Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

tai lieu on thi lich su dang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.84 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Câu 1:Đồng chí hãy phân tích vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời </b>
<b>của Đảng Cộng Sản Việt Nam (ngày 3/2/1930)? Ý nghĩa của sự kiện lịch sử đó?</b>
<b>1. Hồn cảnh lịch sử trước sự ra đời của đảng Cộng Sản Việt Nam:</b>


<b>* Tình hình thế giới</b>


Đầu thế kỷ XX các nước đế quốc lớn như Anh, Mỹ, Pháp... đã xâm chiếm hầu hết
các nước nhỏ yếu trên thế giới và biến thành thuộc địa của họ, thực thi chính sách thực dân
tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc đối với các thuộc địa.


Các nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập trở thành một nội dung
lớn của phong trào cách mạng thế giới.


Cuộc cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới.
Cuộc cách mạng đó đã chặt đứt một khâu yếu nhất trong hệ thống đế quốc chủ nghĩa và các
hệ thống thuộc địa, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người- thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Cách mạng tháng 10 cũng đã
cổ vũ mạnh mẽ các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng lồi người.


Ở Châu Á, phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ đặc biệt là Trung quốc. Quãng
Châu được coi như là cái nôi của cách mạng Châu Á lúc bấy giờ.


<b>* Tình hình trong nước</b>


- Tính chất xã hội Việt Nam chuyển từ xã hội phong kiến sang xã hội thuộc địa nửa
phong kiến.


- Về mâu thuẫn xã hội: Xã hội Việt nam tồn tại hai mâu thguẫn cơ bản đó là mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp, mâu thuẫn của nhân dân Việt nam
với địa chủ, phong kiến, hai mâu thuẫn này tồn tại trong suốt quá trình cách mạng dân chủ


nhân dân. Trong đó mâu thuẫn giữa dân tộc và đế quốc là cơ bản nhất.


- Năm 1858 thực dân pháp sâm lược nước ta dưới chính sách thống trị thuộc địa của
thực dân Pháp ở Việt Nam đã làm cho cơ cấu kinh tế xã hội Việt nam có nhiều sự biến đổi
cụ thể:


+ Về chính trị:thực dân Pháp thi hành chính sách chun chế điển hình, đàn áp đẩm
máu các phong trào yêu nước của người Việt nam, mọi quyền tự do bị cấm. Pháp xây dựng
hệ thống chính quyền thuộc địa, đồng thời vẫn duy trì chính quyền phong kiến tay sai làm
chỗ dựa. Thực dân Pháp thi hành chính sách chia để trị, chia rẽ ba nước đơng dương, xóa
tên các nước Việt nam, Lào, Campuchia trên bản đồ chính trị thế giới. lập ra xứ đông dương
thuộc Pháp. Ở Việt nam Pháp còn chia rẽ giữa ba kỳ, Nam kỳ,Trung kỳ, Bắc kỳ.


+ Về văn hóa: Thực dân Pháp thi hành chính sách ngu dân. Họ bưng bít ngăn cản ảnh
hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, kể cả văn hóa tiến bộ Pháp, xuyên tạc lịch sử và giá
trị văn hóa Việt nam, dùng rượu cồn và thuốc phiện để đầu độc người Việt nam.


+ Về kinh tế: Thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên, bóc lột sức lao động rẽ mạt
của người bản xứ, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vơ lý. Đặc biệt thực dân Pháp đã
tiến hành khai thác thuộc địa lần thứ1(1897-1914) và lần 2 (1919-1929), dẫn đến những
biến đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu xã hội ở Việt nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Về cơ cấu xã hội: giai cấp địa chủ phong kiến bị phân hóa, giai cấp công nhân và tư
sản Việt nam ra đời.


- Từ khi triều đình nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp thì giai cấp địa chủ phong
kiến có sự phân hóa. Một bộ phận cam tâm bán nước, làm tay sai cho Pháp. Một bộ phận
khác nêu cao truyền thống và tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong trào yêu
nước chống Pháp để giành độc lập dân tộc và bảo vệ chế độ phong kiến.



Giai cấp nông dân là lực lượng to lớn trong dân cư, họ hăng hái chống đế quốc và
phong kiến, khao khát độc lập và ruộng đất. Tầng lớp trí thức tiểu tư sản có tinh thần dân
tộc, yêu nước rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc.


Giai cấp tư sản Việt nam ra đời sau chiến tranh thế giới thứ 1 với hai bộ phận.


Một bộ phận gắn liền lợi ích với tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế
của thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ phận là giai cấp tư sản dân
tộc, mâu thuẩn với tư bản Pháp và triều đình phong kiến, nhưng thế lực kinh tế yếu ớt, phụ
thuộc, do vậy chính trị là cải lương.


Giai cấp cơng nhân Việt nam ra đời và phát triển trong quá trình thực dân Pháp thực
hiện các cuộc khai thác thuộc địa. Đến trước chiến tranh thế giới thứ 1 đã có khỗng 6 vạn
cơng nhân. Số lượng cơng nhân tăng nhanh trong những năm Pháp tiến hành cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ 2, đến cuối năm 1929 số công nhân Việt nam là hơn 22 vạn người.


Giai cấp công nhân Việt nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không chịu ảnh
hưởng của chủ nghĩa Cơng đồn, chủ nghĩa cải lương, tuy lực lượng cịn ít, trình độ văn
hóa, kỷ thuật, cơng nghệ cịn thấp nhưng giai cấp cơng nhân Việt nam thực sự đại biểu cho
lực lượng sản xuất hiện đại, một giai cấp tập trung, có ý thức kỷ luật và ý chí cách mạng, có
tinh thần quốc tế vô sản.


<b>*. Các phong trào yêu nước: Từ khi thực dân Pháp xâm lược đến những năm 20 của thế </b>
kỷ XX, đã có hàng trăm cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc ta chống kẻ thù xâm lược,
nhưng đều lần lượt thất bại.


Phong trào chống thực dân Pháp theo ý thức hệ phong kiến như phong trào Cần
vương đã thất bại khi cuộc khởi nghĩa của Phan đình Phùng chấm dứt năm 1896. Phong trào
nơng dân Yên thế của Hoàng hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi.



Đầu thế kỷ XX, trào lưu dân chủ tư sản phương Tây cũng xâm nhập vào nước ta.
Con đường cải cách Minh trị của Nhật bản cũng như tư tưởng cải cách và cách mạng Tân
Hợi của Trung quốc đều ít nhiều có ảnh hưởng đến phong trào yêu nước của Việt nam, lôi
cuốn nhiều sỷ phu phong kiến, tiêu biểu là Phan bội Châu và Phan Chu Trinh.


Phan Bội Châu, lúc đầu chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập hiến như Nhật
Bản. Năm 1912 ông lập ra Việt nam quang phục hội, từ bỏ lập trường quân chủ lập hiến
chuyển sang lập trường dân chủ tư sản đại Pháp, thành lập Cộng hòa dân quốc Việt nam, cải
tổ Việt nam quang phục hội thành Việt nam Quốc dân đảng theo con đường của Tôn dật
Tiên nhưng cả hai hướng đi đó đều thất bại.


Phan chu Trinh cũng là một nhà yêu nước nhiệt thành, ông lên án gay gắt tội ác của
thực dân Pháp, quan lại phong kiến sâu mọt, chủ trương cải cách đát nước nhưng lại muốn
dựa vào Pháp để chống phong kiến chẳng khác gì "xin giặc rũ lịng thương".


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

cơng cũng thành nhân" đã nhanh chóng thất bại, chứng tỏ sự hăng hái bồng bột nhất thời
của tầng lớp tiểu tư sản.


Tóm lại: Các phong trào yêu nước chống pháp của dân tộc ta những năm đầu thế kỷ
thứ 20 diễn ra rất sôi nổi nhưng đều thất bại, nguyên nhân là do thiếu đường lối chính trị
đúng đắn, các lãnh đạo của phong trào yêu nước bị hạn chế về điều kiện lịch sử và điều kiện
giai cấp, không giải quyết đúng đắn hai mâu thuẫn cơ bản của xã hội nửa thuộc địa, nửa
phong kiến, chưa ttập hợp được lực lượng quần chúng để chống đế quốc do đó cách mạng
việt nam những năm đầu thế kỷ 20 bị khủng hoảng sâu sắc về đường lối lãnh đạo cách
mạng.


<b>2. Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam</b>
<b>(ngày 3/2/1930).</b>


<b>* Về tư tưởng chính trị: Truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt nam, chuẩn </b>


<b>bị về tư tưởng chính trị cho việc thành lập đảng</b>


- Nguyễn Ái Quốc, khi đi học tên là Nguyễn Tất Thành, lớn lên trong cảnh mất nước,
đồng bào bị đọa đày đau khổ, người thanh niên giàu lịng u nước đó đã sớm có ý chí đánh
đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Ngày 5/6/1911 từ cảng Nhà Rồng, Nguyễn ái Quốc
ra đi tìm đường cứu nước . Người sang Pháp, đi qua nhiều nước thuộc địa của Pháp ở châu
Phi, sang Mỹ, đến nước Anh ... tìm hiễu các cuộc đấu tranh của nhiều dân bị áp bức trên thế
giới, tìm hiễu xã hội tư bản, và sau đó trở lại Pháp. Tại đây, người từng bước học tập lý
luận, tham gia Đảng Xã hội Pháp, lập ra Hội những người Việt nam yêu nước.


- Cách mạng tháng 10 Nga thắng lợi. Nguyễn ái Quốc được đọc bản "Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa" của Lênin. Luận cương đã giải
đáp cho Nguyễn ái Quốc con đường đấu tranh giành độc lập tự do thật sự cho dân tộc, cho
đồng bào mình.


- Ngày 18/6/1919, thay mặt những người Việt nam yêu nước tại Pháp, Nguyễn Tất
Thành với tên gọi là Nguyễn Ái Quốc gửi đến hội nghị Véc xai bản yêu sách của nhân dân
An Nam, địi chính phủ Pháp và các nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và
quyền bình đẳng của nhân dân An Nam, nhưng không được hội nghị Véc xai chấp nhận..


- Ngày 25/12/1920 Nguyễn ái Quốc tán thành thành lập Đảng cộng sản Pháp và trở
thành một trong những người sáng lập đảng Cộng sản Pháp và cũng là cộng sản đầu tiên của
dân tộc Việt nam. Từ đây Nguyễn Ái Quốc càng tích cực hoạt động và học tập, nghiên cứu
lý luận về con đường cách mạng để truyền bá vào Việt nam.


- Từ đầu những năm 1920, Nguyễn ái Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào
phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt nam. Những năm 1921-1923, tại Pháp,
Người sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa và ra báo Người cùng khổ. Hoạt động của Hội và tờ
báo đã tích cực truyền bá lý luận vào các nước thuộc địa, trong đó có Việt nam.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách mạng ở các
nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân ở các nước thuộc địa.


- Ngày 11/11/1924 Nguyễn Ái Quốc tới Quãng châu(TQ) trực tiếp đào tạo cán bộ,
xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lý luận cách mạng giải phóng dân tộc vào Việt nam.
Khi đến Quảng Châu người đã tiếp xúc với các nhà cách mạng Việt nam đang hoạt động tại
đây và chọn một số thanh niên hăng hái trong tổ chức Tâm tâm xã, mở các lớp tập huấn
chính trị ngắn hạn để đào tạo họ thành cán bộ cách mạng đưa về nước hoạt động.


- Tháng 6/1925, người sáng lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên và lấy Cộng
sản đồn làm nịng cốt là tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản Việt Nam.


- Nhờ hoạt động của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và Hội Việt nam cách mạng thanh
niên, phong trào cách mạng ở trong nước ngày càng phát triển sôi nổi, khuynh hướng cách
mạng vô sản dần dần chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc. Đến năm 1929, Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên đã xây dựng cơ sở khắp cả ba kỳ.


Tóm lại: Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ 1911-1929 có tác dụng quyết
định trong việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và đạo đức cho việc thành lập chính đảng của
giai cấp vơ sản Việt nam.


<b>* Về tổ chức: Thống nhất phong trào cộng sản, sáng lập ra ĐCS Việt nam</b>
- Sau một thời gian dài hoạt động có hiệu quả, tổ chức Hội Việt nam cách mạng
thanh niên dần dần mất vai trò lịch sử. Sự phát triển mạnh nmẽ của phong trào cách mạng
trong nước địi hỏi phải có đảng cách mạng tiên phong đủ sức lãnh đạo và đưa phong trào
tiếp tục đi lên. Để đáp ứng nhu cầu đó từ giữa đến cuối năm 1929 ở Việt Nam xuất hiện 3 tổ
chức cộng sản là Đông dương cộng sản đảng, An nam cộng sản đảng và Đông dương cộng
sản liên đoàn.


- Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản nói trên đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của


phong trào cách mạng nước ta, tuy nhiên trong quá trình hoạt độngấcc tổ chức này đã đả
kích lẫn nhau dẫn đến làm giảm uy tín của các tổ chức cộng sản và gây ảnh hưởng tiêu cực
tói phong trào cách mạng đâng lên.


- Từ 3/2 đến 7/2/1930, Nguyễn Ái Quốc triệu tập hội nghị để hợp nhất các tổ chức
cộng sản tại Hương Cảng (Trung Quốc). Do yêu cầu cấp thiết của cách mạng Việt Nam và
uy tín của Người nên đã thống nhất 3 tổ chức cộng sản. Hội nghị nhất trí hợp nhất các tổ
chức cộng sản Việt Nam thành một đản duy nhất lấy tên là Đảng Cộng Sản Việt nam.


<b>Nội dung cơ bản của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng:</b>


Về mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt nam, Cương lĩnh chỉ rõ: "chủ trương làm
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Cương lĩnh
của Đảng đã làm rõ nội dung của cách mạng thuộc địa nằm trong phạm trù của cách mạng
vô sản chính là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.


Cương lĩnh nêu rõ những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của cách mạng là: " Đánh đổ
đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập".


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An nam
chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập.


Cương lĩnh khẳng định phải dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa
Pháp và bọn phong kiến.


Cương lĩnh nêu rõ, cách mạng Việt nam liên lạc mật thiết và là một bộ phận của cách
mạng vô sản thế giới; khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là đội tiên phong
của giai cấp vô sản...


Những nội dung của Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã đặt ra và giải quyết những vấn


đề cơ bản, cấp bách và định hướng chiến lược đúng đắn cho tiến trình phát triển của cách
mạng Việt nam.


Cương lĩnh đầu tiên của Đảng trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết toàn dân và lãnh
đạo phong trào cách mạng của nhân dân ta, là sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một nước thuộc địa, nữa phong kiến.


Sự kiện thành lập Đảng cộng sản Việt nam là một bước ngoặc quyết định trong sự
phát triển của dân tộc ta, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của
phong trào yêu nước Việt nam đầu thế kỷ XX. Cương lĩnh của đảng đã đoàn kết toàn dân và
lãnh đạo toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp để đi tới chủ nghĩa xã
hội. Đó là sự lụa chọn dứt khoát và đúng đắn của Bác Hồ, của Đảng và nhân dân ta để có
độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc cho nhân dân.


<b>3. Ý nghĩa của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.</b>


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×