Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.52 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời mà cả hạnh phúc lẫn thương đau đều được đẩy đến tột cùng. Trong khoảng thời gian đời
người hơn 60 năm, thi nhân đã để lại một gia sản vơ cùng q giá. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực văn chương, lời nhận định kia
đã khơng có gì là thái quá. Trước tác của Ức Trai có thơ, có văn, lại có cả lịch sử, địa lí nữa. Ở mảng thơ, bên cạnh tập thơ
chữ Hán nổi tiếng Ức Trai thi tập, thiết nghĩ còn cần phải đặc biệt chú ý vị trí vai trị của tập Quốc âm thi tập. Tác phẩm xưa
nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta cịn giữ được này, khơng những chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà mà
còn là tài liệu chủ yếu để nghiên cứu lịch sử phát triển của ngôn ngữ nước ta. Gồm những bài thơ viết rải rác trong suốt cuộc
đời, Quốc âm thi tập đã giúp người đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người thi sĩ bất hạnh vào loại bậc nhất
trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Quốc âm thi tập có một cấu trúc chỉnh thể với 4 phần. Trong đó phần vơ đề gồm tồn bộ những bài thơ khơng có tựa đề, được
chia thành các nhóm : ngơn chí, mạn thuật, trần tình, thuật hứng, tự thán, bảo kính cảnh giới… Chùm thơ Bảo kính cảnh giới
bài 43(Gương báu răn mình) có 61 bài. Những câu thơ trong Bảo kính cảnh giới luyến láy du dương, có chút vui điểm vào
cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn Trãi.
Được tổ chức theo kiểu một bài thất ngôn bát cú nhưng bài thơ lại mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp tự do, tự nhiên
như lời nói thường ngày :
Rồi/ hóng mát/ thuở ngày trường
Khởi hứng bằng một tâm thế - tâm thế của một con người an nhàn hưởng thụ (thiên nhiên). Bài thơ có lẽ được làm trong một
lần Nguyễn Trãi về ở Côn Sơn (theo Đào Duy Anh, trong đời mình Nguyễn Trãi có nhiều lần về ở Côn Sơn). Rũ sạch bụi lầm
của chốn phồn hoa đô hội, con người đến với thiên nhiên tự do, tự tại, giản dị khơng gị ép. Phải chăng, vì thế mà câu thơ cũng
vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật để giản dị, nhẹ nhàng như chính con người và cuộc sống chốn sơn lâm.
Câu thơ nhẹ nhàng gợi nghĩ đến hình ảnh một vị tiên đồng, đạo cốt. Từ rồi (có bản chép là rỗi) kết hợp với ngày trường cộng
hưởng với nhịp thơ kéo giãn thời gian của một ngày. Cảm giác thư thái cũng theo đó mà ngân nga.
Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều lần ơng đã bày tỏ ý nguyện "cơng thành thân thối". Nếu phải
viện đến lí do thì có lẽ nhiều người sẽ nghĩ đến sự gắn bó rất chân thành của tác giả với thiên nhiên. Những bức tranh thiên
nhiên mà tác giả đã say sưa nét vẽ như ở trong bài thơ này đã chứng tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ giàu có thì sang trọng :
Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên cịn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương
Cuộc sống của thi nhân là vậy. Cả cuộc đời nghèo khó, nhưng đó chỉ là ở phương diện vật chất mà thơi.
Nhìn vào thi liệu thì bức tranh tất được vẽ vào lúc cuối hè : hoa lựu đang rộn ràng chuyển sang màu đỏ rực, sen thì đã tiễn mùi
hương. Việc lựa chọn thời gian nghệ thuật cũng như cách thức miêu tả thiên nhiên hẳn không phải là chuyện ngẫu nhiên. Lá
hoè ngả sang màu lục, um tùm dồn lại thành từng khối lá xanh, toả rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu khơng cịn nhạt mà rực
rỡ như những chùm lửa đỏ. Sau này Nguyễn Du cũng dùng hoa lựu để nói cái oi bức, rực nóng của mùa hè :
Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.
Dưới những ao đầm, hoa sen hồng đã nở rộ xen giữa những chiếc lá mát xanh, cả đầm sen đưa hương thơm ngát. Điểm vào
cái không gian ấy là tiếng ve kêu ồn ã như đang trút hết mình cho phút chiều tà. Nếu mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy
lộc thì mùa hạ là lúc trưởng thành. Đặc biệt cuối hè là lúc nó phơ diễn một sức sống căng đầy, sung mãn nhất của sự trưởng
thành. Nó bắt đầu kết trái cho mùa thu để rồi chuẩn bị cho sự hố thân vào mùa đơng. Thiên nhiên trong bài thơ này là thế :
dường như nó đang ở trạng thái căng đầy nhất. Một bức tranh thiên nhiên đủ gợi cho chúng ta liên tưởng về một cuộc sống ấm
no, đủ đầy.
Hài hoà cùng thiên nhiên là cuộc sống sinh hoạt thường nhật của người lao động :
Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Hàm ý của câu thơ dồn cả vào cái âm thanh của chợ cá. Sự náo nhiệt của chợ cá gợi lên sự liên tưởng về cuộc sống no ấm
thanh bình của người dân. Bởi chợ cá ở đây rất có thể chỉ là một góc chợ quê, mà âm thanh vẫn rộn ràng náo nhiệt vô cùng.
Làm theo thể thất ngôn bát cú nhưng kết cấu đề - thực - luận - kết xem ra khơng phải là lựa chọn hợp lí để tiếp cận bài thơ
này. Bài thơ có thể được chia theo bố cục 6/2. Trên là vẻ đẹp của thiên nhiên và âm thanh cuộc sống, dưới là ước vọng của
nhà thơ :
Dân giàu đủ khắp địi phương.
là một mơ típ thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Một tấc lịng ái ưu ln chỉ chực dâng lên cùng sóng nước. Câu thơ gắn với
một điển tích. Ở Trung Quốc thời cổ đại có một triều đại lí tưởng (thực chất là một cộng đồng người nguyên thuỷ sống theo
bộ tộc) được đời đời truyền tụng như là một hình mẫu đẹp - thời vua Nghiêu Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn (gọi là Ngu cầm).
Vua thường hay dạo khúc Nam phong trong đó có câu "Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngơ dân chi tài hề" nghĩa là "gió nam
thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của". Mượn một điển tích, Nguyễn Trãi đã khơng giấu được sự vui mừng khi thấy
dân chúng khắp nơi đang được đủ đầy no ấm.
Câu thơ cuối cùng tương ứng với câu đầu, vượt ra khỏi luật Đường. Nhịp thơ 3/3 ngắn gọn, dứt khoát, thể hiện ước vọng chân
thành của Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống thanh bình no ấm sẽ đến với mọi người.
Câu nói của người xưa "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui
của thiên hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một cuộc đời trọn tình, vẹn nghĩa với nước với dân.
*****************************************************************************************************
<b>Cảm nhận về bài thơ "Cảnh ngày hè" của Nguyễn Trãi</b>
<b>"Rồi hóng mát thuở ngày trường</b>
<b>Hoè lục đùn đùn tán rợp gương</b>
<b>Thạch lựu hiên cịn phun thức đỏ</b>
<b>Hồng liên trì đã tiễn mùi hương</b>
<b>Lao xao chợ cá làng ngư phủ</b>
<b>Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương</b>
<b>Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng</b>
<b>Dân giàu đủ khắp đòi phương."</b>
Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con nguời ngồi đó. Câu mở đầu “hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, từng “đau lịng nhức óc” vì vận nước
từng cùng Lê Lợi “dựng cầu trúc ngọn cờ phấp phới”, và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lịng vì dân nước khơng lúc nào n
“Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời Nguyễn Trãi, mới thấy quí cái giây phút
ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái
khơng khí n bình của cả một làng q, đất nước vừa qua cơn binh lửa.
Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đơi mắt rất sành : 3 loại cây, 3 dáng vẻ, không trùng lặp. Tả
cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây hoè : tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu : sắc đỏ - rực rỡ
của tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng : đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây, ba dáng vẻ, ba màu sắc nữa (xanh,
đỏ, hồng) đều có hồn. Ngơn ngữ của thơ thay cho chất liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn”
khiến ta cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ “phun” cịn lạ hơn. Khơng tả
hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong
những tiếng kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao... Chỉ là Bức tranh phong cảnh ư ? Không
phải ! Đấy là Bức tranh đời. Ở đó tạo vật và con người đều dang sống hết sức mình, sống rất nhiệt tâm, băng mình trong
trường tranh đấu sống.
Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh
hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, Vanh-xăng-Van-gốc. Không phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ
đồng lúa ta cứ ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy mình trong tranh.
Nguyễn Trãi đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”, "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi" là lửa sống rừng rực trong lòng
Ức Trai mặc cho do thời thế ông đang phải lui về quy ẩn "Rồi, hóng mát thuở ngày trường".
Trong bức tranh này, thính giác nhậy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc. Xa xa, chợ cá không rõ hình, song âm
thanh “lao sao” chở hồn đến cho người đọc cái rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao sao” là khúc
hồ tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều,
vấn vương nét quí tộc, lầu cao đơn độc. Hai phong điệu dân dã và q tộc hồ hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà
hơi thở sống.
Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay thi sĩ mà là năng lực, phẩm chất của tâm
hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.
Bức tranh Cảnh ngày hè có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập.
Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương
Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ
Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong thời trung đại. Mong
sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu
"Vận nước như mây cuốn / Trời Nam mở thái bình / Vơ vi trên điện các / Xứ xứ dứt đao binh". Vận nước có rối ren thế nào
cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm,
vị vua hiền minh Lê Thánh Tơng cố sức mình cũng chỉ để thỏa lịng mong muốn :
Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.
Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát
vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.
Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi
bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngơ Đại Cáo - "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".