống lại sự tụt giảm vị thế của tiếng Pháp
trong tổ chức này cũng rất to lớn;[7] vì thế tất cả các Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đều phải biết dùng tiếng
Pháp và rõ ràng việc Tổng thư ký mới Ban Ki-Moon gặp khó khăn để có thể nói trơi chảy ngơn ngữ này
trong buổi họp báo đầu tiên của ông [8] bị một số người coi là một sự mất điểm [9].


Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc đối với các tài liệu bằng tiếng Anh (Hướng dẫn xuất bản Liên Hiệp Quốc)
tuân theo quy tắc của tiếng Anh. Liên Hiệp Quốc và tất cả các tổ chức khác là một phần củahệ thống Liên
Hiệp Quốc sử dụng phương pháp đánh vần Oxford. Tiêu chuẩn của Liên Hiệp Quốc về tiếng Hoa (Quan
thoại) đã thay đổi khi Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) phải nhường ghế cho Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa năm 1971. Từ năm 1945 đến 1971 kiểu chữ phồn thể được sử dụng, và từ năm 1971 kiểu chữ giản
thể đã thay thế.


Trong số các ngơn ngữ chính thức của Liên Hiệp Quốc, tiếng Anh là ngơn ngữ chính thức của 52 quốc gia
thành viên, tiếng Pháp của 29 thành viên, tiếng Ả Rập là 24, tiếng Tây Ban Nha là 20, tiếng Nga tại 4
và tiếng Trung Quốc tại 2 nước. Tiếng Bồ Đào Nha và tiếng Đức là những ngôn ngữ được sử dụng ở khá
nhiều nước thành viên Liên Hiệp Quốc (8 và 6) nhưng lại khơng phải là ngơn ngữ chính thức của tổ chức
này.



<b>Các mục đích và hoạt động</b>


<b>Các mục đích của Liên Hiệp Quốc</b>



Những mục đích được nêu ra của Liên Hiệp Quốc là ngăn chặn chiến tranh, bảo vệ nhân quyền, cung cấp
một cơ cấu cho luật pháp quốc tế, và để tăng cường tiến bộ kinh tế, xã hội, cải thiện các điều kiện sống và
chống lại bệnh tật. [10] Liên Hiệp Quốc tạo cơ hội cho các quốc gia nhằm đạt tới sự cân bằng trong sự phụ
thuộc lẫn nhau trên bình diện thế giới và giải quyết các vấn đề quốc tế. Nhằm mục đích đó, Liên Hiệp Quốc
đã phê chuẩn một Tuyên ngôn Chung về Nhân Quyền năm 1948. [11]


<b>Các hội nghị quốc tế</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

quản lý tất cả các cơ quan khác của Hệ thống Liên Hiệp Quốc. Ví dụ Đại hội đồng Y tế và Ban Chấp hành
quản lý công việc của Tổ chức Y tế Thế giới.


Khi một vấn đề được coi là có tầm quan trọng đặc biệt, Đại hội đồng có thể triệu tập một phiên họp
đặc biệt để tập trung sự chú ý toàn cầu và xây dựng một phương hướng hành động chung. Những ví
dụ gần đây gồm:


Trụ sở Liên Hiệp Quốc ở Châu Âu tạiGeneva, Thuỵ Sĩ


 Hội thảo Liên Hiệp Quốc về Môi trường và Phát triển (Thượng đỉnh Trái đất) tại Rio de Janeiro,


Brasil, tháng 6 năm 1992, dẫn tới sự thành lập Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về sự Phát triển Bền vững nhằm
thực hiện những điều đã được ký kết tại Chương trình nghị sự 21, văn bản cuối cùng về những thỏa thuận
đã được các chính phủ thảo luận tại UNCED;


 Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển, được tổ chức tại Cairo, Ai Cập, vào tháng 9 năm 1994,


đã thơng qua một chương trình hành động nhằm giải quyết các thách thức nguy ngập và mối quan hệ liên


quan giữa dân số và sự phát triển bền vững trong vòng 20 năm tới;


 Hội nghị Thế giới lần thứ tư về Phụ nữ, được tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc, vào tháng 9 năm


1995, tìm cách đẩy nhanh việc thực hiện những thỏa thuận lịch sử đã đạt được tại Hội nghị Thế giới lần thứ
ba về Phụ nữ;


 Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ hai về Sự định cư Loài người (Habitat II), được triệu tập tháng 6


năm 1996 tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, đánh giá những thách thức trước sự phát triển và quản lý định cư loài
người trong thế kỷ 21.


 ICARA 2 or ICARA II: Hội nghị Quốc tế về sự Hỗ trợ Người tị nạn tại châu Phi được thành lập


năm 1984.


<b>Những năm quốc tế và những vấn đề liên quan</b>


Bài chi tiết: Năm quốc tế Liên Hiệp Quốc


Liên Hiệp Quốc tuyên bố và điều phối "Năm quốc tế..." nhằm tập trung sự chú ý của thế giới vào các vấn
đề quan trọng. Sử dụng hình tượng Liên Hiệp Quốc, một logo được thiết kế đặc biệt cho năm đó, và cơ sở
hạ tầng của Hệ thống Liên Hiệp Quốc nhằm phối hợp các sự kiện trên khắp thế giới, nhiều năm đã trở
thành điểm xúc tác cho những vấn đề quan trọng trên phạm vi thế giới.


 Đại sứ thiện chí UNESCO
 Di sản văn hóa thế giới UNESCO
 Đại sứ thiện chí UNHCR


 Thành phố Liên Hiệp Quốc vì hịa bình



<b>[sửa]</b>

<b>Mục tiêu kiểm sốt và giải giáp vũ khí</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

1 năm 1946) có tiêu đề "Sự thành lập một Ủy ban giải quyết các Vấn đề Phát sinh do sự Phát minh ra Năng
lượng Nguyên tử" và kêu gọi đưa ra những đề xuất khoa học cho "sự hạn chế trang bị các loại vũ khí
nguyên tử và tất cả các loại vũ khí chính khác với mục đích hủy diệt hàng loạt".


Liên Hiệp Quốc đã lập ra nhiều diễn đàn nhằm giải quyết các vấn đề giải giáp vũ khí đa biên. Các diễn đàn
chính là Ủy ban Thứ nhất của Đại hội đồng và Cao ủy về Giải giáp vũ khí Liên Hiệp Quốc. Những vấn đề
được đưa vào chương trình nghị sự gồm việc ước tính những giá trị có được sau những hiệp ước cấm thử
hạt nhân, kiểm sốt vũ khí khơng gian, những nỗ lực nhằm ngăn chặn các loại vũ khí hóa học, giải giáp vũ
khí hạt nhân và vũ khí thơng thường, những khu vực khơng vũ khí hạt nhân, giảm bớt ngân sách quân sự,
và các biện pháp nhằm tăng cường an ninh quốc tế.


Hội nghị Giải giáp là một diễn đàn được cộng đồng thế giới lập ra để đảm phán về các thỏa thuận kiểm sốt
vũ khí đa bên và giải giáp vũ khí. Diễn đàn có 66 thành viên đại diện cho mọi khu vực trên thế giới, gồm cả
năm quốc gia hạt nhân chính (Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa, Pháp, Nga, Anh Quốc và Hoa Kỳ). Tuy hội
nghị khơng phải là một tổ chức chính thức của Liên Hiệp Quốc, nó kết nối với tổ chức này thông qua sự
hiện diện cá nhân của Tổng thư ký; người đồng thời cũng là tổng thư ký của hội nghị. Những nghị quyết
được Đại hội đồng thông qua thường yêu cầu hội nghị xem xét các vấn đề giải giáp riêng biệt. Đổi lại, hàng
năm hội nghị thơng báo các hoạt động của mình cho Đại hội đồng.


<b>Giữ gìn hịa bình</b>



Lính gìn giữ hịa bình Liên Hiệp Quốc được gửi tới nhiều vùng nơi các cuộc xung đột quân sự mới
chấm dứt, nhằm buộc các bên tơn trọng các thỏa thuận hịa bình và ngăn chặn tình trạng thù địch tái diễn, ví
dụ tại Đơng Timor cho tới khi nước này giành độc lập năm 2001. Các lực lượng đó do các quốc gia thành
viên Liên Hiệp Quốc đóng góp, và việc tham dự vào các chiến dịch gìn giữ hịa bình là khơng bắt buộc; tới
nay chỉ có hai quốc gia là Canada và Bồ Đào Nha, đã tham gia vào tất cả các chiến dịch gìn giữ hịa bình.


[cần dẫn nguồn]<sub> Liên Hiệp Quốc khơng duy trì bất kỳ một lực lượng quân sự độc lập nào. Tất cả các chiến dịch </sub>



gìn giữ hịa bình của Liên Hiệp Quốc phải được Hội đồng bảo an thông qua.


Những người sáng lập Liên Hiệp Quốc đã thực sự hy vọng rằng tổ chức này sẽ hoạt động để ngăn
chặn những cuộc xung đột giữa các quốc gia và các cuộc chiến tranh trong tương lai. Những hy vọng đó
khơng hồn toàn trở thành hiện thực. Trong thời Chiến tranh Lạnh (từ khoảng năm 1945 tới năm 1991), sự
phân chia thế giới thành những phe thù địch khiến thỏa thuận gìn giữ hịa bình rất khó được thơng qua. Sau
khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, lại tái xuất hiện những lời kêu gọi biến Liên Hiệp Quốc trở thành một cơ
quan đảm bảo hịa bình quốc tế, bởi hàng chục những cuộc xung đột quân sự vẫn tiếp tục diễn ra trên khắp
thế giới. Nhưng sự tan vỡ của Liên bang Xô viết cũng khiến Hoa Kỳ có được vị thế thống trị tồn cầu duy
nhất, tạo ra nhiều thách thức mới cho Liên Hiệp Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Các lực lượng gìn giữ hịa bình Liên Hiệp Quốc (được gọi là Quân mũ nồi xanh) đã nhân được Giải
Nobel năm 1998 cho công lao giữ gìn Hịa bình của họ. Năm 2001, Tổng thư ký Liên Hiệp QuốcKofi
Annan đã đoạt giải Nobel Hịa bình "vì nỗ lực cho một thế giới hịa bình và được tổ chức tốt hơn."


Liên Hiệp Quốc có nhiều loại Huy chương Liên Hiệp Quốc để trao cho những thành viên quân sự
tham gia vào việc gìn giữ các thỏa thuận hịa bình của tổ chức này. Huy chương đầu tiên ra đời làHuy
chương Phục vụ Liên Hiệp Quốc, được trao cho các lực lượng Liên Hiệp Quốc tham gia vào cuộc Chiến
tranh Triều Tiên. Huy chương NATO cũng ra đời với mục tiêu như trên và cả hai loại này đều được coi
là huy chương quốc tế chứ không phải huy chương quân sự.


<b>Nhân quyền</b>



Việc theo đuổi mục tiêu nhân quyền là một lý do chính của việc thành lập Liên Hiệp Quốc. Sự tàn bạo
của Thế chiến thứ hai và nạn diệt chủng dẫn tới một kết luận chung rằng tổ chức mới này phải hoạt động để
ngăn chặn bất kỳ một thảm kịch nào như vậy trong tương lai. Một mục tiêu ban đầu là tạo ra một khung
pháp lý để xem xét và hành động trước những vấn đề về vi phạm nhân quyền.


Hiến chương Liên Hiệp Quốc bắt buộc tất cả các quốc gia thành viên phải khuyến khích "sự tơn trọng tồn


diện, và sự tn thủ, nhân quyền" và tiến hành "các hành động chung hay riêng rẽ" cho mục tiêu đó. Tuyên
bố Chung về Nhân quyền, dù khơng chính thức ràng buộc, đã được Đại hội đồng thông qua năm 1948 như
là một tiêu chuẩn chung để hướng tới đối với mọi nước thành viên. Đại hội đồng thường đề cập tới các vấn
đề nhân quyền.


Ngày 15 tháng 3 năm 2006 Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu với kết quả áp đảo để thay thế Uỷ
ban nhân quyền (Human rights Commission) bằng Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc(Human Rights
Council).[12] Mục tiêu của nó là giải quyết các vụ vi phạm nhân quyền. Uỷ ban nhân quyền đã nhiều lần bị
chỉ trích vì thành phần thành viên của nó.[cần dẫn nguồn]<sub> Đặc biệt, chính nhiều nước thành viên của cơ quan này </sub>


cũng có thành tích nhân quyền kém cỏi, gồm cả những nước có đại diện được bầu làm chủ tịch ủy ban.


[cần dẫn nguồn]


Hiện có bảy Cơ cấu hiệp ước nhân quyền liên quan tới Liên Hiệp Quốc, gồm Ủy ban Nhân quyền Liên
Hiệp Quốc và Ủy ban về Sự hạn chế và Ngăn chặn bạo hành chống Phụ nữ. Ban thư ký của sáu (trừ Ủy ban
Hạn chế và ngăn chặn bạo hành chống phụ nữ) đều do văn phòng Cao Ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc điều
hành.


Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của mình là nhân tố chủ chốt thúc đẩy và áp dụng các nguyên tắc thiêng
liêng trong Tuyên bố Chung về Nhân quyền. Một trường hợp như thế là việc Liên Hiệp Quốc hỗ trợ các
nước đang trong quá trình chuyển tiếp sang chế độ dân chủ. Hỗ trợ kỹ thuật trong việc tổ chức các cuộc bầu
cử tự do và công bằng, cải thiện các cơ cấu pháp lý, khởi thảo hiến pháp, huấn luyện các nhân viên nhân
quyền, và chuyển các phong trào vũ trang thành các đảng chính trị đã đóng góp rất lớn vào q trình dân
chủ hóa trên khắp thế giới. Liên Hiệp Quốc đã giúp tổ chức các cuộc bầu cử tại những quốc gia vốn có
thành tích dân chủ yếu kém, gồm cả hai quốc gia gần đây là Afghanistan và Đông Timor.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tới nước ngồi cho mục đích hỏi cung của Hoa Kỳ.[cần dẫn nguồn]<sub> Một số </sub><sub>thành viên Đảng Dân chủ Hoa Kỳ</sub><sub> và </sub>


các nhóm nhân quyền cho rằng hệ thống nhà tù bí mật của CIA khơng cho phép giám sát được các vụ vi


phạm nhân quyền và hy vọng chúng sẽ sớm bị đóng cửa.


<b>Hỗ trợ nhân đạo và Phát triển quốc tế</b>



Phối hợp với các tổ chức khác như Chữ thập đỏ, Liên Hiệp Quốc cung cấp thực phẩm, nước uống, nơi cư
ngụ và các dịch vụ nhân đạo khác cho những người dân đang phải chịu nạn đói, phải rời bỏ nhà cửa vì
chiến tranh, hay bị ảnh hưởng bởi các thảm họa khác. Các cơ quan nhân đạo chính của Liên Hiệp Quốc
là Chương trình Lương thực Thế giới (đã giúp cung cấp thực phẩm cho hơn 100 triệu người mỗi năm ở hơn
80 quốc gia), Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn hiện điều hành các dự án ở hơn 116 nước, cũng như
các chiến dịch gìn giữ hịa bình tại hơn 24 quốc gia. Nhiều lần, các nhân viên cứu trợ của Liên Hiệp Quốc
đã trở thành mục tiêu của các vụ tấn công (xem Các vụ tấn công vào nhân viên cứu trợ nhân đạo).


Liên Hiệp Quốc cũng tham gia vào việc hỗ trợ phát triển, ví dụ thơng qua việc đưa ra Các mục tiêu Thiên
niên kỷ. Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) là tổ chức đa bên lớn nhất tiến hành hỗ trợ kỹ
thuật trên thế giới. Các tổ chức khác như WHO, UNAIDS, và Quỹ thế giới Phòng chống AIDS, Lao và Sốt
rét — là các định chế hàng đầu trong cuộc chiến chống lại bệnh tật trên thế giới, đặc biệt tại các nước
nghèo. Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc là nhà cung cấp chính các dịch vụ sinh sản. Quỹ này đã giúp giảm tỷ lệ
tử vong ở bà mẹ và trẻ em tại 100 quốc gia.


Hàng năm Liên Hiệp Quốc đưa ra Chỉ số Phát triển Con người (HDI), một biện pháp so sánh xếp hạng
quốc gia theo sự nghèo khổ, học vấn, giáo dục, tuổi thọ, và các yếu tố khác.


Liên Hiệp Quốc khuyến khích phát triển con người thơng qua nhiều cơ quan và văn phịng của mình:


 Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) loại trừ bệnh đậu mùa năm 1977 và đang tiến gần tới mục


tiêu loại trừ bệnh bại liệt.


 Ngân hàng Thế giới / Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) Ghi chú: Ngân hàng Thế giới và Quỹ Tiền



tệ Quốc tế được thành lập với tư cách các thực thể riêng biệt khỏi Liên Hiệp Quốc thơng
qua Thỏa thuậnBretton Woods năm 1944. Sau đó, vào năm 1947, một thỏa thuận khác
được ký kết biến các tổ chức hậu Bretton Woods trở thành các cơ quan độc lập, chuyên
biệt và là những cơ quan giám sát bên trong cơ cấu Liên Hiệp Quốc. Đây là trang của Ngân
hàng Thế giới làm sáng tỏ quan hệ giữa hai tổ chức.


 Chương trình Mơi trường Liên Hiệp Quốc (UNEP)
 Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP)


 Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO)
 Quỹ Trẻ em Liên Hiệp Quốc(UNICEF)


 Cao ủy Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn (UNHCR)


Ngày 9 tháng 3 năm 2006, Tổng thư ký Kofi Annan đã lập ra Quỹ Cứu trợ Khẩn cấp Trung
ương (CERF) dành cho những người dân Châu Phi đang bị nạn đói đe doạ.[13]


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>Các hiệp ước và luật pháp quốc tế</b>



Liên Hiệp Quốc đàm phán các hiệp ước như Thỏa ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển nhằm tránh những
nguy cơ xung đột quốc tế tiềm tàng. Những tranh cãi về việc sử dụng các đại dương có thể được phân xử
tại một tịa án đặc biệt.


Tòa án Pháp lý Quốc tế (ICJ) là tịa án chính của Liên Hiệp Quốc. Mục tiêu của tòa án này là để phán xử
những tranh cãi giữa các quốc gia thành viên. ICJ bắt đầu hoạt động năm 1946 và vẫn đang xem xét nhiều
vụ việc. Các trường hợp đáng chú ý gồm:


 Congo và Pháp, khi Cộng hòa Dân chủ Congo cáo buộc Pháp bắt giữ bất hợp pháp các cựu


lãnh đạo bị cho là tội phạm chiến tranh; và Nicaragua với Hoa Kỳ, khi Nicaragua buộc


tội Mỹ trang bị vũ khí bất hợp pháp cho Contras (vụ này dẫn tới Vụ Iran-Contra).


 <sub>Năm 1993, đối phó với sự "thanh lọc sắc tộc" tại </sub><sub>Nam Tư</sub><sub> cũ, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp </sub>
Quốc đã thành lập Tòa án tội phạm quốc tế cho Nam Tư cũ. Năm 1994, đối phó với
nạn diệt chủng tại Rwanda, Hội đồng đã thành lập Tòa án tội phạm quốc tế cho Rwanda.
Việc phán xử tại hai tịa án đó đã thiết lập nên cơ sở xác định hiện nay rằng hành vi tội
phạm cưỡng bức trong những cuộc xung đột quân sự là tội ác chiến tranh.[14]


 <sub>Năm 1998 Đại hội đồng kêu gọi triệu tập một hội nghị tại </sub><sub>Roma</sub><sub> về việc thành lập một </sub><sub>Tòa</sub>


án Tội phạm Quốc tế (ICC), tại đây "Quy chế Roma" đã được thơng qua. Tịa án Tội phạm
quốc tế bắt đầu hoạt động năm 2002 và tiến hành phiên xử đầu tiên năm 2006.[15] Đây là tòa
án quốc tế thường trực đầu tiên chịu trách nhiệm xét xử những người bị cho là phạm các
tội ác nghiêm trọng theo luật pháp quốc tế gồm cả tội ác chiến tranh và diệt chủng. Tuy
nhiên, hoạt động của ICC độc lập với Liên Hiệp Quốc cả về nhân sự và tài chính, dù một
số cuộc gặp gỡ của cơ quan điều hành ICC, Đại hội đồng các Quốc gia tham gia Quy chế
Roma, được tổ chức tại Liên Hiệp Quốc. Có một "thỏa thuận quan hệ" giữa ICC và Liên
Hiệp Quốc để quy định mối quan hệ giữa hai định chế này với nhau.[16][17]


 Năm 2002, Liên Hiệp Quốc đã thành lập Tịa án đặc biệt cho Sierra Leone để đối phó trước


những hành động tàn bạo xảy ra trong thời gian nội chiến tại nước này.


Cũng có một SCIU (Đơn vị Điều tra những Tội ác Nghiêm trọng) cho Đông Timor.

<b>Những gương mặt nổi tiếng của Liên Hiệp Quốc</b>



Nhiều cá nhân theo chủ nghĩa nhân đạo và người nổi tiếng đã cùng hoạt động với Liên Hiệp
Quốc, gồm Amitabh Bachchan, Audrey Hepburn, Eleanor Roosevelt, Danny Kaye, Roger
Moore, Peter Ustinov, Bono, Jeffrey Sachs, Angelina Jolie, Mẹ Teresa, Shakira, Jay
Z và Nicole Kidman.



<b>Cải cách</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

trong Hội đồng Bảo an nhằm phản ánh chính xác hơn tình thế địa chính trị quốc tế ngày nay (ví dụ tăng số
thành viên Châu Phi, Nam Mỹ và Châu Á).[cần dẫn nguồn]<sub> Năm 2004 và 2005, những chứng cớ như quản lý kém</sub>


và tham nhũng liên quan tới Chương trình đổi dầu lấy lương thực cho Iraq dưới thời Saddam Hussein khiến
một lần nữa những lời kêu gọi cải cách lại dấy lên.[cần dẫn nguồn]


Một chương trình cải cách chính thức đã được Tổng thư ký Liên Hiệp QuốcKofi Annan đưa ra một thời
gian ngắn sau khi ông nhậm chức trong nhiệm kỳ đầu tiên ngày 1 tháng 1 năm 1997. Những hành động cải
cách liên quan tới việc thay đổi số lượng thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp


Quốc (hiện chỉ phản ánh quan hệ quyền lực năm 1945); biến quá trình hoạt động của bộ máy trở nên công
khai hơn, nhấn mạnh trên hiệu quả; biến Liên Hiệp Quốc trở nên dân chủ hơn; và áp đặt một biểu thuế quốc
tế trên các cơng ty sản xuất vũ khí tồn cầu.[cần dẫn nguồn]


Tháng 9 năm 2005, Liên Hiệp Quốc đã triệu tập một Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới với sự tham gia của
hầu hết nguyên thủ quốc gia các nước thành viên, trong một khóa họp tồn thể của phiên họp toàn thể Đại
hội đồng lần thứ 60. Liên Hiệp Quốc gọi cuộc họp thượng đỉnh là "một cơ hội hàng thế hệ mới có một lần
nhằm đưa ra những quyết định quan trọng về phát triển, an ninh, nhân quyền và cải cáh liên hiệp quốc".
[18] Tổng thư ký Kofi Annan đã đề xuất hội nghị đồng ý về một "thỏa thuận cả gói" để cải cách Liên Hiệp
Quốc sửa chữa lại các hệ thống quốc tế vì hịa bình và an ninh, nhân quyền và phát triển, để khiến chúng có
khả năng giải quyết những thách thức rất lớn mà Liên Hiệp Quốc sẽ phải đối mặt trong thế kỷ 21. Các nhà
lãnh đạo thế giới đã đồng thuận trên một văn bản về những vấn đề đáng chú ý đó như:


 thành lập một Hội đồng xây dựng hịa bình để tạo lập một cơ cấu trung tâm nhằm giúp đỡ các


quốc gia đang đứng trước nguy cơ xung đột;



 thỏa thuận rằng cộng đồng quốc tế có quyền can thiệp khi các chính phủ quốc gia khơng thể hồn


thành trách nhiệm của họ trong việc bảo vệ các công dân của mình khỏi những hành động tội ác;
 <sub>một </sub><sub>Ủy ban Nhân quyền</sub><sub> (thành lập ngày </sub><sub>9 tháng 5</sub><sub> và sẽ bắt đầu hoạt động </sub><sub>19 tháng 6</sub><sub>);</sub>[19]


 <sub>một thỏa thuận cung cấp thêm những nguồn tài nguyên cho </sub><sub>Văn phòng các Dịch vụ Giám sát Nội </sub>


bộ Liên Hiệp Quốc;


 nhiều thỏa thuận chi thêm hàng tỷ dollar nhằm đạt các Mục tiêu Thiên niên kỷ;


 <sub>một sự lên án rõ ràng và không tham vọng với </sub><sub>chủ nghĩa khủng bố</sub><sub> "ở mọi hình thức và mọi kiểu";</sub>


 một quỹ dân chủ;


 <sub>một thỏa thuận nhằm chấm dứt hoạt động của Hội đồng Ủy trị vì hội đồng này đã hồn thành sứ </sub>
mệnh của mình.[20]


Dù các nước thành viên Liên Hiệp Quốc chưa đạt được nhiều thành quả trên con đường cải cách sự quan
liêu của tổ chức này, Annan vẫn tiếp tục tiến hành những cải cách trong phạm vi quyền hạn của mình. Ơng
đã lập ra các văn phòng đạo đức, chịu trách nhiệm trừng phạt những hành vi gian lận tài chính mới bị
phanh phui và đề xuất những chính sách ngăn ngừa mới. Tới cuối tháng 12 năm 2005, ban thư ký đã hoàn
thành việc xem xét lại toàn bộ ủy nhiệm của Đại hội đồng từ hơn năm năm trước. Việc điều tra này là cơ sở
căn bản để các quốc gia thành viên quyết định tăng hay giảm các chương trình hoạt động theo hiệu quả của
chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ là tám mục tiêu mà toàn bộ 192 nước thành viên Liên Hiệp
Quốc đã đồng ý sẽ hoàn thành vào năm 2015. Borgen Project ước tính rằng cần chi khoảng 40-60 tỷ dollar
mỗi năm để đạt tám mục tiêu trên.



Tuyên bố thiên niên kỷ Liên Hiệp Quốc, được ký kết tháng 9 năm 2001, hứa hẹn:


1. Loại trừ nghèo đói;


2. Hồn thành phổ cập giáo dục tiểu học;


3. Khuyến khích bình đẳng giới và tăng quyền cho phụ nữ;
4. Giảm tỷ lệ tử vong trẻ em;


5. Cải thiện sức khỏe bà mẹ;


6. Chiến đấu chống HIV/AIDS, sốt rét, và các bệnh tật khác;
7. Đảm bảo môi trường bền vững;


8. Khuyến khích một mối quan hệ đối tác phát triển quốc tế.


<b>Những thành công và thất bại trong các vấn đề an ninh</b>



Một phần lớn trong chi tiêu của Liên Hiệp Quốc là để giải quyết các vấn đề cốt lõi về hịa bình và an
ninh của Liên Hiệp Quốc. Ngân sách gìn giữ hịa bình năm tài chính 2005-2006 gần 5 tỷ dollar (so với mức
gần 1.5 tỷ dollar ngân sách chính của Liên Hiệp Quốc trong cùng giai đoạn)[cần dẫn nguồn]<sub>, với khoảng 70.000 </sub>


quân được triển khai cho 17 chiến dịch khắp thế giới. Báo cáo An ninh Con người 2005[21], do Trung tâm
An ninh Con người thuộc Đại học British Columbia đưa ra với sự hộ trợ từ nhiều chính phủ và quỹ khác
cho thấy một sự sụt giảm lớn, nhưng phần lớn không được công nhận, trong số lượng các cuộc chiến,
những vụ diệt chủng và những vụ vi phạm nhân quyền từ cuối giai đoạn Chiến tranh Lạnh. Những con số
thống kê gồm:


 Giảm 40% những cuộc xung đột bạo lực.



 Giảm 80% những cuộc xung đột gây đổ máu nhiều nhất.
 Giảm 80% những cuộc diệt chủng và thanh lọc chính trị.


Báo cáo, do Oxford University Press[cần dẫn nguồn]<sub>, cho rằng sự tuyên truyền cho một học thuyết quốc tế </sub>


-chủ yếu do Liên Hiệp Quốc đề xướng - là nguyên nhân chính mang lại sự sụt giảm những cuộc xung
đột quân sự, dù bản báo cáo cho thấy bằng chứng về sự tranh cãi này đa phần chỉ mang tính hồn
cảnh.


Bản báo cáo chỉ ra nhiều khoản đầu tư riêng biệt đã chi: [22]


 Tăng sáu lần số lượng các chiến dịch của Liên Hiệp Quốc được tiến hành để ngăn chặn chiến


tranh trong giai đoạn 1990 tới 2002.


 Tăng bốn lần cho các nỗ lực nhằm chấm dứt những cuộc xung đột đang diễn ra, từ năm 1990 tới


2002.


 Tăng bảy lần số lượng ‘Bạn bè của Tổng thư ký’, ‘Các nhóm tiếp xúc’ và các cơ cấu do chính phủ


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

 Tăng mười một lần số lượng các lệnh trừng phạt kinh tế chống lại các chế độ cầm quyền trên khắp


thế giới từ 1989 tới 2001.


 Tăng bốn lần số lượng các chiến dịch gìn giữ hịa bình Liên Hiệp Quốc, từ 1987 đến 1999.


Tính trung bình, những nỗ lực trên vừa nhiều vừa quá lớn lại phức tạp hơn những chiến dịch thời
Chiến tranh Lạnh.



Trong lĩnh vực gìn giữ hịa bình, các thắng lợi gồm:


 <sub>Văn phịng Giải trình Chính phủ Hoa Kỳ đã kết luận rằng việc gìn giữ hịa bình của Liên Hiệp </sub>
Quốc có chi phí ít hơn tám lần so với khoản chi cho lực lượng Hoa Kỳ. [23]


 <sub>Một nghiên cứu năm 2005 của RAND Corp cho thấy Liên Hiệp Quốc thành công ở hai trong số ba</sub>
chiến dịch gìn giữ hịa bình của mình. Nghiên cứu này cũng so sánh những nỗ lực xây dựng nhà
nước của Liên Hiệp Quốc với cũng nỗ lực của Hoa Kỳ, và thấy rằng trong tám trường hợp của
Liên Hiệp Quốc, bảy trường hợp diễn ra trong hịa bình, trong khi trong tám trường hợp của Hoa
Kỳ, bốn diễn ra trong hịa bình, và bốn khơng hề hay chưa hề có hịa bình. [24]


Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc bất đắc dĩ phải thực hiện
các nghị quyết của Hội đồng Bảo an. Iraq được cho là đã vi phạm 17 nghị quyết của Hội đồng bảo an
từ ngày 28 tháng 6 năm 1991 cũng như đã tìm cách né tránh những lệnh trừng phạt kinh tế của Liên
Hiệp Quốc. Trong gần một thập kỷ, Israel bất chấp các nghị quyết kêu gọi tháo dỡ các khu định cư
của họ tại Bờ Tây và Dải Gaza. Những thất bại đó xuất phát từ tình trạng phụ thuộc đa chính phủ của
Liên Hiệp Quốc - ở nhiều khía cạnh đây là một tổ chức gồm 192 quốc gia thành viên và ln cần phải
có sự nhất trí, chứ không phải là một tổ chức độc lập. Thậm chí khi các hành động được 15 nước
thành viên Hội đồng bảo an thông qua, Ban thư ký hiếm khi cung cấp đủ các nguồn tài nguyên cần
thiết để thực hiện các sứ mệnh đó.


Những thất bại khác trong vấn đề an ninh gồm:


 <sub>Thất bại trong việc ngăn chặn vụ </sub><sub>Diệt chủng tại Rwanda</sub><sub> năm 1994, dẫn tới cái chết của gần một </sub>
triệu người, vì các thành viên của hội đồng bảo an từ chối thông qua bất kỳ một hành động quân
sự nào.[25]


 <sub>Thất bại của </sub><sub>MONUC</sub><sub> (Nghị quyết 1292 của </sub><sub>UNSC</sub><sub>) trong việc can thiệp một cách có hiệu quả </sub>
vào cuộc Chiến tranh Congo lần thứ hai, liên quan tới gần năm triệu người tại Cộng hòa Dân chủ
Congo, 1998-2002 (với những trận đánh vẫn đang tiếp diễn), và trong việc tiến hành cung


cấp viện trợ nhân đạo.


 <sub>Thất bại trong việc can thiệp vào </sub><sub>Cuộc thảm sát Srebrenica</sub><sub> năm 1995, dù sự thực là Liên hiệp </sub>
quốc đã coi Srebrenica là một "thiên đường an toàn" cho những người tị nạn và phái 600 lính gìn
giữ hịa bình Hà Lan tới bảo vệ nó.


 <sub>Thất bại trong việc cung cấp thực phẩm tới những người dân đói khát tại </sub><sub>Somalia</sub><sub>; thực phẩm </sub>
thường bị các lãnh chúa địa phương chiếm đoạt. Một nỗ lực của Hoa Kỳ/Liên Hiệp Quốc trong
việc bắt giữ các vị lãnh chúa đó đã dẫn tới Trận Mogadishu năm 1993.


 <sub>Thất bại trong việc thực hiện </sub><sub>1559</sub><sub> và </sub><sub>Nghị quyết 1701 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc</sub><sub> kêu </sub>
gọi giải giáp các nhóm bán quân sự Liban như Fatah và Hezbollah.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

lạm dụng và bóc lột tình dục các cơ gái, thậm chí mới chỉ 8 tuổi, trong một số chiến dịch gìn giữ
hịa bình khác nhau. Sự lạm dụng tình dục này vẫn diễn ra dù đã có nhiều sự phát hiện và bằng
chứng từ Văn phòng Liên Hiệp Quốc về Dịch vụ Giám sát Nội bộ.[26][27] Một cuộc điều tra nội bộ
năm 2005 của Liên Hiệp Quốc cho thấy sự khai thác và lạm dụng tình dục đã được báo cáo tại ít
nhất năm quốc gia nơi các binh lính gìn giữ hịa bình Liên Hiệp Quốc được triển khai, gồm Cộng
hòa Dân chủ Congo, Haiti, Burundi, Côte d'Ivoire và Liberia. [28] BBC đã tiến hành một cuộc điều
tra tương tự, và cũng chỉ ra một số thành viên Chương trình Lương thực Thế giới cũng có những
hành vi lạm dụng.[29]


<b>Chỉ trích và mâu thuẫn</b>


<b>Hội đồng bảo an</b>



Liên Hiệp Quốc đã bị chỉ trích vì khơng thể hoạt động một cách rõ ràng và kiên quyết khi đối đầu
trước một vụ khủng hoảng. Những ví dụ gần đây gồm chương trình hạt nhân của Iran và sự diệt chủng
trong cuộc xung đột Darfur, Sudan. Vì mỗi nước trong số năm thành viên thường trực của Hội đồng bảo an
đều có quyền phủ quyết, và bởi vì họ thường bất đồng với nhau, đã rất nhiều lần khơng có bất kỳ một hành
động nào được thông qua. Thông thường, nhưng không phải là luôn luôn, sự chia rẽ này xuất hiện giữa Hoa


Kỳ ở một phía và Trung Quốc, Nga hay cả hai ở phía kia. Một số lần Hội đồng bảo an đồng thuận với nhau
nhưng lại thiếu sự quyết tâm hay phương tiện để thực thi các nghị quyết của họ. Một ví dụ gần đây là Cuộc
khủng hoảng Israel-Liban 2006, không hành động nào được thực hiện theo Nghị quyết 1559 và Nghị quyết
1701 để giải giáp các lực lượng du kích phi chính phủ như Hezbollah. Những lời chỉ trích đặt nghi vấn về
hiệu năng và sự thích hợp của Hội đồng bảo an bởi vì khi vi phạm vào một nghị quyết do Hội đồng này đưa
ra, thường cũng không xảy ra hậu quả nào cả. (Xem Cải cách Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc.)


<b>Giám sát nhân quyền</b>



Các quốc gia như Sudan và Libya, với những nhà lãnh đạo rõ ràng có bảng thành tích nhân quyền
kém cỏi vẫn(theo quan điểm của Mỹ và một số nước được là thành viên của Ủy ban Liên Hiệp Quốc về
Nhân quyền (HRC) cũ,[30][31] và việc Libya được bầu làm chủ tịch của Ủy ban này, đã từng là một vấn đề bàn
cãi. Những nước đó cho rằng, các quốc gia phương tây, mà họ cho là có thái độ thù địch thực dân và tàn
bạo, khơng có quyền đặt vấn đề về tư cách thành viên của họ trong Ủy ban này.


Tuy nhiên vào ngày 15 tháng 3 năm 2006 Đại hội đồng đã thông qua nghị quyết thành lập một cơ
chế mới - Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc – để thay thế Ủy ban trên. Cơ quan này có các quy định
chặt chẽ hơn về quy chế thành viên gìn giữ hịa bình gồm cả một bản thành tích chung về nhân quyền và
tăng số lượng phiếu cần bầu cần thiết để một quốc gia có đủ tư cách tham gia, từ hình mẫu bầu theo danh
sách vùng với Hội đồng kinh tế xã hội 53 thành viên chuyển sang tất cả một nửa trong số 192 thành viên
của Đại hội đồng.


Ngày 9 tháng 5 năm 2006 47 thành viên mới được bầu vào hội đồng. Trong khi một số nước
như Cuba, Pakistan, Nga, Ả Rập Saudi và Azerbaijan được bầu[32][33][34], thì một số nước khác khơng có mặt
trong Hội đồng mới như:


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

 Các quốc gia muốn tham gia nhưng không nhận đủ số phiếu: Iran, Venezuela, Thái


Lan, Iraq và Kyrgyzstan



Vì những thay đổi trong cơ chế thành viên giữa Ủy ban và Hội đồng, số lượng quốc gia bị Hội
đồng Tự do coi là "Không tự do" chiếm hơn một nửa.


<b>Thiếu hiệu năng do tính quan liêu</b>



Liên Hiệp Quốc đã bị cáo buộc thiếu tính hiệu năng và lãng phí vì cơ cấu cồng kềnh và quan liêu
quá mức của nó. Trong thập niên 1990, Hoa Kỳ, nước hiện đóng góp nhiều nhất cho ngân sách tổ chức này,
đã coi sự thiếu hiệu quả là một ngun nhân khiến họ trì hỗn các khoản đóng góp. Việc chi trả những
khoản thiếu này chỉ được thực hiện với điều kiện về sáng kiến cho một cuộc cải cách lớn. Năm 1994 Văn
phòng Dịch vụ Giám sát Nội bộ (OIOS) được thành lập theo quyết định của Đại hội đồng nhằm đóng vai
trị giám sát tính hiệu năng của tổ chức. [35] Một chương trình cải cách đã được đề xuất, nhưng vẫn chưa
được Đại hội đồng thông qua. [36][37]


<b>Sự phân biệt đối xử chống Israel</b>



Liên Hiệp Quốc cũng đã bị cáo buộc thực hiện tiếp cận một chiều đối với các vấn đề Trung
Đông và cuộc xung đột Israel-Palestine.[38][39][40] Những lời cáo buộc cho rằng Israel đã bị phân biệt đối xử
trong tổ chức quốc tế này với cách đối xử chỉ trích một chiều độc nhất từ trước tới nay. Không giống như
tất cả các nhóm người tị nạn khác, người Palestine có cơ quan riêng của họ bên trong Liên Hiệp Quốc (Cơ
quan Cứu trợ và Việc làm Liên Hiệp Quốc cho người tị nạn Palestine) tách biệt với Văn phòng Cao Ủy
Liên Hiệp Quốc về Người tị nạn, vốn chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề người tị nạn trên thế giới. [41]
Cho tới tận năm 2000, Israel không có tư cách thành viên bên trong bất kỳ một nhóm cấp vùng
nào của Liên Hiệp Quốc. Trên thực tế, điều này có nghĩa là Israel bị cấm hoạt động trong các cơ quan Liên
Hiệp Quốc như Hội đồng Bảo an. Việc cho phép Israel tham gia đầy đủ hơn bên trong Liên Hiệp Quốc với
tư cách là một quốc gia thành viên Tây Âu và các nhóm cấp vùng khác gần đây chỉ mang tính tạm thời và
bắt buộc phải được gia hạn định kỳ. Israel chỉ được phép tham gia vào các hoạt động tại Thành phố New
York của Liên Hiệp Quốc và bị loại trừ khỏi các văn phòng Liên Hiệp Quốc


tại Geneva, Nairobi, Roma và Wien là những văn phòng quản lý các vấn đề như nhân quyền và kiểm sốt
vũ khí. Việc chỉ trích Israel đã trở thành một công việc thường ngày đối với nhiều cơ quan Liên Hiệp Quốc


như Hội đồng Nhân quyền.


<b>Bất lực trước vấn đề diệt chủng và nhân quyền</b>



Liên Hiệp Quốc cũng bị cáo buộc đã cố tình làm ngơ trước hồn cảnh khó khăn của nhiều người
trên khắp thế giới, đặc biệt tại nhiều vùng ở Châu Á, Trung Đông và Châu Phi. Những ví dụ hiện tại gồm
việc Liên Hiệp Quốc khơng hành động gì trước chính phủ Sudan tại Darfur,[42] việc thanh lọc sắc tộc của
chính phủ Trung Quốc tại Tây Tạng và Israel tại các vùng lãnh thổ Palestine.


<b>Bê bối trong chương trình đổi dầu lấy lương thực</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

bị ngắt quãng vào cuối năm 2003 trước những lời cáo buộc ngày càng lan rộng về sự lạm dụng và tham
những. Cựu giám đốc, Benon Sevan người Síp, là người đầu tiên bị đình chỉ chức vụ và sau đó phải từ chức
khỏi Liên Hiệp Quốc, khi một bản báo cáo tạm thời của ban điều tra do Liên Hiệp Quốc hỗ trợ dưới sự lãnh
đạo của Paul Volcker kết luận rằng Sevan đã nhận đút lót từ phía chính quyền Iraq và đề xuất việc bãi bỏ
quyền bất khả xâm phạm thuộc Liên Hiệp Quốc của ông ta nhằm mở đường cho một cuộc điều tra tội
phạm.[43]


Dưới sự bảo hộ của Liên Hiệp Quốc, số lượng dầu mỏ trị giá hơn 65 tỷ đôla của Iraq đã được bán ra
thị trường thế giới. Về mặt chính thức, khoảng 46 tỷ đã được chi cho các mục đích nhân đạo. Số còn lại
được dành trả cho những khoản bồi thường cho cuộc Chiến tranh Vùng Vịnh thông qua một Quỹ Chi trả,
số tiền quản lý và hoạt động của Liên Hiệp Quốc cho chương trình này chiếm 2,2%, và chương trình thanh
sát vũ khí chiếm 0,8%.


Con trai của Kofi Annan là Kojo Annan cũng dính líu tới vụ này, với lời buộc tội đã kiếm được một
cách bất hợp pháp nhiều hợp đồng trong chương trình đổi dầu lấy lương thực của Liên Hiệp Quốc cho công
ty Cotecna Thụy Sĩ. Ngoại trưởng Ấn Độ, Natwar Singh, đã phải từ chức vì vai trị của ơng trong vụ này.


[cần dẫn nguồn]



Chính phủ Úc đã lập ra Cole Inquiry vào tháng 11 năm 2005 nhằm điều tra xem liệu Ủy ban Bột mì
Úc (Australian Wheat Board - AWB) có vi phạm điều luật nào khi thực hiện những hợp đồng của họ với
Iraq trong Chương trình đổi dầu lấy lương thực. AWB đã trả chính quyền của Saddam Hussein khoảng 300
triệu đôla, thông qua một cơng ty bình phong là Alia, để có được những hợp đồng cung cấp bột mì cho
Iraq. Thủ tướng Úc (John Howard), Phó thủ tướng (Mark Vaile) và Bộ trưởng ngoại giao (Alexander
Downer) bác bỏ việc họ có biết về việc đó khi bị gọi ra điều trần trước ủy ban. Đã có thơng tin cho rằng dù
chính phủ Úc khơng điều hành AWB một cách đủ hiệu quả để ngăn chặn sự việc đó, Liên Hiệp Quốc đúng
ra phải tích cực hơn trong việc yêu cầu chính phủ nước này tiến hành điều tra. Cole Inquiry dự định sẽ báo
cáo vào ngày 24 tháng 11 năm 2006.[44]


<b>Những cáo buộc về lính gìn giữ hịa bình Liên Hiệp Quốc</b>



Tháng 12 năm 2004, trong chiến dịch gìn giữ hịa bình của Liên Hiệp Quốc tại Congo, ít nhất 68 vụ
bị cho là cưỡng hiếp, mại dâm và hơn 150 cáo buộc khác đã bị các nhà điều tra Liên Hiệp Quốc phát giác,
tất cả đều có liên quan tới binh lính gìn giữ hịa bình, đặc biệt là các binh lính


từ Pakistan, Uruguay, Maroc, Tunisia, Nam Phi và Nepal. Những binh lính gìn giữ hịa bình từ 3 trong số
các quốc gia này cũng bị cáo buộc cố tình cản trở quá trình điều tra.[45] Tương tự, một chuyên gia hậu cần
Liên Hiệp Quốc người Pháp tại Congo cũng bị cáo buộc hãm hiếp và khiêu dâm trẻ em trong cùng tháng.[46]


BBC đã thông báo rằng các cô gái trẻ đã bị binh lính gìn giữ hịa bình Liên Hiệp Quốc lạm dụng và
hãm hiếp tại Port-au-Prince.[47] Những lời cáo buộc tương tự cũng đã được nêu ra tại Liberia [48] và Sudan. [49]

<b>Chính sách nhân sự</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

người không đủ tư cách làm việc tại Thụy Sĩ, nơi Tổ chức Lao động Thế giới (ILO) đóng trụ sở, không thể
được làm việc cho ILO trừ khi anh/cô ta là người của quốc gia thành viên ILO.


<b>Người hút thuốc</b>



Tổ chức Y tế Thế giới, một cơ quan của Liên Hiệp Quốc, đã cấm tuyển những người hút thuốc từ


ngày 1 tháng 12 năm 2005, nhằm khuyến khích một mơi trường làm việc khơng thuốc lá.[50] Cũng có một
lệnh cấm hút thuốc bên trong trụ sở Liên Hiệp Quốc, nhưng một số quốc gia thành viên cho phép hút thuốc
bên trong đại sứ quán của mình tại Liên Hiệp Quốc. Hơn nữa, những người sử dụngma tuý không được
phép làm việc cho Liên Hiệp Quốc.


<b>Hôn nhân đồng giới</b>



Dù có sự độc lập trong những vấn đề chính sách nguồn nhân lực, các cơ quan Liên Hiệp Quốc tự
nguyện áp dụng các điều luật của các quốc gia thành viên về vấn đề hôn nhân đồng giới, cho phép các
quyết định về tình trạng sử dụng nhân cơng có hơn nhân đồng giới được đưa ra dựa theo từng quốc gia. Họ
công nhân các cuộc hơn nhân đồng giới chỉ khi người đó là công dân của các quốc gia công nhận sự hơn
nhân đó. Một số cơ quan cung cấp khoản trợ cấp hạn chế cho những vợ/chồng người địa phương của nhân
viên của mình.


<b>Liên Hiệp Quốc trong văn hóa đại chúng</b>



Một hoạt động giáo dục được gọi là Mô hình Liên Hiệp Quốc đã trở nên quen thuộc trong các trường
học trên khắp thế giới. Mơ hình Liên Hiệp Quốc có các sinh viên đóng vai (thơng thường) một cơ cấu
trong Hệ thống Liên Hiệp Quốc để giúp họ phát triển khả năng trong tranh luận và trong ngoại giao. Những
cuộc hội thảo được cả các trường đại học và cao đẳng tổ chức. Các ủy ban thường được đưa ra làm mơ hình
gồm các Ủy ban Đại hội đồng, các ủy ban ECOFIN, Hội đồng bảo an và một số lớn các ủy ban chuyên
trách như một Hội đồng Lịch sử An Ninh hay Nhóm Quản lý Cấp cao. Các sinh viên tranh luận về các chủ
đề Liên Hiệp Quốc đang tham gia tháo gỡ và tìm cách thể hiện quan điểm của quốc gia mình nhằm tiến tới
một giải pháp chung.


Nhận thức Liên Hiệp Quốc với tư cách một tổ chức lớn, bao hàm chính phủ các nước trên thế giới
khiến nhiều ý tưởng về chính phủ thế giới và dân chủ toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều. Liên Hiệp Quốc
cũng là mục tiêu của các học thuyết âm mưu.[51]


1. <b>^</b>“Security Notice”. United Nations (11 tháng 12 năm 2001).



2. <b>^</b> See United Nations headquarters#Renovation plans


3. <b>^</b>The Story of United Nations Headquarters www.un.org, United Nations. Truy cập 20 tháng 9, 2006.
4. <b>^</b>“United Nations Fact Sheet”. USDOS Fact Sheets. U.S. Department of State (7 tháng 9 năm 2001).
5. <b>^</b>“What are the official languages of the United Nations?” (bằng English). United Nations. Truy cập 23


tháng 12 năm 2006.


6. <b>^</b>“Plea to UN: 'More Spanish please'” (bằng English). BBC News (21 tháng 6 năm 2001). Truy cập 23 tháng
12 năm 2006.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

8. <b>^</b>“Press Conference by Secretary-General-designate” (bằng English). UN (14 tháng 12 năm 2006). Truy cập
2007-15-12.


9. <b>^</b>“Is Ban Ki-moon a franco-phoney?” (bằng English). CBC (14 tháng 12 năm 2006). Truy cập 2007-15-12.
10. <b>^</b>“UN Charter”. Un.org. Truy cập 25 tháng 9 năm 2010.


11. <b>^</b>“Human Rights”. Un.org (10 tháng 12 năm 1948). Truy cập 25 tháng 9 năm 2010.
12. <b>^</b>“UN creates new human rights body”, BBC, 15 tháng 3 năm 2006.


13. <b>^</b>[1][liên kết hỏng]


14. <b>^</b>“Rape as a War Crime”. Converge.org.nz (29 tháng 10 năm 1999). Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.
15. <b>^</b>“Africa | DR Congo rebel faces Hague trial”. BBC News (17 tháng 3 năm 2006). Truy cập 21 tháng 9 năm


2010.


16. <b>^</b>[2][liên kết hỏng]



17. <b>^</b>[3][liên kết hỏng]


18. <b>^</b>“General Assembly of the United Nations”. Un.org. Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.
19. <b>^</b>[4][liên kết hỏng]


20. <b>^</b>“2005 World summit outcome”. <b>UN</b> (09-2005). Truy cập 25 tháng 9 năm 2010.


21. <b>^</b>“Human Security Report and Briefs”. Humansecurityreport.info. Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.
22. <b>^</b>“p. 9”. Humansecurityreport.info. Truy cập 25 tháng 9 năm 2010.


23. <b>^</b>“GAO-06-331 Peacekeeping: Cost Comparison of Actual UN and Hypothetical U.S. Operations in
Haiti” định dạng (PDF). Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.


24. <b>^</b>“The UN's Role in Nation-Building: From the Congo to Iraq” định dạng (PDF). Truy cập 21 tháng 9 năm
2010.


25. <b>^</b>[5][liên kết hỏng]


26. <b>^</b>“U.N. 'peacekeepers' rape women, children”. Worldnetdaily.com. Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.


27. <b>^</b>“Africa | UN soldiers arrested in DR Congo”. BBC News (13 tháng 2 năm 2005). Truy cập 21 tháng 9 năm
2010.


28. <b>^</b> />


29. <b>^</b>“Africa | Liberia sex-for-aid 'widespread'”. BBC News (8 tháng 5 năm 2006). Truy cập 21 tháng 9 năm
2010.


30. <b>^</b>“Africa | Human Rights Watch”. Hrw.org. Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.
31. <b>^</b>“Africa | Human Rights Watch”. Hrw.org. Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.



32. <b>^</b> "Successful UN Human Rights Council Elections Demonstrate UN Members are Taking Reform Effort


Seriously." Open Society Policy Center. 9 tháng 5 năm 2006


33. <b>^</b> "International Institutions: UN Reform." Citizens for Global Solutions. 10 tháng 5 năm 2006. 1 Aug. 2006.
34. <b>^</b> "Annex a: Election Result Tables." Open Society Policy Center. 9 tháng 5 năm 2006. 1 Aug. 2006.


35. <b>^</b> Reddy, Shravanti (29 tháng 10 năm 2002). “Watchdog Organization Struggles to Decrease UN


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

36. <b>^</b> Annan, Kofi (2005). “In Larger Freedom” (bằng English). United Nations. Truy cập 21 tháng 9 năm 2006.
37. <b>^</b> F. Stockman, J. Lauria (11 tháng 9 năm 2005). “UN faces major hurdles on reform measures” (bằng


English). The Boston Globe. Truy cập 21 tháng 9 năm 2006.
38. <b>^</b>[6][liên kết hỏng]


39. <b>^</b>“The UN and the Jews”. Cdn-friends-icej.ca (26 tháng 2 năm 2004). Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.
40. <b>^</b>“Israel and the United Nations - Introduction”. Adl.org. Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.


41. <b>^</b>“UNRWA”. Un.org. Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.


42. <b>^</b>“CNN.com - U.N. report: Darfur not genocide - 31 tháng 1, 2005”. Edition.cnn.com. Truy cập 21 tháng 9
năm 2010.


43. <b>^</b>“Middle East | Oil-for-food chief 'took bribes'”. BBC News (8 tháng 8 năm 2005). Truy cập 21 tháng 9 năm
2010.


44. <b>^</b>“Australian Government Attorney-General's Department - UN Oil For Food Inquiry - Home”. Ag.gov.au.
Truy cập 21 tháng 9 năm 2010.


45. <b>^</b> Post Store (16 tháng 12 năm 2004). “U.N. Sexual Abuse Alleged in Congo”. washingtonpost.com. Truy


cập 21 tháng 9 năm 2010.


46. <b>^</b>[7][liên kết hỏng]


47. <b>^</b>“Americas | UN troops face child abuse claims”. BBC News (30 tháng 11 năm 2006). Truy cập 21 tháng 9
năm 2010.


48. <b>^</b>[8]


49. <b>^</b> Holt, Kate (2 tháng 1 năm 2007). “UN staff accused of raping children in Sudan”. Telegraph. Truy cập 21
tháng 9 năm 2010.


50. <b>^</b> World Health Organization (2006). “What are we looking for?” (bằng English). WHO Employment Site.
Truy cập September 22, 2006.


51. <b>^</b>Bản mẫu:Cite interview


<b>2.2. </b>

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp



Quốc



<i>(Nguồn </i>

<i>)</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

đảm bảo sự tôn trọng công lý, luật pháp, nhân quyền và tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân biệt chủng
tộc, nam nữ,ngơn ngữ, tơn giáo" (trích Cơng ước thành lập UNESCO).


UNESCO hiện có 191 quốc gia thành viên. Trụ sở chính đặt tại Paris, Pháp, với hơn 50 văn phòng và vài viện
hay trung tâm trực thuộc đặt khắp nơi trên thế giới.


Một số các dự án nổi bật của UNESCO là duy trì danh sách các di sản thế giới, khu dự trữ sinh quyển thế giới, di


sản tư liệu thế giới, công viên địa chất tồn cầu, di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại

...



<b>Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp</b>
<b>Quốc</b>


<i><b>United Nations Educational, Scientific and Cultural</b></i>
<i><b>Organization</b></i>


<b>Loại hình</b> Tổ chức chuyên môn


<b>Tên gọi tắt</b> UNESCO


<b>Lãnh đạo</b> Irina Bokova


<b>Hiện trạng</b> Đang hoạt động


<b>Thành lập</b> 16 tháng 11, 1945


<b>Trụ sở</b> Paris, Pháp


<b>Trang web</b> unesco.org


<b>Chức năng</b>



UNESCO có 3 chức năng hoạt động chính phục vụ cho mục đích của tổ chức, bao gồm:


1. Khuyến khích sự hiểu biết và thơng cảm lẫn nhau giữa các dân tộc thông qua những phương tiện
thông tin rộng rãi; khuyến nghị những hiệp định quốc tế cần thiết để khuyến khích tự do giao lưu
tư tưởng bằng ngơn ngữ và hình ảnh;



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

 Hợp tác với các nước thành viên trong việc phát triển các hoạt động giáo dục theo yêu


cầu của từng nước;


 Hợp tác giữa các quốc gia nhằm thực hiện từng bước lý tưởng bình đẳng về giáo dục cho


mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ hoặc bất cứ sự khác biệt nào khác về kinh tế
hay xã hội;


 Đề xuất những phương pháp giáo dục thích hợp để luyện tập thiếu nhi toàn thế giới về


trách nhiệm của con người tự do;


3. Duy trì, tăng cường và truyền bá kiến thức bằng cách:


 Bảo tồn và bảo vệ di sản thế giới về sách báo, tác phẩm nghệ thuật và các cơng trình lịch


sử hay khoa học, khuyến nghị với các nước hữu quan về các Công ước quốc tế cần thiết;


 Khuyến khích hợp tác giữa các quốc gia về tất cả các ngành hoạt động trí óc, trao đổi


quốc tế những người có kinh nghiệm trong lĩnh vực giáo dục, khoa học và văn hóa kể cả trao
đổi sách báo, tác phẩm nghệ thuật, dụng cụ thí nghiệm và mọi tư liệu có ích;


 Tạo điều kiện thuận lợi cho các dân tộc tiếp xúc với các xuất bản phẩm của mỗi nước


thông qua các phương pháp hợp tác quốc tế thích hợp.


<i>Nguồn: Cơng ước thành lập UNESCO</i>

<b>Cơ cấu</b>




UNESCO được tổ chức với một Đại hội đồng một Hội đồng chấp hành và một Ban Thư ký. Đại Hội Đồng
gồm các đại diện của các nước thành viên UNESCO (mỗi nước thành viên được chọn cử 5 đại biểu). Hội
đồng chấp hành gồm các ủy viên được Đại hội đồng bầu ra trong số các đại biểu được các nước thành viên
chọn cử; mỗi ủy viên của Hội đồng chấp hành đại diện cho Chính phủ nước mình. Ban Thư Ký UNESCO
gồm có Tổng Giám đốc và số nhân viên được thừa nhận là cần thiết. Tổng Giám đốc do Hội đồng chấp
hành đề nghị và Đại hội đồng bầu cử (nhiệm kỳ 6 năm) với những điều kiện được Đại hội đồng chấp nhận.
Tổng Giám đốc là viên chức cao nhất của UNESCO.


Hiện UNESCO có 191 quốc gia là thành viên. Các quốc gia thành viên của Liên hiệp quốc có quyền gia
nhập UNESCO; cịn các quốc gia khác có thể được chấp nhận nếu được Hội đồng chấp hành giới thiệu và
được Đại hội đồng biểu quyết với đa số hai phần ba thành viên có mặt tán thành.


Các quốc gia thành viên thường thành lập một tổ chức đại diện cho UNESCO ở nước mình, tùy điều kiện
cụ thể. Phổ biến hiện nay là Ủy ban quốc gia UNESCO, trong đó có đại diện của Chính phủ và của các
ngành Giáo dục, Khoa học, Văn hóa và Thơng tin. Tuy có đại diện tại từng quốc gia, phương châm hoạt
động của UNESCO là không can thiệp vào vấn đề nội bộ của các quốc gia. Ủy ban quốc gia UNESCO làm
nhiệm vụ cố vấn cho đồn đại biểu nước mình ở Đại hội đồng và cho Chính phủ trong các vấn đề liên quan
đến UNESCO. Ủy ban này thường gồm đại diện các Vụ, Cục, các Bộ, các cơ quan và tổ chức khác quan
tâm đến các vấn đề giáo dục, khoa học, văn hóa và thơng tin, các nhân vật độc lập tiêu biểu cho các giới
liên quan. Nó cũng có thể bao gồm Ban chấp hành thường trực, các cơ quan phối hợp, các tiểu ban và các
cơ quan phụ cần thiết khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

UNESCO được thành lập ngày 16 tháng 11 năm 1945 với việc ký kết Công ước thành lập của UNESCO.
Ngày 4 tháng 11 năm 1946, Công ước này được chính thức có hiệu lực với 20 quốc gia công


nhận: Úc, Brasil, Canada, Trung Quốc, Tiệp Khắc, Đan Mạch, Cộng hòa Dominica, Ai Cập, Pháp, Hy
Lạp, Ấn Độ, Li Băng, Mexico, New Zealand, Na Uy, Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Nam
Phi, Thổ Nhĩ Kỳ, Vương quốc Anh và Hoa Kỳ.



Những năm 1970 và 1980, UNESCO là trung tâm của một tranh cãi trong đó Hoa Kỳ và Anh cho rằng đây
là một diễn đàn để các nước theo chủ nghĩa cộng sản và thế giới thứ ba chống lại phương tây. Hoa Kỳ và
Anh lần lượt rút khỏi tổ chức này năm 1984 và 1985. Sau đó, Anh và Hoa Kỳ lại tham gia tổ chức này lần
lượt vào các năm 1997 và 2003.


Những năm cuối thập kỷ 1990, UNESCO đã thực hiện một số cải cách trong tổ chức, như cắt giảm nhân
lực và số đơn vị. Số văn phòng giảm từ 79 (năm 1999) xuống 52 (hiện nay).


Năm 1998, UNESCO ủng hộ phần mềm tự do.


<b>2.3. </b>

<b>Tổ chức Thương mại Thế giới</b>



<b>Tổ chức Thương mại Thế giới</b>

(

tiếng Anh

:

<i>World Trade Organization</i>

, viết


tắt

<b>WTO</b>

;

tiếng Pháp

:

<i>Organisation mondiale du commerce</i>

;

tiếng Tây Ban



Nha

:

<i>Organización Mundial del Comercio</i>

;

tiếng Đức

:

<i>Welthandelsorganisation</i>

) là một



tổ chức quốc tế đặt trụ sở ở

Genève

,

Thụy Sĩ

, có chức năng giám sát các

hiệp định



thương mại

giữa các nước thành viên với nhau theo các

quy tắc thương mại

. Hoạt động



của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các

rào cản thương mại

để tiến tới

tự do



thương mại

. Ngày

13 tháng 5

năm

2005

, ông

Pascal Lamy

được bầu làm

Tổng giám



đốc

thay cho ông

Supachai Panitchpakdi

, người

Thái Lan

, kể từ

1 tháng 9

năm

2005

.



Tính đến ngày

23 tháng 7

năm

2008

, WTO có 153 thành viên. Mọi

thành viên của



WTO

được yêu cầu phải cấp cho những thành viên khác những

ưu đãi

nhất định trong




thương mại, ví dụ (với một số ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại được cấp bởi


một thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì cũng phải cấp cho mọi thành viên


của WTO (WTO, 2004c).



</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<b>Nguồn gốc</b>



Hội nghị Bretton Woods

vào năm

1944

đã đề xuất thành lập

Tổ chức Thương mại Quốc



tế

(ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến



chương ITO được nhất trí tại Hội nghị của

Liên Hiệp Quốc

về Thương mại và Việc làm



tại

Havana

tháng 3

năm

1948

. Tuy nhiên,

Thượng nghị viện Hoa Kì

đã khơng phê chuẩn


hiến chương này. Một số nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh


nghiệp Hoa Kì lo ngại rằng Tổ chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm



sốt chứ khơng phải đem lại tự do hoạt động cho các doanh nghiệp lớn của

Hoa Kì

(Lisa



Wilkins, 1997).



ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương mại quốc



tế vẫn tồn tại. Đó là

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại

(GATT). GATT đóng



vai trị là khung pháp lí chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50



năm sau đó. Các nước tham gia GATT đã tiến hành 8

vịng đàm phán

, kí kết thêm nhiều



thỏa ước thương mại mới. Vòng đám phán thứ tám,

Vòng đàm phán Uruguay

, kết thúc




vào năm 1994 với sự thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho


GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở



rộng. Khơng giống như GATT chỉ có tính chất của một

hiệp ước

, WTO là một tổ chức,



có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. WTO chính thức được thành lập vào ngày

1 tháng



1

năm

1995

.



</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

WTO có các chức năng sau:



Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO



Diễn đàn

đàm phán về thương mại



Giải quyết các

tranh chấp về thương mại



Giám sát các

chính sách thương mại

của các quốc gia



Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho

các nước đang phát triển



Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác



<b>Đàm phán</b>



Phần lớn các quyết định của WTO đếu dựa trên cơ sở

đàm phán

đồng thuận

. Mỗi



thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc đồng thuận có


ưu điểm là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ nhất được tất cả các



thành viên chấp nhận. Nhược điểm của nó là tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực để có


được một quyết định đồng thuận. Đồng thời, nó dẫn đến xu hướng sử dụng những cách



diễn đạt chung chung trong

hiệp định

đối với những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho



việc diễn giải các hiệp định gặp nhiều khó khăn.



Trên thực tế, đàm phán của WTO diễn ra khơng phải qua sự nhất trí của tất cả các thành


viên, mà qua một quá trình đàm phán khơng chính thức giữa những nhóm nước. Những


cuộc đàm phán như vậy thường được gọi là "đàm phán trong phòng xanh" (tiếng



Anh:

<i>"Green Room" negotiations</i>

), lấy theo màu của phòng làm việc của Tổng giám đốc



WTO tại

Genève

,

Thụy Sĩ

. Chúng còn được gọi là "Hội nghị Bộ trưởng thu hẹp" (

<i></i>



<i>Mini-Ministerials</i>

) khi chúng diễn ra ở các nước khác. Quá trình này thường bị nhiều nước



đang phát triển chỉ trích vì họ hoàn toàn phải đứng ngoài các cuộc đàm phán như vậy

[1]

.



Richard Steinberg

(

2002

) lập luận rằng mặc dù mơ hình đồng thuận của WTO đem lại vị


thế đàm phán ban đầu dựa trên nền tảng luật lệ, các vòng đàm phán thương mại kết thúc



thông qua vị thế đàm phán dựa trên nền tảng sức mạnh có lợi cho

Liên minh châu



Âu

Hoa Kỳ

, và có thể không đem đến

sự cải thiện Pareto

. Thất bại nổi tiếng nhất và


cũng gần đây nhất trong việc đạt được một sự đồng thuận là tại các Hội nghị Bộ trưởng



diễn ra ở

Seattle

(

1999

) và

Cancún

(

2003

) do một số nước đang phát triển không chấp



thuận các đề xuất được đưa ra.




WTO bắt đầu tiến hành vòng đàm phán hiện tại,

Vòng đàm phán Doha

, tại Hội nghị Bộ



trưởng lần thứ 4 diễn ra tại

Doha

,

Qatar

vào

tháng 11

năm

2001

. Các cuộc đàm phán diễn



</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 5 tại

Cancún

,

Mexico

vào năm

2003

và Hội nghị Bộ trưởng



lần thứ 6 tại

Hồng Kông

từ ngày

13 tháng 12

đến ngày

18 tháng 12

năm

2005

.



<b>Giải quyết tranh chấp</b>



Ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại, WTO còn hoạt động như một


trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng


quy định của WTO. Không giống như các tổ chức quốc tế khác, WTO có quyền lực đáng


kể trong việc thực thi các quyết định của mình thơng qua việc cho phép áp dụng trừng


phạt thương mại đối với thành viên không tuân thủ theo phán quyết của WTO. Một nước



thành viên có thể kiện lên

Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO

nếu như họ tin rằng



một nước thành viên khác đã vi phạm quy định của WTO

[2]

.



Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm hai cấp: sơ thẩm và phúc thẩm. Ở cấp



sơ thẩm, tranh chấp sẽ được giải quyết bởi một

Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp

. Ban



hội thẩm này thông thường gồm 3 đên 5 chuyên gia trong lĩnh vực thương mại liên quan.


Ban hội thẩm sẽ nghe lập luận của của các bên và soạn thảo một báo cáo trình bày những


lập luận này, kèm theo là phán quyết của ban hội thẩm. Trong trường hợp các bên tranh


chấp không đồng ý với nội dung phán quyết của ban hội thẩm thì họ có thể thực hiện thủ




tục khiếu nại lên

Cơ quan phúc thẩm

. Cơ quan này sẽ xem xét đơn khiếu nại và có phán



quyết liên quan trong một bản báo cáo giải quyết tranh chấp của mình. Phán quyết của



các cơ quan giải quyết tranh chấp nêu trên sẽ được thông qua bởi

Hội đồng Giải quyết



Tranh chấp

. Báo cáo của cơ quan giải quyết tranh chấp cấp phúc thẩm sẽ có hiệu lực cuối


cùng đối với vấn đề tranh chấp nếu không bị Hội đồng Giải quyết Tranh chấp phủ quyết


tuyệt đối (hơn 3/4 các thành viên Hội đồng giải quyết tranh chấp bỏ phiếu phủ quyết phán


quyết liên quan).



Trong trường hợp thành viên vi phạm quy định của WTO khơng có các biện pháp sửa


chữa theo như quyết định của Hội đồng Giải quyết Tranh chấp, Hội đồng có thể ủy quyền


cho thành viên đi kiện áp dụng các "biện pháp trả đũa" (trừng phạt thương mại). Những


biện pháp như vậy có ý nghĩa rất lớn khi chúng được áp dụng bởi một thành viên có tiềm


lực kinh tế mạnh như Hoa Kì hay Liên minh châu Âu. Ngược lại, ý nghĩa của chúng giảm


đi nhiều khi thành viên đi kiện có tiềm lực kinh tế yếu trong khi thành viên vi phạm có


tiềm lực kinh tế mạnh hơn, chẳng hạn như trong tranh chấp mang mã số DS 267 về trợ



cấp bông trái phép của Hoa Kỳ

[3]

.



</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của WTO,


ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các ủy ban


đặc thù.



<b>Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng</b>



Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một


lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là




một nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như

Cộng đồng châu Âu

). Hội nghị



Bộ trưởng có thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa


phương của WTO..



<b>Cấp thứ hai: Đại Hội đồng</b>



Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng, Hội đồng


Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà sốt Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác


nhau, nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện


(thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau


giữa chúng là chúng được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.



1.

<i><b>Đại Hội đồng</b></i>

là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm


họp thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc


tương đương) của tất cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân


danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các


công việc của WTO.



2.

<i><b>Hội đồng Giải quyết Tranh chấp</b></i>

được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các


phán quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm


đệ trình. Hội đồng bao gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ


hoặc tương đương).



3.

<i><b>Hội đồng Rà sốt Chính sách Thương mại</b></i>

được nhóm họp để thực hiện việc rà


sốt chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà sốt chính


sách thương mại. Đối với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà sốt


diễn ra khoảng hai đến ba năm một lần. Đối với những thành viên khác, việc rà


sốt có thể được tiến hành cách quãng hơn.




<b>Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

đảm trách một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm


đại diện của tất cả các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này cịn có sáu ủy


ban và cơ quan độc lập khác chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng


rẽ như thương mại và phát triển, môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các


vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong số này có Nhóm Cơng tác về việc Gia nhập


chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập WTO.



1.

<i><b>Hội đồng Thương mại Hàng hóa</b></i>

chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc



phạm vi của

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại

(GATT), tức là các



hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế về hàng hóa.



2.

<i><b>Hội đồng Thương mại Dịch vụ</b></i>

chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc



phạm vi của

Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ

(GATS), tức là các hoạt



động liên quan đến thương mại quốc tế về dịch vụ.



3.

<i><b>Hội đồng Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí </b></i>



<i><b>tuệ</b></i>

chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của

Hiệp định về Các



khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ

(TRIPS), cũng



như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế khác trong lĩnh vực

quyền sở hữu trí



tuệ

.




<b>[</b>

<b>sửa</b>

<b>]</b>

<b>Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan</b>



Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng


biệt.



1. Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm cơng tác, và 1 ủy ban


đặc thù.



2. Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm cơng tác, và 2 ủy ban


đặc thù.



3. Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan


Phúc thẩm.



Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của

Vòng đàm phán Doha

, WTO đã thành lập Ủy ban



Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi


cho đàm phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực


chuyên môn khác nhau.



</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

<i>Không phân biệt đối xử</i>

:



1.

Đãi ngộ

quốc gia: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngồi


cũng như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn mức


độ đãi ngộ dành cho các đối tượng tương tự trong nước.



2.

Đãi ngộ tối huệ quốc

: Các

ưu đãi thương mại

của một thành viên dành cho


một thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong


WTO.




<i>Tự do mậu dịch hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán</i>



<i>Tính Dự đốn thơng qua Liên kết và Minh bạch</i>

: Các quy định và quy chế thương



mại phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định.



<i>Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển</i>

: Giành những thuận lợi và ưu đãi hơn



cho các thành viên là các quốc gia đang phát triển trong khuôn khổ các chỉ định của


WTO.



<i>Thiết lập mơi trường cạnh tranh bình đẳng cho thương mại giữa các nước thành </i>



<i>viên</i>



<b>Các hiệp định</b>



Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về


thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc



Thành lập Tổ chức Thương mại Thế giới được kí kết tại

Marrakesh

,

Maroc

vào ngày

15



tháng 4

năm

1994

. Bốn phụ lục đó bao gồm các hiệp định quy định các quy tắc luật lệ


trong thương mại quốc tế, cơ chế giải quyết tranh chấp, cơ chế rà sốt chính sách thương


mại của các nước thành viên, các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một số


vấn đề không đạt được đồng thuận tại diễn đàn chung. Các nước muốn trở thành thành


viên của WTO phải kí kết và phê chuẩn hầu hết những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa


thuận tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của WTO:




Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994

(GATT 1994)


Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ

(GATS)



Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí



tuệ

(TRIPS)



Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại

(TRIMS)


Hiệp định về Nông nghiệp

(AoA)



</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng


Hiệp định về Tự vệ



Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu



Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch

(SPS)


Hiệp định về các Rào cản Kĩ thuật đối với Thương mại

(TBT)


Hiệp định về Định giá Hải quan



Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển


Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa

(ROO)



Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp



<b>Thành viên</b>



Đến ngày 23 tháng 6 năm 2008, WTO có 153 thành viên. Thành viên mới gia nhập


Cape Verde

.

<i>Cập nhật 11 tháng 3, 2009</i>



Albania

8 tháng 9

năm

2000



Angola

23 tháng 11

năm

1996



Antigua và Barbuda

1 tháng 1

năm

1995


Argentina

1 tháng 1

năm

1995



Armenia

5 tháng 2

năm

2003


Úc

1 tháng 1

năm

1995


Áo

1 tháng 1

năm

1995


Bahrain

1 tháng 1

năm

1995


Bangladesh

1 tháng 1

năm

1995


Barbados

1 tháng 1

năm

1995


Bỉ

1 tháng 1

năm

1995



Belize

1 tháng 1

năm

1995


Bénin

22 tháng 2

năm

1996


Bolivia

12 tháng 9

năm

1995


Botswana

31 tháng 5

năm

1995


Brasil

1 tháng 1

năm

1995


Brunei

1 tháng 1

năm

1995


Bulgaria

1 tháng 12

năm

1996


Burkina Faso

3 tháng 6

năm

1995


Burundi

23 tháng 7

năm

1995


Campuchia

13 tháng 10

năm

2004


Cameroon

13 tháng 12

năm

1995



Kyrgyzstan

20 tháng 12

năm

1998


Latvia

10 tháng 2

năm

1999


Lesotho

31 tháng 5

năm

1995


Liechtenstein

1 tháng 9

năm

1995


Litva

31 tháng 5

năm

2001



Luxembourg

1 tháng 1

năm

1995


Macao

1 tháng 1

năm

1995



Madagascar

17 tháng 11

năm

1995


Malawi

31 tháng 5

năm

1995


Malaysia

1 tháng 1

năm

1995


Maldives

31 tháng 5

năm

1995


Mali

31 tháng 5

năm

1995


Malta

1 tháng 1

năm

1995


Mauritania

31 tháng 5

năm

1995


Mauritius

1 tháng 1

năm

1995


Mexico

1 tháng 1

năm

1995


Moldova

26 tháng 7

năm

2001


Mông Cổ

29 tháng 1

năm

1997


Maroc

1 tháng 1

năm

1995



</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Canada

1 tháng 1

năm

1995



Cộng hoà Trung Phi

31 tháng 5

năm

1995


Tchad

19 tháng 10

năm

1996



Chile

1 tháng 1

năm

1995



Trung Quốc

11 tháng 12

năm

2001


Colombia

30 tháng 4

năm

1995



Cộng hoà Congo

27 tháng 3

năm

1997


Costa Rica

1 tháng 1

năm

1995



Côte d'Ivoire

1 tháng 1

năm

1995



Croatia

30 tháng 11

năm

2000


Cuba

20 tháng 4

năm

1995


Síp

30 tháng 7

năm

1995



Cộng hoà Séc

1 tháng 1

năm

1995


Cộng hoà Dân chủ Congo

1 tháng



1

năm

1997



Đan Mạch

1 tháng 1

năm

1995


Djibouti

31 tháng 5

năm

1995


Dominica

1 tháng 1

năm

1995



Cộng hoà Dominicana

9 tháng 3

năm

1995


Ecuador

21 tháng 1

năm

1996



Ai Cập

30 tháng 6

năm

1995


El Salvador

7 tháng 5

năm

1995


Estonia

13 tháng 11

năm

1999



Cộng đồng châu Âu

1 tháng 1

năm

1995


Fiji

14 tháng 1

năm

1996



Phần Lan

1 tháng 1

năm

1995


Macedonia

4 tháng 4

năm

2003


Pháp

1 tháng 1

năm

1995


Gabon

1 tháng 1

năm

1995


Gambia

23 tháng 10

năm

1996


Gruzia

14 tháng 6

năm

2000


Đức

1 tháng 1

năm

1995



Ghana

1 tháng 1

năm

1995


Hy Lạp

1 tháng 1

năm

1995


Grenada

22 tháng 2

năm

1996



Nepal

23 tháng 4

năm

2004



Hà Lan

(và

Antille thuộc Hà Lan

) –

1 tháng



1

năm

1995



New Zealand

1 tháng 1

năm

1995


Nicaragua

3 tháng 9

năm

1995


Niger

13 tháng 12

năm

1996


Nigeria

1 tháng 1

năm

1995


Na Uy

1 tháng 1

năm

1995


Oman

9 tháng 11

năm

2000


Pakistan

1 tháng 1

năm

1995


Panama

6 tháng 9

năm

1997



Papua New Guinea

9 tháng 6

năm

1996


Paraguay

1 tháng 1

năm

1995



Peru

1 tháng 1

năm

1995


Philippines

1 tháng 1

năm

1995


Ba Lan

1 tháng 7

năm

1995


Bồ Đào Nha

1 tháng 1

năm

1995


Qatar

13 tháng 1

năm

1996


Romania

1 tháng 1

năm

1995


Rwanda

22 tháng 5

năm

1996




Saint Kitts và Nevis

21 tháng 2

năm

1996


Saint Lucia

1 tháng 1

năm

1995



Saint Vincent và Grenadines

1 tháng 1

năm

1995


Ả Rập Saudi

11 tháng 12

năm

2005



Sénégal

1 tháng 1

năm

1995


Sierra Leone

23 tháng 7

năm

1995


Singapore

1 tháng 1

năm

1995


Slovakia

1 tháng 1

năm

1995


Slovenia

30 tháng 7

năm

1995



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Guatemala

21 tháng 7

năm

1995


Guinée

25 tháng 10

năm

1995


Guiné-Bissau

31 tháng 5

năm

1995


Guyana

1 tháng 1

năm

1995



Haiti

30 tháng 1

năm

1996


Honduras

1 tháng 1

năm

1995


Hồng Kông

1 tháng 1

năm

1995


Hungary

1 tháng 1

năm

1995


Iceland

1 tháng 1

năm

1995


Ấn Độ

1 tháng 1

năm

1995


Indonesia

1 tháng 1

năm

1995


Ireland

1 tháng 1

năm

1995


Israel

21 tháng 4

năm

1995


Ý

1 tháng 1

năm

1995


Jamaica

9 tháng 3

năm

1995


Nhật Bản

1 tháng 1

năm

1995


Jordan

11 tháng 4

năm

2000



Kenya

1 tháng 1

năm

1995


Hàn Quốc

1 tháng 1

năm

1995


Kuwait

1 tháng 1

năm

1995



Thụy Điển

1 tháng 1

năm

1995


Thụy Sĩ

1 tháng 7

năm

1995



Trung Hoa Đài Bắc

1 tháng 1

năm

2002


Tanzania

1 tháng 1

năm

1995



Thái Lan

1 tháng 1

năm

1995


Togo

31 tháng 5

năm

1995



Trinidad và Tobago

1 tháng 3

năm

1995


Tunisia

29 tháng 3

năm

1995



Thổ Nhĩ Kì

26 tháng 3

năm

1995


Uganda

1 tháng 1

năm

1995



Các Tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất

10 tháng



4

năm

1996



Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland

1 tháng



1

năm

1995



Hoa Kì

1 tháng 1

năm

1995


Uruguay

1 tháng 1

năm

1995


Venezuela

1 tháng 1

năm

1995



Việt Nam

11 tháng 1

năm

2007


Zambia

1 tháng 1

năm

1995


Zimbabwe

5 tháng 3

năm

1995


Tonga

27 tháng 7

năm

2007


Ukraina

16 tháng 5

năm

2008


Cape Verde

23 tháng 7

năm

2008


<b>Tham khảo</b>



1. <b>^</b> General Information on Recruitment in the World Trade Organization, World Trade
Organization


2. <b>^</b> “WTO Secretariat budget for 2008”, <i>World Trade Organization</i>. Truy cập 25 tháng 8
năm 2008.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<b>2.4. MỘT SỐ TỔ CHỨC KINH TẾ</b>


<i><b>(Nguồn: </b></i>

)



a.

<b>Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương</b>



Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC)



Các thành viên của APEC được tô màu xanh


<b>Trụ sở chính</b> Singapore


<b>Kiểu</b> Diễn đàn kinh tế


<b>Quốc gia thành viên</b> 21


<b>Người đứng đầu</b>



• Giám đốc điều hành Juan Carlos Capuñay


<b>Thành lập</b> 1989


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

/>


<b>Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương</b>

(

tiếng Anh

:

<i>Asia-Pacific </i>


<i>Economic Cooperation</i>

, viết tắt là

<b>APEC</b>

) là

tổ chức quốc tế

của các quốc gia nằm trong



khu vực

châu Á

Thái Bình Dương

với mục tiêu tăng cường mối quan hệ về kinh tế và



chính trị.



Diễn đàn tổ chức các kỳ họp thường niên lần lượt tại mỗi quốc gia thành viên, cũng có


những uỷ ban thường trực chuyên trách nhiều lãnh vực khác nhau từ truyền thông đến


ngư nghiệp.



Cho đến nay, hầu hết các nước nằm bên bờ Thái Bình Dương đều gia nhập tổ chức này,


ngoại trừ:



Colombia

thuộc khu vực

Nam Mỹ

;



Guatemala

,

Salvador

,

Nicaragua

,

Honduras

,

Costa Rica

Panama

thuộc khu



vực

Trung Mỹ

;



Campuchia

Bắc Triều Tiên

châu Á

;



các đảo quốc Thái Bình Dương

Fiji

,

Tonga

Samoa

.




Đảo

Guam

tích cực địi hỏi một vị trí thành viên riêng biệt, dẫn chứng các trường hợp



của

Hồng Kông

Đài Loan

, nhưng bị

Hoa Kỳ

bác bỏ vì nước này đến nay vẫn là đại


diện chính thức cho Guam.



Người đứng đầu chính phủ của tất cả thành viên APEC gặp nhau mỗi năm một lần trong


một kỳ họp thượng đỉnh được gọi là "Hội nghị Lãnh đạo APEC", được tổ chức lần lượt



tại mỗi nền kinh tế thành viên APEC. Vì áp lực của

Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa

,



nước

Trung Hoa Dân Quốc

, được biết nhiều hơn với tên

Đài Loan

, không được phép sử



dụng tên "Trung Hoa Dân Quốc" hay "Đài Loan" mà chỉ được gọi là "Trung Hoa Đài



Bắc".

Tổng thống Đài Loan

không được mời đến tham dự hội nghị thượng đỉnh mà chỉ



gởi một viên chức cấp bộ trưởng đặc trách kinh tế với tư cách là đặc sứ của tổng thống.


APEC nổi tiếng với truyền thống yêu cầu các nhà lãnh đạo xuất hiện trước công chúng



trong

quốc phục

của nước chủ nhà.



APEC được thành lập vào tháng 11 năm

1989

với 12 thành viên sáng lập:

Úc

,

Nhật



</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Hiện nay, APEC gồm 21 thành viên, ngoài 12 thành viên sáng lập, các thành viên khác



bao gồm:

Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa

,

Hồng Kơng

,

Đài Loan

,

Mexico

,

Papua New



Guinea

,

Chile

,

Peru

,

Nga

Việt Nam

.



<b>Cơ cấu tổ chức</b>




1. Cấp chính sách



Hội nghị khơng chính thức các nhà Lãnh đạo Kinh tế APEC (AELM)



Hội nghị liên Bộ trưởng Ngoại giao - Kinh tế APEC



2. Cấp làm việc



Hội nghị các Quan chức Cao cấp (SOM)



Uỷ ban Thương mại và Đầu tư (CTI) (

1993

)



Uỷ ban Ngân sách và Quản lý (BMC) (

1993

)



Uỷ ban Kinh tế (EC) (

1994

)



Uỷ ban SOM về Hợp tác Kinh tế-Kỹ thuật (ESC) (

1998

)



11 nhóm cơng tác về: Kỹ thuật Nông nghiệp, Năng lượng, Nghề cá, Phát



triển Nguồn nhân lực, Khoa học và công nghệ, Bảo vệ tài nguyên biển,


Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Thông tin và Viễn thông, Du lịch, Xúc tiến thương


mại, Vận tải.



3 nhóm đặc trách của SOM về:



Thương mại điện tử (

<i>Electronic Commerce Steering Group</i>

) (

1999

)



Mạng các điểm liên hệ về giới (

<i>Gender Focal-Points Network</i>

)




(

2003

)



Chống khủng bố (

<i>Counter-Terrorism Task Force</i>

) (

2003

)



3. Ban Thư ký APEC (trụ sở ở

Singapore

) (

1992

)



<b>Lịch sử</b>



Tháng 1 năm

1989

,

Thủ tướng Úc

Bob Hawke

đưa ra lời kêu gọi kiến tạo một sự hợp tác



kinh tế hữu hiệu hơn cho toàn vùng châu Á -Thái Bình Dương. Kết quả của lời kêu gọi



này là hội nghị đầu tiên của APEC tổ chức tại

Canberra

,

Úc

vào tháng 10, hội nghị đặt



dưới quyền chủ toạ của bộ trưởng ngoại giao Úc,

Gareth Evans

. Với sự tham dự của các



bộ trưởng đến từ 12 quốc gia, hội nghị kết thúc với lời cam kết sẽ tổ chức hội nghị hàng



năm tại

Singapore

Hàn Quốc

.



Hội nghị Lãnh đạo APEC được tổ chức lần đầu vào năm

1993

khi

Tổng thống Hoa



</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

cụ hữu hiệu giúp đem vòng đàm phán

Uruguay

(của

WTO

), lúc ấy đang lạc hướng, trở lại


với lộ trình ban đầu. Tổng thống quyết định mời các nhà lãnh đạo những nền kinh tế



thành viên đến tham dự hội nghị tại đảo Blake,

tiểu bang Washington

. Tại đây, các nhà



lãnh đạo kêu gọi tiếp tục tháo gỡ những rào cản thương mại và đầu tư, với viễn kiến về


một "cộng đồng châu Á-Thái Bình Dương" sẽ tiến đến thịnh vượng thơng qua hợp tác.



Trụ sở của APEC được đặt tại Singapore.



Năm 1994, Bản dự thảo "Mục tiêu Bogor" của APEC được chuẩn thuận bởi hội nghị



thượng đỉnh tại

Bogor

nhắm vào mục tiêu mở rộng và tự do hoá các lãnh vực thương mại



và đầu tư bằng cách giảm thiểu rào cản thuế quan trong khu vực châu Á – Thái Bình


Dương đến mức ở giữa số khơng và năm phần trăm vào khoảng năm 2010 tại các nước


đã cơng nghiệp hố và năm 2020 tại các nước đang phát triển.



Năm

1995

, APEC thiết lập một cơ quan tư vấn doanh nghiệp gọi là

Hội đồng Tư vấn



Doanh nghiệp APEC

(ABAC) với thành phần nhân sự là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp


đến từ các nền kinh tế thành viên (mỗi nước cử ba người).



Năm

1997

khi hội nghi thượng đỉnh APEC họp ở

Vancouver

,

Canada

, một cuộc tranh



luận gay gắt đã nổ ra khi các nhà chính trị đã yêu cầu lực lượng

Cảnh sát Hoàng gia



Canada

(

<i>Royal Canadian Mounted Police</i>

, RCMP) sử dụng hơi cay chống lại những


người biểu tình bất bạo động. Đồn biểu tình phản đối sự hiện diện của một số nhà độc



tài như tổng thống

Suharto

của

Indonesia

.



APEC đã đẩy mạnh vòng đàm phán thương mại mới và ủng hộ chương trình hỗ trợ kiến



tạo năng lực thương mại tại hội nghị thượng đỉnh năm

2001

tại

Thượng Hải

, dẫn đến sự



khởi đầu thành cơng của

Nghị trình Phát triển Doha

một vài tuần sau đó. Các nhà lãnh




đạo cũng ủng hộ "Thoả hiệp Thượng Hải" do

Hoa Kỳ

đề xuất, nhấn mạnh đến việc thực



thi những cam kết của APEC nhằm mở cửa thị trường, cải cách cơ chế và xây dựng năng


lực. Như là một phần của thoả hiệp, các nhà lãnh đạo cũng cam kết phát triển và thực thi



những tiêu chuẩn về tính minh bạch (

<i>transperancy</i>

) của APEC, cắt giảm chi phí giao dịch



thương mại trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương khoảng 5% trong vịng 5 năm, và


theo đuổi chính sách tự do mậu dịch liên quan đến các sản phẩm kỹ thuật và dịch vụ.



Thủ lĩnh nhóm

Hồi giáo

cực đoan

Jemaah Islamiah

,

Hambali

, âm mưu tấn công hội nghị



thượng đỉnh APEC họp vào tháng 10 năm

2003

tại

Bangkok

. Hambali bị cảnh sát Thái



bắt giữ ở thành phố Ayutthaya gần Bangkok ngày

11 tháng 8

năm

2003

, trước khi người



này có thể hồn tất kế hoạch tấn cơng của mình.



</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ và chuẩn bị cho Thoả ước Tự do Mậu dịch và Thoả


ước Thương mại Khu vực.



Năm

2005

, hội nghị tổ chức vào tháng 11 tại

Busan

, Hàn Quốc, tập chú vào vòng đàm



phán thương mại Doha dự định được đem ra thảo luận tại hội nghị bộ trưởng WTO họp


tại Hồng Kông vào tháng 12 trong năm. Trước đó, các cuộc thương thảo đã được tổ chức


tại

Paris

giữa các quốc gia thành viên WTO, trong đó có Hoa Kỳ và

Liên minh châu



Âu

(EU), đặt trọng tâm vào việc cắt giảm hàng rào thương mại nông nghiệp. EU phản đối



các cắt giảm về thuế quan nơng nghiệp vì nguy cơ làm tan rã tiến trình đàm phán, trong



khi APEC cố gắng thuyết phục EU đồng ý cắt giảm phụ cấp nông nghiệp. Bên ngoài, các


cuộc tụ họp phản kháng cách ôn hoà chống APEC diễn ra ở Busan nhưng không ảnh


hưởng gì đến chương trình làm việc của APEC.



<b>Thành viên</b>



Danh sách 21 thành viên APEC được liệt kê theo thứ tự thời gian gia nhập:



Thành viên sáng lập: tháng 11 năm 1989



Úc



Brunei



Canada



Indonesia


Nhật Bản


Hàn Quốc


Malaysia


New Zealand


Philippines


Singapore


Thái Lan



Hoa Kỳ



Tháng 11 năm 1991



Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

[1]

Hồng Kông

[2]


Trung Hoa Đài Bắc

[3]


Tháng 11 năm

1993



Mexico



</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Tháng 11 năm

1994



Chile



Tháng 11 năm

1998



Peru



Nga



Việt Nam



<b>Chú thích</b>

:



1.

Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa

chỉ đại diện quyền lợi của Trung Hoa đại lục,


Hồng Kơng

,

Macau

, và

Đài Loan

được xem là những nền kinh tế riêng biệt.


2.

Hồng Kơng

gia nhập APEC năm 1991 khi cịn là thuộc địa của Anh. Năm

1997

,



Hồng Kồng trở về với Trung Quốc và được gọi là "Hồng Kông, Trung Quốc".


3. Khi Trung Quốc và Đài Loan cùng gia nhập APEC, Đài Loan được gọi là "Trung



Hoa Đài Bắc".




Hội nghị thường niên của APEC



<b>Thứ tự</b>

<b>Ngày</b>

<b>Quốc gia</b>

<b>Địa điểm</b>

<b>Trang chủ</b>



1.

6

7 tháng 11

năm

1989

Australia

(Úc)

Canberra



2.

29

31 tháng 7

năm

1990

Singapore



3.

12

14 tháng 11

năm

1991 Hàn Quốc

Seoul



4.

10

11 tháng 9

năm

1992

Thái Lan

Bangkok



5.

19

20 tháng 11

năm

1993 Hoa Kỳ

Seattle



6.

15 tháng 11

năm

1994

Indonesia

Bogor



7.

19 tháng 11

năm

1995

Nhật Bản

Osaka



8.

25 tháng 11

năm

1996

Philippines

Manila

/

Subic



9.

24

25 tháng 11

năm

1997 Canada

Vancouver



10.

17

18 tháng 11

năm

1998 Malaysia

Kuala Lumpur



11.

12

13 tháng 9

năm

1999

New Zealand

Auckland



</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

13.

20

21 tháng 10

năm

2001

Cộng hòa Nhân



dân Trung Hoa

Thượng Hải




14.

25

27 tháng 10

năm

2002 Mexico

Los Cabos



15.

20

21 tháng 10

năm

2003 Thái Lan

Bangkok



16.

20

21 tháng 11

năm

2004 Chile

Santiago de



Chile



17.

18

19 tháng 11

năm

2005

Hàn Quốc

Busan

cbusan.o


rg/



18

. 18-19 tháng 11 năm

2006

Việt Nam

Hà Nội

c2006.v



n



19. 8-9 tháng 9 năm

2007

Úc

Sydney



g/



20. 22-23 tháng 11 năm

2008

Peru

Lima



g.pe/



21. 14-15 tháng 11 năm

2009

Singapore

Singapore



/



22. 13-14 tháng 11 năm

2010

Nhật Bản

Yokohama

c2010.g




o.jp/en/index.html



23.

2011

Hoa Kỳ

Honolulu

,

Ha


waii



24.

2012

Nga

Đảo Russky



</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

Bản đồ các quốc gia APEC



<b>b. </b>

Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa



<b>Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa</b>

, trong

tiếng Anh

viết tắt là

<b>OPEC</b>

(viết tắt


của

<i>Organization of Petroleum Exporting Countries</i>

).



OPEC là một tổ chức đa chính phủ được thành lập bởi các nước

Iran

,

Iraq

,

Kuwait

,



Rập Saudi

Venezuela

trong hội nghị tại

Bagdad

(từ

10 tháng 9

đến

14 tháng



9

năm

1960

). Các thành viên

Qatar

(

1961

),

Indonesia

(

1962

),

Libya

(

1962

),

Các Tiểu



Vương quốc Ả Rập Thống nhất

(

1967

),

Algérie

(

1969

) và

Nigeria

(

1971

) lần lượt gia



nhập tổ chức sau đó.

Ecuador

(

1973

1992

) và

Gabon

(

1975

1994

) cũng từng là thành



viên của OPEC. Trong năm năm đầu tiên trụ sở của OPEC đặt ở

Genève

,

Thụy Sĩ

, sau



đấy chuyển về

Wien

,

Áo

từ

tháng 9

1965

.



Các nước thành viên OPEC khai thác vào khoảng 40% tổng sản lượng dầu lửa thế giới và


nắm giữ khoảng ¾ trữ lượng dầu thế giới.




</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

OPEC có khả năng điều chỉnh hạn ngạch

khai thác

dầu lửa

của các nước thành viên và


qua đó có khả năng khống chế giá dầu. Hội nghị các bộ trưởng phụ trách năng lượng và


dầu mỏ thuộc tổ chức OPEC được tổ chức mỗi năm hai lần nhằm đánh giá thị trường dầu


mỏ và đề ra các biện pháp phù hợp để bảo đảm việc cung cấp dầu. Bộ trưởng các nước


thành viên thay nhau theo nguyên tắc xoay vòng làm chủ tịch của tổ chức hai năm một


nhiệm kỳ.



<b>Thành viên</b>



Hiện nay tổ chức này có 12 nước thành viên được liệt kê dưới đây với ngày tháng gia


nhập.



<b>Châu Phi</b>



Algérie

(tháng 7 năm 1969)


Libya

(tháng 12 năm 1962)


Nigeria

(tháng 7 năm 1971)


Angola

(tháng 1 năm 2007)



<b>Trung Đông</b>



Iran

(tháng 9 năm 1960)



Iraq

(tháng 9 năm 1960) (không được đếm vào phần xuất khẩu của OPEC từ năm



1998)



Kuwait

(tháng 9 năm 1960)


Qatar

(tháng 12 năm 1961)



Ả Rập Saudi

(tháng 9 năm 1960)



Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất

(tháng 11 năm 1967)


<b>Nam Mỹ</b>



Venezuela

(tháng 9 năm 1960)


Ecuador

(1973-1993, 2007)

[1]


<b>Cựu thành viên</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<b>Thành viên tương lai</b>



Bolivia

,

Canada

,

Sudan

Syria

đã được OPEC mời tham gia

[2]


<b>Mục tiêu</b>



Mục tiêu chính thức được ghi vào hiệp định thành lập của OPEC là ổn định thị trường


dầu thơ, bao gồm các chính sách khai thác dầu, ổn định giá dầu thế giới và ủng hộ về mặt


chính trị cho các thành viên khi bị các biện pháp cưỡng chế vì các quyết định của OPEC.


Nhưng thật ra nhiều biện pháp được đề ra lại có động cơ bắt nguồn từ quyền lợi quốc gia,


thí dụ như trong các cơn khủng hoảng dầu, OPEC chẳng những đã khơng tìm cách hạ giá


dầu mà lại duy trì chính sách cao giá trong thời gian dài.



Mục tiêu của OPEC thật ra là một chính sách dầu chung nhằm để giữ giá. OPEC dựa vào


việc phân bổ hạn ngạch cho các thành viên để điều chỉnh lượng khai thác dầu, tạo ra khan


hiếm hoặc dư dầu giả tạo nhằm thơng qua đó có thể tăng, giảm hoặc giữ giá dầu ổn định.



Có thể coi OPEC như là một

liên minh độc quyền

(

<i>cartel</i>

) ln tìm cách giữ giá dầu ở



mức có lợi nhất cho các thành viên.




<b>Các biện pháp của OPEC theo thứ tự thời gian</b>



14 tháng 9 năm 1960: thành lập tổ chức theo đề xuất của Venezuela tại Baghdad.



1965: Dời trụ sở về Wien. Các thành viên thống nhất một chính sách khai thác



chung để bảo vệ giá.



1970

: Nâng giá dầu lên 30%, nâng thuế tối thiểu áp dụng cho các công ty khai



thác dầu lên 55% của lợi nhuận.



1971

: Nâng giá dầu sau khi thương lượng với các tập đoàn khai thác. Tiến tới đạt



tỷ lệ quốc gia hóa 50% các tập đoàn.



1973

: Tăng giá dầu tăng từ 2,89 USD một thùng lên 11,65 USD. Thời gian này



được gọi là cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, OPEC khai thác 55% lượng dầu của


thế giới.



1974

đến

1978

: tăng giá dầu 5-10% hầu như mỗi nửa năm một lần để chống lại



việc USD bị lạm phát.



1979

: Khủng hoảng dầu lần thứ hai. Sau cuộc

cách mạng Hồi giáo

giá dầu từ 15,5



USD một thùng được nâng lên 24 USD. Libya, Algérie và Iraq thậm chí địi đến 30


USD cho một thùng.




1980

: Đỉnh điểm chính sách cao giá của OPEC. Lybia đòi 41 USD, Ả Rập Saudi



</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

1981

: Lượng tiêu thụ dầu giảm do các nước công nghiệp lâm vào cuộc khủng



hoảng kinh tế và bắt nguồn từ cuộc khủng hoảng dầu lần thứ nhất, do giá dầu cao,


nhiều nước trên thế giới đầu tư vào các nguồn năng lượng khác. Lượng tiêu thụ dầu


thế giới giảm 11% trong thời gian từ 1979 đến 1983, thị phần dầu của OPEC trên thị


trường thế giới giảm xuống còn 40%.



1982

: Quyết định giảm lượng sản xuất tuy được thông qua nhưng lại không được



các thành viên giữ đúng. Thị phần của OPEC giảm xuống còn 33% và vào năm 1985


còn 30% trên tổng số lượng khai thác dầu trên thế giới. Lượng khai thác dầu giảm


xuống đến mức thấp kỷ lục là 17,34 triệu thùng một ngày.



1983

: Giảm giá dầu từ 34 USD xuống 29 USD một thùng. Giảm hạn ngạch khai



thác từ 18,5 triệu xuống 16 triệu thùng một ngày.



1986

: Giá dầu rơi xuống đến dưới 10 USD một thùng do sản xuất thừa và do một



số nước trong OPEC giảm giá dầu.



1990

: Giá dầu được nâng lên trong tầm từ 18 đến 21 USD một thùng. Nhờ



vào

chiến tranh vùng Vịnh

giá dầu đạt đến mức đề ra.



2000

: Giá dầu đã dao động mạnh, vượt qua cả hai mức thấp và cao nhất trong lịch




sử. Nếu trong quý I, chỉ với 9 USD người ta cũng có thể mua được một thùng dầu thì


trong q IV giá đã vượt trên 37 USD một thùng. Các thành viên của OPEC đồng ý


giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.



2005

: OPEC quyết định giữ nguyên lượng khai thác 27 triệu thùng. Các thành



viên đã nhất trí "tạm ngưng" khơng giữ giá dầu ở mức 22-28 USD/thùng.



<b>Chú thích</b>



1.

<b>^</b>

/>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Logo OPEC



Các quốc gia OPEC hiện tại



<b>c. </b>

Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế



</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<b>Lịch sử phát triển</b>



Tiền thân của OECD là

<i><b>Tổ chức Hợp tác Kinh tế châu Âu (OEEC)</b></i>

của 16



nước

châu Âu

nhằm khôi phục kinh tế và giám sát phân bổ viện trợ.

[1]

]



Năm 1950, Mỹ và Canada tham gia OEEC với tư cách quan sát viên.



Năm 1961, OEEC được chuyển thành OECD. 16 nước châu Âu trong OEEC cùng



với Mỹ và Canada trở thành những thành viên sáng lập của OECD.



Trong những năm tiếp theo, OECD tiếp tục kết nạp một số nước nữa.




<b>Thành viên</b>



Anh

,

Áo

,

Ba Lan

,

Bỉ

,

Bồ Đào Nha

,

Canada

,

Chile

,

[1]

Đan Mạch

,

Đức

,

Hà Lan

,

Hàn



Quốc

,

Hoa Kỳ

,

Hungary

,

Hy Lạp

,

Iceland

,

Ireland

,

Israel

,

Luxembourg

,

Mexico

,

Na


Uy

,

New Zealand

,

Nhật Bản

,

Pháp

,

Phần Lan

,

Cộng hòa Séc

,

Slovakia

,

Slovenia

,

Tây


Ban Nha

,

Thổ Nhĩ Kỳ

,

Thụy Điển

,

Thụy Sĩ

,

Úc

Ý

.



Biểu tượng của OECD



Bản đồ các nước thuộc OECD



</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

<b>Chú thích</b>



1. <b>^</b> Chile Signs up as first OECD member in South America


</div>

<!--links-->
<a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' />


<a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href='o/HSR2005/Overview.pdf'> “p. 9”</a>

<a href=' /><a href=' />

<a href=' />



<a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' /><a href=' />

<a href=' /><a href=' /><a href=' />

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×