Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

phan tich bai canh ngay he

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.52 KB, 6 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời mà cả hạnh phúc lẫn thương đau đều được đẩy đến tột cùng. Trong khoảng thời gian đời
người hơn 60 năm, thi nhân đã để lại một gia sản vơ cùng q giá. Chỉ tính riêng trong lĩnh vực văn chương, lời nhận định kia
đã khơng có gì là thái quá. Trước tác của Ức Trai có thơ, có văn, lại có cả lịch sử, địa lí nữa. Ở mảng thơ, bên cạnh tập thơ
chữ Hán nổi tiếng Ức Trai thi tập, thiết nghĩ còn cần phải đặc biệt chú ý vị trí vai trị của tập Quốc âm thi tập. Tác phẩm xưa
nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta cịn giữ được này, khơng những chiếm địa vị quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà mà
còn là tài liệu chủ yếu để nghiên cứu lịch sử phát triển của ngôn ngữ nước ta. Gồm những bài thơ viết rải rác trong suốt cuộc
đời, Quốc âm thi tập đã giúp người đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người thi sĩ bất hạnh vào loại bậc nhất
trong lịch sử phong kiến Việt Nam.


Quốc âm thi tập có một cấu trúc chỉnh thể với 4 phần. Trong đó phần vơ đề gồm tồn bộ những bài thơ khơng có tựa đề, được
chia thành các nhóm : ngơn chí, mạn thuật, trần tình, thuật hứng, tự thán, bảo kính cảnh giới… Chùm thơ Bảo kính cảnh giới
bài 43(Gương báu răn mình) có 61 bài. Những câu thơ trong Bảo kính cảnh giới luyến láy du dương, có chút vui điểm vào
cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn Trãi.


Được tổ chức theo kiểu một bài thất ngôn bát cú nhưng bài thơ lại mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp tự do, tự nhiên
như lời nói thường ngày :


Rồi/ hóng mát/ thuở ngày trường


Khởi hứng bằng một tâm thế - tâm thế của một con người an nhàn hưởng thụ (thiên nhiên). Bài thơ có lẽ được làm trong một
lần Nguyễn Trãi về ở Côn Sơn (theo Đào Duy Anh, trong đời mình Nguyễn Trãi có nhiều lần về ở Côn Sơn). Rũ sạch bụi lầm
của chốn phồn hoa đô hội, con người đến với thiên nhiên tự do, tự tại, giản dị khơng gị ép. Phải chăng, vì thế mà câu thơ cũng
vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật để giản dị, nhẹ nhàng như chính con người và cuộc sống chốn sơn lâm.


Câu thơ nhẹ nhàng gợi nghĩ đến hình ảnh một vị tiên đồng, đạo cốt. Từ rồi (có bản chép là rỗi) kết hợp với ngày trường cộng
hưởng với nhịp thơ kéo giãn thời gian của một ngày. Cảm giác thư thái cũng theo đó mà ngân nga.


Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều lần ơng đã bày tỏ ý nguyện "cơng thành thân thối". Nếu phải
viện đến lí do thì có lẽ nhiều người sẽ nghĩ đến sự gắn bó rất chân thành của tác giả với thiên nhiên. Những bức tranh thiên
nhiên mà tác giả đã say sưa nét vẽ như ở trong bài thơ này đã chứng tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ giàu có thì sang trọng :



Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên cịn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương


Cuộc sống của thi nhân là vậy. Cả cuộc đời nghèo khó, nhưng đó chỉ là ở phương diện vật chất mà thơi.


Nhìn vào thi liệu thì bức tranh tất được vẽ vào lúc cuối hè : hoa lựu đang rộn ràng chuyển sang màu đỏ rực, sen thì đã tiễn mùi
hương. Việc lựa chọn thời gian nghệ thuật cũng như cách thức miêu tả thiên nhiên hẳn không phải là chuyện ngẫu nhiên. Lá
hoè ngả sang màu lục, um tùm dồn lại thành từng khối lá xanh, toả rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu khơng cịn nhạt mà rực
rỡ như những chùm lửa đỏ. Sau này Nguyễn Du cũng dùng hoa lựu để nói cái oi bức, rực nóng của mùa hè :


Dưới trăng quyên đã gọi hè,


Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.


Dưới những ao đầm, hoa sen hồng đã nở rộ xen giữa những chiếc lá mát xanh, cả đầm sen đưa hương thơm ngát. Điểm vào
cái không gian ấy là tiếng ve kêu ồn ã như đang trút hết mình cho phút chiều tà. Nếu mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy
lộc thì mùa hạ là lúc trưởng thành. Đặc biệt cuối hè là lúc nó phơ diễn một sức sống căng đầy, sung mãn nhất của sự trưởng
thành. Nó bắt đầu kết trái cho mùa thu để rồi chuẩn bị cho sự hố thân vào mùa đơng. Thiên nhiên trong bài thơ này là thế :
dường như nó đang ở trạng thái căng đầy nhất. Một bức tranh thiên nhiên đủ gợi cho chúng ta liên tưởng về một cuộc sống ấm
no, đủ đầy.


Hài hoà cùng thiên nhiên là cuộc sống sinh hoạt thường nhật của người lao động :
Lao xao chợ cá làng ngư phủ


Hàm ý của câu thơ dồn cả vào cái âm thanh của chợ cá. Sự náo nhiệt của chợ cá gợi lên sự liên tưởng về cuộc sống no ấm
thanh bình của người dân. Bởi chợ cá ở đây rất có thể chỉ là một góc chợ quê, mà âm thanh vẫn rộn ràng náo nhiệt vô cùng.
Làm theo thể thất ngôn bát cú nhưng kết cấu đề - thực - luận - kết xem ra khơng phải là lựa chọn hợp lí để tiếp cận bài thơ
này. Bài thơ có thể được chia theo bố cục 6/2. Trên là vẻ đẹp của thiên nhiên và âm thanh cuộc sống, dưới là ước vọng của
nhà thơ :



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Dân giàu đủ khắp địi phương.


là một mơ típ thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Một tấc lịng ái ưu ln chỉ chực dâng lên cùng sóng nước. Câu thơ gắn với
một điển tích. Ở Trung Quốc thời cổ đại có một triều đại lí tưởng (thực chất là một cộng đồng người nguyên thuỷ sống theo
bộ tộc) được đời đời truyền tụng như là một hình mẫu đẹp - thời vua Nghiêu Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn (gọi là Ngu cầm).
Vua thường hay dạo khúc Nam phong trong đó có câu "Nam phong chi thì hề khả dĩ phụ ngơ dân chi tài hề" nghĩa là "gió nam
thuận thì có thể làm cho dân ta thêm nhiều của". Mượn một điển tích, Nguyễn Trãi đã khơng giấu được sự vui mừng khi thấy
dân chúng khắp nơi đang được đủ đầy no ấm.


Câu thơ cuối cùng tương ứng với câu đầu, vượt ra khỏi luật Đường. Nhịp thơ 3/3 ngắn gọn, dứt khoát, thể hiện ước vọng chân
thành của Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống thanh bình no ấm sẽ đến với mọi người.


Câu nói của người xưa "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui
của thiên hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một cuộc đời trọn tình, vẹn nghĩa với nước với dân.


*****************************************************************************************************

Thử tham khảo bài viết này xem thế nào em nhé



Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới) là một trong những bài thơ đặc trưng nhất cho nội dung và nghệ thuật của Quốc


âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ là một bức tranh ngày hè với vẻ đẹp độc đáo, đặc sắc, là tâm hồn Nguyễn Trãi


chan chứa tình yêu thiên nhiên, yêu đời, yêu nhân dân, đất nước. Bài thơ bình dị, tự nhiên, câu thơ lục ngôn xen


thất ngôn, từ ngữ có sức miêu tả sinh động… Trong q trình soạn giảng thi phẩm này từ khi thực hiện chương


trình chỉnh lí hợp nhất đến chương trình thí điểm phân ban, rồi đến chương trình phân ban đại trà hiện hành, bản


thân tơi có đơi điều trăn trở sau đây.



1. Về một chữ ở câu 4: “Hồng liên trì đã tịn mùi hương” hay “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”?



Về chữ này, các nhà biên soạn sách giáo khoa Văn học 10 (chương trình chỉnh lí hợp nhất) chọn đưa vào bản phiên


là “tịn” (từ cổ, biến âm của “tận”, nghĩa là “hết”) và nhiều tài liệu tham khảo dùng cho giáo viên và học sinh lâu



nay cũng đều phân tích, giảng bình bài thơ theo bản này. Đến chương trình thí điểm phân ban, các nhà biên soạn


sách giáo khoa Ngữ văn 10, bộ 1, đã quyết định chọn bản phiên chữ này là “tiễn” với chú thích như sau:



“Tiễn: từ Hán Việt có nghĩa đầy, có thừa, trong câu này có thể hiểu là ngát hoặc nức. Hai câu: “Thạch lựu hiên còn


phun thức đỏ - Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”, ý nói trong khi thạch lựu ở hiên còn đang tiếp tục phun thức đỏ,


thì sen hồng trong ao đã ngát mùi hương”.



... Tóm lại, phiên chữ này ở câu 4 là tiễn và hiểu là “ngát” hoặc “nức” thì vừa có căn cứ, lại hợp với văn cảnh bài


thơ hơn”.



Các soạn giả còn chứng minh trong phần hướng dẫn Tiến trình tổ chức dạy học như sau:



“Cây trước lầu, ngoài ao đều ở trạng thái tràn đầy sức sống, đua nhau trổ dáng, khoe sắc, toả hương. Cây hoè trước


sân, lá lục đùn đùn, tán rợp giương ra. Cây lựu ở hiên trong khi còn liên tục phun những bơng hoa đỏ thắm, thì sen


hồng ngồi ao đã kịp nức mùi hương. Lưu ý: sen nở hoa vào mùa hè, đến mùa thu thì tàn (“Sen tàn, cúc lại nở hoa”


- Truyện Kiều). Thạch lựu cũng nở hoa vào mùa hè, mùa thu quả chín.



Các từ đùn đùn (= dồn dập tuôn ra), giương (= giương rộng ra), phun, tiễn (= ngát, nức) gợi tả sức sống căng đầy


chất chứa từ bên trong tạo vật, tạo nên những hình ảnh mới lạ, gây ấn tượng”.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

lựu ở hiên trong khi còn liên tục phun những bơng hoa đỏ thắm, thì sen hồng ngồi ao đã kịp nức mùi hương” ở chú


thích và gợi dẫn nói trên.



Đọc đến đây, nếu ai đó vẫn băn khoăn rằng hiểu câu 4 là sen hồng ở ao đã hết mùi hương e không hợp lắm với văn


cảnh bài thơ thì nên lưu ý rằng ở câu 6 của bài thơ cịn nói đến “lầu tịch dương” - mặt trời sắp lặn đó thơi. Phải


chăng tính nhất qn, lơgic của văn cảnh nằm ở chỗ: Cảnh vật đang ở vào khi cuối: cuối mùa, cuối ngày, nhưng sự


sống thì khơng dừng lại, cảnh vật vẫn cứ ứa căng, tràn đầy sức sống: cây hoè trước sân đùn đùn tán rợp trương xanh


mát một khoảng trời, thạch lựu hiên nhà phun thức đỏ rực rỡ, phiên chợ chiều làng ngư phủ lao xao vui tai vui mắt,


ve lầu tây dắng dỏi như bản đàn tấu lên rộn rã… Một bức tranh toàn cảnh cuối hè nơi thôn dã được chủ thể cảm


nhận khơng chỉ bằng thị giác, khứu giác, thính giác mà cịn bằng cả tâm hồn của mình. Bức tranh đó đi vào trang



thơ đã được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của thi nhân nhưng vẫn tươi ngun tính hiện thực, sinh động, cụ thể


như nó vốn có.



2. Về việc lựa chọn cách hiểu với hai câu cuối: Ca ngợi cảnh “Dân giàu đủ khắp địi phương” đã có hay ước vọng


cảnh “Dân giàu đủ khắp địi phương” chưa có?



Tác giả cuốn Tư liệu Văn 10, phần Văn học Việt Nam, viết:



“Cảnh sống của nhân dân náo nhiệt tấp nập và giàu đủ nữa. Đó là cảnh làng cá bước vào buổi chợ với những mẻ bội


thu, cảnh mua bán thật tấp nập n vui. Khơng có một dấu hiệu gì của sự trì trệ, của sự mất an ninh, của sự thiếu


đói. Đúng là cảnh đời thái bình thịnh trị, rất đáng gảy lên khúc đàn vua Thuấn.



<b>Tâm hồn Nguyễn Trãi thảnh thơi, sự thảnh thơi hiếm có giữa những trang thơ Nôm của ông. Nhà thơ vui với</b>


<b>cái vui của người dân lao động, vui chân thật bình đẳng (…) Nhà thơ lạc quan với cuộc sống thiên nhiên </b>


<b>đang lên, đang phát triển tràn ngập màu xanh và đầy ắp đời thường no đủ”. </b>



Cũng với cách hiểu, cách luận giải theo hướng này, tác giả cuốn Giảng văn Văn học Việt Nam viết:



“Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên, nhưng trên hết vẫn là tấm lòng của ông tha thiết với con người, với dân, với nước


(…) Thật hiếm hoi khi thấy Nguyễn Trãi có được những phút giây thanh thản. Ở đây ơng có cả một “ngày trường”


thưởng thức thiên nhiên với một tâm trạng lâng lâng, sảng khoái. Ức Trai tự giành cho mình quyền “Rồi hóng mát


thuở ngày trường” bởi niềm mơ ước, nỗi trăn trở dày vị, mục đích lớn nhất của đời ông đã được thực hiện: dân ấm


no hạnh phúc.



Nhìn cảnh sống của dân, đặc biệt là người lao động - những dân chài lam lũ - được yên vui, no đủ, Nguyễn Trãi ước


có được chiếc đàn của vua Thuấn để gẩy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:



Dân giàu đủ khắp đòi phương”.



<b>Chúng ta biết rằng, trong Quốc âm thi tập, bên cạnh phần thơ thiên nhiên và bao trùm lên cả đề tài thiên </b>



<b>nhiên là một chủ đề khác quan trọng hơn: sự giãi bày những tâm sự thiết tha nhưng phải nén kín của nhà </b>


<b>thơ. Đặc biệt xuyên suốt những nỗi niềm tâm sự ấy có một nét nổi bật, làm thành cảm hứng chủ đạo trong </b>


<b>thơ Ức Trai, đó là tấm lịng u thương, gắn bó với con người, với cuộc đời không lúc nào nguội lạnh, ý </b>


<b>muốn thiết tha giúp nước và chủ nghĩa trung quân tích cực… Quốc âm thi tập mở ra cho người đọc thấy một</b>


<b>trái tim đau thương cao cả, một tâm hồn rất mực giàu có, một tình cảm biết nén nỗi buồn để lúc nào cũng có </b>


<b>thể lạc quan yêu đời</b>

.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bui một tấc lòng ưu ái cũ



Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng.



Diễn giải như thế để chúng ta có thể thấy cách hiểu của Nguyễn Thành Chương và Lã Nhâm Thìn trong các phần


trích dẫn trên đây, đặc biệt là ở những chỗ đã được người viết bài này gạch chân, về hai câu cuối bài Cảnh ngày hè


là không ổn. Các cách hiểu sau đây giàu sức thuyết phục hơn:



Cách hiểu của Đoàn Đức Phương trong Học văn lớp 10, NXB Giáo dục, 1995:



“Hai câu cuối kết đọng biết bao suy tư của nhà thơ. Ông vui với thiên nhiên, với con người, nhưng hơn thế ông còn


khao khát hành động để giúp đời giúp nước. Niềm khao khát ấy thể hiện ở ước mơ có được cây đàn của vua Thuấn


để ca ngợi cảnh thái bình, hay nói đúng hơn, đó là ước mơ: làm sao có được một triều đại thái bình thịnh trị như đời


Nghiêu Thuấn để nhân dân muôn nơi được sống trong sung sướng, hạnh phúc, yên vui. Ước mơ xuất phát từ những


gì chưa có. Thời Nguyễn Trãi chưa có cảnh: “Dân giàu đủ khắp địi phương”. Do đó hai câu thơ nặng trĩu đau đời


và sâu lắng một tinh thần trách nhiệm cao cả”;



Và cách hiểu của các soạn giả Sách giáo viên Ngữ văn 10 của chương trình thí điểm phân ban, bộ 1, cũng như của


chương trình nâng cao, phân ban đại trà hiện hành:



“Ông (tức Nguyễn Trãi – HĐK chú thích) lẽ ra lúc này phải có cây đàn của vua Thuấn, đàn một tiếng để nói lên


niềm mong mỏi lớn nhất của mình là dân chúng khắp nơi đều được giàu có, no đủ”...




Tóm lại, về bài thơ Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới, bài số 43) của Nguyễn Trãi, các nhà biên soạn nên chọn đưa


vào chương trình bản phiên chữ thứ 5 của câu 4 là “tịn” (tận, hết) để thể hiện được ý nghĩa của cặp phụ từ “còn” –


“đã” trong câu này và câu 3 đứng trước, thể hiện được bức tranh trong bài thơ là bức tranh ngày hè độ cuối mùa còn


căng tràn sức sống với tất cả tính chân thực, sinh động, cụ thể của nó. Người dạy, người học nên chọn cách hiểu đối


với hai câu cuối là ước vọng của Nguyễn Trãi về viễn cảnh “Dân giàu đủ khắp đòi phương” để phù hợp hơn với


cảm hứng chủ đạo trong Quốc âm thi tập, với thực tế lịch sử -xã hội thời đại Nguyễn Trãi, với tấm lòng đau đáu


khát vọng “yên dân”, với những uẩn khúc của một nhà nho tinh thần trách nhiệm cao cả nhưng khơng cịn cơ hội


thực hiện trọn vẹn lý tưởng đời mình, với cái tình thế nhàn cư mà chẳng nhàn tâm trong những ngày dài “nhàn


quan” của vĩ nhân Ức Trai Nguyễn Trãi.



<b>Cảm nhận về bài thơ "Cảnh ngày hè" của Nguyễn Trãi</b>


<b>"Rồi hóng mát thuở ngày trường</b>
<b>Hoè lục đùn đùn tán rợp gương</b>
<b>Thạch lựu hiên cịn phun thức đỏ</b>


<b>Hồng liên trì đã tiễn mùi hương</b>
<b>Lao xao chợ cá làng ngư phủ</b>
<b>Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương</b>


<b>Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng</b>
<b>Dân giàu đủ khắp đòi phương."</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Xem tranh, trước hết ta thấy một tư thế của con nguời ngồi đó. Câu mở đầu “hóng mát” - ngoạn cảnh nhàn nhã, thảnh thơi.
Nên nhớ, đây là bức tranh thơ của vị tướng cầm quân từng xông pha trận mạc một thời, từng “đau lịng nhức óc” vì vận nước
từng cùng Lê Lợi “dựng cầu trúc ngọn cờ phấp phới”, và sau này sắm vai ẩn sĩ mà tấm lịng vì dân nước khơng lúc nào n
“Đêm ngày cuồn cuộn nước triều dâng”. Đặt trong nỗi truân chuyên của cuộc đời Nguyễn Trãi, mới thấy quí cái giây phút
ngắn ngủi hiếm hoi này, mới thấy cái tư thế ung dung thưởng ngoạn kia là sự hưởng thụ chân chính. Sau tư thế ấy, thấy cả cái
khơng khí n bình của cả một làng q, đất nước vừa qua cơn binh lửa.



Con người này có ánh mắt tinh tế, say mê. Người ngắm cảnh có đơi mắt rất sành : 3 loại cây, 3 dáng vẻ, không trùng lặp. Tả
cây, mà lộ ra khuôn mặt của mùa hè. Cây hoè : tán xanh xum xuê, toả rộng - sức sống vươn cao. Thạch lựu : sắc đỏ - rực rỡ
của tố chất khoẻ mạnh. Sen hồng : đậm hương - tâm hồn nồng hậu, thanh cao. Ba loại cây, ba dáng vẻ, ba màu sắc nữa (xanh,
đỏ, hồng) đều có hồn. Ngơn ngữ của thơ thay cho chất liệu màu của họa là lời nói sống động của đời thường. Chữ “đùn đùn”
khiến ta cảm nhận được sự sống đang nảy nở mạnh mẽ, trông thấy được bằng mắt thường. Chữ “phun” cịn lạ hơn. Khơng tả
hoa đỏ, mà cảm nhận cây lựu đang phun, đang tuôn ra sắc đỏ. Sen hồng cố đậm hương. Con ve kia cũng gắng hết sức trong
những tiếng kêu cuối cùng. Chợ ở làng chài đang náo nhiệt nên vọng xa lao xao... Chỉ là Bức tranh phong cảnh ư ? Không
phải ! Đấy là Bức tranh đời. Ở đó tạo vật và con người đều dang sống hết sức mình, sống rất nhiệt tâm, băng mình trong
trường tranh đấu sống.


Ta bất ngờ nhận ra điều kì lạ. Con người hoạ sĩ trong thi nhân Nguyễn Trãi thế kỉ XV ở Việt Nam có gì rất gần gũi đại danh
hoạ Hà Lan thế kỉ XIX, Vanh-xăng-Van-gốc. Không phải ở những sắc màu được sử dụng, mà ở cách diễn tả nó. Van-gốc vẽ
đồng lúa ta cứ ngỡ cánh đồng bốc cháy. Hàng cây bên đường cũng quằn quại vệt lửa. Van-gốc đốt cháy mình trong tranh.
Nguyễn Trãi đốt cháy mình trong thơ. Chữ “đùn đùn”, “phun”, "tiễn", "lao xao", "dắng dỏi" là lửa sống rừng rực trong lòng
Ức Trai mặc cho do thời thế ông đang phải lui về quy ẩn "Rồi, hóng mát thuở ngày trường".


Trong bức tranh này, thính giác nhậy bén đã giúp Nguyễn Trãi “vẽ” cảnh bằng nhạc. Xa xa, chợ cá không rõ hình, song âm
thanh “lao sao” chở hồn đến cho người đọc cái rộn ràng nhộn nhịp, náo nhiệt của cuộc sống thanh bình. Nếu “lao sao” là khúc
hồ tấu của đời sống dân sinh, thì “dắng dỏi cầm ve” tấu lên âm thanh của cây đàn độc huyền, ngân lên thiết tha cuối chiều,
vấn vương nét quí tộc, lầu cao đơn độc. Hai phong điệu dân dã và q tộc hồ hợp, bởi chất keo dính của đời thường, đậm đà
hơi thở sống.


Cho nên vẽ bức tranh này đâu chỉ là chuyện của giác quan chuyên nghiệp họa sĩ hay thi sĩ mà là năng lực, phẩm chất của tâm
hồn - tâm hồn tinh tế, đằm thắm của một con người hết mực yêu đời, say mê cuộc sống.


Bức tranh Cảnh ngày hè có một lời bình - một suy ngẫm đứng riêng, độc lập.
Dễ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương


Mạch thơ từ hướng ngoại sang hướng nội. Từ miêu tả sang biểu cảm, khách thể sang chủ thể. Nguyễn Trãi đã trực tiếp bộc lộ


nỗi lịng mình trong hai câu thơ kết. Ấy là một giấc mơ, và cả một học thuyết nhân sinh ấp ủ bật ra thành lời.


Giấc mơ, đó là giấc mơ Nghiêu Thuấn. Giấc mơ ngàn đời của những con người Phương Đông sống trong thời trung đại. Mong
sao có một bậc vua hiền để được yên ổn ấm no hạnh phúc. Trước hơn bốn trăm năm, thời Tiền Lê, Pháp Thuận đã phát biểu
"Vận nước như mây cuốn / Trời Nam mở thái bình / Vơ vi trên điện các / Xứ xứ dứt đao binh". Vận nước có rối ren thế nào
cũng mong hai chữ thái bình, nhà vua đừng làm điều gì nhiễu nhương thì khắp nơi đều hết nạn binh đao. Sau mấy mươi năm,
vị vua hiền minh Lê Thánh Tơng cố sức mình cũng chỉ để thỏa lịng mong muốn :


Nhà nam nhà bắc đều có mặt
Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình.


Bây giờ đây, ưu tư thế cuộc, nhìn đời - từ cỏ cây, vạn vật đến sinh linh vui sống như thế, Nguyễn Trãi lại khắc khoải khát
vọng muôn năm này. Mong trị quốc, bình thiên hạ sao cho dân giàu nước mạnh là giấc mơ của một bậc đại nhân.


Nếu giấc mơ kia là của bậc đại nhân, thì cái lõi tư tưởng của giấc mơ là của bậc đại trí. Đó là tư tưởng “thân dân” (dĩ dân vi
bản) từng được vạch rõ trong Bình Ngơ Đại Cáo - "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân".


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6></div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×