Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

nhung bai van hay 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.03 KB, 62 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỘT CÁCH TIẾP NHẬN ĐOẠN TRÍCH " CHIẾC LƯỢC NGÀ"</b>


NGỮ VĂN 9


Đoạn trích "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng trước đây được trích học trong chương
trình lớp 7 (trước khi thay sách) nay được trích học trong chương trình lớp 9. Chứng tỏ tác phẩm
mang tính nghệ thuật và tính nhân văn khá sâu sắc.


Chi tiết "mở nút" làm cho đoạn trích "Chiếc lược ngà" trở nên hay nhất và cảm động nhất là cảnh
anh Sáu từ giã bé Thu, con gái của mình để ra chiến trường.


Đoạn trích "Chiếc lược ngà" của Nguyễn Quang Sáng trước đây được trích học trong chương
trình lớp 7 (trước khi thay sách) nay được trích học trong chương trình lớp 9. Chứng tỏ tác phẩm
mang tính nghệ thuật và tính nhân văn khá sâu sắc.


Chi tiết "mở nút" làm cho đoạn trích "Chiếc lược ngà" trở nên hay nhất và cảm động nhất là cảnh
anh Sáu từ giã bé Thu, con gái của mình để ra chiến trường.


Cuộc gặp gỡ của hai cha con sau hơn 8 năm xa cách chắc sẽ dạt dào xúc động. Nhưng thật trớ
trêu là bé Thu không nhận ra anh Sáu là cha của mình, chỉ vì vết sẹo trên gương mặt của anh
khác với bức ảnh anh chụp trước đây. Đến lúc em nhận ra đó là cha của mình và bộc lộ tình cảm
thắm thiết thì cũng là lúc anh Sáu phải ra đi.


Nói sao hết tâm trạng hụt hẫng, đáng thương của anh Sáu trước thái độ ứng xử đầy ngờ vực,
lạnh nhạt có phần bướng bỉnh, ương ngạnh của bé Thu, khi anh Sáu từ chiến trường trở về thăm
con, cũng là lần cuối cùng anh gặp con.


Nghe mẹ nó bảo gọi ba vào ăn cơm thì nó lại bảo: "Thì má cứ kêu đi!". Má nó dọa đánh thì nó lại
nói trổng: "Vơ ăn cơm! Cơm chín rồi", "Con kêu rồi mà người ta khơng nghe". Một lần nó đang
luýnh quýnh với nồi cơm đang sôi. Trước mặt anh Sáu bé Thu cũng chỉ nói: "Cơm sơi rồi, chắc
nước dùm cái!". Rồi trong một bữa cơm có đơng đủ mọi người, anh Sáu gắp cái trứng cá to vàng
để vào chén của bé Thu. Nó lấy đũi soi vào chén rồi sau đó hất cái trứng cá ra, cơm văng tung


tóe cả mâm... Anh càng muốn gần con, được vỗ về con thì bé Thu càng xa lánh, càng lạnh nhạt.
Anh Sáu càng khao khát nghe một tiếng ba của bé Thu. Nhưng con bé chẳng bao giờ chịu gọi.
Những cử chỉ ấy của bé Thu chẳng khác gì như muối xát vào lịng anh Sáu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

như vỡ tung ra từ trong đáy lịng nó, nó vừa kêu vừa chạy xơ tới nhanh như một con sóc, nó
chạy thót lên và dang hai tay ơm chặt lấy cổ ba nó vừa nói trong tiếng khóc:


- Ba! Khơng cho ba đi nữa! Ba ở nhà với con!


Bé Thu hơn ba nó cùng khắp. Nó hơn tóc, hơn cổ, hơn vai và hơn cả vết sẹo dài bên má của ba
nó mà trước đây nó vốn sợ sệt.


Tiếng gọi và cử chỉ của bé Thu đối với anh Sáu lúc chia tay là biểu hiện của sự hối tiếc, mong
được tha thứ, là nỗi vui mừng, là tình cảm dạt dào của tình phụ tử.


Anh Sáu một tay ơm con, một tay rút khăn lau nước mắt... Anh Sáu thực sự đang sống trong
buồn vui lẫn lộn. Anh buồn vì trong những ngày về thăm nhà, bé Thu không gọi anh bằng ba,
buồn vì anh lỡ đánh vào mơng nó, buồn vì sắp phải xa con... Nhưng khơng có gì vui và hạnh
phúc hơn khi bé Thu gọi anh bằng tiếng "ba" thắm thiết đầy xúc động. Những giọt nước mắt của
anh Sáu cũng có thể giải thích ngun nhân vì sao khi các hoa hậu, nghệ sĩ, vận động viên...
đăng quang, chúng ta thường thấy những giọt nước mắt lăn dài trên đôi má của họ.


Những giọt nước mắt của hai cha con lúc chia tay đã nói lên tất cả. Phải chăng đó là niềm hạnh
phúc, là tình phụ tử thiêng liêng và cũng là bi kịch thường thấy trong những năm tháng chiến
tranh?


Nhưng trước sau bé Thu vẫn là một đứa bé rất Nam Bộ với tất cả những nét hồn nhiên thơ ngây,
có cá tính mạnh mẽ, biết xúc động, giàu lịng thương u... Điều này cũng có thể lý giải vì sao
sau này lớn lên Thu đã nhanh chóng trở thành một cô gái giao liên gan dạ, dũng cảm, mưu trí
trước kẻ thù.



Đoạn trích tuy ngắn gọn nhưng thể hiện diễn biến nội tâm của hai cha con hết sức kịch tính.
Điều đó phải chăng một phần là nhờ nghệ thuật xây dựng tình huống, nghệ thuật xây dựng tính
cách nhân vật tuyệt vời của nhà văn, khắc họa qua hành động, ngôn ngữ, suy nghĩ của nhân
vật !


<b>CẢM NHẬN VỀ ÁNH TRĂNG ( NGUYỄN DUY)</b>


FRIDAY, 4. JANUARY 2008, 18:32:53


NGỮ VĂN 9


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của
Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết
của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng
mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. (Nguyễn Vũ Như Ý - học
sinh trường PTNK thành phố Hồ Chí Minh).


Bài do cô giáo Lê Thị Kiều Nga, giáo viên trường THCS Coltete thành phố Hồ Chí Minh, cung cấp.
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường
xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa
Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của
Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lòng yêu thiên nhiên tha thiết
của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng
mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”. (Nguyễn Vũ Như Ý - học
sinh trường PTNK thành phố Hồ Chí Minh).


Bài do cơ giáo Lê Thị Kiều Nga, giáo viên trường THCS Coltete thành phố Hồ Chí Minh, cung cấp.
Trăng- hình ảnh giản dị mà quen thuộc, trong sáng và trữ tình. Trăng đã trở thành đề tài thường
xuyên xuất hiện trên những trang thơ của các thi sĩ qua bao thời đại. Nếu như “ Tĩnh dạ tứ” cũa
Lí Bạch tả cảnh đêm trăng sáng tuyệt đẹp gợi lên nỗi niềm nhớ quê hương, “ Vọng nguyệt” của


Hồ Chí Minh thể hiện tâm hồn lạc quan, phong thái ung dung và lịng u thiên nhiên tha thiết
của Bác thì đến với bài thớ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy, chúng ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng
mang ý nghĩa triết lí sâu sắc.Đó chính là đạo lí “uống nước nhớ nguồn”.


Những sáng tác thơ của Nguyễn Duy sâu lắng và thấn đẫm cái hồn của ca dao, dân ca Việt
Nam . Thơ ơng khơng cố tìm ra cái mới mà lại khai thác, đi sâu vào cái nghĩa tình muôn đời của
người Việt. “Ánh trăng” là một bài thơ như vậy.Trăng đối với nhà thơ có ý nghĩa đặïc biệt: đó là
vầng trăng tri kỉ, vầng trăng tình nghĩa và vầng trăng thức tỉnh. Nó như một hồi chng cảng
tỉnh cho mỗi con người có lối sống quên đi quá khứ.


Tác giả đã mở đầu bài thơ với hình ảnh trăng trong kí ức thuổi thơ của nhà thơ và trong chiến
tranh:


“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỉ”


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

khó có thể quên được. Cũng chính nới đó, ta bắt gặp hình ảnh vầng trăng. Với cách gieo vần
lưng “đồng”, “sông” và điệp từ “ với” đã diễn tả tuổi thơ được đi nhiều, tiếp xúc nhiều và được
hưởng hạnh phúc ngắm những cảnh đẹp của bãi bồi thiên nhiên cũa tác giả.Tuổi thơ như thế
khơng phải ai cũng có được ! Khi lớn lên, vầng trăng đã tho tác giả vào chiến trường để “chờ
giặc tới’.Trăng luôn sát cách bên người lính, cùng họ trải nghiệm sương gió, vượt qua những đau
thương và khốc liệt của bom đạn kẻ thù. Người lính hành quân dưới ánh trăng dát vàng con
đường, ngủ dưới ánh trăng, và cũng dưới ánh trăng sáng đù, tâm sự của những người lính lại mở
ra để vơi đi bớt nỗi cô đơn, nỗi nhớ nhà. Trăng đã thật sự trởø thành “tri kỉ” của người lính trong
nhưng năm tháng máu lửa.


Khổ thơ thứ hai như một lời nhắc nhở về những năm tháng đã qua của cuộc đời người lính gắn
bó với thiên nhiên, đất nước hiền hậu, bình dị. Vầng trăng đù, người bạn tri kỉ đó, ngỡ như sẽ


khơng bao giờ quên được:


“Trần trụi với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ khơng bao giờ qn
cái vầng trăng tình nghĩa”


Vần lưng một lần nữa lại xuất hiện: “trần trụi”, “hồn nhiên”, “thiên nhiên” làm cho âm điệu câu
thơ thêm liền mạch, dường như nguồn cảm xúc cũa tác giả vẫng đang tràn đầy. Chính cái hình
ảnh so sánh ẩn dụ đã tô đâm lên cái chất trần trụi, cái chất hồn nhiên của người lính trong
nhữnh năm tháng ở rừng. Cái vầng trăng mộc mạc và giản dị đó là tâm hồn của những người
nhà quê, của đồng, của sơng. của bể và của những người lính hồn nhiên, chân chất ấy. Thế rồi
cái tâm hồn - vầng trăng ấy sẽ phài làm quen với môt hoàn cảnh sống hoàn toàn mới mẻ:
“Từ hồi về thành phá


quen ánh điện, cửa gương
vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Con người khi được sống đầy đủ về mặt vật chất thì thường hay quên đi những giá trị tinh thần,
quên đi cái nền tảng cơ bản củacuộc sống, đó chình là tình cảm con người. Nhưng rồi một tình
huống bất ngờ xảy ra buộc ngươiø lính phải đối mặt:


“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn -đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng trịn”


Khi đèn điện tắt, cũng là khi khơng còn được sống trong cái xa hoa, đầy đủ về vật chất, người
lính bỗng phải đối diện với cái thực tại tối tăm. Trong cái “thình lình”, “đột ngột” ấy, người lính


vơi bật tung cửa sổ và bất ngờ nhận ra một cái gì đó. Đó chẳng phải ai xa lạ mà chính là người
bạn tri kỉ năm xưa của mình đây hay sao? Con người ấy không hề biết được rằng cái người bạn
tri kỉ, tình nghĩa, người bạn đã bị anh ta lãng quên ln ở ngồi kia để chờ đợi anh ta. “Người
bạn ấy” không bao giờ bỏ rơi con người, không bao giờ ốn giận hay trách móc con người vì họ
đã quên đi mình. Vầng trăng ấy vẫn rất vị tha và khoan dung, nó cũng sẵn sàng đón nhận tấm
lòng của một con người biết sám hối, biết vươn lên hồn thiện mình. Cuộc đời mỗi con người
khơng ai có thể đóan biết trước được. Khơng ai mãi sống trong một cuộc sống yên bình mà
khơng có khó khăn, thử thách. Cũng như một dịng sông, đời người là một chuỗi dài với những
qunh co, uốn khúc . Và chính trong những khúc quanh ấy, những biến cố ấy, con người mới thật
sự hiểu được cái gì là quan trọng, cái gì sẽ gắn bó với họ trong suốt hành trình dài và rộng của
cuộc đới. Dường như người lính trong bài thơ đã hiểu được điều đó!


“Ngửa mặt lên nhìn mặt
có cái gì rưng rưng
như là đồng là bể
như là sơng là rừng”


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Vầng trăng trong khổ thớ thứ ba đã thực sự thức tỉnh con người:
“Trăng cứ tròn vành vạnh


kề chi người vơ tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình”


Khổ thơ cuối cùnh mang tính hàm súc độc đáo và đạt tới chiều sâu tư tưởng và triết lí. “Trăng
trịn vành vạnh” là vẻ đẹp của trăng vẫn viên mãn, trịn đầy và khơng hề bị suy suyển dù cho trải
qua biết bao thăng trầm. Trăng chỉ im lặng phăng phắc, trăng khơng nói gì cả, trăng chỉ nhìn,
nhưng cái nhìn đó đủù khiến cho con người giật mình. Ánh trăng như một tấm gương để cho con
người soi mình qua đó, để con người nhận ra mình để thức tỉnh lương tri. Con người có thể chối
bỏ, có thể lãng quên bất cứ điều gì trong tâm hồn anh ta . Nhưng dù gì đi nũa thì những giá trị


văn hố tinh thần của dân tộc cũng luôn vậy bọc và che chởù cho con người.


“Ánh trăng” đã đi vào lòng người đọc bao thế hệ như một lời nhắc nhở đối với mỗi người: Nếu ai
đã lỡ quên đi, đã lỡ đánh mất những giá trị tinh thần qúy giá thì hãy thức tỉnh và tìmlại những
giá trị đó. cịn ai chưa biết coi trọng những giá trị ấy thì hãy nâng niu những kí ức q giá của
mình ngay từ bây giờ, đừng để quá muộn. Bài thơ không chỉ hay về mắt nội dung mà cón có
những nét đột phá trong nghệ thuật. Thể thơ năm chữ được vận dụng sáng tạo, các chữ đầu
dịng thơ khơng viết hoa thể hiện những cảm xúc liền mạch của nhà thơ. Nhịp thơ biến ảo rất
nhanh, giọng điệu tâmtình dã gấy ấn tượng mạnh trong lòng người đọc/./


<b>BẾP LỬA(BẰNG VIỆT)</b>


FRIDAY, 4. JANUARY 2008, 18:28:48
NGỮ VĂN 9


Xin trân trọng giới thiệu bài viết về Bếp lửa do cô Lê Thị Kiều Nga (giáo viên trường THCS
Colette, quận 3,TP Hồ Chí Minh) cung cấp.


Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong
sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường
nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ơng một kỉ
niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương.
Khơng chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt cịn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu.
Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.


Xin trân trọng giới thiệu bài viết về Bếp lửa do cô Lê Thị Kiều Nga (giáo viên trường THCS
Colette, quận 3,TP Hồ Chí Minh) cung cấp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương.
Không chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt cịn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu.
Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ơng.



Trong cuộc đời, ai cũng có riêng cho mình những kỉ niệm của một thời ấu thơ hồn nhiên, trong
sáng. Những kỉ niệm ấy là những điều thiêng liêng, thân thiết nhất, nó có sức mạnh phi thường
nâng đỡ con người suốt hành trình dài và rộng của cuộc đời. Bằng Việt cũng có riêng ơng một kỉ
niệm, đó chính là những tháng năm sống bên bà, cùng bà nhóm lên cái bếp lửa thân thương.
Khơng chỉ thế, điều in đậm trong tâm trí của Bằng Việt cịn là tình cảm sâu đậm của hai bà cháu.
Chúng ta có thể cảm nhận điều đó qua bài thơ “Bếp lửa” của ông.


Bằng Việt thuộc thế hệ nhà thơ trương thành trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ “ Bếp lưả”
được ông sáng tác năm 1963 lúc 19 tuổi và đang đi du học ở Liên Xô. Bài thơ đã gợi lại những kỉ
niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lịng kính u, trân trọng và
biết ơn của người cháu với bà, với gia đình, quê hương, đất nước.


Tình cảm và những kỉ niệm về bà được khơi gợi từ hình ảnh bếp lửa. Ở nơi đất khách quê người,
bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả chợt nhớ về người bà:


“ Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm


Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.”


Hình ảnh “chờn vờn” gợi lên những mảnh kí ức hiện về trong tác giả một cách chập chờn như
khói bếp. Bếp lửa được thắp lên, nó hắt ánh sáng lên mọi vật và toả sáng tâm hồn đứa cháu thơ
ngây. Bếp lửa được thắp lên đó cũng là bếp lửa của cuộc đời bà đã trải qua “ biết mấy nắng
mưa”. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã cách xa nữa vòng trái đất nhưng dường như
Bằng Việt vẫn cảm nhận được sự vỗ về, yêu thương, chăm chút từ đôi tay kiên nhẫn và khéo léo
của bà. Trong cái khoảnh khắc ấy, trong lòng nhà thơ lại trào dâng một tình u thương bà vơ
hạn. Tình cảm bà cháu thiêng liêng ấy cứ như một dịng sơng với con thuyền nhỏ chở đầy ắp
những kỉ niệm mà suốt cuộc đời này chắc người cháu không bao giờ qn được vàcung chính t?
đó, sức ấm và ánh sáng của tình bà cháu cũng như của bếp lửa lan toả tồn bài thơ.



Khổ thơ tiếp theo là dịng hồi tưởng cùa tác giả về những kỉ niệm của những năm tháng sống
bên cạnh bà. Lời thơ giản dị như lời kể, như những câu văn xuôi, như thủ thỉ, tâm tình, tác giả
như đang kể lại cho người đọc nghe về câu chuyện cổ tích tuổi thơ mình. Nếu như trong câu
chuyện cồ tích của những bạn cùng lứa khác có bá tiên, có phép màu thí trong câu chuyện của
băng Việt có bà và bếp lửa. Trong những năm đói khổ, người bà đã gắn bó bên tác giả, chính bà
là người xua tan bớt đi cái khơng khí ghê rợn của nạn đói 1945 trong tâm trí đứa cháu. Cháu lúc
nào cũng được bà chở che, bà dẫu có đói cũng để cháu thiếu bữa ăn nào, bà đi mót từng củ
khoai, đào từng củ sắn đểâ cháu ăn cho khỏi đói:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Năm ấy là năm đói mịn đói mỏi
Bố đi đánh xe khơ rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi cịn cay!”


Chính “mùi khói” đã xua đi cái mùi tử khí trên khắp các ngõ ngách. Cũng chính cái mùi khói ấy
đã quện lại và bám lấy tâm hồn đứa trẻ. Dù cho tháng năm có trơi qua, những kí ức ấy cũng sẽ
để lại ít nhiều ấn tượng trong lòng đứa cháu để rồi khi nghĩ lại lại thấy “sống mũi cịn cay”. Là
mùi khói làm cay mắt người người cháu hay chính là tấm lịng của người bà làm đứa cháu khơng
cầm được nước mắt?


“ Tám năm rịng cháu cùng bà nhóm bếp
Tu hú kêu trên những cách đồng xa
Khi tu hú kêu bà cịn nhớ khơng bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”


“Cháu cùng bà nhóm lửa”, nhóm lên ngọn lửa củasự sống và của tìng yêu bà cháy bỏng của một
cậu bé hồn nhiên, trong trắng như một trang giấy.Chính hình ảnh bếp lửa quê hương, bếp lửa
của tình bà cháu đó đã gợi nên một liên tưởng khác, một hồi ức khác trong tâm trí thi sĩ thuở


nhỏ. Đó là tiếng chim tu hú kêu. Tiếng tu hú kêu như giục giã lúa mau chín, người nơng dân mau
thốt khỏi cái đói, và dường như đó cũng là một chiếc đồng hồ của đứa cháu để nhắc bà rằng:
“Bà ơi, đến giờ bà kể chuyện cho cháu nghe rồi đấy!”. Từ “tu hú” được điệp lại ba lấn làm cho
âm điệu cấu thơ thêm bồi hồi tha thiết, làm cho người đọc cảm thấy như tiếng tu hú đang từ xa
vọng về trong tiềm thức của tác giả.Tiếng “tu hú” lúc mơ hà, lúc văng vẳng từ nững cánh đồng
xa lâng lâng lòng người cháu xa xứ. Tiiếng chim tu hú khắc khoải làm cho dòng kỉ niệm của đứa
cháu trải dài hơ, rộng hơn trong cái không gian xa thẳng của nỗi nhớ thương.


Nếu như trong những năm đói kém của nạn đói 1945, bà là người gắn bó với tác giả nhất, u
thương tác giả nhất thì trong tám năm rịng của cuộc kháng chiến chống Mĩ, tình cảm bà cháu ấy
lại càng sâu đậm:


“Mẹ cùng cha bận công tác không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà


Kêu chi hoài trên những cách đồng xa”


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

câu truyện cổ huyền ảo của cháu. Nếu như đối với mỗi chúng ta, cha sẽ là cánh chim để nâng
ước mơ của con vào một khung trời mới, mẹ sẽ là cành hoa tươi thắm nhất để con cài lên ngực
áo thì đoiá với Bằng Việt, người bà vừa là cha, vừalà mẹ, vừa là cách chim, là một cành hoa của
riêng ơng. Cho nên, tình bà cháu là vô cùng thiêng liêng và quý giá đối với ông. Trong những
tháng năm sống bên cạnh bà, bà không chỉ chăm lo cho cháu từng miếng ăn, giấc ngủ mà còn là
người thầy đầu tiên của cháu. Bà dạy cho cháu những chữ cái, những phép tính đầu tiên. Khơng
chỉ thế, bà cịn dạy cháu những bài học quý giá về cách sống, đạo làm người. Nững bài học đó
sẽ là hành trang mang theo suốt qng đời cịn lại của cháu. Người bà và tình cảm mà bà dành
cho cháu đã thất sự một chỗ dựa vững chắc về cả vật chất lẫn tinh thần cho đứa cháu be ùbỏng.
Cho nên khi bây giờ nghĩ về bà, nhà thơ càng thương bà hơn vì cháu đã đi rồi, bà sẽ ở với ai, ai


sẽ người cùng bà nhóm lửa, ai sẽ cùng bà chia sẻ những câu chuyện những ngày ở Huế,... Thi sĩ
bổng tự hỏi lịng mình: “Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà?”. Một lời than thở thể hiện nỗi nhớ
mong bà sâu sắc của đứa cháu nơi xứ ngươi. Chỉ trong một khổ thơ mà hai từ “bà”, “cháu” đã
được nhắc đi nhắc lại nhiều lấn gợi lên hình ảnh hai bà cháu sóng đơi, gắn bó, quấn qúit khơng
rời.


Chiến tranh, một danh từ bình thườnh nhưng sức lột tả của nó thì khốc liệt vơ cùng, nó đã gây ra
đau khổ cho bao người, bao nhà. Và hai bà cháu trong bài thơ cũng trở thành một nạn nhân của
chiến tranh: gia đình bị chia cắt, nhà bị giặc đốt cháy rụi...


“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở vế lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lếu tranh
Vẫng vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
“ Bố ở chiến khu bố còn việc bố


Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!’


Cuộc sống càng khó khăn, cảnh ngộ càng ngặt ngèo, nghị lứccủa bà càng bền vững, tấm lịng ủa
bà càng mênh mơng. Qua đó, ta thấy hiện lên một người bà cần cù, nhẫn nại và giàu đức hi
sinh. Dù cho ngôi nhà, túp lều tranh của hai bà cháu đã bị đốt nhẵn, nơi nương thân của hai bà
cháu nay đã khong cịn, bà dù có đau khổ thế nào cũng khơng dám nói ra vì sợ làm đứa cháu bé
bong của mình lo buồn. Bà cứng rắn, dắt cháu vượt qua mọi khó khăn, bà khơng đứa con đang
bận việc nước phải lo lắng chuyện nhà. Điều đó ta có thể thấy rõ qua lới dặn của bà: “Mày có
viết thư chớ kể này kể nọ / Cứ bảo nhà vẫn đươc bình yên!”. Lới dăn của bà nôm na giản dị
nhưng chất chứa biết bao tình. Gian khổ, thiếu thốn, bao nỗi nhớ thương con bà đều phải nén
vào trong lòng để yên lòng người nơi tiền tuyến. Hình ảnh người bà khơng chỉ còn là người bà
của riêng cháu mà còn là một biểu tượng rõ nét cho nhữnh người phụ nữa Việt Nam giàu đức hi
sinh, thương con qúy cháu.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

“Một ngọn lửa lịng bà ln ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”.


Hình ảnh ngọn lửa toả sáng trong câu thơ, nó có sức truyền cảm mạnh mẽ. Ngọn lửa của tình
yên thương, ngọn lửa của niềm tin, ngọn lửa ấm nồng như tình bà cháu, ngọn lửa đỏ hồng si
sáng cho con đường đứa cháu. Bà ln nhắc cháu rằng: nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà, bà sẽ
ln ở cạnh cháu.


Những dịng thơ cuối bài cũng chính là những suy ngẫm về bà và bếp lửa mà nhà thớ muốn gởi
tới bạn đọc, qua đó cũng là nh74ngbài học sâu sắc từ cơng việc nhó, lửa tưởng chừng đơn giản:
“ Nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm”


Một lấn nữa, hình ảnh bếp lửa “ ấp iu”, “nồng đượm” đã được nhắc lại ở cuối bài thơ như một lần
nữa khẳng định lại cái tình cảm sâu sắc của hai bà cháu.


“Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi”


Nhóm lên bếp lửa ấy, người bà đã truyền cho đứa cháu một tình yêu thương những người ruột
thịt và nhắc cháu rằng không bao giờ được quên đi những năm tháng nghĩ tình, những năm
tháng khó khăn mà hai bà cháu đã sống vơi nhau, những năm tháng mà hai bà cháu mình cùng
chia nhau từng củ sắn, củ mì.


“Nhóm nồi xơi gạo mới sẻ chung vui”


“Nồi xơi gạo mới sẻ chung vui” của bà hay là lời răng dạy cháu ln phải mở lịng ra với mọi
người xung quanh, phải gắn bó với xóm làng, đừng bao giờ có một lối sống ích kỉ.


“Nhóm dậy cả những tâm tinh tuổi nhỏ”.



Bà không chỉ là người chăm lo cho cháu đấy đủ về vật chất mà c2n là người làm cho tuổi thơ của
cháu thêm đẹp. th6m huyền ảo như trong truyện. Người bà có trái tim nhân hậu, người bà kì
diệu đã nhóm dậy, khơi dậy, giáo dục và thức tỉnh tâm hồn đứa cháu để mai này cháu khôn lớn
thành người. Người bà kì diệu như vậy ấy, rất giản dị nhưng có một sức mạnh kì diệu tứ trái tim,
ta có thể bắt gặp người bà như vậy trong “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh:


“Tiếng gà trưa


Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng.”


Suốt dọc bài thơ, mười lấn xuất hiện hình ảnh bếp lửa là mười lần tác giả nhắc tới bà.Âm điệu
những dòng thơ nhanh mạnh như tình cảm dâng trào lớp lớp sóng vỗ vao bãi biễn xanh thẳm
lịng bà. Người bà đã là, đang là và sẽ mãi mãi là người quan trọng nhất đối với cháu dù ở bất kì
phương trời nào. Bà đã trờ thành một người không thể thiếu trong trái tim cháu.


Giờ đây, khi đang ở xa bà nửa vòng trái đất, Bằng Việt vẫn ln hướng lịng mình về bà:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”


Xa vịng tay chăm chút cuả bà để đến vơí chân trơì mới, chính tình cảm cuả hai bà chẳ đã sươỉ
ấm lịng tác giả trong cái muà đông lạnh giá cuả nước Nga. Đứa cháu nhỏ cuả bà ngàu xưa giờ
đã trưởng thành nhưng trong lịng vần ln đinh ninh nhớ về góc bếp, nới nắng mưa hai bà cháu
có nhau. Đưá cháu sẽ không bao giờ quên và chẳng thể nào quên được vì đó chính là nguồn cội,
là nơi mà tuổi thơ cuả đưá chẳ đã được ni dưỡng để lớn lên từ đó.


“ Đọc xong bài thơ, nhắm mắt laị tưởng tưởng, bạn sẽ hình dung thấy ngay hình ảnh bếp lưả
hồng và dáng ngươì bà lặng lẽ ngồi bê. Hình ảnh có tính sóng đơi này hiện lên thật sống động,


rõ ràng như thể nét khắc, nét chạm vậy...” (Văn Giá). Bài thơ Bếp lưả sẽ sống maĩ trong lòng
bạn đọc nhờ sưc truyền cảm sâu sắc cuả nó. Bài thơ đã khơi dạy trong lịng chúng ta một tình
cảm cao đẹp đối với gia đình, với những ngươì đã tơ màu lên tuổi thơ trong sáng cuả ta /./

<b>CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG ( LÀ BĨNG HAY LÀ HÌNH)</b>


FRIDAY, 4. JANUARY 2008, 18:18:20


NGỮ VĂN 9


Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại được
định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh Trang Công
trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi máu chảy chỉ vì
bà ghét Trịnh Trang Cơng khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn.


Nghĩ chuyện trên đời kì lạ thật. Chuyện tình duyên, sống chết, số phận của con người lại được
định đoạt tù một câu chuyện đùa về một cái bóng. Ngày xưa, thân mẫu của Trịnh Trang Công
trong Ðông Chu liệt quốc đã gây ra bao chuyện phiền phức dẫn đến cảnh đầu rơi máu chảy chỉ vì
bà ghét Trịnh Trang Cơng khi xưa sinh ngược khiến bà phải đau đớn. Chuyện đời vẫn thế, đó là
chỗ éo le phức tạp trong đời sống tâm hồn con người. Chỗ kì bút của Nguyễn Dữ là đã bắt nắm
được một tình huống éo le như vậy. Trong văn chương nước ta cũng như thế giới không hiếm
những câu chuyện xen những yếu tố truyền kì. Nét riêng của Chuyện người con gái Nam Xương
là hai yếu tố thực và truyền kì khơng đan xen vào nhau mà kết cấu thành hai phần. Phần truyền
kì vùa làm cho câu chuyện thêm lung linh hư ảo, vùa góp phần làm rõ những yếu tố ở phần
thực. Phần thực là cơ sở để xây dựng phần truyền kì (phần thực, tơi muốn nói thực của văn học).
Bằng mối liên hệ giữa hai phần, nhà văn làm nổi bật tính cách nhân vật và thể hiện chủ đề của
tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

chồng ở nhà, khi chia tay, khi xa chồng và khi chồng trở về. Khi chung sống với nhau, biết
Trương Sinh là người có tính đa nghi, hay ghen nên “nàng giữ gìn khn phép” cho gia đình hồ
thuận. Khi tiễn chồng đi tịng qn, tính cách của Vũ nương được thể hiện ở lời đưa tiễn. Nàng
nói với chồng: “Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu trở về quê


cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên”. Nàng nghĩ đến những khó nhọc, gian
nguy của người chồng trước rồi mới nhận ra sự lẻ loi của mình. Tù cách nói đến nội dung của
những câu nói hiện lên một Vũ nương dịu dàng, thiết tha với hạnh phúc, khơng hư danh, thương
chồng và giàu lịng vị tha, một tâm hồn có văn hố. Trong những ngày xa chồng, nàng ni con
thơ, chăm sóc mẹ chồng như mẹ đẻ của mình. Ngịi bút Nguyễn Dữ tỏ ra già dặn, nhà văn đã để
cho chính người mẹ chồng ấy nhận xét về tấm lòng hiếu thảo của nàng trước khi bà cụ qua đời:
“Sau này trời giúp người lành ban cho phúc trạch, giống giòng tươi tốt… xanh kia quyết chẳng
phụ con, cũng như con đã chẳng nỡ phụ mẹ”. Trong con mắt của người mẹ chồng ấy, nàng là
“người lành”. Ðến khi người chồng đi chinh chiến trở về nghi oan cho nàng, Vũ nương tỏ bày
khơng được thì tự vẫn, chứ khơng sống “chịu tiếng nhuốc nhơ”.


Khi thì cách xủ thế, khi thơng qua lời nói, khi hành động, khi thái độ hình ảnh Vũ nương hiện lên
là một người trong trắng thuỷ chung, giàu lòng vị tha, hiếu thảo nhưng cũng là một người phụ
nữ khí khái, tự trọng. Ðó là một tâm hồn đẹp, đẹp một cách có văn hố. Dường như Nguyễn Dữ
đã tập trung những nét đẹp điển hình của người phụ nữ Việt Nam vào hình tượng Vũ nương. Con
người đẹp, thiết tha với hạnh phúc này phải chết - Ðó chính là bi kịch về số phận con người. Vấn
đề này biết bao nhà văn xưa nay tùng trăn trở. Có lẽ đó cũng là bi kịch của mn đời. Bởi vậy,
vấn đề mà Chuyện người con gái Nam Xương đặt ra là vấn đề có tính khái, qt giàu ý nghĩa
nhân văn. Phía sau tấn bi kịch của Vũ nương có một cuộc sống chinh chiến, loạn li, gây cách biệt,
nhưng căn bản là người chồng mù quáng đa nghi, thiếu sáng suốt. Những kẻ như thế xưa nay
tùng gây ra bao nỗi oan trái, đổ vỡ trong đời. Ðó cũng là một thứ sản phẩm hằng có trong xã hội
con người. Cho nên vấn đề tưởng chùng rất riêng ấy lại là vấn đề điển hình của cuộc sống. Tất
nhiên trong tấn bi kịch này có phần của Vũ nương. Nàng vùa là nạn nhân nhưng cũng là tác
nhân. Bởi chính nàng đã lấy cái bóng làm cái hình, lấy cái hư làm cái thật. Âu đó cũng là một bài
học sâu sắc của mn đời vậy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

có thế. Nguyễn Dữ muốn khẳng định một chân lí nghệ thuật: cái Ðẹp là bất tủ. Vũ nương không
sống được ở cõi đời thì sẽ sống vĩnh hằng ở cõi tiên, vì nàng là cái Ðẹp.


Nói cho cùng, hiện thực của câu chuyện là hiện thực về tấm lòng của nhà văn trước những vấn


đề của cuộc sống. Nhà văn đã đi sâu khai thác những vẻ đẹp và nỗi đau khổ xót xa phức tạp của
tâm hồn con người, nhất là người phụ nữ trong xã hội đương thời như Vũ nương. Cũng qua đó,
nhà văn khẳng định một chân lí nghệ thuật phảng phất như trong các truyện cổ dân gian…
Thánh Gióng về trời, An Dương Vương xuống biển… kì lạ mà cũng rất thực.


<b>BÀI THƠ "ÁNH TRĂNG" CỦA NGUYỄN DUY</b>


FRIDAY, 4. JANUARY 2008, 18:06:16


NGỮ VĂN 9


Đề bài: Suy nghĩ của em về vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng dửng dưng và
đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.


Đề bài: Suy nghĩ của em về vầng trăng tri kỷ, vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng dửng dưng và
đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh trong bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy.


Trăng- Hình ảnh giản dị, quen thuộc đã chắp cánh cho những hồn thơ bay bổng để rồi những tác
phẩm tuyệt vời được ra đời. Nếu Chính Hữu đã treo lên một bức tranh tuyệt đẹp, lãng mạn qua
hình ảnh “Đầu súng trăng treo” thì “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lại mang một tính chất triết lý
thầm kín. Đó là đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”. Đối với nhà thơ đây là vầng trăng tri kỷ, vầng
trăng tình nghĩa, vầng trăng dửng dưng và đặc biệt là vầng trăng thức tỉnh. Nó như hồi chng
gióng lên, đánh thức tâm hồn u tối trong mỗi con người.


Có thể nói, với mỗi chúng ta, vầng trăng là một vật thể bình thường mà thiên nhiên, đất trời ban
tặng. Nhưng với Nguyễn Duy, vầng trăng khơng những là hình ảnh của q hương mà nó cịn là
người bạn tri âm, tri kỷ, là quá khứ nghĩa tình, chan chứa yêu thương, là một quan toà lương
tâm trong tận sâu thẳm tâm hồn nhà thơ. “Hồi nhỏ sống với đồng/ Với sông rồi với bể/ Hồi chiến
tranh ở rừng/ Vầng trăng thành tri kỷ”. Tuổi thơ tác giả được gắn bó với “vầng trăng”, “với
đồng”, “với sơng” rồi “với bể”. Những hình ảnh gần gũi, quen thuộc với mỗi người dân quê Việt
Nam. Đến lúc đi chiến đấu trăng lại như người bạn thân luôn sát cánh bên người lính, cùng người


lính trải nghiệm sương gió, bom đạn của chiến tranh, của đời lính. Tình cảm gắn bó bao lâu, nay
chỉ biết hợp thành hai “tri kỷ”. Một tình bạn thật đẹp, thật cao cả và trong suy nghĩ của người
lính: “Ngỡ khơng bao giờ quên/ Cái vầng trăng tình nghĩa”


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

hồn nhiên, những ngày khó khăn trong chiến trường cùng “vầng trăng” đã đi vào dĩ vãng. Người
lính năm xưa đã vơ tình lãng qn q khứ, qn người bạn “tri kỷ” của mình. Dẫu bạn- đồng
chí, có đi ngang qua ngõ thì cũng chỉ là một thống lướt qua. Một phần vô tâm của con người đã
lấn át lí trí người lính. Nhưng trong một hồn cảnh đặc biệt “Đèn điện tắt”, người lính phải giật
mình sững sờ: “Đột ngột vầng trăng trịn”. “Vầng trăng” lại tìm đến và đối mặt với người lính.
Người bạn năm xưa đã tìm đến, bạn ư? Bao lâu nay người lính đã quên mất rồi! Nhưng, “đột
ngột”- một sự xuất hiện khơng dự báo trước. “Trăng cứ trịn vành vạnh/ Kể chi người vơ tình/
Ánh trăng im phăng phắc/ Đủ cho ta giật mình”.


Quá khứ khi xưa hiện về nguyên vẹn. Trăng- hay quá khứ nghĩa tình vẫn tràn đầy, viên mãn,
thuỷ chung. “Trăng cứ tròn vành vạnh”. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn toả sáng đầy ắp yêu
thương dẫu con người đã lãng quên. Trăng “im phăng phắc”, một cái lặng lẽ đến đáng sợ. Trăng
khơng hề trách móc con người q vơ tâm như một sự khoan dung, độ lượng. “Vầng trăng”
dửng dưng khơng có một tiếng động nhưng lương tâm con người lại đang bộn bề trăm mối. “Ánh
trăng” hay chính là quan tồ lương tâm đang đánh thức một hồn người. Cái “giật mình” của
người lính phải chăng là sự thức tỉnh lương tâm của con người? Chỉ im lặng thôi “vầng trăng” đã
thức tỉnh, đánh thức con người sau một cơn mê dài đầy u tối.


Chỉ với một “vầng trăng” - “vầng trăng” của Nguyễn Duy cũng có thể làm được những điều
tưởng chừng như không thể. “Ánh trăng” là cội nguồn quê hương, là nghĩa tình bè bạn, là quan
tồ lương tâm, là sự thức tỉnh của con người. Trăng vẫn đẹp, quá khứ vẫn còn và con người vẫn
còn cơ hội sửa chữa sai lầm.


Mỗi con người chúng ta có thể đến một lúc nào đó sẽ lãng quên quá khứ, sẽ vơ tình với mọi
người nhưng rồi sự khoan dung và độ lượng của quê hương sẽ tha thứ tất cả. “Ánh trăng” của
Nguyễn Duy sẽ mãi mãi soi sáng để đưa con người hướng tới tương lai tươi đẹp. Đạo lí sống thuỷ


chung, nghĩa tình với q khứ, với quê hương sẽ đưa lối mỗi chúng ta đến với cuộc đời hạnh
phúc ở tương lai.


Đề bài: Cảmnhận về tình quê của nhân vật Nhĩ trong truyện ngắn “ Bến quê” của Nguyễn Minh
Châu.


Bài làm:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

buột chân anh vào chiếc giường bệnh, không thể nhúc nhích được. Trong hồn cảnh đặc biệt
này, anh mới nhận ra những nét gần gũi, bình dị của quê hương mình.


Vào buổi sáng đầu thu, nằm trên giường bệnh cảnh vật thiên nhiên hiện ra trước mắt anh đẹp
biết bao. Nhĩ đưa mắt nhìn từ gần ra xa, từ thấp lên cao qua ô cửa sổ nhà mình. Mấy bơng hoa
bằng lăng như đậm hơn. Thấp thống phía xa là con sơng Hồng với những tia nắng chiếu xuống,
nước sơng có màu vàng thau đẹp lạ thường. Mọi thứ tưởng chừng rất đỗi quen thuộc lại trở nên
hết sức lạ lẫm trong mắt Nhĩ- Cảnh vật đẹp quá làm Nhĩ cứ ngắm hoài một cách say mê. Bỗng
Nhĩ thấy “vòm trời như cao hơn”, “dịng sơng như rộng ra’. Cảnh vật vẫn hiện hữu bao lâu nay
như thế đấy chứ? Đó chỉ là cái nhìn của một con người có dự cảm sắp phải đi xa, đến một nơi rất
xa, xa lắm…. Phải chăng Nhĩ đã nhận ra bằng trực giác của mình một điều: mình khơng cịn sống
được bao lâu nữa? Dự đoán của Nhĩ như thực hơn, rõ hơn sau những câu hỏi anh đã hỏi Liên- vợ
mình: “Hơm nay đã là ngày thứ mấy rồi nhỉ?”. Hình như Liên đã hiểu những gì Nhĩ đang nghĩ nên
chị khơng trả lời. Không phải ngẫu nhiên mà những bông hoa bằng lăng trong mắt Nhĩ trở nên
đậm sắc hơn, tiếng đất lở ở bãi bồi bên kia sông lại vang đến tại Nhĩ hay Nhĩ hỏi Liên nhưng câu
như thế nó dự báo về qng đời cịn lại của Nhĩ một cách thật kín đáo, thầm lặng. Những hình
ảnh mang tính biểu tượng được Nguyễn Minh Châu sử dụng khá thành công.


Một con người luôn đi đến những nơi xa lạ như Nhĩ mà lại bị bó chân trên giường bệnh thì khơng
đau khổ nào bằng. Nhưng chính những ngày này Nhĩ mới được sống bởi lẽ anh đã nhìn rõ được
hình ảnh của q hương. Đó là những bông hoa bằng lăng, là con sông, là bãi bồi, là vòm trời
quê hương… Lần đầu tiên Nhĩ thấy Liên mặc áo vá. Người vợ mà mà bấy lâu nay anh chưa quan


tâm hết mực nay hiện ra trước mắt anh hình ảnh, một dáng dấp tần tảo, chịu đựng, giàu đức hy
sinh. Mọi sinh hoạt của Nhĩ đều nhờ vào sự chăm sóc của Liên. Đến lúc này anh mới thấy thương
và yêu vợ mình hơn bao giờ hết. Dù bao năm tháng đã qua đi nhưng nét đẹp của Liên không hề
thay đổi cũng như quê hương vậy, vẫn chan chứa nghĩa tình.


Quê hương mình sao đẹp thế? Nhĩ càng ngắm càng yêu quê hương, yêu thương những gì gần
gũi, bình dị của quê mình. Khát khao cuối cùng của Nhĩ là được đặt chân lên bãi bồi bên kia sông
Hồng nhưng anh biết điều này không thể. Anh đã nhờ con anh- Tuấn thực hiện ước nguyện này
giúp anh. Nhưng nghịch lý thay! Con anh cũng không làm được điều mà cha mình mong muốn.
Tuấn chưa hiểu được ý muốn của cha và ra đi một cách miễn cưỡng. Và anh sa vào đám phá cờ
thế trên đường để thoả mãn nhu cầu ham chơi, thích khám phá của mình. Nhĩ khơng trách Tuấn
bởi lẽ anh cũng từng như thế. Hoạ chăng chỉ có những người từng trải như anh mới hiểu hết
được sự đời, mới thấy được những gì mình cần phải làm? Lúc này, Nhĩ mới nhận ra một triết lý.
Con người khó tránh khỏi cái “vịng vèo”, “chùng chình” trên đường đời để hướng tới những giá
trị đích thực của cuộc sống. Những nghịch lý trong cuộc đời mỗi người không ai có thể lường hết
được. Và hai tình huống nghịch lý trong truyện này cũng là một minh chứng để mỗi người biết
cách sống tốt hơn, sống đẹp hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

xăm, đầy mê say. Anh mãi mê hướng mắt theo cánh buồm. Hành động cuối cùng của Nhĩ: “đu
mình ra ngồi cửa sổ, đưa bàn tay ra ngoài vẫy vẫy như đang ra hiệu cho một ai đó” có vẻ kỳ
quặc. Nhưng có thể Nhĩ đang nơn nóng thúc giục con trai mình hãy nhanh chóng để lỡ chuyến
đị; hay đó là một sự đánh thức con người hãy sống khẩn trương, sống có ích, đừng sống vô bổ
và tránh xa những cái “vịng vèo”, “chùng chình” trong cuộc đời. Nhưng rồi con đò cũng cập bến
và Nhĩ cũng ra đi trong nổi niềm tiếc nuối, ân hận.


“Bến quê”- nơi neo đậu cuối cùng của mỗi con người. Nhĩ đã mãi mãi vào cõi vĩnh hằng nhưng
trong anh còn chứa bao tiếc nuối. Hoàn cảnh đặc biệt đã đánh thức Nhĩ để anh nhận ra được
những giá trị gần gũi, bình dị của quê hương, để anh thêm yêu quê hương mình. Con người ta ai
cũng thế, bao lần vấp ngã trên đường đời nhưng chủ yếu là họ có vực dậy mà đi tiếp không.
Nhân vật Nhĩ trong truyện đã theo duổi những ước mơ xa vời nơi chân trời tươi đẹp nhưng anh


lại đánh mất hình ảnh của quê hương, của người thân. Đến lúc Nhĩ nhận ra mọi sự việc thì đã
quá muộn màng. Cuộc sống đối với Nhã chỉ tồn là vơ vị chỉ khi cuối đời thì phần người chang
chứa thi vị trong anh mới thực sự rõ nét. Dù mãi mãi lìa xa quê hương nhưng anh được nằm
dưới khoảng đất yêu thương của quê mình, được đất mẹ che chở đến ngàn thu, đây cũng là một
niềm hạnh phỳc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>* Kể về ngời thân yêu</b>



Nh mt tín hiệu khơng rõ ràng cụ thể, thoắt thu sang, những hàng cây ven đường
rùng mình đổi áo mới: Những chiếc là vàng thấm đãm hương vị ngọt ngào se lạnh
của mùa thu lác đác bay. Mỗi lần, nhìn chiếc lá lìa cành chu du cùng cơn gió heo
may, tôi lại nhớ đến ông nội. Những chuổi kỷ niệm về ơng như theo cái sắc vàng giịn
tan của mùa thu ùa về trong tâm trí, khiến tơi khơng khỏi bồi hồi.


Ơng tơi là một người mà tơi rất mực u mến và kính u. Thủa nhỏ, tôi hường hay
tưởng tượng ông như một cây đại thụ: Cái dáng ông cao lớn, bàn tay to bè, làn da
ngăm đen, sần sùi thô ráp, những nếp nhăn xô lại với nhau thành những kẽ nứt trên
khn mặt có phần hơi khắc khổ vì gió sương cuộc đời. Ơng tơi đặc biệt u thích
cây, quanh nhà có một khu vườn mênh mơng, gần như gom hết đủ thứ cây cỏ trên
đời này: Từ cây cảnh đến cây ăn quả. Hồi bé, tơi chỉ thích về quê nội chơi, ăn no nên
quả thơm trái ngọt, hay lừa lừ lúc ông không để ý mà vặt trộm bơng hóa hiếm hoi
của cây hoa cảnh, làm ơng tiếc ngẩn ngơ.


Ơng có thói quen ra vườn và nghe cây. Ơng cứ đứng đó, giữa vườn cây, nhắm mắt,
nghe cái âm thành xào xạc, ngửi mùi đất hăng nồng, mùi nhựa cây chan chát. Ơng
tơi hay bịt mắt tôi giữa vườn caay, ông dạy tôi cách lắng nghe: Tiếng chim hót, tiếng
ve, tiếng dế, tiếng là cây xào xạo khua lên những bản nhạc yên bình thơn dã. Khơng
chỉ nghe, tơi cịn cảm nhận nhiều hơn nữa từ thiên nhiên: Cái mát lành của gió mơn
man, cái ran rát của nắng hè trên da, mùi đất, mùi nồng nồng của những con mưa
hè vội vã… Ơng tơi gọi cái giây phút tĩnh lặng đứng giữa vườn cây đó là “cảm nhận


sự sống”.


Người già thường ln có linh cảm về những giây phút cuối cùng của đời người. Một
chiều, ông dần tơi ra vườn. Ơng chỉ những chiếc alf vàng bay bay, nói “Đó là ơng.”
Ơng chỉ những chiếc lá xanh non mỡ mang vẫn con trên cây “Đó là cháu”. Tôi hỏi tại
sao. “Bởi một chiếc là bao giờ cũng phải tuân theo quy luật của tự nhiên. Muốn co lá
xanh, lá vàng phải rụng. Lá xanh góp cái tươi non cho đời, rồi lại trở thành lá vàng.
Con người cũng thế, hãy sống hết mình khi cháu hãy cịn xanh, cháu nhé!” Thưở ấy
tơi cịn bé q, chưa hiểu triết lỹ gì sâu xa, chỉ thấy đôi mắt ông buồn buồn, cảnh vật
dường như cũng ảo não theo. Những chiếc lá khơng cịn cháy lên sắc vàng mật ngọt,
chỉ còn một màu héo úa lặng lẽ bay.


Tôi rời xa ông, thoe bố mẹ ra thành phố. Chuyện học hành, thi cử cuốn tôi đi, khiến
cho những phút “cảm nhận sự sống” kia dường như xa lắm. Mọi thứ sang trọng, tiện
nghi của cuộc sống thay thế cho cái dân dã, n bình của thơn q. Tơi qn ơng
như quên đi vườn cây, quên đi lá vàng…. Chiều chiều, khi những cánh chim bay về tổ
ấm, những áng mây tìm chỗ trú ngụ bình n nơi cuối trời, ơng lặng lẽ thổi cơm. Lùa
trệu trạo vào cái rau, con cá cho qua bữa, ơng hay thẫn thờ nhìn ảnh bà tơi, thắp vài
nén hương “Bà trên trời có linh phù hộ cho chúng nó làm ăn phát đạt, con cháu hay
ăn chóng lớn”. Đắp chiếc chăn mỏng, tấm lưng to bè của ơng rùng mình theo từng
cơn gió lùa qua cửa sổ. “Đơng về rồi đấy”, ông lẩm nhẩm, và trong căn nhà lạnh lẽo
này, mùa đơng cũng dài hơn.


Gia đình tơi có hiềm khích. Các chú dì địi bán khu vườn của ơng, lấy tiền đi làm kinh
tế. Ông giận dữ “Khu vườn này của mẹ chúng mày, không được bán” Nhưng, chuyện


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

người lớn, tôi cũng không thể tham gia, và dần dần quên đi.


Vì lo lắng cho việc này, sức khỏe của ông giảm sút rõ rệt. Tơi đến thăm ơng, nhắc
ơng giữa gìn sức khỏe rồi lại vội vàng đi ngay. Khu vườn vaanx xào xạc như nuối tiếc


vẫy chào tôi. Để ý thấy, từ khi ông ngã bệnh, khu vườn thiếu bàn tay ông chăm sóc,
xơ xác đi. Lá vàng rụng nhiều hơn, như đời người sắp tàn.


Nhẹ nhàng và thanh thản, ông tôi ra đi, như chiếc lá lìa cành. Ngày đưa tang ông,
trời mưa nhẹ. Tôi tưởng tượng ra rằng, vào những giây phút cuối, ơng nghĩ đến hình
ảnh một khu vườn xanh mướt ngập tiếng chim, tiếng cưởi trong trẻo của tôi, nụ cười
hiền hâu của bà. Tôi bỗng tahays hụt hẫng quá, từ trước đến giớ, dường như tơi đã
qn mất cái gì quan trọng lắm. Để bây giwof, khi ông ra đi, tôi mới thấy mất amts
vơ cùng, khơng có gì cứu vãn nổi. Nước mắt tơi cứ tự trị ra từ lúc nào không hay.
Nhưng, chạy ra vườn, những đám lá vẫn xào xạc như vỗ về, ánh nắng, tiếng chim ,
lá cây … vẫn hiền hòa như thưở bé, tất cả như bao dung tha thứu. VÀ đâu đó, trên
vịm cây cao kia, dường như vẫn cịn vương nụ cười hiền hậu của ông dành cho tôi,
Tôi bất chợt thấy nhẹ nhõm, và bao phút giấy “Cảm nhận sự sống” xưa vẫn còn
nguyên vẹn ùa về.


Đời người như chiếc lá. Thà huy hoàng chợt tắt cịn hơn le lói trăm năm, như một thi
sĩ nào đã nói. Trời thu xanh ngắt, ***g lộng. Biết đâu, ở trên cao kia, ông vẫn đang
dõi theo tơi, mỉm cười.


Phân tích cảnh ra khơi của” Đồn thuyền đánh cá” được


miêu tả trong bốn câu đầu trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh


cá” của Huy Cận:



”Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”


Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958,
nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh. Bài thơ đã


dụng được một khơng khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá
trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu
diển tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên
biển.


Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở
đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị
gợi cảm: ”Mặt trời xuống biển như hịn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”. Ơ câu thơ
này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với
“hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm, ngày tàn, nhưng cảnh vẫn khơng hoang vắng nhờ
hình ảnh rực sáng này. Trong cản quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng
lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm buông xuống “Đêm sập cửa” thì
sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này
chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.


Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đồn thuyền đánh cá thì đây
lại là thời điểm bắt đầu cho công việc đánh cá trên biển trong đêm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Câu hát căng buồm cùng gió khơi”


Từ “lại” nói lên rằng hằng ngày vào cái thời điểm ấy, khi trời yên biển lặng, đoàn
thuyền ra khơi đã thành một cảnh quen thuộc.


Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ
một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của
những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát khoẻ
khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những cánh
buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.
Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày
tàn mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Khơng


khí chung của bốn câu thơ mở đầu này chi phối khơng khí chung của cả bài thơ


Phân tích cảnh ra khơi của” Đoàn thuyền đánh cá” được


miêu tả trong bốn câu đầu trong bài thơ “ Đoàn thuyền đánh


cá” của Huy Cận:



”Mặt trời xuống biển như hịn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”


Bài thơ “Đồn thuyền đánh cá” là bài thơ được Huy Cận sáng tác vào năm 1958,
nhân một chuyến đi thực tế ở vùng mỏ Hồng Gia - Cẩn Phả - Quảng Ninh. Bài thơ đã
dụng được một khơng khí khẩn trương, hăng say của những người lao động đánh cá
trong một đêm trên biển, với tư thế làm chủ thiên nhiên, biển cả. Bốn câu thơ đầu
diển tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”, mở đầu cho một đêm đánh cá trên
biển.


Hai câu thơ đầu diển tả thời điểm ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Thời gian ở
đây là lúc ngày tàn, được miêu tả bằng những chi tiết, hình ảnh cụ thể, giàu giá trị
gợi cảm: ”Mặt trời xuống biển như hòn lửa-sóng đã cài then đêm sập cửa”. Ơ câu thơ
này, tác giả đã sử dụng biện pháp so sánh. Màu đỏ của “mặt trời” được so sánh với
“hòn lửa”. Viết về cảnh biển đêm, ngày tàn, nhưng cảnh vẫn khơng hoang vắng nhờ
hình ảnh rực sáng này. Trong cản quan của Huy Cận, vũ trụ là một ngôi nhà khổng
lồ. Khi ngày đã tàn, “Mặt trời xuống biển”, màn đêm bng xuống “Đêm sập cửa” thì
sóng biển như “then cài” đóng lại cánh cửa khổng lồ ấy. Những hình ảnh ẩn dụ này
chứng tỏ nhà thơ có trí tưởng tượng phong phú.


Đối với thiên nhiên thì một ngày đã khép lại, nhưng với đoàn thuyền đánh cá thì đây
lại là thời điểm bắt đầu cho cơng việc đánh cá trên biển trong đêm.



“Đồn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Hình ảnh thơ “Câu hát căng buồn cùng gió khơi” là một hình ảnh được xây dựng nhờ
một trí tưởng tượng phong phú. Huy Cận đã miêu tả, đã cụ thể hoá tiếng hát của
những người lao động. Những người lao động đánh cá ra khơi cùng với tiếng hát
khoẻ khoắn đến mức tạo nên một sức mạnh (cùng với gió khơi) làm căng những
cánh buồm. Họ ra khơi với một niềm phấn khởi, niềm tin vào thành quả lao động.
Bốn câu thơ mở đầu miêu tả cảnh ra khơi của “Đoàn thuyền đánh cá”. Cảnh ngày tàn
mà vẫn ấm áp, vẫn tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan của người lao động. Khơng khí
chung của bốn câu thơ mở đầu này chi phối khơng khí chung của cả bài thơ


Qua việc tìm hiểu cốt truyện và các đoạn trích trong SGK ngữ văn 9, tập I, em hãy
phân tích nhân vật Thuý Kiều để làm nổi bật giá trị nhân đạo của Truyện Kiều.
Kiệt tác truyền Kiều của đại thi hào Ng.Du có 2 giá trị lớn là giá trị hiện thực và giá
trị nhân đạo. Truyện Kiều là bức tranh hiện thực về một xã hội bất công, tàn bạo
(nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX - cuối Lê đầu Nguyễn), là tiếng nói của thương
cảm trước số phận (thời đại) bi kịch của con người, tiếng nói lên án, tố cáo những
thế lực xấu xa, tiếng nói khẳng định, đề cao tài năng, nhân phẩm và những khát
vọng chân chính của con người như khát vọng về quyền sống, khát vọng tự do, cơng
lý, khát vọng tình u hạnh phúc...


Tiếng nói nhân đạo ấy tốt lên từ hình tượng nhân vật Thuý Kiều trong truyện Thuý
Kiều. Thuý Kiều là hiện thân của nổi đau và bất hạnh. Nàng là một người con gái tài
sắc, giàu tình cảm nhưng bị xã hội phong kiến vùi dập, đoạ đày.


Nhân vật Thuý Kiều là hiện thân những bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến trước đây. Đời Kiều là một tấm gương oan khổ. Số phận Kiều hội đủ những bi
kịch của người phụ nữ. Tuy nhiên hai bi kịch lớn nhất ở Kiều là bi kịch tình yêu tan vỡ


và bi kịch bị chà đạp nhân phẩm.


Tình yêu Kim Trọng- Th Kiều là một tình u lí tưởng với “Người quốc sắc,kẻ thiên
tài”, nhưng cuối cùng “giữa đường đứt gánh tương tư”, “nước chảy hoa trơi lỡ làng”.
Tình yêu tan vỡ và không bao giờ hàn gắn được-tuy “màn đồn viên” có hậu về cơ
bản cũng chỉ là “một cung gió thảm mưa sầu”.Hạnh phúc nàng toan được nắm trong
tay thì cuộc đời cướp mất.


Kiều là người ln có ý thức về nhân phẩm nhưng cuối cùng lại bị chà đạp về nhân
phẩm. Nàng trở thành “món hàng” để kẻ bn người họ Mã “cò kè bớt một thêm
hai”. Rồi nàng phải thất thân với những kẻ như Mã Giám Sinh, phải “Thanh lâu hai
lượt thanh y hai lần”- Nổi đau nhất của cuộc đời Kiều chính là: “Thân lươn bao quản
lần đầu- chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”. Có nổi đau nào lớn hơn khi con người
trọng nhân phẩm, ln có ý thức về nhân phẩm mà cuối cùng phải tuyên bố từ bỏ
nhân phẩm?


Đời Kiều không phải chỉ là một tấm bi kịch, mà là những chuổi dài những bi kịch nối
tiếp nhau, mỗi lần nàng cố cất đầu ra khỏi bùn nhơ là một lần bị dúi xuống, bị đạp
xuống sâu thêm một tầng nữa.


Thuý Kiều là hiện thân của một vẻ đẹp nhan sắc, tài hoa. Sắc và tài của Kiều đã đạt
tới mức lí tưởng. Thể hiện vẻ đẹp, tài năng của Kiều Ng.Du đã sử dụng bút pháp ước
lệ của văn học cổ có phần lí tưởng hố để trân trọng một vẽ đẹp. “ Một hai nghiêng
nước nghiêng thành-sắc đành đồi một tài đành hoạ hai”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

cửa hôm mai” của người sinh dưỡng Nàng. Kiều day dứt khơng ngi vì một nổi là
khơng được chăm sóc cha mẹ già: “Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ”. Thuý Kiều
là người chí tình chí nghĩa “Ơn ai một chút chẳng quên”. Khi có điều kiện, nàng đã
trả ơn, hậu tạ những người cưu mang mình, nhưng nàng vẫn thấy cơng ơn đó khơng
gì có thể đền đáp nổi “Nghìn vàng gọi chút lễ thường-mà lịng phiếu mẫu mấy vàng


cho cân”.


Thuý Kiều là hiện thân của nổi khát vọng tình yêu tự do, khát vọng hạnh phúc và
khát vọng về quyền sống.


Khát vọng tình yêu tự do đậm màu sắc lãng mạn được thể hiện qua mối quan hệ
Thuý Kiều- Kim Trọng. Mới gặp chàng Kim lần đầu, hai bên chưa tiện nói với nhau
một lời, mà mối tình khơng lời ấy đã như một chén rượu nồng, khiến người ta choáng
váng đê mê:


“Tình trong như đã mặt ngồi cịn e
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê...”


Yêu nhau nàng chủ động xây dựng tương lai với người yêu. Gót chân nàng thoăn
thoắt đi sang nhà Kim Trọng, cái hình ảnh nàng “Xăm xăm băng nẻo vườn khuya
một mình” Thật là nhiệt thành cho một mối tình đầu trong trắng. Ng.Du đã dành tất
cả tài năng và tâm huyết để viết lên một bản tình ca say đắm có một khong hai
trong lịch sử văn học Việt Nam.


Mối tình Kim-Kiều vượt ra ngồi lễ giáo phong kiến bằng tình yêu tự do , chủ động
của hai người. Khác với nhiều người phụ nữ xưa phải chịu sự sắp đặt của cha mẹ,
Kiều chủ động đến với tình yêu theo tiếng gọi của trái tim. Kiều táo bạo, chủ động
nhưng đồng thời cũng là người thuỷ chung nhất trong tình yêu.


Khát vọng về hạnh phúc, về quyền sống đã đưa Kiều trở thành đại diện cho con
người bị áp bức vùng lên làm chủ số phận của mình trong tư thế chiến tháng, tư thế
chính nghĩa:


“Nàng rằng: ***g lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta”.



Ở đây, Thuý Kiều đẫ gặp gở bao nhiêu người phụ nữ bị áp bức khác vùng lên đòi
quyền sống, địi lẽ cơng bằng, trừng trị kẻ ác. “Cái thế giằng co giữa sự sống và sự
chết ở trong Tấm Cám, Thạch Sanh, trong nhiều truyện nôm khuyết danh khác cũng
như trong truyện Kiều, về căn bản nào có khác gì nhau, chỉ khác... Một bên nhiều khi
con người mượn yếu tố thần linh phụ trợ, một bên đã vươn tới tư tưởng trị nhân dân
và con người quyết định theo cơng lí của mình”- (Cao Huy Đỉnh)


Với nhân vật Thuý Kiều Ng.Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa rất mực yêu thương rất
mực đề cao con người, đề cao những khát vọng chân chính của con người- đặc biệt là
thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy rẫy bất công, tàn bạo và lễ giáo
phong kiến.


<i>Phân tích đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” để thấy rỏ “Với bút pháp tinh diệu, Nguyển </i>
<i>Du không những xây dựng lên hai chân dung “Mỗi người một vẻ mười phân vẹn </i>
<i>mười” mà dường như cịn nói được cả tính cách, thân phận...toát ra từ diện mạo của </i>
<i>mỗi vẻ đẹp riêng”.</i>


Đoạn trích <i>“Hai chị em Thuý Kiều”</i> nằm ở phần đàu của câu chuyện. Trong đoạn
trích này, Nguyễn Du tập trung miêu tả hai chân dung tuyệt mỹ của chị em Thuý
Kiều. Đằng sau những nét bút miêu tả tinh tế và độc đáo, người đọc có thể nhận
thấy tấm lòng ưu ái, trân trọng đặc biệt của Nguyễn Du đối với nhân vật của mình.
Qua ngòi bút của Nguyễn Du, hai chị em Thuý Kiều đều xinh đẹp, nhưng <i>“mỗi người</i>
(tài tình) <i>mỗi vẻ”</i> với dự báo trước số phận, tính cách, cuộc đời của mỗi nhân vật,
đặc biệt là Thuý Kiều, nhân vật của truyện.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<i>“Đầu lòng hai ả tố nga</i>
<i>Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân</i>


<i>Mai cốt cách, tuyết tinh thần</i>


<i>Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”</i>


Cả hai chị em đều có vẻ đẹp tồn mỹ, từ hình thức bên ngoài <i>“Maicốt cách”</i> đến vẻ
đẹp bên trong tâm hồn <i>“Tuyết tinh thần”.</i> Vẻ đẹp của Thuý Vân được miêu tả ở bốn
câu thơ tiếp:


<i>“Vân xen trang trọng khác vời</i>
<i>Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang</i>


<i>Hoa cười ngọc thốt đoan trang</i>
<i>Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”</i>


Vẻ đẹp của Thuý Vân được Nguyễn Du miêu tả một cách tồn vẹn từ khn mặt, nét
ngài, màu da, mái tóc đến tiếng nói, nụ cười và cốt cách. Thuý Vân hiện ra qua
những hình ảnh, những tính chất ước lệ của văn học cổ trung đại. Nguyễn Du tập
trung tô đậm vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của Thuý Vân. Vẫn là cách thức quen
thuộc của văn học cổ, lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn mực cho vẻ đẹp con
người, nhưng bức chân dung của Thuý Vân, qua nét vẻ thân tình của Nguyễn du
bổng rở nên sống động là nhờ đã chứa đựng trong đó quan niệm về tài sá của chính
nhà thơ. Gương mặt xinh đẹp đầy đặn, vẻ đẹp đoan trang phúc hậu của Thuý
Vân-một vẻ đẹp và thiên nhiên sẵn lòng nhường nhịn <i>“Mây thua nước tóc tuyết nhường </i>
<i>màu da”-</i>như dự báo trước một cuộc đời, một số phận êm đềm, tròn trịa, bình yên
của nàng.


Quả thật, với những từ ngữ trau chuốt, những hình ảnh ước lệ tượng trưng vẻ đẹp
và giàu sức gợi tả, được lọc qua tâm hồn mẫn cảm, tinh tế, Ng.Du đã khắc hoạ khá
sống động vẻ đẹp đài các, đoan trang viên mãn, mơn mởn sức sống của Thuý Vân,
biểu hiện một tâm hồn vô tư, dự báo trước một cuộc đời yên ổn, vinh hoa, phú quý
sẽ mỉm cười, vui vẻ rước đón nàng.



Song, việc miêu tả vẻ đẹp của Th Vân, khơng phải là chủ đích nghệ thuật của tác
giả. Đó thực chất chỉ là việc tạo tiền đề, tao ra một điểm tựa nghệ thuật <i>“tả khách </i>
<i>hình chủ”</i> để làm nổi bật hơn tài sắc của Thuý Kiều, nhân vật trung tâm của tác
phẩm.


Khác với Thuý Vân, Th Kiều có một vẻ đẹp <i>“sắc sảo mặn mà”</i> cả tài lẫn sắc đạt tới
mức tuyệt vời.Cũng những từ ngữ, hình ảnh ước lệ tượng trưng, qua ngòi bút miêu tả
tài hoa của Ng Du, hình ảnh nàng Kiều hiện lên lộng lẫy, sắc nước hương trời đến
hoa phải <i>“ghen”,</i> liễu phải <i>“hờn”.</i>


Đôi mắt đẹp của nàng trong như nước mùa thu, lông mày xin xắn, tươi non như sắc
núi mùa xuân <i>“làn thu thuỷ, nét xuân sơn”.</i> Nếu như vẻ đẹp của Th Vân trời xanh
cịn có thể nhường nhịn, thì trước sắc đẹp của Thuý Kiều, thiên nhiên tạo hoá cũng
trở nên đố kị ghen ghét


<i>“ Kiều càng sắc sảo mặn mà,</i>


<i>So bề tài sắc lại là phần hơn</i>
<i>Làn thu thuỷ nét xuân sơn,</i>


<i>Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>“ Thông minh vốn sẳn tính trời</i>
<i>Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm</i>


<i>Cung thương lầu bậc ngũ âm</i>
<i>Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương”.</i>


Cả diện mạo bên ngoài và diên mạo tâm hồn cũng hé mở dần tính cách số phận của
nàng Kiều.



Rõ ràng, Ng.Du khi miêu tả sắc đẹp của nàng Kiều đã gửi gắm quan niệm <i>“Tài hoa </i>
<i>bạc mệnh”</i> vào đấy - dự báo trước cuộc đời, số phận long đong, lận đận, đầy bất
hạnh của nàng.


Sử dụng bút pháp miêu tả ước lệ tượng trưng của văn học cổ điển, với ngòi bút tài
hoa, chắt lọc, trau chuốt ngôn từ, Ng.Du đã khắc hoạ thật sinh động hai bức chân
dung Th.Vân và Th.Kiều, mỗi người một vẻ đẹp riêng, toát lên từ tính cách, từng số
phận riêng, khơng lẫn vào nhau, không thể phai nhạt trong tâm hồn người đọc. Đây
là thành công trong bút pháp nghệ thuật miêu tả người của Ng.Du. Đã hơn hai thế kỉ
rồi, với truyện Kiều và nghẹ thuật tả người đặc sắc, tinh tế của Ng.Du, đẫ là bậc thầy
làm rung động và sự cảm phục, trân trọng của bao thế hệ đối với đại thi hào dân tộc
Ng.Du.


Hãy phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” để thấy rằng: Nguyễn Du đã dựng
nên một bức tranh tâm tình đầy xúc động.


Sau khi tự nguyện bán mình để cứu cha, Kiều không ngờ phải rơi vào một tên cò
mồi Mã Giám Sinh và mụ chủ lầu xanh Tú Bà. Biết chưa ép được Kiều tiếp khách làng
chơi, Tú Bà bèn đưa Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thực ra, đây cũng chỉ là khoảnh khắc
tạm thời n thân để rồi sau đó, đời nàng bị xơ đẩy đi giữa bao mưu mô độc ác của
mụ Tú Bà mà nàng chưa lường hết được. Đoạn thơ trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”
đúng là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Nguyễn Du đã đặt nhân vật Thuý kiều
vào cảnh ngộ ấy để cho Kiều tự bộc lộ tâm trạng của mình.


Trong giờ phút mà bên ngồi tưởng như n tĩnh này thì chính trong lòng nàng Kiều
đang ngổn ngang, tăm tối. Tất cả những gì xảy ra trước đó lại được tái hiện, để rồi
chỉ còn lại cảm giác đau buồn, nhớ thương vơ hạn xốy sâu vào tâm can nàng.
Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng
trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô


tận, lác đác như “bụi hồng” nhỏ bé.


Cả một không gian mênh mông, hoang vắng khơng một bóng người, khơng một
tiếng chim, càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:


“Trước lầu Ngưng Bích khố xn
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông


Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”


Nàng cảm thấy buồn tủi, chán chường, cảnh thế nào lịng mình thế ấy: “Trống trải,
đơn cơi”:


“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya


Nữa tình nữa cảnh như chia tấm lòng”


Nàng tự đối thoại với lịng mình, biết tâm sự cùng ai nữa.


Trước hết, nàng nhớ tới Kim Trọng, nhớ đến những lới thề nguyền dưới ánh trăng
vằng vặc, nàng hình dung được nổi sầu muộn, chờ mong của chang và tự hứa với
lịng mình giữ trọn mối tình chung thuỷ.


Có lẻ lúc này, nàng thương chàng Kim vô hạn, bởi trước lúc chia li khơng nói với
nhau được một lời, nổi oan gia quá ư đột ngột:


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Bên trời góc bể bơ vơ


Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”



Với cha mẹ cũng vậy, mặc dầu nàng đã “liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xn”, cứu
được cha, em thốt khỏi vịng tù tội, nhưng lúc này nàng vẫn cảm thấy xót xa, cảm
thấy chưa xứng là phận làm con. Bởi lúc cha mẹ già yếu, mình khơng được chăm
sóc, khơng được hầu hạ:


“Xót người tựa của hơm mai


Quạt nồng ấm lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa


Có khi gốc tử đã vừa người ôm”


Buồn biết bao khi phải dấn thân vào nơi vô dịnh. Buồn biết bao khi phải mãi mãi xa
cách người yêu. Buồn biết bao khi có cha, mẹ mà khơng được phụng dưỡng sớm
hơm. Nổi buồn đó đang thức dậy trong lòng Thuý Kiều “Xuân xanh đang tuổi đến
tuần cập kê”-một cô thiếu nữ sắc, tài vẹn tồn, vốn đa tình, đa cảm. Một nổi buồn
mênh mơng như đè nặng, bao quang lấy nàng.


Nhìn vào đầu nàng cũng thấy buồn, cảnh vật dù có đổi thay nhưng nơi buồn của
nàng thì như cố định. Nàng cảm nhận được những gì sẽ đến với mình, đối với người
con gái họ Vương tài-sắc này như một định mệnh khơng sao thốt được!


Từ tâm trạng nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng cuối cùng nàng Kiều lại quay về
với chính cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính
mình.


Mỗi một cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều gợi lên trong tâm trí của nàng một
nét buồn. Và Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nổi buồn của mình. Nổi buồn sâu
sắc của Thuý Kiều được ngòi bút bậc thầy-Nguyễn Du mỗi lúc lại càng tô đậm thêm


bằng cách dùng điệp ngữ liên hồn rất độc đáo “Buồn trơng”


...”Buồn trông cửa bể chiều hôm”
...”Buồn trông ngọn nước mới sa”
...”Buồn trơng nội cỏ rầu rầu”
..”Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh”


Từng cảnh vật dưới con mắt của Kiều đều nhuộm một nổi buồn khó tả, cũng có trời
nước, nhưng mây trời thì nhàn nhạt, dịng nước thì mãi miết cuốn trơi những càng
hoa rơi. Cùng với gió, sóng nhưng là “gió cuốn”, “sóng xơ”....giữa cái mênh mông
của biển trời, lại vào


lúc hoang hôn buông xuống, nàng chỉ đủ sức để nhận ra một con thuyền, một cách
buồng thấp thống phía xa “Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”.


Mỗi cảnh vật như gợi một nổi buồn riêng trong mối dây liên tưởng với tâm trạng
buồn chán về cuộc đời, về số phận của mình.


Nếu như “Thuyền ai thấp thống” làm nàng chạnh nghĩ đến cuộc đời trôi nổi, bấp
bênh thì cảnh “nước chảy hoa trơi” lại gợi đến cảnh đời lưu lạc-một cuộc sống vơ
định, khơng cịn phương hướng “biết là về đâu”. Đến cái hướng cuối cùng thì nổi
buồn hầu như đã dâng lên tột đỉnh:


“Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh


Âm ầm tiếng sóng kêu quang ghế ngồi”


Tiếng sấm ầm ầm, dữ dội vây khắp bốn phía như muốn cuốn đi cái thân phận bé
nhỏ bất cứ lúc nào. Ta tưởng nàng có thể ngất lịm đi trong âm thanh khủng khiếp
đó. Phải chăng như Nguyễn Du đã viết: “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” . Qua


điệp khúc “Buồn trông....” của Kiều, ta cảm nhận được nổi đau đớn mà nàng phải trải
qua trong suốt quảng đời 15 năm lưu lạc, có lửa nồng, có “Thanh y hai lượt, thanh
lâu hai lần”-“Cười ra tiếng khóc -khóc trên trận cười”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

phần rất nhỏ trong kiệt tác đó. Nhưng đây là đoạn thơ được nhièu người biết đến và
quý trong nhất, vì cái tài lớn của nhà thơ, nhưng trước hết là vì cái tình lớn của nhà
thơ đối với nhân vật, đối với con người, đối với cuộc đời.


Phân tích tám câu thơ cuối của đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”


Kiều bị cấm cung ở lầu Ngưng Bích, nhưng thực chất là bị Tú Bà giam lỏng ở đấy,
dùng “Mưu ma chước quỷ” lừa gạt nàng, để buộc nàng phải ra tiếp khách ở lầu xanh.
Sau lưng nàng là những tai biến, đau đớn, nhục nhã, ê chề: gia đình bị mắc oan,
phải trao duyên cho Thuý Vân, bị Mã Giám Sinh giả danh cưới về làm lẽ và bị gã lừa
gạt, làm nhục ngay ở dọc đường, bị Tú Bà xỉ nhục và dở trò đánh đạp để ra uy. Từ
tâm trạng của mình, nhìn cảnh vật bên ngồi, do đó, những ghi nhận về cảnh là
những ghi nhận về tình. Vì mối quan hệ tình cảnh đó, người đọc càng hiểu sâu sắc
tâm trạng của Thuý Kiều trong đoạn trích này:


“Buồn trơng cửa bể chiều hơm


Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngon nước mới sa,


Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu


Chân mây mặt đất một mầu xanh xanh
Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh



Âm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”.


Mã Giám Sinh nói dối, mua Kiều về làm vợ lẽ. Kiều đã “thất thân” với Mã. Thật ra Mã
mua Kiều về cho mụ Tú Bà. Tú Bà khi biết hành vi của Mã đã nổi giận đùng đùng,
đánh đập Kiều, bắt Kiều tiếp khách. Phẫn uất khi bị lừa dối, bị hành hạ, Kiều quyết
định tự vẫn. Lo ngại vì vốn liếng có thể “thất thốt”...Tú Bà dùng thủ đoạn khun
nhủ, dỗ dành và hứa sẽ tìm một nơi xứng đáng cho nàng về sau, Tú Bà đưa Kiều về
lầu Ngưng Bích.


Sau những đau đớn ê chề, trong lẻ loi, Kiều ngóng đợi tin tức người tình “Tưởng
người dưới nguyệt chén đồng-tinh sương ...trông mai chờ”. Nàng nghĩ về cha mẹ tuổi
già bóng xế “Xót thương ...-quạt nồng ...đó giờ?”


Chính trong tâm trạng ngổn ngang nhiều nỗi đó, Kiều nhìn ra cái mênh mơng của
biển cả. Từ trong cảnh soi vào lịng mình hiện tại, Kiều gặp lại lịng mình:


“Buồn trơng cửa bể chiều hơm


Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa?”


Giữa cái mênh mông của trời biển, trong màu xanh xam xám của ban chiều, có
những cánh buồm lúc ẩn lúc hiện: chiếc thuyền ra khơi, chiếc thuyền hướng về đất
liền. Từ nội tâm đang đau khổ, Kiều như nhìn nhận “từ trong ai đó”,”Trong những
chiếc thuyền từ biển khơi”, trong tầm mắt xa khơi của cảnh và con người. Đang
trông vọng một nỗi hội tụ mà sao lại cách biệt, chia li làm vậy?


Lời thơ bình dị, những gì gợi lên trong âm hưởng của câu thơ - là nổi khắc khoải,
xoáy sâu vào lịng Kiều:


“Buồn trơng ngọn nước mới sa,


Hoa trôi man mác biết là về đâu?”


Trông ngọn nước đang cuồn cuộn chảy, nhiều cánh hoa trơi dạt. Có thật là cánh hoa
chăng? Không phải vậy! Người đọc cảm nhận được trong dòng nước đang cuồn cuộn
chảy kia “nhiều cánh hoa trơi dạt”. Cũng có thể là cánh hoa, cũng có thể là dịng
nước cuồn cuộn thiếu gì những bọt bèo trơi nổi. Trong cái mênh mơng vô định, cái
cảnh “ nước chảy, hoa trôi lỡ làng” ấy gắn hợp với thân phận con người bị ném vào
cảnh sống đầy biến động, đầy bất công và bạc ác - thân phận Thuý Kiều, chúng ta
mới hiểu được tâm trạng của nàng Kiều trong lúc này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

(như người đời thường quan niệm “đời hoa”)


Nhiều lần Kiều cũng tự ví mình “Hoa trơi, bèo dạt đã đành. Biết duyên mình, biết
phận mình thế thơi”


Buồn bã, Kiều lại nhìn vào đồng nội:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu


Chân mây, mặt đất một màu xanh xanh.


Màu mây, màu cỏ nhạt hoà vào với nhau thành một màu “xanh xanh” khó phân
biệt. Mà làm sao phân biệt được “màu trời, sắc mây” trong cảnh chiều tà, giữa cái
mênh mông, bát ngát trong lúc tâm hồn còn nhiều ngổn ngang như thế. Và cuối
cùng:


“Buồn trơng gió cuốn mặt duềnh


Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”


Trong câu thơ, đọc lên, ta nghe có “tiếng gió” và “tiếng sóng biển” đang “ầm ầm”


kêu quanh ... nàng Kiều như đang ở trong tâm trạng lo lắng, hoảng sợ tưởng như
không ngồi trên đất liền nữa mà như đang ngồi giữa biển khơi, bốn phía “ầm ầm
tiếng sóng”. Tiếng sóng ở đây, trong câu thơ khơng phải là âm thanh của tiếng sóng
bình thường: sóng vỗ, sóng xơ, sóng dào dạt, ... mà “tiếng sóng kêu” ầm ầm tứ
phía, ngầm dự báo cơn sóng gió, bão táp của cuộc đời thật dữ dội sẽ ập đến với Thuý
Kiều, với đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đang chờ đợi nàng.


Đoạn thơ này hay không những vì đã khái quát được tâm trạng của nàng Kiều khi ở
lầu Ngưng Bích mà cịn mở ra những điều dự báo về sau của cuộc đời Kiều.


Những dự báo mơ hồ của tâm linh không lâu đã đến với Kiều. Tám câu thơ cuối của
đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” càng khẳng định ngịi bút tài hoa của Nguyễn Du
trong bút pháp tả cảnh, tả nội tâm nhân vật tài tình, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu
lắng trong lòng người đọc xưa và nay, thấm đãm tinh thần nhân đạo sâu sắc.
Phân tích đoạn thơ trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.


(Ngữ văn 9 - tập I)


Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim Trọng thì
bất ngờ gia đình Kiều bị vu oan, giáng hoạ. Khơng đành lịng để cho gia đình tan nát,
Thuý Kiều đau đớn trao duyên cho Thuý Vân, tự nguyện bán mình để lấy tiền cứu
cha và em trai. Lợi dụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh “vốn là một đứa
phong tình đã quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp nhưng thực sự là hắn mua
Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ Tú Bà ở Lâm Tri. Đoạn trích này miêu tả
màn kịch mua bán, qua đó “lột mặt nạ” của Mã Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê
chề, mở đầu cho đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đầy cay đắng của nàng Kiều.
Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét của nhà thơ, Nguyễn Du đã lột
tả bộ mặt bỉ ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn kịch này,
Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “lễ vấn danh”,
xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người viễn khách”


mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến tên quán. Và ngòi bút thần tình của Nguyễn Du cứ
mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung của Mã Giám Sinh và cái bản chất con buôn
ghê tởm của hắn:


“Quá niên trạc ngoại tứ tuần


Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Trước thầy, sau tớ xôn xao


Nhà băng đưa mối, rước vào lầu trong”...
...“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

và cái cử chỉ “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” đã làm rơi cái mặt nạ sinh viên, phơi bày
chân tướng của một tên vô học, thô lỗ của hắn.


Nguyễn Du cứ “khách quan” miêu tả cảnh mua bán vậy mà cái bản chất thật của Mã
Giám Sinh vẫn bị lột trần, phơi bày bằng hết. Dẫu được khéo léo che đậy bằng mọi
thứ mánh lới xảo quyệt nhưng diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ của
hắn vẫn tự tố cáo bản chất đích thực của một tên “bn thịt bán người” đê tiện.
Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng chỉ là một
món hàng rồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân tài”, hắn “ép”,
hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ kiểu hệt như người ta
mua bán một món hàng. Khi đã hồn tồn vừa ý, bản chất con bn của hắn vẫn
cịn lộ ra ở cái thái độ “tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản chất đó cịn được che đậy
bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:


“ Rằng mua ngọc đến Lam Kiều


Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”



Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:
“Cò kè bớt một, thêm hai


Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”


Với sự mặc cả “cò kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ thực chất là
một cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám Sinh hiện ngun
hình là một tên con bn ghê tởm và đê tiện nhất.


Trong đoạn trích này, hình ảnh Thuý kiều hiện ra với tất cả những buồn khổ, xót xa,
ê chề, tủi hổ. Là một cơ gái tài sắc vẹn toàn, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng
rủ, màn che, tường đong ong bướm đi về mặc ai”, lại đang ngây ngất trong hạnh
phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai hoạ ập đến, Kiều trở thành một
món hàng cho bọn “bn thịt, bán người” trao tay mua bán, cị kè, mặc cả. Tâm hồn
nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy,
vừa đau đớn, nhục nhã của mình:


“ Nỗi mình thêm tức nỗi nhà


Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dợn gió, e sương,


Ngừng hoa bỗng thẹn, trông gương mặt dày”.


Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia đình (nỗi
nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra trước sương
gió, cho nên “ dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa rụng. Và vì tự ví
mình với hoa nên thẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy khơng xứng với hoa. Đó là
cái đạo đức thầm kín của Kiều. Trong khi đó mụ mối cứ giới thiệu Kiều như một món
hàng, một đồ vật: “vén tóc, bắt tay” cho khách xem. Bắt nàng làm thơ, đánh đàn


cho khách thấy. Cịn Kiều thì “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”.


Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và theo đòi hỏi,
nài ép của Mã Giám Sinh, Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn , làm thơ như một “cái
máy”. Bán mình để chuộc cha, cứu em là hành động tự nguyện của nàng nên nàng
chịu đựng và cam chịu tất cả. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, nàng Kiều hiện lên với
sự im lặng tuyệt đối mà vẫn không sao dấu được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề
bởi nàng là người ln có ý thức về nhân phẩm mà lại bị chà đạp lên nhân phẩm một
cách nhục nhã. Kiều đau uất trước cảnh đời ngang trái, đau khi nghĩ tới”nỗi mình” -
tình duyên dang dở, uất bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng hoạ”, Bao trùm lên tâm trạng
của Kiều là sự đau đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”!


Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là cảnh “cành
hoa đem bán cho thuyến lái buôn”


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

ngay từ buổi đầu của đoạn đời lưu lạc đầy bất hạnh của nàng.


Phân tích nghệ thuật miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại nhằm
khắc hoạ tính cách nhân vật Thuý Kiều, Hoạn Thư trong đoạn trích “Thuý Kiều báo
ân, báo ốn” (Trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du)


Trải qua “hết hạn nọ đến hạn kia”, Kiều đã nếm đủ hết mọi điều cay đắng, tưởng
rằng nàng sẽ buông xuôi trước số phận “biết thân chạy chẳng khỏi trời - cũng liều
mặt phấn cho rồi ngày xanh”. Chính lúc kiều đang vơ vọng thì Từ Hải xuất hiện. Kiều
găph Từ Hải- một bước ngoặt quan trọng đã mở ra trên hành trình số phận của người
con gái họ Vương. Người anh hùng “đội trời, đạp đất” chẳng những cứu Kiều thoát
khỏi cuộc sống ở lầu xanh mà còn đưa nàng từ thân phận “con ong, cái kiến” bước
lên địa vị một quan toà cầm cán cân cơng lý “ơn đền, ốn trả”. Đoạn trích “Thuý Kiều
báo ân, báo oán” miêu tả cảnh thuý Kiều đền ơn những người đã cưu mang, giúp đỡ
nàng đồng thời trừng trị những kẻ bất nhân, tàn ác.



Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du có khi được thể hiện qua bút pháp
ước lệ miêu tả ngoại hình (đoạn trích “chị em Th Kiều”) , có khi được thể hiện qua
ngơn ngữ độc thoại, qua bút pháp tả cảnh ngụ tình để miêu tả tâm trạng (đoạn trích
“Kiều ở lầu Ngưng Bích”). Trong đoạn trích “Th Kiều báo ân, báo ốn”, nghệ thuật
miêu tả nhân vật được thể hiện qua ngôn ngữ đối thoại để làm nổi rõ tính cách nhân
vật Thuý Kiều, Hoạn Thư.


Trước hết, nhà thơ miêu tả cảnh Thuý Kiều trả ơn Thúc Sinh trong mười hai câu thơ
đầu “cho gươm mời đến Thúc lang .... mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa”.


Thúc Sinh được mời tới trong cảnh oai nghiêm của nơi Kiều xử án:
“Cho gươm mời đến Thúc lang


Mặt như chàm đổ mình dường dẽ run”.


Trước những “gươm lớn, giáo dài”, chàng thúc hoảng sợ đến mức “mặt như chàm
đổ”, người run lên như đi khơng vững. Hình ảnh tội nghiệp này hồn tồn phù hợp
với tính cách có phần nhu nhược của Thúc Sinh. Hình ảnh tội nghiệp của Thúc Sinh
làm cho nàng Kiều động lòng trắc ẩn và họ tạo nên sự bất ngờ trong việc trả ơn, báo
ốn tiếp theo. Qua lời nói của Kiều “nghĩa nặng nghìn non”, “sâm thương chẳng vẹn
chữ tòng, tại ai há dám phụ lòng cố nhân” ... , có thể nói rằng nàng rất trọng tấm
lòng và giúp đỡ mà Thúc Sinh dành cho nàng trong cơn hoạn nạn.


Thúc Sinh đưa Kiều ra khỏi lầu xanh, cứu nàng thốt khỏi cảnh đời ơ nhục. Cùng với
chàng thúc, Kiều có những tháng ngày êm ấm trong cuộc sống gia đình. Nàng gọi đó
là “nghĩa nặng nghìn non”. Trong hình thức của cách nói văn chương, sách vở là tấm
lòng biết ơn chân thật của Kiều. “Lâm Tri người cũ chàng cịn nhớ khơng?”. Hai chữ
“người cũ”, tiếng việt mang sắc thái thân mật, gần gũi.



Vì gắn bó với Thúc Sinh mà đời kiều thêm một lần khổ với thân phận làm lẽ đau đớn
hơn một kẻ tơi địi. Tuy nhiên Kiều hiểu nỗi đau khổ của nàng không phải do Thúc
Sinh gây ra mà thủ phạm là Hoạn Thư. Thuý Kiều hiểu hoàn cảnh của Thúc Sinh: “tại
ai há dám phụ lịng cố nhân?”. Với Kiều thì dù có “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”
cũng chưa xứng với ân nghĩa của Thúc Sinh. Tấm lịng ”nghĩa nặng nghìn non” thì
gấm vóc, bạc vàng nào có thể cân cho được?


Khi nói với Thúc Sinh, Kiều dùng những từ Hán - Việt “nghĩa tòng”, “cố nhân”, ...
tiễn cố “sâm thương”. Cách nói trang trọng này phù hợp với chàng thư sinh họ Thúc,
đồng thời diễn tả được tấm lòng biết ơn trân trọng của nàng Kiều.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

hiểu. Hành động trừng phạt cái ác theo quan điểm của nhân dân phải được diễn đạt
bằng lời ăn, tiếng nói của nhân dân.


Đoạn thơ sau, cịn lại trong đoạn trích là cuộc đối đáp giữa Kiều và Hoạn Thư trong
cảnh báo ốn “thoắt trơng nàng đã chào thưa ... truyền quân lệnh xuống trướng tiền
tha ngay”. Hành động và lời nói của Kiều biểu thị thái độ mỉa mai đối với Hoạn Thư.
Nàng vẫn dùng cách xưng hơ như hồi cịn làm hoa nô cho nhà họ Hoạn, vẫn một điều
“chào thưa”, hai điều “tiểu thư”. Cách xưng hơ này trong hồn cảnh giữa Kiều và
Hoạn Thư đã có sự thay bậc, đổi ngơi là một địn mỉa mai quất mạnh vào danh gia
họ Hoạn. Trong lời nói của Kiều có cả giọng đay nghiến, câu thơ như dằn ra từng
tiếng; từ ngữ được lặp lại, nhấn mạnh: (dễ có, dễ dàng, mấy tay, mấy mặt, mấy
gan, đời xưa, đời nay, càng cay nghiệt, càng oan trái, ... ) cách nói này hồn tồn
phù hợp với dối tượng Hoạn Thư, phù hợp với con người “bề ngoài thơn thớt nói cười
- bề trong nham hiểm giết người không dao”. Giọng điệu mỉa mai, đay nghiến của
Kiều cho thấy nàng quyết trừng trị Hoạn Thư theo đúng quan niệm “mưu sâu cũng
trả nghĩa sâu cho vừa”.


Trong lời nói, thái độ của Kiều, phút giây đầu Hoạn Thư có “hồn lạc phách xiêu”
nhưng ngay trong hoàn cảnh ấy, Hoạn Thư vẫn kịp “liệu điều kêu ca”. đây quả là con


người khôn ngoan, giảo hoạt. Lời “kêu ca” của Hoạn Thư thực chất là cách lí giải để
gỡ tội cho mình.


Trước hết, Hoạn Thư dựa vào tâm lí thường tình của người phụ nữ để gỡ tội “rằng tôi
chút phận đàn bà - ghen tng thì cũng người ta thường tình”. Lí lẽ này đã xố đi sự
đối lập giữa Kiều và Hồn Thư, đưa Kiều từ vị thế đối lập trở thành người đồng cảnh,
cùng chung “chút phận đàn bà”. Nếu Hoạn Thư có tội thì cũng là do tâm lí chung của
giới nữ. “chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Từ tội nhân, Hoạn Thư đã biện bạch
để mình trở thành nạn nhân của chế độ đa thê. Tiếp đến, Hoạn Thư kể lại “công” đã
cho Kiều ra viết kinh ở gác Quan Âm và không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà
Hoạn Thư:


“Nghĩ cho khi gác viết kinh


Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”.


Cuối cùng, Hoạn Thư nhận tất cả tội lỗi về mình, chỉ cịn biết trơng cậy vào tấm lòng
khoan dung, độ lượng rộng lớn như trời biển của Kiều “còn nhờ lượng bể thương bài
nào chăng”.


Trước những lời kêu ca của Hoạn Thư, Kiều đã phải thừa nhận đây là con người
“khôn ngoan đến mực nói năng phải lời”. Hoạn Thư đã đưa Kiều tới chỗ khó xử “tha
ra thì cũng may đời - làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen”. Nàng có răn đe Hoạn Thư
nhưng rồi lại khoan dung độ lượng “đã lịng tri q thì nên”. Hoạn Thư đã biết lỗi, đã
xin tha thì Kiều cũng cư xử theo quan điểm triết lý dân gian “đánh người chạy đi chứ
không đánh người chạy lại”!


Qua cách lí lẽ để gỡ tội, có thể thấy Hoạn Thư “sâu sắc nước đời” đến “quỷ quái tinh
ma”. Tuy nhiên, việc Hoạn Thư được tha bổng khơng hồn toàn phụ thuộc vào sự “tự
bào chữa” mà chủ yếu là do tấm lòng độ lượng của Kiều.



Đoạn “Thuý Kiều báo ân, báo oán” một lần nữa đã làm ngời lên tấm lòng vị tha,
nhân hậu của người con gái họ Vương. Từ thân phận con người bị áp bức, đau khổ,
Thuý kiều đã trở thành vị quan tồ cầm cán cân cơng lý. Đoạn trích này là sự phản
ánh khát vọng, ước mơ công lý chính nghĩa của thời đại Nguyễn Du. Đó cũng chính là
ước mơ cơng lý chính nghĩa theo quan điểm của quần chúng nhân dân: những con
người bị áp bức, đau khổ vùng lên địi sự cơng bằng cho chính họ - “ở hiến gặp lành,
ở ác gặp ác”.


<b>Nghệ Thuật Tả Cảnh của Thi Hào Nguyễn Du trong Truyện Kiều</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

tâm lý và văn chương.


Truyện Kiều vì thế đã trở thành quyển truyện thơ phổ thông nhất nước ta: từ các bậc cao sang
quyền quý , trí thức khoa bảng , văn nhân thi sĩ , cho đến những người bình dân ít học , ai cũng
biết đến truyện Kiều , thích đọc truyện Kiều , ngâm Kiều và thậm chí bói Kiều.


Giá trị tuyệt hảo của truyện Kiều là một điều khẳng định mà trong đó giá trị văn chương lại giữ
một địa vị rất cao. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin được bàn đến nghệ thuật tả cảnh của
thi hào Nguyễn Du trong tác phẩm Đoạn Trường Tân Thanh hay Truyện Kiều ..


Nghệ thuật tả cảnh của ï Nguyễn Du nói chung rất đa dạng , tài tình và phong phú. Chính Nghệ
thuật tả cảnh này đã làm tăng rất nhiều thi vị và giá trị cho truyện Kiều.


Lối tả cảnh diễm tình .


Đây là lối tả cảnh mang tính cách chủ quan , man mác khắp trong truyện Kiều . Cảnh vật bao
giờ cũng bao hàm một nỗi niềm tâm sự của nhân vật chính hoặc phụ ẩn chứa trong đó.Nói một
cách khác , Nguyễn Du tả cảnh mà thâm ý luôn luôn đem cái cảm xúc của người đối cảnh cho
chi phối lên cảnh vật. Điều này khiến cho cảnh vật trở thành linh hoạt như có một tâm hồn hay


một nỗi xúc cảm riêng tư nào đó. Chính Nguyễn Du đã tự thú nhận sự chủ quan của mình trong
lúc tả cảnh qua hai câu thơ:


“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”


Trong khuynh hướng này , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du vượt khác hẳn các thi nhân khác ,
kể cả những thi sĩ Tây Phương , vốn rất thiện nghệ trong lối tả cảnh ngụ tình . Trong khi các thi sĩ
này chỉ đi một chiều , nghĩa là chỉ tìm những cảnh vật nào phù hợp với tâm trạng của con người
thì mới ghi vào , cịn ï Nguyễn Du thì vừa đưa cảnh đến tâm hồn con người, lại đồng thời vừa
đưa tâm hồn đến với cảnh , tạo nên một sự giao hòa tuyệt vời hai chiều giữa cảnh và người ,
giữa cái vô tri và cái tâm thức để tuy hai mà một, tuy một mà hai..


Ví dụ như khi chị em Kiều đi lễ Thanh Minh về , tới bên chiếc cầu bắc ngang một dịng sơng nhỏ
gần mả Đạm Tiên , thì cả người lẫn cảnh đếu cảm thấy nao nao tấc dạ trong buổi chiều tà :
“Nao nao dòng nước uốn quanh


Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang”


“Nao nao” chỉ tâm sự con người, nhưng cũng chỉ sự ngập ngừng lãng đãng của dịng nước trơi
dưới chân cầu.


Hình ảnh một mảnh trăng khuyết soi nghiêng nhìn Kim Trọng khi chàng nửa tỉnh nửa mê, chập
chờn với hình ảnh Kiều sau lần gặp gỡ đầu tiên:


‘Chênh chênh bóng Nguyệt xế mành
Tựa ngồi bên triện một mình thiu thiu”


Chàng biếng nhác cả việc sách đèn , để phòng đọc sách lạnh tanh với tiếng gió quạnh hiu phập
phồng qua màn cửa :



Buồng văn hơi giá như đồng


Trúc se ngọn thỏ tơ chùng phím loan
Mành Tương phất phất gió đàn


Hương gây mùi nhớ trà khan giọng tình.


Rồi những giờ phút thề ước ba sinh đã qua, khi phải tạm xa nhau thì dịng sơng kia bỗng sao trở
thành kẻ khắt khe để chia rẽ dun tình:


Sơng Tương một giải nông sờ
Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia


Một đoạn tả cảnh khác , tình người ẩn sâu trong cảnh vật . Đó là cảnh Kim Trọng sau khi hộ
tang cha , về tìm lại Kiều nơi vườn Lãm Thúy, nhưng người xưa nay còn thấy đâu , chỉ còn cảnh
vườn hoang cỏ dại lạnh lùng dưới ánh trăng.


Đầy vườn cỏ mọc lau thưa


Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời


Lần thứ hai , Kim Trọng tìm về nhà Vương Viên Ngoại để hỏi thăm Kiều thì cảnh nhà bây giờ
thật sa sút , sân ngoài cỏ hoang mocï dại, ướt dầm dưới cơn mưa , tiêu điều như nỗi buồn tênh
trong lòng chàng:


Một sân đất cỏ dầm mưa


Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn dường



</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

Buồn trông cửa biển chiều hôm


Thuyền ai thấp thống cánh buồm xa xa
Buồn trơng ngọn nước mới sa,


Hoa trôi man mác biết là về đâu?


Lúc Kiều theo Mã Giám Sinh về Lâm Tri , thì lòng nàng cũng chẳng thực sự là vui mà buồn hiu
hắt như hàng lau bên vệ đường:


Gió chiều như gợi cơn sầu
Vi lô hiu hắt như màu khơi trêu


Và khi theo Sở Khanh để trốn Tú Bà , thì cảnh một đêm thu có trăng sáng , nhưng cũng lạnh
lùng cũng chẳng khác chi tâm sự rối bời của Kiều :


Lối mòn cỏ nhạt màu sương


Lòng quê đi một bước đường một đau


Lúc thất vọng não nề , muốn gieo mình xng sông Tiền Đường cho rũ nợ trần, tâm sự Kiều
cũng như mảnh trăng sắp tàn , chẳng còn chút gì lưu luyến nơi thế gian:


Mảnh trăng đã gác non đồi


Một mình luống những đứng ngồi chưa xong
Lối tả chân.


Ngồi lối tả cảnh diễm ï tình, Nguyễn Du còn điểm trang cho truyện Kiều bằng nhiều bức tranh
tả chân, tả rất thực, và thuần túy là những họa xinh đẹp, khơng ngụ tình. Những bức tranh bằng


thơ có khi tươi tắn, có khi sầu mộng được viết theo lối văn tinh xảo .Chỉ cần một vài nét phác họa
với những điểm chính hiện hữu .


Đây là cảnh một túp lều tranh bên sông vắng lúc hồng hơn , vừa giản dị , mộc mạc nhưng cũng
rất nên thơ:


Đánh tranh chụm nóc thảo đường
Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.


Hoặc chỉ một vài nét chấm phá mà người đọc đã hình dung ra cảnh một mái tranh nghèo rách
nát tơi tả theo tháng ngày:


Nhà tranh vách đất tả tơi


Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa


Hoặc bức tranh sơn thủy của một khung trời chiều long lanh phản chiếu trên mặt sông êm ả :
Long lanh đáy nước in trời


Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng


Hay bóng liễu rủ bên cầu và thướt tha soi bóng trên sơng tạo nên một khung cảnh đẹp mộng thơ
:


Dưới cầu nước chảy trong veo
Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha


Khi chị em kiều đi viếng mộ Đạm Tiên, thì cảnh vật cũng theo đó đìu hiu ảm đạm : cơn gió đìu
hiu lay động một vài cành lau trên vùng cỏ mờ nhạt theo sương chiều :



Một vùng cỏ áy bóng tà


Gió hiu hiu thổi một vài bơng lau.


Cảnh thanh tịnh của ngôi chùa Giác Duyên nơi Kiều đã được cứu vớt , mà đường tới thì quanh
co theo giải sơng ,có khu rừng lau như cách biệt với cuộc sống rộn rã bên ngoài :


Quanh co theo giải giang tân


Khỏi rừng lau đã tới sân Phật Đường


Nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du tuyệt vời đến nỗi Giáo sư Nghiêm Toản đã có nhận định như
sau: “trong Đoạn Trường tân thanh, ln ln có những bức tranh nho nhỏ như những hạt kim
cương rải rác đính trên một tấm thêu nhung” ( Việt Nam văn Học Sử Trích Yếu)


Hãy xem cảnh bóng trăng chênh chếch soi mình trên sóng nước , đẹp lãng đãng như nỗi tưởng
nhớ miên man của Kiều về Kim Trọng sau buổi gặp gỡ lần đầu. Chỉ vài nét đon sơ giữa trăng ,
nước và sân nhà đã đủ diễn tả một khung cảnh tuyệt nhã đẹp như một bức tranh :


Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước , cây ***g bóng sân
Lối tả cảnh tượng trưng:


Nguyễn Du cũng rất nhiều khi phô diễn lối tả cảnh tượng trưng, nghĩa là chỉ dùng một vài nét
chấm phá, thành một nghệ thuật đã đạt đến mức uyển chuyển và tinh tế .


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Vi lô san sát hơi may


Một trời thu để riêng ai lạnh lùng



Đó là một cảnh một rừng vi lơ trong mùa thu xám có gió heo may, lành lạnh. Lối tả cảnh này có
thể Nguyễn Du chỉ viết theo nghệ thuật cảm quan của mình chứ khơng hề nghĩ rằng mình đang
tạo ra một lối vẽ cảnh một cách tượng trưng bằng những vần thơ . Mãi đến hơn một thế kỷ sau
,tức vào thế kỷ 19 , lối tả cảnh tượng trưng nay mới phát triển thật mau tại Pháp mà các nhà
phân tích văn học gọi là “Symbolists”. Đó là sự nhận định của Giáo sư Hà Như Chi.


Nên để ý nghệ thuật của Nguyễn Du là mang cái gì rộng lớn mênh mông , để rồi đem vào hàm
chứa trong một cái gì nhỏ bé ( luận giải của Giáo Sư Hà Như Chi trong Việt Nam Thi Văn Giảng
Luận ) . Trong hai câu thơ trên, “một trời thu”mang một ý niệm không gian rộng lớn bao la , trong
khi bốn chữ “ riêng ai một mình”lại chỉ một phạm vi nhỏ bé , một tâm tình đơn lẻ cá nhân.


Một vài câu thơ khác cũng mang cùng một khuynh hướng như :
Hiên tà gác bóng nghiêng nghiêng


Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình


Đó là cảnh mặt trời chiều bâng khng nghiêng mình soi bóng trước mái hiên nhà để rồi chuyển
sang , ẩn vào tâm tư riêng của một cõi lòng Kiều cô đơn. ( Cần chú ý thêm là cách dùng điệp
ngữ một cách tài tình khéo léo của Nguyễn Du , với chữ “ nghiêng và “riêng”được lập đi lập lại
nhiều lần mà vẫn cảm thấy hay .)


Có khi Nguyễn Du lại dùng một lối tả cảnh tượng trưng ngược lại , nghĩa là đem tấc lòng nhỏ bé
của con người cho tỏa rộng bay hòa vào cái rộng lớn của trời đất.


Hãy xem cảnh Kiều và Thúc Sinh chia tay nhau:
Người lên ngựa kẻ chia bào


Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san.


Đó là sự phân ly buồn bã tuy chỉ giữa hai người , nhưng đã làm ảm đạm cả một vùng cảnh vật


chung quanh.


Hay cảnh Kiều thất vọng cuộc đời , mở cửa phòng nhỏ bé để gieo mình xuống dịng bao la của
sơng Tiền Đường :


Cửa bồng vội mở rèm châu


Trời cao sơng rộng một màu bao la.


Nói về nghệ thuật tả cảnh tượng trưng này, giáo sư Dương Quảng Hàm đã viết: “ tả cảnh thì
theo lối phác họa mà cảnh nào cũng linh hoạt.”


Lối tả cảnh dùng màu sắc.


Nghệ thuật tả cảnh bằng thơ của Nguyễn Du cũng dùng rất nhiều màu sắc như bức tranh của
một người họa sĩ. Trước tiên phải là ánh sáng , một yếu tố cơ bản, rồi sau đó mới tới các màu
sắc với sự c pha chế sao cho làm nổi được cảnh chính và cảnh phụ .


Hãy xem một cảnh Xuân tươi mát trên đồng quê qua ngòi bút tả cảnh đầy màu sắc của Nguyễn
Du:


Cỏ non xanh tận chân trời


Cành lê trắng điểm một vài bông hoa


Thật là một bức tranh màu sắc thanh nhã tuyệt hảo: trên thảm cỏ xanh mướt bao la, nổi những
bông hoa lê trắng tinh . Chỉ có hai màu xanh và trắng như nỗi thanh khiết của tâm hồn chị em
Kiều đi dự lễ Thanh Minh . Ở đây cũng cần để ý tới lối đảo chữ tài tình của Nguyễn Du. Thay vì “
cành lê điểm một vài bơng hoa trắng” thì Nguyễn Du đã viết:”cành lê trắng điểm một vài bơng
hoa” . Tất nhiên có thể Nguyễn Du đã phải đảo chữ chỉ vì tơn trọng luật “bằng trắc” của thơ lục


bát , nhưng cũng phải công nhận đó là một lối đảo chữ tài tình mà không phải ai cũng làm được .
Cũng một cảnh cỏ xanh nữa , nhưng lần này là màu xanh thẫm soi mình cạnh màu nước trong:
Một vùng cỏ mọc xanh rì


Nước ngâm trong vắt thấy gì nữa đâu.


Hay cảnh lung linh ánh nước soi chiếu mây vàng của hồng hơn:
Long lanh đáy nước in trời


Thành xây khói biếc non phơi ánh vàng.


Một cảnh khác mà màu sắc lại buồn ảm đạm , chỉ có màu nâu của đất , màu xanh vàng của cỏ
úa chen chân bên cái thấp lè tè của gò đất mả Đạm Tiên:


Sè sè nắm đất bên đường


Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

hôn ,của cây cỏ , của trăng và của nước là những màu sắc thi vị, nhưng lại gieo ấn tượng cho
một nỗi buồn xa xăm , cũng chỉ vì truyện Kiều mang bản chất nhiều nỗi buồn hơn vui.


Giáo sư Hà Như Chi dẵ nhận định về lối dùng màu sắc của cụ Nguyễn Du như sau :” Nguyễn
Du khi tả ánh sáng không những chỉ trực tiếp mô tả ánh sáng ấy , mà lại còn tả một cách gián
tiếp , cho ta thấy sự phản chiếu trên ngọn cỏ , lá cây mặt nước,đỉnh núi ..”(Việt NamThiVăn
Giảng Luận)


Đúng như thế, hãy xem cảnh khu vườn với hoa lựu nở đỏ như ánh lửa lập lòe trong mùa hạ , khi
mùa nắng đã được đón chào bởi tiếng quyên ca lúc khởi một đêm trăng :


Dưới trăng quyên đã gọi hè



Đầu tường lửa lựu lập lịe đâm bơng


Lối dùng chữ trang nhã và bình dân trong tả cảnh.


Nguyễn Du là một thi nhân thuộc dòng dõi quan quyền phú quý , nhưng gặp phải cảnh loạn lạc
đổi chúa thay ngôi giữa nhà Lê và nhà Nguyễn , đã phải về quê cũ ở Huyện Tiên Điền để ẩn cư.
Cụ đã trải qua những ngày sống trong phú quý và những ngày sống thanh đạm nơi thôn dã , nên
trong tâm hồn đã thu nhập được hai cảnh sống . Cụ đã hài hòa kết hợp được hai cảnh sống đó ,
nên trong lãnh vực văn chương tả cảnh trong truyện Kiều , cụ có khi dùng những chữ thật trang
nhã quý phái , có khi lại dùng những chữ thật giản dị bình dân.


Những chữ dùng trang nhã quý phái đă được kể nhiều qua những câu thơ ở trên, thiết tưởng
chẳng cần lậïp lại. Bây giờ chúng ta hãy xem những chữ rất bình dân mà Nguyễn Du dùng trong
lúc tả cảnh.


Ví dụ chị em Kiều du Xuân ra về thì trời vừa ngả bóng hồng hơn , Nguyễn Du dùng hai chữ “tà
tà “ chỉ một hành động chậm rãi, có thể là chị em Kiều thong thả bước chân ra về, mà cũng có
thể chỉ sự xuống chầm chậm của mặt trời chiều:


Tà tà bóng ngả về tây


Chị em thơ thẩn dan tay ra về.


Thế rồi gặp cảnh mả Đạm Tiên đắp vội , chỉ còn một nắm đất thấp “ sè sè “ bên đường, chen lẫn
vài ngọn cỏ úa :


Sè sè nắm đấ bên đường


Rầu rầu ngon cỏ nửa vàng nửa xanh.



Rồi ngọn gió gọi hồn “ ào ào “ thổi tới như muốn nhắn nhủ điều chi :
Ào ào đổ lộc rung cây


Ở trong dường có hương bay ít nhiều.


Hay cảnh vườn Thúy khi Kim Trọng trở lại tìm Kiều mà khơng thấy nàng , chỉ thấy cánh én xập
xè bay liệng trên mặt đất hoang phủ đầy rêu phong:


Xập xè én liệng lầu không


Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giầy .


Và đêm xuống ánh trăng soi “ quạnh quẽ “ lẻ loi nơi vườn vắng, tri âm chỉ còn là những cọng cỏ
dại mọc lưa thưa:


Đầy vườn cỏ mọc lau thưa


Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời


Chính vì Nguyễn Du đã kết hợp được cả hai lối hành văn bác học và bình dân một cách tài tình
nên truyện Kiều đã được tất cả mọi giai tầng trong xã hội đón nhận thưởng thức một cách nhiệt
thành. Những chữ mộc mạc bình dân đã chứng tỏ một bước tiến của nền văn chương Việt Nam
trên con đường xa dần ảnh hưởng của chữ Hán chữ nôm mà ï Nguyễn Du đã tiên phong dấn
bước.


6. Lối dùng điển tích trong tả cảnh .


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Riêng trong lãnh vực tả cảnh là chủ điểm của bài này, chúng ta khơng gặp nhiều điển tích cho
lắm . Nhưng cũng xin đan cử vài ví dụ.



Chẳng hạn như đoạn tả cảnh Kiều nhớ Kim Trọng bên dòng nước trong xanh phản chiếu ánh
trăng ngà :


“ Gương nga chênh chếch dòm song
Vàng gieo ngấn nước cây ***g bóng sân ”


“Gương Nga”chỉ mặt trăng , do tích Hằng Nga , mỹ nhân , vợ của Hậu Nghệ , đánh cắp và uống
hết thuốc tiên mà Hậu Nghệ xin được của bà Tây Vương Mẫu . Hằng Nga hóa tiên và bay lên
mặt trăng . Từ đó người ta thường gọi mặt trăng là Gương Nga hay chị Hằng , chị Nguyệt .
Hai câu thơ khác :


Sông Tần một giải xanh xanh


Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương QuanSông Tần lấy từ câu “ dao vọng Tần Xuyên, can trường
đoạn tuyệt” ý nói ở xa nhìn nước sơng Tần như nát gan xé ruột . Dương Quan là tên một cửa ải
xa ở phía tây nam tỉnh Cam Túc. Cả hai điển tích trên đều mang ý nghĩa một sự nhớ nhung khi
xa cách. Đó là lúc Thúy Kiều tiễn đưa Thúc Sinh trở về thăm vợ cũ là Hoạn Thư.


Hay:


Trước lầu Ngưng Bích khóa xn
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung


Chữ Khóa Xn lấy từ điển tích Châu Du bị gió đơng cản việc phóng hỏa đốt trại Xích Bích , nên
Đài Đồng Tước khơng bị cháy , nhưng chính vì đó mà đã khóa chặt tuổi xuân hai chị em tên Đại
Kiều và Tiểu Kiều ,một người vợ Tôn Sách và một người vợ Châu Du..


Đông phong bất dữ Chu lang tiện,
Đồng Tước xuân thâm tỏa nhị Kiều .



Hai câu thơ trên ngụ ý tả cảnh lầu Ngưng Bích như là nơi đã khóa kín tuổi xn của Thúy Kiều.
Một đoạn khác khi Kim Trong trở về vườn Thúy để tìm Kiều , nhưng nàng đã khơng cịn ở đó,
chỉ cịn ngàn cánh hoa đào hồng thắm đang cười như tiễn biệt gió đơng:


Trước sau nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngối cịn cười gió đơng


Hai câu này lấy từ điển tích nho sinh Thôi Hộ đời nhà Đường , trở về Đào Hoa Trang để thăm
người con gái năm xưa đã dâng cho chàng nước uống trong lúc dự hội Đạp Thanh. Nhưng
người đẹp đã vắng bóng dù cảnh cũ vẫn cịn đấy, chìm ngập trong ngàn cánh hoa đào phe phẩy
dưới nắng xuân . Thôi Hộ đã viêt hai câu thơ nguyên văn văn :


Nhan diện bất tri hà xứ khứ ,
Đào hoa y cựu tiếu đơng phong
Kết luận .


Tóm lại , nghệ thuật tả cảnh của Nguyễn Du thật là mn hình vạn trạng . Nghệ thuật ấy chẳng
khác gì nghệ thuật vẽ một bức tranh thủy mạc , nhiều khi chỉ một mảnh trời , một ánh trăng, một
cành liễu , một dịng nước hay một áng mây hồng hôn ..v..vv . Chỉ thế thôi , nhưng chữ dùng về
màu sắc và cách sắp đặt cảnh gần xa thật tài tình đã đủ lơi cuốn tâm hồn người đọc , như để
cùng chung hòa vào cảnh vật. Một điều không thể chối cãi được là Nguyễn Du rất yêu cảnh thiên
nhiên nên đã ban cho cảnh thiên nhiên một “hồn người” khiến cho không ai đọc thơ tả cảnh của
Nguyễn Du mà không khỏi bồi hồi tấc dạ.. Giá trị văn chương tả cảnh của Nguyễn Du đã đạt tới
mức tinh diệu để chỉ riêng một lãnh vực tả cảnh không thôi, cũng đủ truyện Kiều không hổ thẹn
để xứng đáng là một tác phẩm văn chương quốc ngữ hay nhất trong kho tàng văn học của nước
ta.


Hãy nghe học giả Đào Duy Anh nhận xét về truyện Kiều “ Chúng ta sở dĩ u chuộng truyện
Kiều khơng phải nó có thể làm quyển sách luân lý cho đời , mà chỉ vì trong sách ấy, Nguyễn Du


đã dùng những lời văn kỳ diệu để rung động tâm hồn ta...” ( Khảo Luận về Kim Vân Kiều)..
Thật đúng như vậy , những rung động trong tâm hồn được khơi dậy khi đọc truyện Kiều hẳn là
một điều không ai trong chúng ta có thể phủ nhận bởi vì chúng ta đã từng có những cảm giác
này . Truyện Kiều vì thế đã sống mãi với thời gian và không gian , từ thế hệ này qua thế hệ
khác , lúc nào cũng được mọi người trân trọng và yêu mến .


<b>Nhân vật trong Truyện Kiều: Đậm và Nhạt</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Đậm là nhân vật được khắc hoạ có vóc có vạc; từ hình hài diện mạo đến tính cách, hành động
và số phận của họ đều là những đường nét nổi bật lên trên nền hoàn cảnh chung bình thường,
và bởi thế mà họ tạo nên ấn tượng đặc biệt. Cịn nhân vật Nhạt thì ngược lại, họ dễ bị chìm đi, bị
tan ra trong những đường nét nhạt nhịa, phơi pha của những tính cách nhạt nhẽo và những số
phận bình thường đến tầm thường.


(Hoài Nam - Báo Người đại biểu nhân dân)


Thế giới nhân vật trong kiệt tác Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du vốn đã được mổ xẻ suốt
gần hai thế kỷ nay, bằng đủ các công cụ phẫu tích sẵn có của nhân gian.


Đơn giản thì người ta nhìn thấy ở đó sự đối lập giữa người tốt và kẻ xấu. Phức tạp hơn, thì ở đó
là mối quan hệ giai cấp giữa đại phong kiến – phong kiến chuyển hoá thành tư sản – nơng dân
có tinh thần cách mạng! Và ở một phía khác, lại là sự nhùng nhằng giữa những mẫu người thuộc
khuôn khổ đạo đức Nho giáo với những mẫu người phi Nho, phản Nho.


Tơi thì muốn đề xuất cách phân loại của riêng mình về cái thế giới nhân vật bàn mãi không hết
chuyện này: Truyện Kiều có hai loại người, Đậm và Nhạt. Một cách hồn tồn chủ quan, tơi hiểu
nhân vật Đậm là nhân vật được khắc hoạ có vóc có vạc; từ hình hài diện mạo đến tính cách,
hành động và số phận của họ đều là những đường nét nổi bật lên trên nền hồn cảnh chung
bình thường, và bởi thế mà họ tạo nên ấn tượng đặc biệt.



Còn nhân vật Nhạt thì ngược lại, họ dễ bị chìm đi, bị tan ra trong những đường nét nhạt nhòa,
phơi pha của những tính cách nhạt nhẽo và những số phận bình thường đến tầm thường. Tiện
hơn cả, tôi sẽ xem xét hai cặp nhân vật Đậm – Nhạt sau: Thúy Kiều/ Thúy Vân và Kim Trọng/ Từ
Hải. Những nhân vật cịn lại thì bỏ qua, vì họ chưa đủ đậm hoặc chưa đủ nhạt để phải nói đến.
Thúy Kiều – Thúy Vân


a) Trong Truyện Kiều, Thúy Kiều đương nhiên là đệ nhất Đậm nhân vật. Nét đậm của nàng thực
ra không phải nằm ở Tài và Sắc (Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai) mà là ở Tính và Tình.
Có thể nói, ở phương diện này bao giờ Kiều cũng bộc lộ ra như một con người của những sự tới
hạn, đôi khi rất trái ngược nhau, và không khi nào nàng chịu ổn định trong một trạng thái, một
cảm xúc trung bình cộng nửa vời. Chỉ vừa mới nghe câu chuyện về cuộc đời của kỹ nữ Đạm
Tiên, nàng đã “đầm đầm châu sa”:


Đau đớn thay phận đàn bà!


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Phũ phàng chi bấy hố cơng!


Ngày xanh mịn mỏi, má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp người ta


Khéo thay thác xuống làm ma không chồng!
Nào người phượng chạ loan chung


Nào người tiếc lục tham hồng là ai?


Không phải là sự sẻ chia theo lối “đàn bà với nhau” thông thường nữa rồi. Cũng không phải là
biểu hiện “thương vay khóc mướn” của một tâm hồn nhạy cảm. Đọc kỹ, ta sẽ thấy những lời than
trách trên chính là những lời tự thán.



Bằng một tiên cảm kỳ lạ, Kiều đã nhìn thấy tương lai của mình qua số phận của Đạm Tiên. Và
nếu ta nhớ rằng cho đến lúc này Kiều mới chỉ là một cô nương “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập
kê/ Êm đềm trướng rủ màn che/ Tường đông ong bướm đi về mặc ai” – tức là chưa có mấy chút
trải nghiệm trường đời – thì mới thấy sự tiên cảm kia đã hé lộ một cái gì đó vượt ngưỡng.
Thế nhưng, cũng chính người con gái này khi đã u thì vơ cùng táo bạo, quyết liệt, bùng nổ
như một thùng thuốc súng. Sau hai lần gặp Kim Trọng, đến lần thứ ba thì Kiều đã “xăm xăm
băng lối vườn khuya một mình” để được gần người mình yêu. Và rồi, ngay ở lần gặp thứ ba này
nàng đã cùng chàng Kim:


Tiên thề cùng thảo một chương
Tóc mây một món, dao vàng chia đôi
Vừng trăng vằng vặc giữa trời


Đinh ninh hai miệng một lời song song
Tóc tơ căn vặn tấc lòng


Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương


Đặt trong bối cảnh xã hội “Gia Tĩnh triều Minh” thì khơng ai có thể hình dung được một tiểu thư
khuê các như Kiều lại liều lĩnh đến thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

để chạy theo tiếng gọi của tình u đầu đời, khơng e lệ, khơng “bắc bậc làm cao” một chút cho
“phải phép”. Trao trọn con tim cho người tình chỉ sau ba lần gặp gỡ, tơi đoan chắc rằng cái tốc độ
và cường độ tình yêu của Kiều không hề thua sút nếu đem so với tình u của nam nữ thời
internet tồn cầu!


Trong Truyện Kiều đối chiếu, tác giả Phạm Đan Quế đã từng làm một thống kê về những cảnh
ngộ lặp lại trong đời Kiều: hai lần vào lầu xanh, hai lần đi ở, hai lần đi trốn, ba lần định tự tử, ba
lần đi tu, ba lần chia tay với người tình, bốn lần bị địn, năm lần đánh đàn, bảy lần nhớ nhà, bảy
lần lấy chồng... Quả là một cuộc đời trầm luân, buồn nhiều vui ít. Mà cái buồn của Kiều thì hiếm


khi khơng đạt tới đỉnh điểm của cảm xúc.


Hãy thử ví dụ bằng việc Kiều đánh đàn. Trong năm lần đánh đàn thì lần Kiều đánh đàn cho vợ
chồng Hoạn Thư – Thúc Sinh, và lần Kiều đánh đàn cho Hồ Tơn Hiến nghe là ối oăm nhất. Lần
một là hoạt cảnh vợ cả bắt vợ hai phải hầu đàn cho ông chồng trong tư cách một nô tỳ, và khơng
ai dám lên tiếng cải chính, thì:


Bốn dây như khóc như than


Khiến người trên tiệc cũng tan nát lịng
Cùng trong một tiếng tơ đồng


Người ngồi cười nụ, người trong khóc thầm


Lần thứ hai là lần Kiều phải mua vui cho kẻ vừa mới đây thơi đã bức tử trượng phu của mình,
thì:


Một cung gió thảm mưa sầu


Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay


Tóm lại, nếu có thể hình dung về Kiều theo con mắt của người làm nghệ thuật tạo hình, thì đây
là nhân vật được tạo nên bằng những đường nét gọn, sắc, dứt khoát, những màu sắc nóng,
chứa nhiều năng lượng gây nổ.


b) Cịn Thúy Vân thì đó là một nhân cách đối lập hoàn toàn. Một đệ nhất Nhạt nhân vật trong
Truyện Kiều. Vũ Hạnh, ở tập Đọc lại Truyện Kiều, có nói đến việc Thúy Vân “khơng có mắt”!
Đúng thế thật:


Vân xem trang trọng khác vời



Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang


Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.


Quả thực là khơng có một chữ nào nói đến mắt Thúy Vân. Đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn.
Khơng có mắt tức là tâm hồn rỗng tuếch. Một đời sống tinh thần nghèo nàn, ba phải, được chăng
hay chớ, dễ thích ứng với hồn cảnh bởi cái thói vơ tâm vơ tính, khơng hình thành nổi một bản
ngã cho tử tế. Chả thế mà khi gia đình gặp cơn tai biến, chị gái phải bán mình chuộc cha, thì
Thúy Vân vẫn điềm nhiên... ngon giấc:


Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân,
Bên đèn ghé đến ân cần hỏi han:
Cơ trời dâu bể đa đoan


Một nhà riêng để chị oan một mình
Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh


Nỗi riêng cịn mắc mối tình chi đây?


Tơi cho rằng người ta sẽ khơng thể tìm được một câu hỏi nào vô duyên hơn câu hỏi này của
Thúy Vân. Chỉ cịn đêm nay thơi Kiều được ở dưới mái nhà của cha mẹ, đến ngày mai nàng đã
phải rời khỏi để đi theo kẻ bỏ tiền mua mình. Một tương lai bất định, mờ mịt họa phúc đang mở
ra trước mắt người con gái. Chỉ cần có thế thơi cũng đủ biến đêm nay thành một đêm trắng! Ai
cũng có thể hiểu được như vậy, nhưng riêng Vân thì khơng. Nói một câu an ủi nhạt nhẽo, nàng
coi như đã hoàn thành nghĩa vụ với chị mình.


Có lẽ vì thế mà khi nhờ cậy Vân thay mình gá nghĩa với Kim Trọng, con người đầy nhạy cảm
như Kiều đã ý thức được rằng đây là việc “cực chẳng đã”, rằng Vân hồn tồn khơng xứng đáng


với bậc danh sĩ phong lưu nọ. Không ngẫu nhiên mà ở đoạn trao duyên, Kiều nói chuyện với Vân
mà cứ tựa như độc thoại, và càng lúc đối tượng lời nói mà nàng hướng tới càng không phải là cô
em gái đang ở trước mặt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Đã đành nước chảy hoa trơi lỡ làng
Ơi Kim lang, hỡi Kim lang


Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!


Hiển nhiên, trong diễn ngơn nhằm vào Thúy Vân thì ba câu lục bát trên đã bị lạc hướng. Đó là
tiếng kêu đứt ruột mà Kiều gửi tới chàng Kim, và ở khoảnh khắc tột cùng đau thương đó, Vân đã
biến mất trước mắt nàng. Đơn giản, vì Vân khơng phải người nàng có thể chia sẻ được.


Suốt mười lăm năm Kiều luân lạc tận khổ, Nguyễn Du đã không để cho Vân xuất hiện lấy một
lần, than một tiếng hoặc nhỏ một giọt nước mắt cho chị (cũng như trước đó ơng đã khơng để cho
nàng có một chút phản ứng nào trong cảnh gia biến, cứ như thể Vân không phải người nhà họ
Vương vậy!).


Nói cách khác, Vân điềm nhiên vui hưởng hạnh phúc bên chàng Kim “phong tư tài mạo tót vời”
mà không cần biết tới ai đã phải trả giá cho hạnh phúc của nàng. Thế nhưng, cũng chính nàng
Vân ấy, trong cảnh gia đình đồn tụ, lại có một ứng xử khá bất ngờ:


Tàng tàng chén cúc dở say


Đứng lên Vân mới giải bày một hai
Rằng: trong tác hợp cơ trời


Hai bên gặp gỡ, một lời kết giao.
Gặp cơn bình địa ba đào,



Vậy đem duyên chị buộc vào duyên em.
Cũng là phận cải duyên kim


Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao?
Những là rày ước mai ao,


Mười lăm năm ấy, biết bao là tình!
Bây giờ gương vỡ lại lành


Khn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
Cịn duyên may lại còn người,


Còn vừng trăng bạc, còn lời nguyền xưa.
Quả mai ba bảy đương vừa,


Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.


Câu nói của Vân có thể đơn giản hố như sau: khi trước hai anh chị đã có lời nguyền ước,
chẳng may vì sóng gió nổi lên, nên em mới phải thay chị kết duyên cùng anh. Nay chị đã trở về,
hai anh chị hãy mau mau cưới nhau đi!


Một cách nghĩ, một cách nói cũng có vẻ rất biết trước sau. Nhưng nếu ta thử đặt nó cạnh lời
“chạy tội” của Hoạn Thư: “Lịng riêng, riêng những kính yêu/ Chồng chung chưa dễ ai chiều cho
ai” - hầu hết chị em phụ nữ đều tâm đắc với câu này - thì mới thấy rằng với Vân, mười lăm năm
vợ chồng cùng Kim Trọng hình như cũng khơng thâm trọng gì cho lắm: Vân nhường chồng dễ
như nhường một cái áo! Và vì thế, tơi tin rằng khi hạ bút về nhân vật này: “Thừa gia chẳng hết
nàng Vân/ Một cây cù mộc, một sân quế hịe”, hẳn Tố Như tử khơng giấu nổi một cái cười tinh
quái. Một người đàn bà sống thờ ơ, vơ tâm tính đến thế, thì khả năng duy nhất để tự thể hiện
mình, đó là...đẻ con!



Từ Hải – Kim Trọng


a) Nếu như Thúy kiều là một nữ nhân vật Đậm, thì Từ Hải là một nam nhân vật Đậm của Truyện
Kiều. Ngay ở phần giới thiệu, Nguyễn Du đã phác hoạ Từ Hải bằng những nét mạnh mẽ, thô
hào, đầy chất hảo hán:


Râu hùm, hàm én, mày ngài


Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
Đường đường một đấng anh hào
Côn quyền hơn sức, lược thao gồm tài.
Đội trời đạp đất ở đời


Họ Từ tên Hải vốn người Việt Đơng.
Giang hồ quen thói vẫy vùng,


Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

Kiều ở lầu xanh, Từ Hải đã quyết định: “Một lời đã biết đến ta/ Mn chung nghìn tứ cũng là có
nhau”. Thế rồi, khi đang nồng nàn hạnh phúc bên người đẹp, chàng bỗng quyết định “thanh
gươm yên ngựa lên đường thẳng rong” – xơng pha gió bụi chiến trường để lập nên sự nghiệp.
Trước khi ra đi, chàng đã nói với Kiều như phát thệ:


Bao giờ mười vạn tinh binh


Tiếng loa rợp đất, bóng tinh rợp đường
Làm cho rõ mặt phi thường


Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia.



Chàng hứa sao thì làm được vậy. Và thế là Kiều đã “một bước lên bà”. Và thế là ơn trả oán đền
cho bõ bao phen tủi nhục mà nàng phải chịu đựng. Tất cả là nhờ vào những quyết định của Từ
Hải. Tuy nhiên, đáng tiếc nhất ở Từ Hải là ở chỗ, cái đích chót cùng cho sự quyết định của chàng
lại chỉ có vậy: làm vui lịng người đẹp, được thả sức xưng hùng xưng bá ở cõi biên thùy. Hết.
Nhiều người đã chỉ ra bản chất nông dân khởi nghĩa trong con người Từ Hải, rằng đây không
phải hành động mang tính cách mạng gì cả, nó chỉ đơn giản là một cuộc nổi loạn. Điều đó đúng.
Nhưng cần phải nói thêm, đó là cuộc nổi loạn không mang cao vọng đế vương, không đi đến
cùng của quyết tâm “được làm vua, thua làm giặc”. Bởi thế mà khi Kiều ngon ngọt rỉ rả khuyên ra
hàng triều đình thì “thế cơng Từ mới trở ra thế hàng”. Bởi thế mà Truyện Kiều mới có một cái
chết kinh thiên động địa:


Khí thiêng khi đã về thần


Nhơn nhơn cịn đứng chơn chân giữa vịng
Trơ như đá, vững như đồng


Ai lay chẳng chuyển, ai rung chẳng dời


Y học hiện đại có thể chuẩn đốn rằng Từ Hải chết vì đứt mạch máu não hoặc bị nhồi máu cơ
tim. Dù sao đi chăng nữa, đó là cái chết vì một quyết định sai lầm mang tính tất yếu. Bản thân
tính chất “kỳ” của cái chết này đã giống như một nét sổ đẫm mực vạch trên trang giấy cuộc đời
Từ Hải, làm nên dấu ấn của một nhân vật Đậm trong Truyện Kiều bất hủ.


b) Ở Từ Hải, những quyết định làm nên nhân vật Đậm, thì ở Kim Trọng, những dự định làm nên
một nhân vật Nhạt. Kim Trọng không phải là kiểu người hành động, trái lại, chàng chỉ là kiểu
người của những chuẩn bị hành động mà thơi.


Trong tình u, chàng Kim khơng hề thiếu sự đam mê, nhưng chàng lại không đủ táo bạo để
biến đam mê thành hành động cụ thể nhằm đạt tới đích. Vì “phải lịng” Kiều sau lần gặp mặt đầu
tiên, chàng đã “tiếp cận” đối tượng bằng cách “lấy điều du học hỏi thuê” ngôi nhà ngay sau nhà


họ Vương, đã kiên nhẫn chờ thời cơ suốt hai tháng ròng. Nhưng cũng chỉ đến thế. “Tấc gang
nguồn khoá động phong/ Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra”. Trận đấu đã đi vào bế tắc. Có
thể vì bế tắc mà chàng sẽ nản chí bỏ đi. Cũng có thể chàng sẽ cứ suốt đời chờ đợi như vậy, nếu
khơng có chuyện:


Cách tường phải buổi êm trời


Dưới đào, dường có bóng người thướt tha
Bng cầm, xốc áo vội ra


Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh
Lần theo tường gấm dạo quanh


Trên đào nhác thấy một cành kim thoa


Cơn cớ gì mà chiếc thoa vàng lại nằm ở trên cành đào, nếu như khơng phải vì Kiều sốt ruột khi
thấy anh chàng si tình chẳng biết làm gì khác ngồi chờ và chờ, nên đành phải thò một đầu dây
cho chàng nắm lấy? Sau này, như ta sẽ thấy, chàng Kim tỏ ra vô cùng hoạt khẩu và là tác giả
của những câu tỏ tình đáng đưa vào giáo khoa thư, nhưng suy cho cùng, người phá vỡ “sinh tử
huyền môn quan” khơng phải là chàng. Đích thực thì Kim là người bị động.


Khi nhà họ Vương gặp hoạ, Kim Trọng vì về Liêu Dương chịu tang chú nên đã khơng cứu được
người yêu, cái đó có thể đổ tại số trời. Chàng đã vật mình than khóc đau đớn, đã luôn nhớ tới
Kiều suốt mười lăm năm sống bên Vân, cái đó có thể ghi nhận một tấm lịng chung tình. Nhưng
rồi cũng chỉ dừng lại ở đó. Quyết định cất cơng đi tìm Kiều là điều mà ta khơng hề thấy tác giả nói
tới ở Kim Trọng. Ngay cả tới khi nghe được tin tức về Kiều từ lại già họ Đơ và Thúc Sinh, thì
chàng Kim cũng chỉ:


Rắp mong treo ấn từ quan



</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Vào sinh ra tử họa là thấy nhau
Nghĩ điều trời thẳm vực sâu


Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!


Ln ln là dự định, những dự định có thể rất dễ khiến cho lịng người phải cảm động, song nó
cứ lơ lửng đó, khơng chịu tự triển khai, không chịu tự thực hiện, và xu thế của nó là ln đầu
hàng trước những khó khăn thách thức mà thực tại đặt ra.


Bảo rằng đi tìm Thúy Kiều trong một biển người náo loạn là bóng chim tăm cá? Thì cũng đúng.
Nhưng khả năng thành cơng của việc tìm kiếm này và khả năng thành công của việc Từ Hải thực
hiện lời hứa đem mười vạn tinh binh trở về đón Kiều, đằng nào khó hơn? Vấn đề là Từ đã làm,
cịn Kim thì mới chỉ định làm mà thơi.


Vì thế chúng ta không ngạc nhiên khi rốt cuộc, việc Kiều đoàn tụ với toàn gia hoàn toàn phụ
thuộc vào yếu tố may rủi của số phận: chàng Kim đã làm lễ siêu độ cho Kiều vì cứ ngỡ nàng chết
rồi, thì vãi Giác Duyên xuất hiện, chỉ cho nơi thảo am nàng đang nương náu. Một lần nữa, Kim
Trọng lại hụt bước trong sự tự thể hiện mình như một kẻ dám yêu và dám hành động quyết liệt vì
tình u! Và phần nào đó, vì sự trù trừ bất quyết đeo bám cả đời này mà chàng có một cái kết
khá... tréo ngoe: có hai vợ, nhưng người mà chàng thực sự yêu thương thì chỉ có thể để chia sẻ
những thú vui tinh thần như đánh cờ, uống rượu, thưởng hoa, ngâm thơ; việc sinh con nối dõi
thuộc về người còn lại! Thế chẳng lạ lắm ru?


Vĩ Thanh


Phiếm luận về các nhân vật Đậm Nhạt trong Truyện Kiều, thực ra cũng là nói tới hai loại người
cơ bản của đời sống ở mọi nơi mọi lúc (vì nói như nhà nghiên cứu Phan Ngọc, Truyện Kiều là
cuốn sách của một trăm tâm trạng).


Nhân vật Đậm như Thúy Kiều, Từ Hải là mẫu người ít ra đã có sự ý thức về mình như là một cá


nhân đơn trị. Họ dám sống trung thực với suy nghĩ và tình cảm của mình và dám chịu trách
nhiệm đến cùng vì điều đó. Họ dám vượt qua những cấm kỵÅ mà xã hội đặt ra để được là chính
mình, và bởi thế, trên nền đời sống bình thường, cuộc đời họ luôn là những bất thường: những
cuộc ra đi, những nứt gãy, những vụt lóe và vụt tắt, những chuyển tiếp giữa các cực hạn, những
chơng chênh giữa được và mất...


Cịn nhân vật Nhạt như Thúy Vân và Kim Trọng, thì đó là mẫu người n ổn với phận vị vốn có
của mình, họ ý thức về mình thơng qua những bậc thang giá trị mà xã hội đã thừa nhận một cách
vững chắc. Những vui hay buồn, tuyệt vọng hay hạnh phúc, hồi bão hay khát vọng của họ
khơng bao giờ vượt quá khuôn khổ quy định. Bởi thế mà đời họ ít biến động, ít xê dịch, nhưng
cũng chính vì vậy mà đó là những cuộc đời ít sự gắn bó và niềm say mê với đời.


Nói như Nguyễn Tuân, đó là những con người “mờ mờ, nhạt nhạt, xam xám” thuộc về một mẫu
số chung tầm thường. Đơn giản, tôi coi mẫu người này là cơm, rất cần nhưng chưa đủ cho cuộc
sống. Phần thiếu hụt ấy phải tìm ở mẫu người Đậm, đó là thứ rượu khiến cho người ta thấy cái
gì là sự thăng hoa, sự thú vị trong nếp quen đến nhàm tẻ của tồn tại nhân sinh.


Đề 1: Trong truyện “Người con gái Nam Xương”, nhân vật Trương Sinh vội tin câu nói
ngây thơ của con trẻ đã nghi oan cho Vũ Nương ruồng rẫy và đánh đuỗi nàng đi. Vũ
Nương bị oan ức nên nhảy xuống sông tự vẫn.


Em hãy đọc kĩ lại tác phẩm và tìm xem có những chi tiết nào trong truyện tác giả
muốn hé mở khả năng có thể tránh được thảm kịch đau thương cho Vũ Nương.
Những nguyên nhân nào làm cho thảm kịch đó vẫn diễn ra dẫn đến cái chết đau
thương cũa người phụ nữ đức hạnh?


Em hãy bình luận về nguyên nhân cái chết đó.
HƯỚNG DẪN


1. Đọc kĩ tác phẩm, nắm vững chi tiết, độc lập suy nghĩ để tìm ra những chi tiết mà


đề yêu cầu. Tài thắt nút và mở nút là ở chỗ ấy. Mỗi em tìm tịi theo cách của mình
miễn là hợp lí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

BÀI VIẾT THAM KHẢO


“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ XVI,
một tập truyện văn thơ đầu tiên bằng chữ Hán ở Việt Nam. Truyện “Người con gái
Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm.


Truyện kể rằng, Vũ Thị Thiết là một phụ nữ đức hạnh ở Nam Xương, chồng là
Trương Linh, người nhà giàu nhưng khơng có học, tính lai đa nghi. Triều đình bắt
lính, Trương Linh phải tịng quân trong khi vợ đang mang thai. Chồng đi xa mới được
mười ngày thì nàng sinh con trai đặt tên là Đản. Năm sau, giặc tan, việc quân kết
thúc, Trương Linh trở về thì con đã biết nói, nhưng đứa trẻ nhất định không nhận
Trương Linh làm bố. Nó nói: “Ơ hay! Thế ra ơng cũng là cha tơi ư ? Ơng lại biết nói,
chứ khơng như cha tơi trước kia chỉ thin thít. Trước đây thường có một ơng đêm nào
cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi nhưng chẳng bao giờ bế Đản
cả.”


Tính Trương Linh hay ghen, nghe con nói vậy đinh ninh rằng vợ hư, đã vu oan cho
Vũ Nương, ruồng rẫy và đánh đuổi nàng đi. Vũ Nương bị oan ức đã nhảy xuống sông
tự vẫn.


Đọc kĩ tác phẩm, em thấy truyện khơng phải khơng hé mở khả năng có thể dễ dàng
tránh được thảm kịch đau thương đó. Tài kể chuyện của tác giả là ở chỗ đó, cởi ra rồi
lại thắt vào đẩy câu chuyện đi tới, khiến người đọc hứng thú theo dõi và suy nghĩ,
chủ đề của tác phẩm từng bước nổi lên theo dòng kể của câu chuyện. Lời con trẻ
nghe như thật mà chứa đựng khơng ít điều vơ lí khơng thể tin ngay được, nếu
Trương Sinh biết suy nghĩ, người cha gì mà lạ vậy: “khơng biết nói, chỉ nín thin thít”
chẳng bao giờ bế con mình, mà hệt như “cái máy” - “mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản


ngồi cũng ngồi”. Câu nói đó của đứa trẻ chẳng phải là một câu đố, giảng giải được thì
cái chết của Vũ Nương sẽ không xảy ra. Nhưng Trương Linh cả ghen, ít học, thiếu
suy nghĩ, đã vơ tình bỏ dở khả năng giải quyết tấm thảm kịch, dẫn tới cái chết oan
uổng của người vợ mà chàng khơng phải khơng có tình u thương. Tất nhiên sự đời
có thế mới thành chuyện, vả lại trên đơì làm gì có sự ghen tng sáng suốt.


Bi kịch có thể tránh được khi vợ hỏi chuyện kia ai nói, chỉ cần Trương Sinh kể lại lời
con nói mọi chuyện sẽ rõ ràng. Vũ Nương sẽ chứng minh cho chồng rõ ở một mình
nàng hay đùa với con trỏ vào bóng mình và nói là cha Đản. Mãi sau này, một đêm
phịng khơng vắng vẻ, ngồi buồn dưới bóng đèn khuya, chợt người con chỉ vào bóng
mình trên vách mà bảo đó là cha nó, Trương Linh mới tỉnh ngô, thấu hiểu nỗi oan
của vợ thì mọi chuyện đã xong. Vũ Nương khơng cịn nữa trên đời.


Câu chuyện bắt đầu từ một bi kịch gia đình, một chuyện trong nhà, một vụ ghen
tng. Khơng ít tác phẩm xưa nay đã viết về cái chuyện thường tình đầy tai hoạ này.
Vũ nương khơng may lấy phải người chồng cả ghen, nguyên nhân trực tiếp dẫn nàng
đến cái chết bi thảm là “máu ghen” của người chồng nông nổi. Nhưng sự thực vẫn là
sự thực!cái chết oan uổng quá và người chồng độc đốn q!


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

cơng cùng chế độ “nam quyền” bất bình đẳng của nó đã gây ra bao nhiêu tai hoạ cho
người phụ nữ nói riêng và con người thời đó nói chung.


---


Đề 2: Phân tích truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ
BÀI VIẾT THAM KHẢO:


Truyền kỳ mạn lục là một tác phẩm có giá trị của văn học cổ nước ta ở thế kỷ XVI,
một tập truyện văn xuôi bằng chữ Hán đầu tiên ở Việt Nam. Truyện “ Chuyện người
con gái Nam Xương” là một truyện hay trong tác phẩm đó được trích trong Truyền kì


mạn lục của Nguyễn Dữ.


Truyện kể về một người phụ nữ tên là Vũ Thị Thiết ở huyện Nam Xương, tỉnh Hà
Nam. Vốn là một người vợ đoan chính, đảm đang. Nàng giữ lòng chung thuỷ, hầu hạ
mẹ chồng, chăm sóc con thơ trong suốt thời gian chồng đi lính ở phương xa. Khi trở
về vì nghe lời ngây thơ của con trẻ, người chồng nghi ngờ nàng thất tiết nên đánh
mắng đuổi đi. Không thể phân giải được oan tình, nàng trẫm mình ở sơng Hồng
Giang. Cảm động vì lịng trung thực của nàng, Linh Phi (vợ vua biển) cứu vớt nàng
và cho ở lại Long Cung. Người chồng biết vợ bị oan nên rất hối hận, lập đàn giải oan
cho nàng. Vũ Nương hiện lên, ẩn hiện trong chốc lát rồi trở lại Long Cung.


Chuyện ca ngợi một người phụ nữ có phẩm chất, có tâm hồn trong sáng, sáng ngời
như ngọc lại bị nỗi oan tày trời vì một chuyện vờ ghen vớ vẩn của người chồng nông
nổi. Cuối cùng nàng phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan tình.


Tác giả đặt nhân vật Vũ Nương vào những hồn cảnh khác nhau, qua đó bộc lộ
những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ. Vũ Nương vốn là người con gái có tư
dung tốt đẹp, tính tình thuỳ mị, nết na. Khi lấy chồng, nàng ln giữ gìn khn phép,
khơng để vợ chồng phải thất hồ dù Trương Sinh vốn có tính hay ghen. Khi chồng đi
lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy tiễn chồng. Lời của nàng thật xúc động, nói về
niềm yêu thương, mong nhớ của mình đối với người chồng sẽ đi xa, rồi bày tỏ nỗi lo
lắng trước những gian lao nguy hiểm mà người chồng sẽ trải qua, niềm mong ước
được đoàn tụ ... làm mọi người trong tiệc đều ứa hai hàng lệ.


Chồng đi đánh giặc ngồi biên ải, nàng một lịng son sắt, thuỷ chung, “cách biệt ba
năm, giữ gìn một tiết”, mong đợi chồng về trong cơ đơn mịn mỏi “mỗi khi thấy
bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể, chân trời khơng thể nào
ngăn được”. Hơn nữa, nàng là một người con dâu hiếu kính, tận tuỵ chăm sóc khi mẹ
chồng cịn sống, chôn cất mẹ chồng khi mẹ qua đời (lo liệu như đối với mẹ đẻ mình).
Rồi đằng đẳng thời gian trơi qua, chồng ra lính trở về, cùng là lúc nàng bị nghi oan.


Vũ Nương đã phân trần để chồng hiểu rõ tấm lịng mình: “Thiếp vốn con kẻ khó ...
mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Nàng đã nói đến thân phận mình,
tình nghĩa vợ chồng và khẳng định lịng chung thuỷ, hết lịng tìm cách hàn gắn hạnh
phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Dù họ hàng, làng xóm có bênh vực và biện
bạch, Trương Sinh vẫn không tin. Bất đắc dĩ Vũ Nương thống thiết: “Thiếp sỡ dĩ
nương tựa vào chàng ... đâu có thể lên núi vọng phu kia nữa!”. Đó là hạnh phúc gia
đình, niềm khao khát của cả đời nàng giờ đây tan vỡ. Tình u khơng cịn, cả nỗi đau
khổ chờ chồng giờ đây hố đá....


Tuyệt vọng vì phải gành chịu nỗi oan khuất tày trời không phương giải bày, cứu
chữa nàng đành mượn cái chết để chứng tỏ tiết hạnh trong sáng của mình. lời khấn
nguyện với thần linh vô cùng thảm thiết: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch
gìn lịng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Nga Mĩ. Nhựợc bằng
lòng chim, dạ cá, lừa dối chồng con, được xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm
cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ ...” lời khấn nguyện đã làm cho
người đọc xót xa - con người rơi cảnh ngộ bế tắc, không thể tiếp tục sống để tự giải
oan tình mà phải tìm đến cái chết để thần linh chứng dám.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

nghĩ đến câu “ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam” rồi hiện về trên dòng
nước cho thoả lòng nhớ chồng, con.


Qua những hoàn cảnh khác nhau của vũ Nương, với những lời tự thoại của nàng,
truyện đã khẳng định những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam - một
người phụ nữ đẹp người, lại nết na, hiền thục, đảm đang, tháo vát, rất mực hiếu kính
với mẹ chồng, giữ vẹn lịng chung thuỷ sắt son với chồng, hết lịng vun đắp hạnh
phúc gia đình, .... lẽ ra phải được hạnh phúc trọn vẹn thế mà phải chết một cách oan
uổng, đau đớn.


Cái chết của Vũ Nương có nhiều nguyên nhân sâu xa, bắt nguồn từ hiện thực nghiệt
ngã của lễ giáo phong kiến của xã hội cũ, với chế độ “nam quyền”, coi rẻ thân phận


của người phụ nữ, rồi tính đa nghi, ghen tng của chồng, thói hung bạo, gia trưởng
của chồng đã làm khổ đau bao cuộc đời những người phụ nữ.


Cuộc hôn nhân giữa Vũ Nương và Trương Sinh có phần khơng bình đẳng (thiếp vốn
con nhà khó, được nương tựa nhà giàu). Xã hội phong kiến lại coi trọng “nam


quyền”, hơn nữa Trương Linh lại có tính đa nghi, đối với vợ thì phòng ngừa quá mức.
Những chi tiết này chuẩn bị cho những hành động độc đoán của Trương Sinh sau
này.


Khi đánh giặc trở về, Trương Sinh cũng mang một tâm trạng nặng nề: mẹ qua đời,
con vừa học nói, lịng buồn bã. Trong hồn cảnh như thế, lời của Bé Đản dễ kích
động tính hay ghen của Trương Sinh: “trước đây, thường có một người đàn ông đêm
nào cũng đến...”


Điều đáng trách là thái độ và hành động độc đoán của Trương Sinh khi ấy. Khơng đủ
bình tĩnh để tìm hiểu vấn đề, chàng bỏ ngoài tai những lời phân trần của vợ, những
lời bênh vực của họ hàng, làng xóm, khơng chịu nói ra duyên cớ ghen hờn. Cuối
cùng, Sinh lại mắng nhiếc nàng và đánh đuổi nàng đi. Thái độ và hành động của
Trương Sinh vơ hình dung dẫn đến cái chết oan nghiệt của Vũ Nương.


Hành động gieo mình xuống sơng Hồng Giang của Vũ Nương phản ánh một thực
trạng về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ bị buộc chặt trong
khuôn khổ khắt khe của lễ giáo, bị đối xử bất công, bị áp bức và chịu nhiều khổ đau,
bất hạnh. Đó cũng chính là giá trị tố cáo hiện thực của tác phẩm. Đằng sau nỗi oan
của người thiếu phụ Nam xương, còn bao nhiêu oan tình bất hạnh mà người phụ nữ
ngày xưa phải gánh chịu: Nàng Kiều trong “Truyện Kiề”u của Nguyễn Du, người cung
nữ trong “cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, người phụ nữ lỡ duyên tình
trong thơ Hồ Xuân Hương, ...



Phải nhận thấy rõ rằng với truyện ngắn đầu tiên viết bằng chữ Hán, Nguyễn Dữ đã
có những mặt thành cơng trong nghệ thuật xây dựng truyện, xây dựng những đoạn
đối thoại. Cách kể chuyện hấp dẫn, xây dựng tình tiết, thắt nút và gỡ nút thật bất
ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan tình của nhân vật hiện ra với tất cả nét
thảm khốc.


“Thắt nút” truyện bằng yếu tố bất ngờ. Một câu nói ngây thơ nghe như thật của trẻ
thơ mà gây bão tố dây chuyền trong cuộc đời. Bão tố nghi kị trong một đầu óc nam
quyền độc đốn, thiếu trí tuệ ; bão tố bất hoà dữ dội phá tan hạnh phúc của một gia
đình êm ấm. Bão tố oan khiên phá nát cuộc đời của một người con gái trong trắng,
phải kết thúc bi thảm trêm một dịng sơng.


“Gỡ nút” cũng bất ngờ bằng một câu nói trẻ thơ non dại (khi chỉ cái bóng của chàng
Trương trên vách: “cha Đản lại đến kia kìa” thì bao nhiêu oan khiên gây thảm kịch
trong phút chốc bỗng được sáng tỏ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

thấu hiểu nỗi oan của Vũ Nương nhưng Nguyễn Dữ đã thêm phần Vũ Nương trở về
dương thế, gặp chồng trong thoáng chốc. So với truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”,
Nguyễn Dữ đã tái tạo truyền kì từ cổ tích để nâng truyện lên những giá trị tư tưởng
và thẩm mĩ mới. Điều đó, làm tăng thêm sức hấp dẫn của truyện và hồn chỉnh tính
cách nhân vật Vũ Nương, thoả mãn ước mơ của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, ngưởi
tốt sẽ được đền bù. Truyện kết thúc có hậu. Trong truyện, những yếu tố truyền kì
tập trung ở phần sau của truyện như con rùa mai xanh được Phan Lang cứu, Vũ
Nương được ở lại Thuỷ Cung, rồi hiện về với kiệu hoa rực rỡ trên sông... đó là những
tình tiết kì ảo, khơng có thực nhưng đã tạo ra một thế giới nghệ thuật lung linh
huyền ảo.


Số phận và cuộc đời thực sự vẫn là thực xưa nay. Yếu tố hoang đường truyền kì
khơng thể cứu được cuộc đời Vũ nương với số phận bi thảm của nàng. Vũ Nương
muốn sống lại mà không được sống, muốn trở về với chồng con và quê hương mà


không thể trở về được.


Truyện “Người con gái Nam Xương” có giá trị hiện thực tố cáo và ý nghĩa nhân đạo
sâu sắc. Nghĩ về Vũ Nương và biết bao thân phận người phụ nữ khác trong xã hội
phong kiến được phản ánh trong các tác phẩm văn học cổ, chúng ta càng thấy rõ giá
trị cuộc sống của những người phụ nữ Việt Nam trong một xã hội tốt đẹp hôm nay.
Họ đang vươn lên làm chủ cuộc đời, sống bình đẳng, hạnh phúc với chồng con và
được đề cao nhân phẩm trong xã hộ, xã hội của thời đại mới.


Đề 3: Phân tích nhân vật Vũ Nương trong “chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Dữ.


BÀI THAM KHẢO:


“Truyền kì mạn lục” là một tác phẩm văn xi có giá trị của văn học cổ nước ta ở
thế kỉ XVI, một tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam.


“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, tác phẩm truyền kì mạn lục là
một tác phẩm hay trong tập truyện đó. Nhân vật chính là vũ nương, một phụ nữ đẹp
người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng
mình.


Có thể nói Nguyễn Dữ là tác giả văn xuôi tiêu biểu của văn học cổ thế kỉ XVI. Hình
ảnh người con gái Nam Xương là nhân vật từng có ảnh hưởng sâu sắc đến lịng người
mọi thời. Lê Thánh Tông đã từng xúc động viết trong bài thơ “miếu vợ chàng


Trương”:


“Nghi ngút đầu ghềnh toả khỏi hương,
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương... “



Câu chuyện về Vũ Nương phản ánh cuộc đời đau khổ và bi thảm của Vũ nương -
người phụ nữ dưới chế độ xã hội phong kiến. Người vợ phải tự vẫn để minh oan cho
sự thuỷ chung của mình. Tác phẩm nêu cao chủ nghĩa nhân đạo khiến ta xúc động
khi về nhân vật Vũ Nương trong truyện.


Trước hết, đọc truyện, người đọc càng thương cho thân phận Vũ Nươn và dễ dàng
nhận thấy được Vũ Nương là một người phụ nữ nết na, đức hạnh, đối xử với mẹ
chồng và chồng rất phải đạo và là người vợ rất mực đảm đang, nhân hậu, giàu đức
khiêm tốn.


Có tư dung tốt đẹp, nhưng trong cuộc sống gia đình, nàng can tâm làm một người
vợ hiền, ngoan nết “chẳng lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà”, và cho dù Trường
Sinh, chồng của nàng, tuy là con nhà hào phú, lại ít học, đa nghi quá sức.


Sự khiêm nhường, cam chịu của Vũ Nương là điều kiện tạo nên sự đầm ấm của gia
đình, mặc cho chế độ nam quyền độc đoán đè nặng trong đầu óc kẻ vị kỉ ít học như
chồng mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

của người vợ hiền, lời thiết tha cầu mong của Vũ Nương: “Chẳng mong chàng ái gấm
trở về quê cũ, chỉ mong được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”..., “thư tính, nghìn
hàng, áo rét gửi người ải xa...”, “ là chi tiết cho cái “công-dung-ngôn-hạnh” mà Vũ
Nương đã làm được một cách chân thành.


Thế rồi, nỗi nhớ nhung, sự cơ đơn, giữ mình của người vợ trẻ càng khiến chúng ta
phải ca ngợi con người nhân hậu và đảm đang đó. Tính cách cao đẹp của Vũ Nương
còn là lòng hiếu thảo với mẹ chồng, lòng chung thuỷ son sắt với chồng của nàng.
Khi chồng vào lính, Vũ Nương một mình đảm đang, ni dạy con thơ, chăm sóc
thuốc thang cho mẹ chồng đau yếu, làm ma chay tống tang khi mẹ chồng qua đời.
Vũ nương giữ tròn hiếu đạo với mẹ chồng, giữ trịn tình nghĩa với chồng.



Cái thói đời xưa nay thường khơng thể hồ hợp giữa mẹ chồng nàng dâu, nhất là
trong gia đình phong kiến. Thế nhưng, dù chỉ có hai mẹ con sống với nhau (Vũ
Nương với mẹ chồng) nhưng nàng xem mẹ chồng như mẹ đẻ, điều đó cịn được thể
hiện qua lời trăng trối của mẹ chồng nàng trước khi bà qua đời: “xanh kia sẽ chẳng
phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ ... “


Rồi sự chu đáo của Vũ Nương trong việc ma chay, cúng lễ đã thể hiện tấm lòng
thơm thảo của người con dâu đáng quý như Vũ Nương. Lòng chung thuỷ của Vũ
Nương còn được thể hiện ở hành động nuôi con, chờ chồng suốt những tháng ngày
Trương Sinh đi lính mà chưa rõ mặt con. Chỉ có hai mẹ con cơi cút đùm bọc, gắn bó.
Cậu Bé Đản thơ ngây, đêm đến được mẹ chỉ vào cái bóng của mình trên tường gọi là
cha (đó là một cách dỗ dành con ngủ thật hồn nhiên nhưng sau đó lại là nguyên
nhân gây ra cái tội thậtt vơ tình).


Nơi hàm oan khơng được quyền nói, suy xét cho ra là bởi con người độc đoán, phàm
phu lại kém văn hoá như Trương Sinh khi chàng ra lính trở về (nghe lời đứa con non
dại) đã gây nên nỗi oan tày trời cho Vũ Nương. Bị chồng ghen tuông vô cớ, bao nhiêu
lời giãi bày của vũ Nương và lời khuyên ngăn của láng giềng, bà con, cô bác, trương
Sinh vẫn không tin và đinh ninh là “vợ hư” , mối nghi ngờ càng ngày càng lún sâu
khơng có cách gì gỡ ra được. Chàng mắng nhiếc vợ thật thậm tệ rồi “đánh đuổi nàng
đi”. Vũ Nương khơng hề có lỗi lầm gì, nàng thuỷ chung, trinh trắng, đức hạnh vẹn
toàn nhưng sự đối xử của chồng làm cho nàng hồn tồn thất vọng, khơng hiểu nỗi
oan khuất từ đâu mà ra. Khơng có cách nào để giãi bày, thất vọng bởi hạnh phúc -
niềm vui “nghi gia nghi thất” khơng cịn nữa, nàng phải tìm đến cái chết để minh
oan. Hành động tự vẫn là thái độ cuối cùng nàng được phép bởi không thể giải bày
được với chồng, tiết hạnh của nàng sẽ bị hoen ố, biết bao giờ phai mờ đi trong tâm
trí của chồng.


Một người vợ hiền lành, đầy tiết nghĩa, thuỷ chung phải chết dẫu khơng có tội tình


gì. Mãi đến sau cái chết đo, người chồng mới hiểu nỗi oan ức của vợ mình. chính sự
độc đốn của người đàn ơng trong gia đình Phong kiến mà Nho giáo nuôi dưỡng dung
túng là đề tài mà Nguyễn Dữ muốn phê phán.


Bởi khơng chỉ hình ảnh nhân vật Vũ Nương, mà còn biết bao thân phận phụ nữ “Bảy
nổi, ba chìm” đã phải sống trong cảnh đời như vậy:


“Đau đớn thay phận đàn bà


Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”


Cái chết của Vũ Nương là số phận, nhưng cũng là lời tố cáo thói nghen tng ích kỉ,
sự hồ đồ, vũ phu của đàn ông- người chồng vô học, đa nghi như Trương Sinh- là lời
tố cáo luật lệ phong kiến hà khắc dung túng cho sự độc ác, bất công- “chế độ nam
quyền” dưới thời phong kiến ngự trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

__________________


I-Đặc điểm chung:
1.Cấu trúc các tác phẩm:


-Có thể theo diễn biến thời gian hoặc theo hồi tưởng của nhân vật.
Ví dụ : Diễn biến thời gian:


-Chiếc lược ngà-Nguyễn Quang Sáng
-Lặng lẽ Sa Pa-Nguyễn Thành Long


-Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính-Phạm Tiến Duật
...



Hồi tưởng của nhân vật:
-Ánh trăng-Nguyễn Duy


-Bếp lửa-Bằng Việt
...


2.Cốt truyện:
-Đa dạng, phong phú.


*Cốt truyện Trung đại thường theo mơ típ có sẵn.
3.Cách kết thúc:


-Biến hóa , khơng theo lối kết thúc có hậu(như truyện trung đại)


*Cách kết thúC tác phẩm ,kết thúc sự việc có ý nghĩa rất lớn trong việc bộc lộ chủ
đề, tư tưởng của tác phẩm, của nhà văn.


4.Nhân vật:


-Có đời sống nội tâm phong phú, diễn biến tâm lý phức tạp, thay đổi liên tục.
*Nhân vật trong văn học trung đại hầu hết là nhân vật chức năng.


5.Ngôn ngữ:


-Tự nhiên , sinh động, giống như cuộc sống ngồi đời.


<b>Đặc điểm, bản chất của Phân tích văn học</b>


a- Tác phẩm thơ, văn đích thực là đẹp và hay


Phân tích văn học là phân tích cái hay, cái đẹp – cái hay, cái đẹp của tư tưởng, cái


hay, cái đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật mà người viết cảm nhận được: trên cơ sở đó
mà đánh giá tác phẩm văn học.


b- Một tác phẩm văn học (một bài thơ, bài văn…) mà không hay thì có gì mà phân
tích?


Một bài văn phân tích văn học nếu chỉ mới dừng lại được ở mức độ phân tích giá trị
tư tưởng của tác phẩm văn học thì chưa đạt yêu cầu: cách phân tích đó mang tính xã
hội học đơn giản.


c- Nội dung tư tưởng tình cảm của tác phẩm văn học?


Lúc nào cũng vậy, nó được thể hiện bằng một hình thức nghệ thuật nhất định, bằng
một ngơn ngữ văn chương nhất định, cho nên phải bám sát văn bản ngôn từ, kết hợp
một các nhuần nhuyễn phân tích nội dung tư tưởng với phân tích nghệ thuật, để chỉ
ra cái hay, cái đẹp mà đánh giá tác phẩm.


d- Phải căn cứ vào ngôn ngữ và thể loại văn học để phân tích tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

dịch đẻ “tán” thì đó là một việc làm thô lậu, đơn giản, thiếu căn cứ. Phải đối chiếu với
bản phiên âm, bản dịch nghĩa để phân tích thì mới hợp lý. Phân tích một trun cổ,
phân tích một bài hịch, một bài cáo, bài phú, bài văn tế, một bài hát nói, một bài thơ
Đường luật… cần chú ý đến theer loại, đến đặc trưng ngôn ngữ, đến thi pháp, đến
màu sắc cổ kính, cổ điển của nó, và có một quan điểm lịch sử đúng đắn. Nếu cứ
phân tích như một bài văn, bài thơ hiện đại thì cịn nghĩa lý gì? Đã có người phân tích
bài “Văn tế Trương Quỳnh Như” của Phạm Thái như phân tích một bài thơ tình hiện
đại (1). Có hiện tượng đó vì người viết ít quan tâm đến thể loại và tính lịch sử của tác
phẩm văn học.


e- Một bài văn phân tích tác phẩm văn học của học sinh làm trên lớp, làm trong


phịng thi khơng phải là một bài giảng văn


Làm văn nhà trường có tính quy phạm chặt chẽ. Từ những kiến thức học đựoc trong
giờ giảng văn, học sinh phải trở thành con ong hút nhuỵ hoa làm ra mật, con tằm ăn
lá dâu làm ra kén, nhả ra tơ. Nếu nhà phê bình văn học chỉ viết vài dòng, vài đoạn
ngắn chỉ ra cái “thần”, cái “hồn” của một áng thư văn thì người học sinh phải “sợi tóc
chẻ làm tư”, phân tích chi tiết, tỉ mỉ, để có một bài văn dài 6, 7 trang… chữ viết nắn
nót, trình bày sáng sủa, trang trọng.


<b>HỆ THỐNG DÀN Ý ĐẠI CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP NÀ :x</b>


<b>Mrs.[T]hỏ Ngọc</b> 04-29-2009, 09:31 PM


NHỮNG NGƠI SAO XA XƠI CỦA LMK


(((nghệ thuật:+ngơi kể thứ nhất:tăng tính thuyết phục,bộc lộ ddc rõ nét suy nghĩ
tâm tư tình cảm của nv chính


+cách kể chuyện tự nhiên sinh động
+nghệ thuật mta tâm lí nv


+ngôn từ ngắn gọn dễ hiểu


<b>ĐỀ 1: ptich nv phg định</b>


*xuất thân :là cơ gái hà thành có tuổi thơ đẹp,hạnh phúc bên gia đình,cơ vào ct đc
ba năm


*hoàn cảnh sống: +trong một cái hang dưới chân cao điểm =>khó khăn gian khổ
*cơng việc :chạy trên cao điểm thông đg => nguy hiểm



<b>========>tinh thần trách nhiệm ca</b> <b>>>phẩm chất</b>


*yêu đời,hồn nhiên nhạy cảm giàu mơ mộng
_thik hát stac nhạc(dc trong bài)


_thik làm đẹp :ngắm mik trong gương,chải chuốt


_tự hào về vẻ đẹp của mik (nói một cách khiieem tốn...cơ có cái nhìn sao mà xa
xăm)


*thik những chàng trai mặc áo lik,đội mũ gắn sao =>yêu cm=>yêu nc
_tình cảm trong sáng ->thể hiện kín đáo


_lúc nc với anh lính:ko săn sóc vồn vã đứng từ xa nhìn
*nhớ và iu wa khứ của mik,kỉ nịm tủi thơ(nhớ trận mưa đá)
*jau tình cảm(gd,đồng chí đồng đội)


-khi hai đồng đội đi phá bom thì pd lo lắng,bồn chồn hơk n
-khi nho bị thương hết lịng săn sóc


-*dũng cảm bất khuất gan dạ
->lần phá bom(dc'')


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

iu nc


---còn


<b>tiếp---ĐỀ 2:ptich ba ntnxp</b>



*điểm chung


-xuất thân:là những cô gái hn


-hc sống và cd dc)--->tinh thần trách nhiệm cao


-hồn nhiên mơ mộng trong sáng_nho:nũng nịu,thik ăn kẹo dễ thương
_thao :thik chép bài hát


_pd :thik hát stacs nhạc,làm đẹp...
_lạc wan iu đời


_dũng cảm kiên cường (nho thao pd)========>iu nc


_tình đồng chí đồng đội sâu săcvs gắn bó :khi phá bom,khi nho bị thương
--->như gd


*riêng
+thao
+nho


+pd :+nhớ về tuổi thơ của mik
+đẹp tự hào về vẻ đẹp


+iu người lik =+++>tự tin.nhạy cảm
+kín đáo trong tình cảm


+dũng cảm theo cách riêng


=======>tiêu biểu cho th trẻ vn



LẶNG LẼ SA PA_ nguyễn Thành Long


I. Tóm tắt cốt truyện bằng n~ chi tiết chính.


- Trên chuyến xe đi Lào Cai có 2 n/v, ơng họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ
- Cảnh đẹp của Sa Pa trc cái nhìn của ơng họa sĩ


- Bác lái xe giới thiệu về ng` thanh niên 27t làm cơng tác khí tượng
- Cuộc gặp gỡ của 3 ng`


II. Chủ đề của truyện:


Trong cái lặng im của SA Pa,...như vậy cho đất nc.
III. Nhân vật anh thanh niên


+ Cô dộc nhất thế gian và rất thèm ng`
+ Mến khách, nhân ái, hồn hậu


+ có bản lĩnh--> cuộc sống tinh thần phong phú, say mê nghệ thuạtvaf khoa
học(bàn đọc và trang sách đọc dở)


Hồn cảnh sống: Cơ đơn, dễ chán nản, bỏ bê cơng việk
Tìm thấy cuộc sống tinh thần ngay trong trang sách anh đọc
* Sống có tổ chức, có tâm hồn, yêu thiên nhiên


Sống có lí tưởng trách nhiệm
+ Suy nghĩ về cuộc sống


+---cơng việc--> trách nhiệm


Khó khăn của cơng vịk


Kết quả


---> Phong cách sống của đoàn viên thanh niên
---> hồn nhiên


Nét tính cách: chân thực, thẳng thắn


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

- Nhân vật nổi bật trong truyện, gợi tình u thương, cảm phục trong lịg ng` đọc,
dánh dấu bc trưởng thành trong cuộc đời sáng tác của nhà văn.


TÁC PHẨM


1/ Nội dug: ghi nhớ, sgk
2/ nghệ thuật


- Xây dựng tình huống hợp lí, từ chuyến xe đến cuộc gặp gỡ của kon ng`


Với cốt truyện đơn giản---> nổi bật sự hi sinh thầm lặng của bao kon ng` lao động
đag góp cho cuộc sống


- Cách kể truyện tự nhiên theo trình tự thời gian, cái gì xảy ra trc kể trc


Tuy ko dùg ngôi 1 nhưng phần lớn ng` kể chuyện nhập vào vai ông họa sĩ, để qua
cái nhìn, suy nghĩ của ơng mà phản ánh nội dug.


- Phương thức thể hiện kết hợp tự sự trữ tình và bình luận
a, Chất trữ tình trong truyện



- Trong phong cảnh Sa Pa thơ mộng như 1 bưac tranh


- Chất thơ toát ra từ cuộc sống, tâm hồn, qua ý nghĩ, cảm xúc của n~ kon ng` trong
truyện


+ 1 cô gái....


+ 1 ơng họa sĩ... tâm hồn vẫn kịn nhạy cảm và yêu đời
+1 anh thanh niên...


- Chi tiết giàu chất thi ca


- Nhữg câu triết lí sâu sắc===> gợi nhìu suy nghĩ ở ng` đọc
làng


1,nghệ thuật


*tình huống truyện độc đáo-->nổi bật chủ đâef


đặt nv ơng hai vào tình huống éo le đấu tranh nội tâm gay gắt(đạt tình cảm ơng vào
chỗ thử thách khi nghe tin làng chợ dầu theo tây).Lựa chọn jua yêu làng và thù làng
*miêu tả tâm lí nv ông hai(qua các lời độc thaọi đối thoại nội tâm)


*ngôn ngữ mộc mạc giản dị(sử dụng lời ăn tiếng nói hàng ngày vào truyện cto ơng
hai am hỉu tâm lí đời sống người nd


2.ptich
A mb
B tb



a tổng(nêu chủ đề)


ca ngợi tình iu nc trong tk đầu kc chơk pháp một thứ tình cảm mới mẻ mãnh liệt đặc
biệt là người nd.thể hiện wa nv ông hai


b pt
*ông hai


***khi ddi tản cư


-cs vật chất :khó khăn tạm bợ nhưng vẫn dành tgian cho làng nc kc
-cs tinh thần


+nghĩ đến làng +vui náo nức +tự hào=======>gắn bó iu làng iu nc
+luôn nhớ làng :"chao ôii ông lão nhớ cái làng nhớ cái làng wa"


+dò tin tức kc (ở phơng thơng tin)--->tự hào
+ln có tinh thần kc cao


==========> iiu nc<=============
*** khi nghe tin làng chợ dầu theo tây


_ honaf cảnh +khơng gian nóng nực
+khi đang vui,tinh thần kc lên cao


***tâm trạng -ngạc nhiên bất ngờ (không tin)(cổ họng nghẹ ắng da mặt tê rân rân)
- đau đớn xấu hổ


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

+ bị khing bỉ hắt hủi
lảng tránh



+ko dám ra ngoài


+--->tủi cực đau đớn day dứt dày vò
_căm giận làng theo tây


_nc với con:giải tỏa nỗi lịng :gắn bó thủy chung cm kc cụ hồ
===>đấu tranh nội tâm


-iu làng }} nỗi đau của ông
-thù làng


---> iu nc
****khi nghe tin cải chính


-tâm trạng sung sướng +nét mặt hăm hở
- chia wa cho con


- khoe với mọi nguiwof
--->tự hào iu làng iu nc
*@ tinh thần kc của người nd
-hình ảnh làng


- hình ảnh dân tản cư
- hình ảnh mụ chủ nhà
---> tinh thần kc lên cao


<b>* DÀn BÀi ViẾng LĂng BÁc</b>


A/ TÌM HIỂU ĐỀ:



I/ Kiểu bài: Phân tích tác phẩm


II/ Nội dung: Phân tích giá trị NGHỆ THUẬT + NỘI DUNG bài thơ “Viếng lăng Bác”


NGHỆ THUẬT:
_ Thể thơ tám chữ.


_ Từ xưng hô “con” giàu sắc thái biểu cảm.


_ Từ cảm “ôi”, câu cảm thể hiện niềm xúc động chân thành, tha thiết.


_ Lối nhân hóa sinh động, gợi cảm: “Mặt trời đi qua trên lăng”, “Cây tre trung
hiếu”…


_ Hình ảnh ẩn dụ tinh tế, tài tình, độc đáo, gợi sự liên tưởng phong phú: “mặt trời
trong lăng”, “hàng tre”, “bảy mươi chín mùa xuân”…


_ Lời thơ nhẹ nhàng, tha thiết, chứa chan cảm xúc.


_ Điệp ngữ “muốn làm” được đặt ở đầu 2 câu thơ liên tiếp có tác dụng nhấn mạnh
ước nguyện chân thành, tha thiết của tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

B/ DÀN Ý:
I/ MỞ BÀI:


_ “Viếng lăng Bác” là bài thơ giàu chất trữ tình đằm thắm, thiết tha được Viễn
Phương sáng tác trong dịp đến thăm nơi yên nghỉ cuối cùng của Bác Hồ - vị cha già
kính yêu của dân tộc.



_ Với niềm xúc động chân thành, nhà thơ đã bày tỏ lịng kính u, biết ơn sâu sắc,
niềm thương nhớ Bác khôn nguôi:


Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác…
….. Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
( Tháng 4/1976 )


_ Hòa cùng nguồn cảm xúc dạt dào của nhà thơ, chúng ta sẽ cảm nhận và rung
động sâu xa trước tình cảm chân thành, thắm thiết của người con miền Nam đối với
Bác Hồ kính yêu.


II/ THÂN BÀI: (Kết hợp phân tích nghệ thuật và nội dung)


KHỔ 1:


_ Như một người con xa, nay mới có dịp được trở về viếng thăm “người cha” đã
khuất, Viễn Phương vô cùng bồi hồi, xúc động:


Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát…


_ Trong tâm trạng của người con miền Nam “mong Bác nỗi mong cha”, nhà thơ bày
tỏ tình cảm chân thành, tha thiết của mình đối với vị cha già kính u của dân tộc.
Tác giả xưng “con” biểu lộ tình cảm gần gũi, thân thương, kính trọng đối với Bác.
_ Giờ đây, đứng trước lăng mộ của Người, trong lòng nhà thơ dâng trào bao xúc
động, nghẹn ngào. Nguồn cảm xúc ấy cứ dâng trào mãnh liệt:


Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.



Từ cảm “ôi” đã diễn tả niềm cảm xúc sâu xa của nhà thơ trước cảnh tượng thiêng
liêng nơi lăng Bác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

“bão táp mưa sa” nhưng hàng tre vẫn xanh tươi, vẫn vươn lên mạnh mẽ. Từ bao đời
nay, tre đã trở thành biểu tượng cho con người Việt Nam có chí khí cao cả, có sức
sống bền bỉ, dẻo dai, kiên cường, bất khuất:


“Loài tre đâu chịu mọc cong


Chưa lên đã thẳng như chông lạ thường.”
( Tre Việt Nam – Nguyễn Duy )


_ Trong tâm hồn nhà thơ thì hình ảnh hàng tre đứng quanh lăng Bác biểu tượng cho
toàn thể dân tộc Việt Nam đã hợp thành đội ngũ trang nghiêm, chỉnh tề, vững vàng
bên lăng Bác. Dù trong hoàn cảnh nào, cả dân tộc vẫn giữ trọn tấm lịng thành kính
hướng về Bác.


KHỔ 2:


_ Với tấm lịng thành kính Viễn Phương tiếp tục suy tưởng khi đứng trước lăng Bác,
ngợi ca công ơn của Người:


Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ


_ Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là mặt trời của thiên nhiên, nguồn ánh sáng
rực rỡ, vĩnh viễn, bất tận trên thế gian này. Ánh sáng mặt trời đem lại sự sống cho
con người và vạn vật


_ Từ hình ảnh thiên nhiên, tác giả đã liên tưởng và sáng tạo một hình ảnh ẩn dụ tinh


tế, tài tình, độc đáo, “mặt trời trong lăng rất đỏ” để ca ngợi công ơn to lớn và sự cao
cả, vĩ đại của Bác. Trong tâm hồn Bác ngời sáng một vầng hào quang rực rỡ như
nguồn sáng của mặt trời đã đem lại sự sống cho con người, vạn vật. Đó cũng chính
là vầng hào quang chói lọi của lí tưởng cách mạng mãi mãi soi sáng cho dân tộc Việt
Nam vững bước trên con đường phía trước, con đường vươn tới một tương lai tốt đẹp
– một đất nước Việt Nam giàu mạnh.


_ Trong trái tim của Bác còn tỏa sáng tình yêu thương nồng ấm, thiết tha đối với
dân tộc và đất nước. Nhu nhà thơ Tố Hữu đã viết:


“Bác ơi! Tim Bác mênh mơng thế
Ơm cả non sông mọi kiếp người”


_ Với niềm xúc động chân thành, Viễn Phương đã bày tỏ lòng yêu kính, biết ơn sâu
sắc đối với Bác:


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

_ Hình ảnh tiêu biểu, sinh động “dịng người đi trong thương nhớ” gợi lên trước mắt
người đọc cảnh nhân dân từ mọi miền đất nước về thủ đô Hà Nội để viếng thăm lăng
Bác.


_ Trong tình cảm nhớ thương, biết ơn Bác vơ hạn, họ kết thành những “tràng hoa”
đời tuyệt đẹp thành kính dâng lên Bác. Những tràng hoa tươi thắm ấy tượng trưng
cho muôn triệu cuộc đời nở hoa dưới ánh sáng mặt trời rực rỡ của Bác. Cả dân tộc
đời đời tưởng nhớ và ghi khắc trong lịng cơng ơn to lớn của Bác.


_ Với lòng biết ơn vơ hạn, Viễn Phương đã sáng tạo hình ảnh ẩn dụ, giàu ý nghĩa
tượng trưng “bảy mươi chín mùa xuân” để ca ngợi sự cống hiến, hi sinh cao cả của
Bác Hồ kính yêu. Cuộc đời của Người là “bảy mươi chín mùa xuân” tươi đẹp, cống
hiến trọn vẹn cho dân tộc, cho đất nước. Suốt hơn nữa thế kỉ, Bác đã chiến đấu, hy
sinh để đem lại độc lập tự do cho dân tộc, đem lại cuộc sống hịa bình, ấm no, hạnh


phúc cho nhân dân. Sự cống hiến của Bác thật cao cả, vĩ đại! Vì vậy Bác cịn sống
mãi trong niềm ngưỡng mộ, tơn kính của nhân dân.


KHỔ 3:


Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền


_ Bác đang yên nghỉ giữa lòng quê hương, đất nước thân yêu. Tác giả đã chọn lọc
một hình ành đặc sắc, sinh động, giàu sức gợi cảm “vầng trăng sáng dịu hiền” để ca
ngợi tâm hồn trong sáng cao đẹp tuyệt vời của Bác. Trong cảm nhận của nhà thơ,
Bác mãi mãi là một vầng trăng ngời ngời tỏa sáng tình yêu thương cho con người và
cuộc đời.


_ Hình ảnh của Bác vừa vĩ đại, vừa bình dị và gần gũi.


_ Hình ảnh vầng trăng vĩnh hằng của trời đất, tượng trưng cho sự bất tử của Bác. Vị
cha già kính u của dân tộc cịn sống mãi cùng non sơng, đất nước, sống mãi trong
tâm trí mỗi người dân đất Việt.


_ Trong tình cảm của dân tộc thì Bác vẫn cịn sống mãi nhưng trong thực tế, Bác đã
vĩnh biệt chúng ta. Vì vậy, nhà thơ vô cùng đau đớn thương tiếc Bác:


Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

đắp được. Dân tộc đã mất đii một vị lãnh tụ vĩ đại, một người cha già kính yêu. Cảm
xúc ấy dường như đã len lỏi vào từng câu từng chữ, khiến người đọc cũng không khỏi
nghẹn ngào.



KHỔ 4:


_ Khi tạm biệt Bác để trở về miền Nam , trong lòng nhà thơ dâng trào một nỗi buồn
thương da diết:


Mai về miền Nam thương trào nước mắt


Hình ảnh chứa chan cảm xúc “thương trào nước mắt” diễn tả cái cảm xúc đang dâng
trào mãnh liệt trong lòng tác giả. Nhà thơ lưu luyến, nhớ thương, xúc động, nghẹn
ngào, không muốn rời xa người cha già kính yêu


_ Với tất cả tấm lịng thành kính, biết ơn Bác, người con miền Nam đã bày tỏ ước
nguyện tha thiết của mình:


Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.


_ Điệp ngữ “muốn làm” được đặt ở đầu 3 câu thơ liên tiếp nhau gắn liền với hình
ảnh “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương” và “cây tre trung hiếu” thể hiện ước
nguyện giản dị, chân thành và sâu sắc của nhà thơ. Trước anh linh của Bác, người
con miền Nam xin hứa luôn giữ mãi phẩm chất cao đẹp, trong sáng, cốt cách của con
người Việt Nam để mãi mãi xứng đáng là lớp cháu con của Bác.


_ Hình ảnh nhân hóa sinh động giàu sức biểu cảm “cây tre trung hiếu” gợi lên hình
ảnh những người con trung kiên, hiếu nghĩa, một lịng vì nước vì dân. Tác giả nguyện
sống xứng đáng là người con trung hiếu của dân tộc. Lời hứa đó thể hiện tình cảm
thành kính thiêng liêng của người con miền Nam và của nhân dân cả nước thành tâm
hướng về Bác vô hạn.



III/ KẾT BÀI:


_ Bài thơ giàu chất trữ tình đằm thắm, thiết tha. Với những hình ảnh ẩn dụ tinh tế,
giàu tính thẩm mĩ và các biện pháp tu từ đặc sắc… đã thể hiện tình cảm chân thành,
thiết tha, sâu sắc của nhà thơ và đồng bào miền Nam đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ
mn vàn kính u của dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

_ Là những HS còn ngồi trong ghế nhà trường, là thế hệ tương lai tiếp bước cha ông,
chúng em sẽ nguyện cố gắng thật nhiều, trong học tập lẫn rèn luyện đạo đức, để
thực hiện được ước mong của Bác Hồ kính yêu:


“Tuổi xanh vững bước lên phơi phới
Đi tới như lòng Bác hằng mong.”


<b>CẢNH NGÀY XUÂN</b>


I. . giới thiệu khái quát đoạn trích


1. Đoạn trích chị em Tk nằm ngay sau phần giới thiệu chị em TK. Trong đoạn trích
này ND miêu tả cảnh du xuân của mấy chị em nhà họ Vương. Đây là đoạn thể hiện
tài năng của ND trong việc miêu tả thiên nhiên.


2. Đoạn thơ miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân ở thời điểm của tiết Thanh minh. Mùa
xuân và cảnh thiên nhiên trong đoạn thơ hiện lên tươi đẹp, trong sáng ở giai đoạn
rực rỡ và viên mãn nhất của mùa xuân. Ko chỉ mt vẻ đẹp của mùa xn ND cịn làm
sống lại những nét văn hố qua ko khí lễ hội mùa xuân. Và như thể ở đây vừa có vẻ
đẹp thiên nhiên, vừa có vẻ đẹp con người


3. Trong đoạn thơ này ND đã kết hợp tả và gợi, tả cảnh ngụ tình theo phong cách
ước lệ cổ điển với 1 ngôn ngữ giàu chất tạo hình qua bức tranh mùa xuân người đọc


còn cảm nhận rất rõ tâm trạng của nhân vật


II. phân tích


1. Cảnh thiên nhiên mùa xuân trong đoạn thơ đc ND mt theo bước đi của thời gian .
+ 4 câu đàu: mt cảnh sắc mùa xuân.


+ 8 câu thơ tiếp: mt cảnh lễ hội trong tiết thanh minh


+ 6 câu còn lại : cảnh chị em kiều đi chơi xuân về khi lễ hội đã tan
Suy ra: Cách tổ chức kết cấu này cho phép người đọc nhận ra:


+ sự vận động của thiên nhiên và sự biến đổi trong tâm trạng của con người
+ Cảnh xuân trong những câu mở đầu với cảnh xuân sau khi chị em kiều đi chơi về
có những thay đổi rõ rệt


Suy ra: từ đó cho ta thấy :+ Cảnh vật và tâm trạng của nhân vật trong thơ ND bao
giờ cũng vận động chứ ko đứng yên


+ Cách miêu tả như ND cũng là theo nguyên tắc của thơ xưa, tả cảnh ngụ tình có
nghĩa là ở đoạn thơ này ND đã mt cảnh mùa xuân qua cái nhìn tâm trạng và đc nhìn
từ tâm trạng của chị em kiều theo nguyên tắc: “cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu_ người
bùn cản có vui đâu bao h”


2. cảnh mùa xuân hiện ra trong 4 câu thơ đàu là cảnh sắc đc nhìn và mt từ cái nhìn
thời gian và ko gian.


a. * hai câu thơ đầu: là cái nhìn thời gian về khung cảnh mùa xuân đó là cái nhìn
thấm đẫm tâm trạng của người trong cuộc.



“Ngày xuân con én đưa thoi


thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.”


- câu thơ”con én đưa thoi ” có thể hiểu theo 2 cách


- + những cánh chim én có thực rộn ràng bay lượn giưã bầu trời mùa xuân trong
sáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

- Ở câu thơ thứ hai từ “đã ngoài ” ẩn chứa thái độ để làm rõ hơn cái nhiì của chị em
kiêù về bc đi thời gian của mùa xn và đó là một cái nhìn nuối tiếc.


Ở đây do sự tiết chế về ngôn từ, do tư cách của người chuyện, do quy tắc của việc
biểu hiện cái tôi trong văn học trung đại ND đã ko thể để cho nhân vật của mình kêu
lên đầy nuối tiếc, đầy táo bạo và mãnh liệt như xuân Diệu_ nhà thơ mới nhẩt trong
các nhà thơ mới, sống sau ND một TK_ dù là tâm trạng mới bc đi của mùa xuân là
giống nhau ở 2 thi sĩ


“tôi ko chờ nắng hạ mới hoài xuân ”(vội vàng)
Nên “nhanh lên chứ, vội vàng lên với chứ
Em em ơi tình non đã già rồi”(giục giã)


b. Hai câu thơ TT là bức tranh xuân đc tả cận cảnh với cái nhìn ko gian
dẫn đến đây là 2 ccâu thơ “tuyệt bút ” của ND khi mt


+ chỉ với 2 câu mà mùa xuân hiện ra như 1 bức tranh có màu sắc tuyệt diệu, hài
hồ. Thảm cỏ xanh làm nền cho bức tranh xuân, trên cái nền ấy điểm một vài bông
hoa lê trắng. Màu xanh và sắc trắng tôn vinh lẫn nhau tạo ra một bức tranh xuân
sống động, mới mẻ, tinh khiết và tràn đầy sức sống.



+ chỉ bằng 1 nét vẽ cảnh mùa xuân dường như đc nhuộn trong 1 màu xanh mềm
mại và non tơ dẫn đến Cách dùng từ của ND đã khéo léo tài tình tạo nên màu xanh
ấy:” cỏ non xanh rợn chân trời ” . Trong câu thơ này từ “non ”vừa bổ nghĩa cho từ cỏ
đứng trước lại vừa bổ nghĩa cho từ xanh ở sau dẫn đến gợi nên một màu xanh non tơ
và óng ả. Ko chỉ thế 3 từ “tận chân trời” lại khiến cho màu xanh ấy kết thành hình
khối, mở rộng ko gian đó là 1 ko gian xuân bạt ngàn màu xanh (ngập tràn màu
xanh) đúng hơn là một biển cỏ xanh mênh mông, bát ngát và dào dạt sức sống xanh
non tơ.


+ trên kái nền xanh gợi cảm ấy tác giả điểm xuyết sắc trắng của một vài bông hoa
trên cành lê “cành lê trắng điểm 1 vài bông hoa ”


Suy ra chọn cỏ và hoa lê để mt sắc xuân đã có từ rất lâu trong thơ ca cổ của TQ
“ cỏ thơm liền với trời xanh


Trên cành llê có mấy bơng hoa ”


Và có thể viết 2 câu thơ tuyệt bút ND đã mượn ý thơ từ 2 câu thơ cổ nói trên. Bằng
tài hoa của mình ND đã thổi vào đó ngọn gió vơ hình của tâm tình để tạo ra sự sống
riêng biệt cho 2 câu thơ tuyệt bút của mình. Đó là ở câu thơ thứ 2 ơng thêm 1 từ
“trắng , ơng lại cịn đảo ngược cách dùng từ thông dụng:” điểm trắng” suy ra “trắng
điểm ” . Chỉ một chút thay đổi đó thơi tưởng là đơn giản vậy mà ngồi ND khó có ai
có thể làm đc bởi vì nếu viết “điểm trắng ” thì ý thơ và âm điệu của thơ ko thay đổi
nhưng đó chỉ là cách vẽ tranh của một nghệ nhân bắt chước mà ko có hồn . Kịn ND
viết trắng điểm thì lại ltạo ra yếu tố bất ngờ nghĩa là “trắng điểm”tức là điểm xuyết
vaof đó 1 chút sắc trắng của mình để chăm chút tô điểm cho sắc xuân bằng bàn tay
vô hình của tạo hố 1 cáhc ý nhị và tinh tế chính vì thế thêm 1 chút, thay đổi 1 chút
vậy mà hương của cành lê tưởng chừgn như ko cịn là chính nó. Cách dùng từ # biệt
đã giúp ND tạo ra 2 thế giới # biệt và như thế ND đã tô đậm hợp cảnh mùa xuân
sinh động, gợi cảm, non tơ, mềm mại và hài hoà màu sắc



c. * 8 câu thơ tiếp nối. là khung cảnh lễ hôi
- lễ tảo môj đi sửa sang, quét dọn mộ người thân
- Hội đạp thanh hội chơi mùa xuân ở làng quê


Suy ra ở 8 câu thơ này ND thiên về Mt cảnh hội hơn là lễ. Đặc biệt ông nhấn mạnh
ko khí náo nức, rộn ràng của lễ hội


Vì + sự nơ nức và đẹp đẽ, rộn ràng của lễ hôi tương hộp với vẻ đẹp trong sáng và
tràn đầy sức sống của mùa xuân ở 4 câu thơ đầu


+ cảnh ngày xuân đc cảm nhận và mt từ cái nhìn của 2 chị em Kiều tạo nên sự trẻ
trugn trong tâm hồn của 2 chị em cũgn tương hợp với ko khí nơ nức, rộn ràng của
ngày xuân hơn là lễ hội


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

cái cớ kịn cái đích thực cuối cùng ở đây là hội. Bởi vậy “tro tiền giấy bay”, “thoi vàng
vó rắc” chỉ qua chỉ là nghi thức tất cả ND dành cho sự náo nhiệt của giai nhân, taàitử
của xe ngựa của áo quần là lượt trong ko khíi đoá ko rõ gương mặt ai nhưng ai cũng
thấy mình ở trong đó .


- Những từ láy ***g trong phép đối hài hoà nhập 1 cách hài hào tạo ra ấn tượgn ko
thể quên về lễ hội nơ nức rộn ràng. Đồng thời ND cũng qua đó để mt tâm trạng nô
nức, háo hức của chị em kiều


D. sáu câu thơ cuối: tả cảnh chị em Kiều đi chơi xuân trở về: Đây là lúc hội đã tàn,
ngày chuyển về chiều nghĩa là cảnh xuân đang dc mt đúgn theo bc đi của thời gian
- Ở sáu câu thơ này ND đã dùng 1 loạt từ láy mang nghĩa giảm nhẹ


giảm nhẹ về động tác và về chuyển động : tà tà, thơ thẩn, nao nao



giảm nhẹ về sự sắc nét của bức tranh phong cảnh làm cho phong cảnh trở nên mơ
hồ và thấp thoáng hơn: Thanh thanh, nho nhỏ


dẫn dếm các từ láy này tạo ra sự tương phản với cảnh lễ hội tấp nập, nhộn nhịp ở
trc đó. Đồng thời sự tương phản này cũng khắc hoạ tinh tế bc di của thời gian
- Nhưng bên cạnh đó là các từ láy với nghĩa giảm nhẹ lại còn mang nghĩa bc. Nghĩa
là chúng ko chỉ mt cảnh sắc TN theo bc đi của thơi gian mà còn nhuộm màu tâm
trạng đó là tâm trạng “thơ thẩn “ của chị em kiều lúc này , tất cả đều lắng xuống,
chơi vơi trong 1 trạng thái mơ hồ nhưng có thực. NÓ là nỗi bâng khuâng, man mát
nuối tiếc trong 1 nỗi buồn ko goi tên đc. Cách dùng từ như thế này biểu hiện tài hoa
và khéo léo của ND khi lấy đà để chuyển ý của câu chuyện sang một cảnh mớivới 1
tâm trạng mới của nhân vật. Cảnh chị em kiều sẽ gặp nấm mồ đạm tiên


- So sánh cảnh mùa xuân trong 6 câu đầu với 6 câu cuối trong đoạn trích : kái này
tự làm đi mình mỏi tay và đau lưng quá đi


4. tóm lại cảnh xuân và tâm trạng của con người trong đoạn trích có mối tương
quan lẫn nhau


- cảnh xuân trong trẻo đầy sức sống tương hợp với nô nức, trẻ trung của những giai
nhân, tài tử đi lễ hội mùa xuân


- sự thay đổi của cảnh vật cũng khiến cho hành động, tâm trạng của con người thay
đổi


đó chính là nét đặc sắc của thiên tài ND, sự tương hợp đó đã tạo nên vẻ đẹp hài hoà
giữa cảnh và người. Tất cả tạo nên 1 bức tranh trong trẻo, đầy sức sống: Bức tranh
mùa xn.


* <b>Phân tích hình ảnh người lính trong bài Đồng Chí và BTVTĐXKK</b>



A/ Mở bài:


Trong những năm tháng gay go quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chuống Mỹ cứu
nước, từ tuyến đường Trường Sơn đầy bom rơi đạn nổ, nhà thơ PTD, đồng thời cũng
là anh bộ đội, đã viết những bài thơ ca ngợi những ng lính trên chiến trường với 1
phong cách thơ riêng biệt, độc đáo. Tác phẩm BTVTDXKK sáng tác năm 1969 ( Trích
trong tập “ Vằng Trăng quần lửa” là 1 trong những bài thơi để lại ấn tượng mạnh
trong lòng ng đọc.


B/ Thân Bài:


I/ Phân tích nét độc đáo của bài thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

hứng chính xun xuốt bài thơ. Hình tượng độc đáo nhưng hợp lí này đã có tác dung
gây tác dụng mạnh và là cơ sở làm nổi bậc tính dũng cảm, sự lạc quan và quyết tâm
chiến thắng của các anh lính lại xe thời chống Mỹ. Hình tượng những chiếc xe ko kính
đã gợi lên những nguy hiểm cận kè, sự hi sinh và cái chết đã ở đâu đó rất gần những
ng lính như lời thơ vẫn bình dị lại có giọng thản nhiên, pha chút ngang tàn:


Ko có kính ko phải vì xe ko có kính
Bom giật bom run kính vỡ đi rồi


Hình tượng những chiếc xe ko kính cũng đã góp phần cụ thể hóa những khó khăn
gian khổ mà cách anh bộ đội lái xe phải chị đựng. Điệp ngữ “ Ko có kính” ở đầu các
khổ thơ vừa có tác dụng nhấn mạnh, giúp ta cảm nhận đc những gian khổ hiểm nguy
của ng lính Trường Sơn, vừa khắc họa đc nét tiếu biểu của con ng VN: “Dù thiếu
thốn, khó khăn vẫn kiên cường chiến đấu”.


II/ Hình ảnh các chiến sĩ lái xe:



Trong bom đạng khốc liệt của chiến tranh anh lính lái xe vẫn giữ tư thé hiên ngang,
hướng về phía trước, thực hiện nhiệm vụ với tinh thần: “ Tất cả vì tiền tuyến, tất cả
vì miền Nam ruột thịt”. Câu thơ chuyển giai điệu thanh thản, tự tin:


Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thằng.


Tư thế hiên ngang, lòng tự tinh của anh bộ đội cần đc biểu lộ ở chỗ bất chấp mọi
khó khăn, nguy hiểm, “ bom giật, bom rung” của kẻ thù trong gian khổ, các anh vẫn
cảm nhận đc cái đẹp của thiên nhiên, dất nước, những nét đẹp lãng mạng mặt dù cái
chết còn lẩn quẩn, rình rập ở xung quanh: Hình ảnh thơ đẹp 1 cách mạnh mẽ:


Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồn lái.


Những thiếu thốn, khó khăn vật chất lại cịn ko ngăn đc con đường anh đi tới:
Ko có kính, ừ thì có bụi


Ko có kính ừ thì ước áo


Câu thơ mộc mạc như 1 lời nói thường ngày, tài dí dỏm, tinh ngịch đã giúp ta hiểu
đc cảm nhận của anh bộ đội về những khó khăn đó. Có khó khăn nhưng nào đáng kể
gì và cách giải quyết của các anh cũng thật bất ngờ, thú vị:


Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha


Chưa cần thay lái trắm cây số nữa
Mưa ngừng gió lùa khơ mau thơi



Đọc những câu tiếp theo ta càng thấy những khó khăn giang khổ càng nhiều hơn,
chiến tranh càng ác liệt hơn.


Ko có kính rồi xe ko có đèn
Ko có mui xe thùng xe có xướt


Nhưng dù khó khăn ác liệt đến mấy, ý chí quyết tâm chiến đấu của các anh vẫn ko
hề lay chuyển:


Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có 1 trái tim


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

Có thể nói tình iu tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã
khích lệ, động viên ng chiến sĩ lái xe ngược khó khăn gian khổ, ln lạc quan, bình
tĩnh nắm chắc tay lái, nhìn thẳng đúng hướng để đưa đồn xe tới đích. Ngữ điệu
trong câu thơ cuối thật nhẹ nhõm nhưng khả năng khắc họa hình tượng nhân vật
thật sâu sắc. Câu thơ còn muốn hướng ng đọc về 1 chân lí của thời đại chúng ta: Sức
mạnh quyết định chiến thắng ko phải là vũ khí, là cơng cụ…, mà là con ng mang trái
tim nồng nàn iu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm và 1 niềm lạc qua, tin tưởng
vững chắc.


C/ Kết bài:


Đọc BTVTĐXKK chúng ta thú vị nhận ra cái chất giọng rất trẻ, rất lính của bài thơ.
Chất giọng ấy bắt nguồn từ sức trẻ, từ tâm hồn phơi phới của thê hệ chiến sĩ VN mà
chính nhà thơ đã sống, đã trải niệm. Bài thơ, chất thơ tỏa ra từ thực tế cuộc chiến
đấu đã khắc họa đậm nét những vẻ đẹp phẩm giá của con ng, vẻ đẹp của thế hệ trẻ
VN trên tuyến đường trường Sơn giang khổ, hào hùng.



<b>* Phân tích hình ảnh “Đầu súng trăng treo” trong bài thơ Đồng chí </b>
<b>của Chính Hữu.</b>


Khơng biết tự bao giờ ánh trăng đã đi vào văn họcnhư một huyền thoại đẹp. ở truyền
thuyết “Chú cuội cung trăng” hay Hằng Nga trộm thuốc trường sinh là những mảng
đời sống tinh thần bình dị đậm đà màu sắc dân tộc của nhân dân ta. Hơn thế nữa,
trăng đã đi vào cuộc chiến đấu, trăng bảo vệ xóm làng, trăng được Chính Hun kết
tinh thành hình ảnh “đầu súng trăng treo” rất đẹp trong bài thơ Đồng chí của mình.
Sau hơn mười năm làm thơ, Chính Hữu cho ra mắt tập “Đầu súng trăng treo”. Thế
mới biết tác giả đắc ý như thế nào về hình ảnh thật đẹp, thơ mộng, rất thực nhưng
khơng thiếu nét lãng mạn đó.


Đầu súng trăng treo- đó là một hình ảnh tả thực một bức tranh tả thực và sinh
động. Giữa núi rừng heo hút “rừng hoang sương muối” giữa đêm thanh vắng tĩnh
mịch bỗng xuất hiện một ánh trăng treo lơ lửng giữa bầu trời. Và hình ảnh này cũng
thật lạ làm sao, súng và trăng vốn tương phản với nhau, xa cách nhau vời vợi bỗng
hoà quyện vào nhau thành một hình tượng gắn liền. Nhà thơ khơng phải tả mà chỉ
gợi, chỉ đưa hình ảnh nhưng ta liên tưởng nhiều điều. Đêm thanh vắng người lính bên
nhau chờ giặc tới, trăng chếch bóng soi sáng rừng hoang bao la rộng lớn, soi sáng
tình cảm họ, soi sáng tâm hồn họ… Giờ đây, người chiến sĩ như khơng cịn vướng bận
về cảnh chiến đấu sắp diễn ra, anh thả hồn theo trăng, anh say sưa ngắm ánh trăng
toả ngời trên đỉnh núi, tâm hồn người nông dân “nước mặn đồng chua” hay “đất cày
trên sỏi đá” cằn cỗi ngày nào bỗng chốc trở thành người nghệ sĩ đang ngắm nhìn vẻ
đẹp ánh trăng vốn có tự ngàn đời. Phải là một người có tâm hồn giàu lãng mạn và
một phong thái ung dung bình tĩnh lạc quan thì anh mới có thể nhìn một hình ảnh
nên thơ như thế. Chút nữa đây không biết ai sống chết, chút nữa đây cũng có thể là
giây phút cuối cùng ta còn ở trên đời này nhưng ta vẫn “mặc kệ”, vẫn say sưa với
ánh trăng.


ánh trăng như xua tan cái lạnh giá của đêm sương muối, trăng toả sáng làm ngời


ngời lòng người, trăng như cùng tham gia, cùng chứng kiến cho tình đồng chí đồng
đội thiêng liêng của những ngươì linh. Trăng truyền thêm sức mạnh cho họ, tắm gội
tâm hồn họ thanh cao hơn, trong sạch hơn, trăng cũng là bạn, là đồng chí của anh
bộ đội Cụ Hồ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

hợp nhau; súng tượng trưng cho chiến đấu- trăng là hình ảnh của thanh bình hạnh
phúc. Súng là con người, trăng là đất nước quê hương của bốn nghìn năm văn hiến.
Súng là hình ảnh người chiến sĩ gan dạ kiên cường- Trăng là hình ảnh người thi sĩ. Sự
kết hợp hài hoà tạo nên nét lãng mạn bay bổng vừa gợi tả cụ thể đã nói lên lí tưởng,
mục đích chiến đấu mà người lính ấy đang tham gia. Họ chiến đấu cho sự thanh
bình, chiến đấu cho ánh trăng mãi nghiêng cười trên đỉnh núi. Ta hãy tưởng tượng
xem: giữa đêm khuya rừng núi trập trùng bỗng hiện lên hình ảnh người lính đứng đó
với súng khốc trên vai, nịng súng chếch lên trời và ánh trăng lơ lửng ngay nòng
ngọn súng. Đó là biểu tượng Khát Vọng Hồ Bình, nó tượng trưng cho tư thế lạ quan
bình tĩnh, lãng mạn của người bảo vệ Tổ quốc.


Cái thân của câu thơ “Đầu súng trăng treo” nằm ở từ “treo”, ta thử thay bằng từ
mọc thì thật thà quá, làm sao còn nét lãng mạn? Và hãy thay một lần nữa bằng từ
“lên” cũng khơng phù hợp, vì nó là hiện tượng tự nhiên: trăng tròn rồi khuyết, trăng
lên trăng lặn sẽ khơng cịn cái bất ngờ màu nhiệm nữa. Chỉ có trăng “treo”. Phải, chỉ
có “Đầu súng trăng treo” mới diễn tả hết được cái hay, cái bồng bềnh thơ mộng của
một đêm trăng “đứng chờ giặc tới”, chẳng thơ mộng chút nào. Ta nên hiểu bài thơ
dường như được sáng tác ở thời điểm hiện tại “đêm nay” trong một không gian mà
mặt đất là “rừng hoang sương muối” lạnh lẽo và lịng đầy phấp phỏng giặc sẽ tới có
nghĩa là cái chết có thể đến từng giây từng phút. Thế nhưng người lính ấy vẫn đứng
cạnh nhau để tâm hồn họ vút lên nở thành vầng trăng. Nếu miêu tả hiện thực thì
vầng trăng ấy sẽ có hình khối của không gian ba chiều. ở đây, từ điểm nhìn xa, cả
vầng trăng và súng đều tồn tại trên một mặt phẳng và trong hội hoạ nó mang tính
biểu tượng cao. Tố Hữu cũng có một câu thơ kiểu này: “ánh sao đầu súng bạn cùng
mũ nan” và Phạm Tiến Duật thì “Và vầng trăng vượt lên trên quầng lửa” hay Hoàng


Hữu “Chỉ một nửa vầng trăng thơi một nửa. Ai bỏ qn ở phía chân trời…”. Nhưng có
lẽ cơ kết nhất, hay nhất vẫn là “Đầu súng trăng treo”.


Như đã nói ở trên, khơng phải ngẫu nhiên mà Chính Hun lấy hình ảnh “Đầu súng
trăng treo” làm tựa đề cho tập thơ của mình. Nó là biểu tượng, là khát vọng và cũng
là biểu hiện tuyệt vời chất lãng mạn trong bài thơ cách mạng. Lãng mạng nhưng
khơng thốt li, không quên được nhiệm vụ và trách nhiệm của mình. Lãng mạn vì
con người cần có những phút sống cho riêng mình. Trước cái đẹp mà con người trở
nên thờ ơ lãnh đạm thì cuộc sống vơ cùng tẻ nhạt. Âm hưởng của câu thơ đã đi đúng
với xu thế lịch sử của dân tộc. Hình ảnh trăng và súng đã có nhiều trong thơ Việt
Nam nhưng chưa có sự kết hợp kì diệu nào bằng hình ảnh Đầu súng trăng treo của
Chính Hữu


Nếu như Elsa Trioslet – nữ văn sĩ Pháp có nói “Nhà văn là người cho máu” thì tơi
hãnh diện nói với văn sĩ rằng: Chính Hữu đã cho máu để tạo nên câu thơ tuyệt vời để
cống hiến cho cuộc kháng chiến của chúng ta. Và bạn ơi! Bạn hãy thả cùng tôi những
chú chim trắng trên bầu trời, hãy hát vang lên ca khúc Hồ Bình vì hình ảnh đầu
súng trăng treo mà nhà thơ đã gởi vào đó bao nhiêu khát vọng nay đã thành hiện
thưc.


Phải chăng chất lính đã thấm dần vào chất thi ca, tạo nên dư vị tuyệt vời cho tình "
Đồng chí"


Nói đến thơ trước hết là nói đến cảm xúc và sự chân thành. Khơng có cảm xúc, thơ
sẽ khơng thể có sức lay động hồn người, khơng có sự chân thành chút hồn của thơ
cũng chìm vào quên lãng. Một chút chân thành, một chút lãng mạn, một chút âm
vang mà Chính Hữu đã gieo vào lịng người những cảm xúc khó quên. Bài thơ " Đồng
chí" với nhịp điệu trầm lắng mà như ấm áp, tươi vui; với ngơn ngữ bình dị dường như
đã trở thành những vần thơ của niềm tin u, sự hy vọng, lịng cảm thơng sâu sắc
của một nhà thơ cách mạng



</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

vị của thơ ca tạo nên những vần thơ nhẹ nhàng và đầy cảm xúc?


Trong những năm tháng kháng chiến chống thực dân Pháp gian lao, lẽ đương
nhiên,hình ảnh những người lính, những anh bộ đội sẽ trở thành linh hồn của cuộc
kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Mở đầu bài thơ"Đồng
chí", Chính Hữu đã nhìn nhận, đã đi sâu vào cả xuất thân của những người lính:
"Quê hương anh đất mặn đồng chua


Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"


Sinh ra ở một đất nước vốn có truyền thống nông nghiệp, họ vốn là những người
nông dân mặc áo lính theo bước chân anh hùng của những nghĩa sĩ Cần Giuộc năm
xưa. đất nước bị kẻ thù xâm lược, Tổ quốc và nhân dân đứng dưới một trịng áp bức.
"Anh" và "tơi", hai người bạn mới quen, đều xuất than từ những vùng quê nghèo
khó. Hai câu thơ vừa như đối nhau, vừa như song hành, thể hiện tình cảm của những
người lính. Từ những vùng quê nghèo khổ ấy, họp tạm biệt người thân, tạm biệt xóm
làng, tạm biệt những bãi mía, bờ dâu, những thảm cỏ xanh mướt màu,họ ra đi chiến
đấu để tìm lại, giành lại linh hồn cho Tổ quốc. Những khó khăn ấy dường như khơng
thể làm cho những người lính chùn bước:


"Anh với tơi đôi người xa lạ


Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ"


Họ đến với Cách mạng cũng vì lý tưởng muốn dâng hiến cho đời. "Sống là cho đâu
chỉ nhận riêng mình". Chung một khát vọng, chung một lý tưởng, chung một niềm
tin và khi chiến đấu, họ lại kề vai sát cánh chung một chiến hào....Dường như tình


đồng đọi cũng xuất phát từ những cái chung nhỏ bé ấy. Lời thơ như nhanh hơn, nhịp
thơ dồn dập hơn,câu thơ cũng trở nên gần gũi hơn:


"Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí !..."


Một loạt từ ngữ liệt kê với nghệ thuật điệp ngữ tài tình, nhà thơ khơng chỉ dưa bài
thơ lên tận cùng của tình cảm mà sự ngắt nhịp đột ngột, âm điệu hơi trầm và cái âm
vang lạ lùng cũng làm cho tình đồng chí đẹp hơn, cao q hơn. Câu thơ chỉ có hai
tiếng nhưng âm điệu lạ lùng đã tạo nên một nốt nhạc trầm ấm, thân thương trong
lòng người đọc. Trong mn vàn nốt nhạc của tình cảm con người phải chăng tình
đồng chí là cái cung bậc cao đẹp nhất, lí tưởng nhất. Nhịp thở của bài thơ như nhẹ
nhàng hơn, hơi thở của bài thơ cũng như mảnh mai hơn.. Dường như Chính Hữu đã
thổi vào linh hồn của bài thơ tình đồng chí keo sơn, gắn bó và một âm vang bất diệt
làm cho bài thơ mãi trở thành một phần đẹp nhất trong thơ Chính Hữu.


Hồi ức của những người lính, nhuwngxkir niệm riêng tư quả là bất tận:
"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày


Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

"Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính"


Sự nhớ mong chờ đợi của quê hương với những chàng trai ra đi tạo cho hồn quê có
sức sống mãnh liệt hơn. Nhà thơ nhân hóa"gieengs nước gốc đa" cũng có nỗi nhớ
khơn ngi với những người lính. Nhưng khơng kể những vật vơ tri, tác giả cịn sử
dụng nghệ thuật hốn dụ để nói lên nỗi nhớ của những người ở nhà, nỗi ngóng trơng
của người mẹ đối với con, những người vợ đối với chịng và những đơi trai gái yêu
nhau....



Bỏ lại nỗi nhớ, niềm thương, rời xa quê hương những người lính chiến đấu trong gian
khổ:


"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán đẫm mồ hôi
Áo anh rách vai


Quần anh có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày"


Câu thơ chầm chậm vang lên nhưng lại đứt quãng, phải chăng sự khó khăn, vất vả,
thiếu thốn của những người lính đã làm cho nhịp thơ Chính Hữu sâu lắng hơn. Đất
nước ta còn nghèo, những người linha còn thiếu thốn quân trang, quân dụng,phải đối
mặt với sốt rét rừng,cái lạnh giá của màn đêm...Chỉ đôi mảnh quần vá,cái áo rách
vai, người lính vẫn vững lịng theo kháng chiến, mặc dù nụ cười ấy là nụ cười giá
buốt, lặng câm. Tình đồng đội quả thật càng trong gian khổ lại càng tỏa sáng,nó gần
gũi mà chân thực, khơng giả dối, cao xa....Tình cảm ấy lan tỏa trong lịng của tất cả
những người lính. Tình đồng chí:


"Là hớp nước uống chung, năm cơm bẻ nửa
Là chia nhâu một trưa nắng, một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà


Chia nhau đứng trong chiến hào chặt hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết"
( Nhớ- hồng Nguyên)


Một nụ cười lạc quan, một niềm tin tất thắng, một tình cảm chân thành đã được


Chính Hữu cơ lại chỉ với nụ cười - biểu tượng của người lính khi chiến đấu, trong hịa
bình cũng như khi xây dựng Tổ quốc, một nụ cười ngạo nghễ, yêu thương, một nụ
cười lạc quan chiến thắng...


"Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giác tới"


Nhịp thơ đều đều 2/2/2 - 2/2/3 cô đọng tất cả nét đẹp của những người lính. Đó
cũng chính là vẻ đẹp ngời sáng trog gian khổ của người lính. Vượt lên trên tất cả,
tình đồng đội, đồng chí như được sưởi ấm bằng những trái tim người lính đầy nhiệt
huyết. Vẫn đứng canh giư cho bầu trời Việt Nam dù đêm đã khuya, sương đã xuống,
màn đêm cũng chìm vào qn lãng. Hình ảnh người lính bỗng trở nên đẹp hơn, thơ
mộng hơn. Đứng cạnh bên nhau sẵn sàng chiến đấu. Xem vào cái chân thực của cả
bài thơ,câu thơ cuối cùng vẫn trở nên rất nên thơ:


" Đầu súng trăng treo"


Ánh trăng gần như gắn liền với người lính:
" Hồi chiến tranh ở rừng


Vầng trăng thành tri kỉ"
( Ánh trăng- nguyễn Duy)


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

tình hịa vào chất Cách mạng, chất thép hòa vào chất thi ca. Độ rung động và xao
xuyến của cả bài thơ có lẽ chỉ nhờ vào hình ảnh ánh trăng này. Tình đồng chí cũng
thế, lan tỏa trong không gian, xoa dịu nỗi nhớ, làm vơi đi cái giá lạnh của màn đêm.
người chiến sĩ như cất cao tiếng hát ngợi ca tình đồng chí. Thiêng liêng biết nhường
nào, hình ảnh những người lính, những anh bộ đội cụ Hồ sát cạnh vai nhau " kề vai
sát cánh" cùng chiến hào đấu tranh giành độc lập.



Quả thật, một bài thơ là một xúc cảm thiêng liêng, là một tình yêu rộng lớn, trong
cái lớn lao nhất của đời người. Gặp nhau trên cungf một con đường Cách mạng, tình
đồng chí như được thắt chặt hơn bằng một sợi dây u thương vơ hình.


Bài thơ " Đồng chí" với ngơn ngữ chân thực, hình ảnh lãng mạn, nụ cười ngạo nghễ
của các chiến sĩ đã lay động biết bao trái tim con người. Tình đồng chí ấy có lẽ sẽ
sống mãi với quê hương, với Tổ quốc, với thế hệ hôm nay, ngày mai hay mãi mãi về
sau...


<b>* Giá trị nội dung_nghệ thuật của truyện kiều</b>


Giá trị nội dung_nghệ thuật của truyện kiều


_Giá trị nội dung:+giá trị hiện thực:tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội đương thời
với cả bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị "xã hội vạn ác"đã đè nén,vùi dập dã
man 1kieeps hồng nhan,đẩy 1ng con gái kương thiện,tài sắc vẹn toàn vào số phận bi
kịch"số phận con người bị áp bức bóc lột,đặc biệt là ng phụ nữ".


+giá trị nhân đạo:Truỵen kiều đề cao khát vọng về quyền sống,những khao khát
hạnh phúc của con người,cất lên tiếng nói địi cơng lí tự do cho con người,đồng thời
bộc lộ niềm thương cảm sâu sắc đối với nỗi khổ con người,tố cáo thế lực tàn bạo,trân
trọng đề cao vẻ đẹp,ước mơ khát vọng chân chính.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×