Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Bai du thi tim hieu quan he VIET LAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.57 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>BÀI DỰ THI TÌM HIỂU LỊCH SỬ QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT</b>


<b>NAM - LÀO, LÀO – VIỆT NAM</b>



<b>1. Những nhân tố hình thành, quyết định mối quan hệ hữu nghị </b>


<b>đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào- Việt Nam </b>



Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào – Việt Nam bắt nguồn từ các điều kiện
tự nhiên, nhân tố dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử và truyền thống chống giặc ngoại
xâm của nhân dân hai nước nhưng người đặt nền móng, quyết định mối quan hệ đặc
biệt này chính là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh.


Về các điều kiện tự nhiên, Việt Nam và Lào đều nằm ở trung tâm bán đảo
Ấn-Trung, thuộc vùng Đông Nam Á lục địa. Dãy Trường Sơn có thể ví như cột sống của
hai nước, tạo thành biên giới tự nhiên trên đất liền giữa Việt Nam và Lào.


Với địa hình tự nhiên này, về đường bộ cả Việt Nam và Lào đều theo trục Bắc-Nam.
Cịn về đường biển, Lào chỉ có thể thơng thương qua một số tỉnh miền Trung Việt
Nam. Với điều kiện tự nhiên như thế, Việt Nam và Lào vừa có nhiều điểm tương
đồng nhưng cũng có những nét khác biệt.


Tuy nhiên, trong hồn cảnh tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày nay, để hợp tác
cùng phát triển, hai nước hồn tồn có thể bổ sung cho nhau bằng tiềm năng, thế
mạnh của mỗi nước về vị trí địa lý, tài nguyên, nguồn nhân lực, thị trường cũng như
sự phân vùng kinh tế và phân công lao động hợp lý.


Ngoài ra, Việt Nam và Lào là những nước loại “vừa” và “tương đối nhỏ” sống
cạnh nhau, lại nằm kề con đường giao thông hàng hải hàng đầu thế giới, nối liền
Đông Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương cho nên chiếm vị
trí địa- chiến lược quan trọng ở vùng Đông Nam Á.


Mặt khác, bờ biển Việt Nam tương đối dài nên việc bố trí chiến lược gặp khơng ít khó


khăn. Trong khi đó, dãy Trường Sơn, biên giới tự nhiên giữa Việt Nam và Lào, được
ví như bức tường thành hiểm yếu để hai nước tựa lưng vào nhau, phối hợp giúp đỡ lẫn
nhau tạo ra thế chiến lược khống chế những địa bàn then chốt về kinh tế và quốc
phòng, trở thành điểm tựa vững chắc cho Việt Nam và Lào trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước.


<b>Về các nhân tố dân cư, xã hội, Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc, </b>
đa ngôn ngữ. Hiện tượng một tộc người sống xuyên biên giới quốc gia của hai nước,
hoặc nhiều nước là đặc điểm tự nhiên của sự phân bố tộc người ở khu vực Đông Nam
Á nói chung, ở Việt Nam và Lào nói riêng. Đặc điểm này đã chi phối mạnh mẽ các
mối quan hệ khác trên đường biên giới quốc gia Việt Nam-Lào.


Chính q trình cộng cư, hoặc sinh sống xen cài của những cư dân Việt Nam và cư
dân Lào trên địa bàn biên giới của hai nước đã dẫn đến việc cùng khai thác và chia sẻ
nguồn lợi tự nhiên, đặc biệt là nguồn lợi sinh thủy. Điều này, thêm một lần nữa khẳng
định các quan hệ cội nguồn và quan hệ tiếp xúc chính là những điều kiện lịch sử và xã
hội đầu tiên, tạo ra những mối dây liên hệ và sự giao thoa văn hoá nhiều tầng nấc giữa
cư dân hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Việt, Lào Lạn Xạng đã khơng ít lần bộc lộ mối quan tâm của mình muốn hướng ra
biển, trong khi Đại Việt lại tìm cơ hội để mở rộng buôn bán vào sâu lục địa.


Sự hài hồ giữa tình cảm nhân ái và tinh thần cộng đồng là một nét đặc sắc của triết lý
nhân sinh người Việt cũng như người Lào. Chính trong cuộc sống chan hoà này, nhân
dân hai nước Việt Nam- Lào đã ngày càng hiểu nhau và bày tỏ những tình cảm rất đổi
chân thành với nhau.


Về nhân tố lịch sử, theo các thư tịch cổ nổi tiếng của Việt Nam thì mối quan hệ
Việt-Lào bắt đầu từ những năm 550 dưới thời Vạn Xuân của nhà tiền Lý. Điều đáng
nói là bất chấp hồn cảnh bất lợi của chế độ phong kiến ở Đại Việt và Lạn Xạng, quan


hệ nương tựa vào nhau giữa nhân dân hai nước vẫn tiếp tục được nuôi dưỡng.


Cùng với các điều kiện tự nhiên, dân cư, xã hội, văn hoá, lịch sử, truyền thống
chống giặc ngoại xâm của nhân dân hai nước Việt Nam và Lào, nhất là trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mỹ đã làm cho mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào-Việt
Nam càng gắn bó keo sơn.


Từ khi Nguyễn Ái Quốc tiếp nhận và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin để
xác định con đường giải phóng các dân tộc Việt Nam, Lào theo con đường cách mạng
vô sản, đưa sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Việt Nam và Lào ngày càng hoà
quyện vào nhau, nương tựa lẫn nhau, mở ra một trang mới trong quan hệ giữa nhân
dân hai nước, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc và tiến lên con đường
xã hội chủ nghĩa là nhân tố quyết định mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào- Việt
Nam.


Và chính Người đã cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí Xuphanuvông và
các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp mối
quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam.


Thực tiễn đã khẳng định rằng, trong quan hệ quốc tế ít có nơi nào và lúc nào cũng
có được mối quan hệ đặc biệt, đồn kết, hợp tác bền vững lâu dài, trong sáng và đầy
hiệu quả giữa hai dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội như
mối quan hệ Việt - Lào.


Trong bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay, quan hệ hữu nghị truyền thống đặc biệt
giữa Việt Nam – Lào, Lào - Việt Nam cùng với những cơ hội vẫn cịn khơng ít thách
thức. Vì vậy, việc duy trì, củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt trong sáng,
thuỷ chung giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam – Lào là
nhiệm vụ hết sức quan trọng của Đảng, chính quyền và nhân dân hai nước Việt Nam-


Lào, Lào-Việt Nam.


<b>2. Tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc Việt Nam – Lào </b>


<b> Một trong những nhân tố làm nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam- Lào, </b>
<b>Lào-Việt Nam, đó chính là tình cảm gắn bó keo sơn giữa hai Đảng, hai Nhà nước và </b>
<b>hai dân tộc trong những năm tháng chiến tranh trước đây cũng như trong sự </b>
<b>nghiệp xây dựng đất nước hiện nay. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” và “Tuyên bố chung” đã tăng
cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước. Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa
Từ đó đến nay, trung bình mỗi năm, hai Đảng, hai Nhà nước đã cử trên 30 đoàn từ cấp
trung ương đến cấp tỉnh sang trao đổi với nhau những kinh nghiệm về giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, về công tác tư tưởng, lý luận, dân vận. Quan hệ giữa các bộ,
ban, ngành, đoàn thể, địa phương, nhất là các tỉnh biên giới kết nghĩa đều có những
trao đổi hợp tác và mối quan hệ đó ngày càng đi vào chiều sâu với nội dung thiết thực
và có hiệu quả.


Đặc biệt, hai bên phối hợp nghiên cứu, biên soạn công trình “Lịch sử quan hệ đặc
biệt Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam từ 1930- 2007” nhằm tổng kết quá trình liên minh
chiến đấu và hợp tác tồn diện Việt Nam- Lào, Lào- Việt Nam, đúc kết những bài học
kinh nghiệm phục vụ cho việc tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ đặc biệt Việt
Nam- Lào, Lào- Việt Nam lên một tầm cao mới.


Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam -Lào, Lào- Việt Nam quý báu và thiêng liêng đã
được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết trong 4 câu thơ bất hủ:


<i>“Thương nhau mấy núi cũng trèo</i>
<i>Mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua.</i>
<i>Việt - Lào, hai nước chúng ta.</i>



<i>Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long”.</i>


Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định: “Trong lịch sử cách mạng thế
giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vơ sản, nhưng chưa ở đâu
và chưa bao giờ, có được sự đoàn kết liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài và toàn
diện như quan hệ Lào - Việt Nam”; “Núi có thể mịn, sơng có thể cạn, song tình nghĩa
Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”.


Cùng với cả nước, mối quan hệ giữa tỉnh Hà Tĩnh với tỉnh Khăm muộn của nước
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào cũng khơng ngồi truyền thống q báu đó.


Cùng chung một chiến hào chống kẻ thù chung, trong gian khổ, hy sinh, tình đồn
kết chiến đấu giữa Hà tĩnh và tỉnh bạn Lào luôn keo sơn, gắn bó. Với tinh thần “hạt
muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa”, quân dân Hà tĩnh cùng bạn chiến đấu anh dũng, kiên
cường, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đến thắng lợi hồn tồn.
Về phía bạn, bằng tấm lòng chân thật, ngay thẳng, thủy chung, trong sáng, Đảng bộ
và nhân dân hai tỉnh đã cưu mang, giúp đỡ Hà tĩnh lúc khó khăn, hiểm nguy nhất.
Biên giới bạn phía tây trở thành căn cứ cho bộ đội, cán bộ, nhân dân Hà Tĩnh bảo toàn
và phát triển lực lượng.


Tỉnh bạn cũng tạo điều kiện, giúp đỡ Ha Tĩnh trong việc tìm kiếm, cất bốc hài cốt
liệt sĩ. Phát huy truyền thống đó, trong thời gian tới, Đảng bộ, chính quyền và nhân
dân tỉnh Hà Tĩnh cùng với Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh bạn Lào sẽ làm hết
sức mình, tiếp tục đổi mới phương thức, nội dung, cơ chế phù hợp trên tất cả các lĩnh
vực góp phần cùng với hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân Việt Nam- Lào bảo vệ và
nâng quan hệ đặc biệt lên tầm cao mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào –
Việt Nam là quan hệ đặc biệt, là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về
sự gắn kết bền chặt, thuỷ chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu


tranh vì độc lập, tự do và tiến bộ xã hội. Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt
Nam phát triển từ quan hệ truyền thống, do Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng nền
móng và chính Người cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí Xuphanuvơng và
các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước dày công vun đắp; đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
và Đảng Cộng sản Việt Nam:


<i><b>Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt Việt Nam </b></i>
<i><b>– Lào, Lào – Việt Nam.</b></i>


Trong quá trình tìm đường cứu nước của mình, Nguyễn Ái Quốc rất quan tâm
đến tình hình Lào. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên- tổ chức tiền thân của Đảng
Cộng sản Việt Nam do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp sáng lập vào tháng 6 năm 1925 tại
Quảng Châu (Trung Quốc), đến tháng 2 năm 1927, Hội này gây dựng được cơ sở tại
Lào. Thông qua hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Lào, Nguyễn
Ái Quốc thấy đây là điều kiện thuận lợi để người Việt Nam vừa tham gia cuộc vận
động cứu nước tại Lào, vừa sát cánh cùng nhân dân Lào xây dựng mối quan hệ đồn
kết khăng khít giữa Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam. Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên đã lập Hội Ái hữu, Hội Việt kiều yêu nước, mở các lớp huấn luyện cách
mạng trên đất Lào. Như vậy, Lào trở thành địa bàn đầu tiên trên hành trình trở về
Đơng Dương của Nguyễn Ái Quốc, nơi bổ sung những cơ sở thực tiễn mới cho cơng
tác chính trị, tư tưởng và tổ chức của Người về phong trào giải phóng dân tộc ở ba
nước Đơng Dương. Q trình Nguyễn Ái quốc đặt nền móng cho quan hệ đặc biệt
Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam báo hiệu bước ngoặt lịch sử trọng đại sắp tới của
cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng Lào.


<i><b>Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng chí Kayxỏn Phơmvihản, đồng chí </b></i>


<i><b>Xuphanuvơng và các thế hệ lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước, nhân dân hai nước </b></i>
<i><b>dày công vun đắp mối quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.</b></i>



Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh
mời Hồng thân Xuphanuvơng đang ở Vinh ra Hà Nội và tiếp Hoàng thân. Cuộc gặp
gỡ đã có tác động mạnh mẽ, quyết định đối với Hồng thân trong việc chọn lựa con
đường làm cách mạng. Ngày 3-10-1945, tại cuộc mít tinh của hàng vạn nhân dân tỉnh
Savẳnnakhệt đón chào Hồng thân Xuphanuvơng trở về tham gia chính phủ Lào,
Hồng thân tun bố: “Quan hệ Lào - Việt từ nay sẽ mở ra một kỷ nguyên mới...”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>chức Liên quân Lào - Việt, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự hợp tác giúp đỡ và liên </i>
minh chiến đấu chống kẻ thù chung của hai dân tộc Việt - Lào.


Những thắng lợi trên thể hiện nấc thang phát triển mới của lực lượng cách
mạng Lào, đồng thời khẳng định sức mạnh to lớn của quan hệ đoàn kết chiến đấu
giữa quân và dân hai nước Việt Nam – Lào, trong đó thể hiện tình cảm chân thành
nhất mực, sắt son của Việt Nam đối với sự nghiệp cách mạng Lào, như đồng chí Cay
xỏn Phơmvihản phát biểu trong cuộc hội đàm giữa Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao
động Việt Nam (12-1968) đã nhấn mạnh: “Sự giúp đỡ của Việt Nam cho cách mạng
<i>Lào hết sức tận tình và vơ tư. Việt Nam đã giúp Lào cả vật chất và xương máu. </i>
<i>Xương máu của nhân dân Việt Nam đã nhuộm đỏ khắp nơi trên đất nước Lào vì nền </i>
<i>độc lập của Lào… Sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Lào đã xây dựng nên mối quan </i>
<i>hệ đặc biệt, thực tế đó cũng là sự vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác – Lênin và chủ </i>
<i>nghĩa quốc tế vô sản”. </i>


Sau năm 1975, quan hệ Việt Nam và Lào bước sang trang mới: từ liên minh
chiến đấu chung một chiến hào sang hợp tác toàn diện giữa hai quốc gia có độc lập
chủ quyền.


Năm 1976, ngay sau thành lập nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Lào và
Việt Nam đã đạt được thỏa thuận quan trọng trong vịng hai tháng rút tồn bộ qn
đội và chuyên gia Việt Nam về nước và bắt đầu xúc tiến việc hoạch định biên giới


quốc gia giữa hai nước. Ngày 30 tháng 4 năm 1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng
Lao động Việt Nam ra Nghị quyết Về tăng cường giúp đỡ và hợp tác với cách mạng
<i>Lào trong giai đoạn mới, xác định: việc tăng cường đoàn kết, giúp đỡ, hợp tác đối với</i>
Lào là một trong những nhiệm vụ quốc tế hàng đầu của Đảng và nhân dân Việt Nam,
cũng là vì lợi ích thiết thân của cách mạng Việt Nam.


Ngày 18 tháng 7 năm 1977, hai nước chính thức ký kết các Hiệp ước: Hiệp ước
<i>hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ</i>
<i>Nhân dân Lào; Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước Cộng hòa xã hội </i>
<i>chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào; và ra Tuyên bố chung</i>
tăng cường sự tin cậy và hợp tác lâu dài giữa hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

cậy lẫn nhau, sự hợp tác lâu dài và giúp đỡ lẫn nhau về mọi mặt trên tinh thần của chủ
nghĩa quốc tế vô sản và theo nguyên tắc hồn tồn bình đẳng, tơn trọng độc lập, chủ
<i>quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, tơn trọng lợi ích chính đáng của nhau, khơng </i>
<i>can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Đây là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu </i>
<i>bước ngoặt mới trong quan hệ giữa hai nước. Việc ký kết hiệp ước đó cịn có ý nghĩa </i>
quốc tế quan trọng, nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng giữa hai nước đang cùng
hướng tới mục tiêu chủ nghĩa xã hội và phát huy ảnh hưởng tích cực trong khu vực.


<i>Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia là một biểu hiện tốt đẹp của việc giải </i>
quyết vấn đề lợi ích dân tộc trên tinh thần kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước
chân chính với chủ nghĩa quốc tế vơ sản trong sáng, là mẫu mực về chính sách láng
giềng hữu nghị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Lào.


<i><b>Từ khi hai nước tiến hành đổi mới vào năm 1986,lãnh đạo cấp cao hai Đảng</b></i>
<i><b>hai Nhà nước càng tăng cường cũng cố quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào,</b></i>
<i><b>Lào - Việt Nam. </b></i>



Chủ tịch Kayxỏn Phômvihản cũng đã khẳng định<i><b>: "</b><b>Trong lịch sử cách mạng </b></i>
<i><b>thế giới, đã có nhiều tấm gương chói sáng về tinh thần quốc tế vơ sản, nhưng chưa</b></i>
<i><b>ở đâu và chưa bao giờ, có được sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc biệt, lâu dài </b></i>
<i><b>và toàn diện như quan hệ Lào - Việt Nam"</b><b>; "</b><b>Núi có thể mịn, sơng có thể cạn, song </b></i>
<i><b>tình nghĩa Lào - Việt Nam mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sơng"</b><b>. </b></i>


<b>4. NHỮNG THÀNH TỰU CĨ Ý NGHĨA QUAN TRỌNG TRONG LỊCH SỬ </b>
<b>QUAN HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM - LÀO, LÀO - VIỆT NAM</b>


<b>1. Hai dân tộc Việt Nam, Lào sát cánh bên nhau cùng tiến hành khởi nghĩa</b>
<b>tháng Tám năm 1945, giành độc lập dân tộc</b>


Nhân dân hai nước Việt, Lào chớp thời cơ, tiến hành khởi nghĩa thành cơng
tháng 8-1945.


Đó là kỳ tích đầu tiên của hai nước Việt Nam - Lào, của quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam, đặt nền tảng vững chắc cho mối quan hệ phát triển rực rỡ
trong giai đoạn sau.


<b>2. Việt Nam, Lào đoàn kết, liên minh chiến đấu chống đế quốc xâm lược, </b>
<b>hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc</b>


<i><b>Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần thứ hai:</b></i>


Hai dân tộc Việt Nam, Lào vừa giành được quyền độc lập, đã phải đối phó
ngay với thực dân Pháp quay trở lại xâm lược.


Sau cách mạng tháng Tám, Việt Nam đứng trước những thử thách hết sức
nghiêm trọng.



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thành quả của mối quan hệ đặc biệt này được thể hiện:


<i>Một là, sự phối hợp giữa lãnh đạo, quân và dân hai nước Việt Nam, Lào phá vỡ</i>
mưu đồ tiêu diệt lực lượng vũ trang nòng cốt Pathết Lào và hãm hại bộ phận đầu não
cơ quan lãnh đạo cách mạng Lào do đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tiến hành.


<i>Hai là, sự hợp lực giữa lãnh đạo Đảng Nhân dân Lào và Đảng Lao động Việt </i>
Nam trong quá trình xác định phương pháp đấu tranh vũ trang là chủ yếu kết hợp đấu
tranh chính trị chống chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ ở Lào.


<i>Ba là, tuyến đường chiến lược Trường Sơn, một cơng trình vĩ đại của quan hệ </i>
đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam


<b>3. Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam tiếp tục phát triển trong sự </b>
<b>nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của hai dân tộc Việt Nam, Lào (từ 1976 đến </b>
<b>nay)</b>


<i><b>Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao:</b></i>


Hai Đảng, hai Nhà nước thường xuyên trao đổi ý kiến về vấn đề lý luận và chỉ
đạo thực tiễn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Lào, khơi dậy nội
lực và mở rộng quan hệ quốc tế, đem lại sự đổi mới toàn diện cho mỗi nước.


<i><b>Về quốc phòng an ninh:</b></i>


Trong thời kỳ mới, hai Đảng, hai Nhà nước luôn xác định hợp tác trên lĩnh vực
quốc phòng, an ninh là một trong những điểm mấu chốt của mối quan hệ đặc bịêt Việt
Nam - Lào, Lào - Việt Nam.


<i><b>Hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa, đào tạo cán bộ:</b></i>



Lãnh đạo hai nước Việt Nam và Lào đều nhất trí coi trọng sự hợp tác kinh tế,
văn hóa và đào tạo cán bộ.


Trên lĩnh vực kinh tế, hai bên chấp hành nguyên tắc hợp tác là bình đẳng, tơn
trọng chủ quyền quốc gia, cùng có lợi và hết lịng giúp đỡ nhau; đồng thời, căn cứ vào
tình hình cụ thể của mỗi nước mà dành ưu tiên, ưu đãi cho nhau.


Từ sau năm 1975, Việt Nam giúp bạn đào tạo cán bộ đạt trình độ đại học và
trên đại học.


<b>6. MỘT SỐ BIỂU HIỆN SINH ĐỘNG CỦA MỐI QUAN HỆ ĐOÀN KẾT,</b>
<b>GẮN BÓ, THỦY CHUNG SON SẮT CỦA HAI DÂN TỘC VIỆT NAM - LÀO </b>
<b>DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA HAI ĐẢNG, HAI NHÀ NƯỚC TRONG </b>


<b>NHỮNG NĂM QUA</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<b>2. Đường Trường Sơn - đường Hồ Chí Minh là biểu hiện vơ cùng sinh </b>
<b>động mối quan hệ đồn kết, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào,</b>
<b>Lào - Việt Nam</b>


<b>3. Quan hệ hữu nghị đoàn kết giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào, Lào - Việt </b>
<b>Nam càng phát triển sống động trong giai đoạn hồ bình, xây dựng đất nước </b>
<b>phồn vinh, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc</b>


Các tổ chức hội hữu nghị trên nhiều lĩnh vực với hàng nghìn hội viên từ Trung
ương đến cơ sở ra đời. Đặc biệt mối quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa các tỉnh ngày
càng thắt chặt phát triển thành quan hệ kết nghĩa; không chỉ dừng lại ở 10 tỉnh có
đường biên giới chung mà cịn mở rộng ra các tỉnh, thành phố khác như thủ đô Hà
Nội với Viêng Chăn...Tại các tỉnh có đường biên giới chung, quan hệ kết nghĩa phát


triển đến tận cơ sở, đó là kết nghĩa huyện với huyện, bản với bản trên cơ sở phát huy
và duy trì mối quan hệ đoàn kết, hợp tác truyền thống láng giềng tốt đẹp, bảo đảm an
ninh xã hội vùng biên, giải quyết tốt những vấn đề nảy sinh, chủ động phối hợp tìm
kiếm hài cốt liệt sĩ quân tình nguyện Việt Nam trên đất Lào.


<b>7. NHỮNG KINH NGHIỆM QUÝ BÁU VỀ VIỆC GÌN GIỮ, CỦNG CỐ, </b>
<b>PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG HỮU NGHỊ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO</b>


Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào là tài sản chung vô giá của hai dân tộc, là
nhân tố bảo đảm thắng lợi cho sự nghiệp cách mạng của mỗi nước.


Để gìn giữ, củng cố và phát huy truyền thống hữu nghị đặc biệt Việt Nam-
Lào, Lào - Việt Nam chúng ta có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây cần phải được
phát huy:


<i><b>Một là:</b> <b>Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào </b><b>được</b><b>tạo dựng trên cơ sở xác định</b></i>
<i><b>đúng đắn những quan điểm lý luận về mối quan hệ dân tộc và quốc tế trong thời </b></i>
<i><b>đại mới nhằm thực hiện nhiệm vụ cách mạng do hai nước xác lập.</b></i>


<i><b>Hai là: Cả hai dân tộc Việt Nam và Lào đều phải quán triệt và thực hiện tốt </b></i>
<i><b>quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh “ Giúp bạn là mình tự giúp mình”</b></i>


<i><b>Ba là:</b> <b>Đảng cộng sản Việt Nam và Đảng nhân dân cách mạng Lào phải </b></i>
<i><b>luôn coi trọng thực hiện nguyên tắc tôn trọng quyền độc lập, tự chủ, bình đẳng và </b></i>
<i><b>dân chủ của hai bên</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<b> 8. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY MỐI QUAN </b>
<b>HỆ ĐẶC BIỆT VIỆT NAM – LÀO, LÀO - VIỆT NAM TRONG LỊCH SỬ CỦA</b>
<b>HAI DÂN TỘC VÀ TRÊN NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN MỚI</b> <b> </b>



<i>Trong lịch sử quan hệ quốc tế từ xưa tới nay, quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - </i>
<i>Việt Nam là một điển hình, một tấm gương mẫu mực, hiếm có về sự gắn kết, bền chặt,</i>
<i>thủy chung, trong sáng và đầy hiệu quả giữa hai dân tộc đấu tranh giành độc lập tự </i>
<i>do và tiến bộ xã hội. Mối quan hệ đó được lãnh đạo hai Đảng hai Nhà nước khẳng </i>
<i>định là mối quan hệ <b>đặc biệt</b> . Điều này cắt nghĩa cho việc giữ gìn và phát huy mối </i>
<i>quan hệ <b>đặc biệt</b></i> <i><b>Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam</b> trong lịch sử và trên những </i>
<i>chặng đường phát triển mới là <b>vô cùng quan trọng</b></i>


<i> Quan hệ Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam là quan hệ đặc biệt quy định sự </i>
<b>sống, còn của hai dân tộc trong lịch sử cũng như trên những chặng đường phát </b>
<b>triển mới. </b>


<b>Bước sang thế kỷ XXI, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra </b>
<b>ngày càng mạnh mẽ, sâu sắc trong thế giới hiện đại trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt </b>
kinh tế, khoa học, công nghệ, thương mại... Chính vì vậy, Đại hội XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đại hội IX của Đảng NDCM Lào tiếp tục khẳng định đường
lối, chính sách coi trọng và không ngừng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị
truyền thống, đoàn kết đặc biệt và sự hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, coi đó là di
<i>sản vơ giá của hai dân tộc và là quy luật phát triển, là một trong những nhân tố đảm </i>
<i>bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước. Việc đưa quan </i>
hệ Việt Nam - Lào lên tầm cao mới sẽ đáp ứng nguyện vọng chính đáng của nhân dân
Việt Nam và nhân dân Lào, đồng thời đóng góp tích cực cho hịa bình, ổn định, hợp
tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.


Tuyên bố chung về kết quả cuộc hội đàm giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú
Trọng và Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone trong chuyến thăm hữu
nghị chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Choummaly Sayasone đã
khẳng định:


Đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào trên cơ sở phát


huy tinh thần độc lập, tự chủ và ý chí tự lực, tự cường, hợp tác bình đẳng và cùng có
lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất đặc biệt của quan hệ Việt Nam - Lào với thông lệ
quốc tế, vì sự phát triển phồn vinh của mỗi nước, vì hịa bình, ổn định, hợp tác và phát
triển ở Đơng Nam Á và trên thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Ngành,địa phương triển khai thực hiện Hiệp định hợp tác 5 năm 2011-2015 và Chiến
lược hợp tác 10 năm 2011- 2020;


Tăng cường quan hệ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa các địa phương của hai
nước, nhất là các địa phương có chung biên giới; sớm kiện tồn tổ chức bộ máy, đổi
mới cơ chế và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ủy ban Liên Chính phủ và bộ phận
thường trực Phân ban hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Tiếp tục đi sâu trao đổi thông tin, kinh nghiệm, nhất là những vấn đề lý luận và
thực tiễn về xây dựng Đảng, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; phối hợp đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ về mối quan hệ
đặc biệt Việt Nam - Lào trong giai đoạn mới, trong đó đặc biệt quan tâm việc tuyên
truyền, giáo dục dưới nhiều hình thức về Cơng trình Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt
Nam-Lào, Lào-Việt Nam.


Chủ động chuẩn bị kỹ, trao đổi thống nhất và phối hợp chặt chẽ về nội dung,
chương trình hoạt động của “Năm đồn kết hữu nghị 2012” trong đó có việc Lãnh đạo
cấp cao hai Đảng, hai nước thăm chính thức lẫn nhau để cùng khai mạc và bế mạc
“Năm đoàn kết hữu nghị 2012,” tổ chức khởi công hoặc khánh thành một số cơng
trình trọng điểm tạo dấu ấn về quan hệ đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện
Việt-Lào


Phối hợp tổ chức các hoạt động kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao
(1962-2012) và 35 năm ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác Việt Nam - Lào
(1977-2012). Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phịng, an ninh; hồn thành dự án


tăng dày và tôn tạo hệ thống mốc quốc giới vào năm 2014 và tiếp tục xây dựng tuyến
biên giới Việt Nam - Lào. Khẳng định mong muốn cùng các bên liên quan giải quyết
vấn đề biển Đơng bằng biện pháp hịa bình, phù hợp với luật pháp quốc tế, Công ước
của Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 và Tuyên bố về cách ứng xử của các bên
ở biển Đông (DOC), nhằm giữ gìn hịa bình, ổn định và hợp tác ở khu vực. Hai Đảng
ln duy trì, giữ vững và giúp đỡ lẫn nhau một cách chí tình và vơ tư, trong sáng để
cùng phát triển, đồng thời giữ vững các mục tiêu cách mạng trong sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc ở mỗi nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>


<b>9 NHỮNG CẢM NGHĨ VỀ NỀN VĂN HOÁ,</b>
<b>VỀ ĐẤT NƯỚC VÀ CON NGƯỜI LÀO</b>


<b>1. Đất nước và con người Lào</b>


Nước Lào có tổng diện tích 236.800 km2, có đường biên giới giáp 5 nước: Phía
bắc giáp Trung Quốc, phía tây bắc giáp My-an-ma, phía tây giáp Thái Lan, phía nam
giáp Căm-Pu-Chia và phía đơng giáp Việt Nam. Lào có 17 tỉnh và thành phố trực
thuộc trung ương, trong đó có 10 tỉnh chung đường biên giới với Việt Nam với chiều
dài 2067 km (Riêng đường biên giới chung với Quảng Trị là 206 km, gồm 2 tỉnh
Savằnnkhet và Salavan).


Rừng núi chiếm 3/4 diện tích, có nhiều lâm sản, động vật và khống sản q
hiếm. Khí hậu được chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa
khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Có dịng Mê-cơng chảy từ bắc xuống nam dài
1865 km. Có núi Phu-bia cao 2820m so với mặt nước biển, là đỉnh cao nhất nước
Lào. Có cố đơ Lng-pha-ra-băng là di sản văn hố thế giới, hàng năm thu hút rất
nhiều khách du lịch.


Lịch sử nước Lào trước thế kỷ XIV gắn liền với sự thống trị của Vương quốc


Nam Chiếu. Vào thế kỷ thứ XIV, vua Phà Ngừm lên ngôi đổi tên nước thành Lạn
Xạng (Triệu Voi). Trong nhiều thập kỷ tiếp theo, Lào nhiều lần phải chống các cuộc
xâm lược của Miến Điện và Xiêm. Đến thế kỷ XVIII, Thái Lan giành quyền kiểm
soát trên một số tiểu vương quốc còn lại. Các lãnh thổ này nằm trong phạm vi ảnh
hưởng của Pháp trong thế kỷ XIX và bị sáp nhập vào Liên bang Đông Dương năm
1893. Trong thế chiến thứ 2, Pháp bị Nhật thay chân ở Đông Dương. Sau khi Nhật
đầu hàng quân Đồng minh ngày 12 tháng 10 năm 1945, Lào tuyên bố độc lập. Đầu
năm 1946, Pháp quay trở lại xâm lược Lào. Năm 1949, quốc gia này nằm dưới sự
lãnh đạo của Vua SisavangVong và mang tên Vương quốc Lào. Tháng 7 năm 1954,
Pháp ký hiệp định Giơnevơ cơng nhận nền độc lập và tồn vẹn lãnh thổ của Lào.


Từ năm 1955 đến năm 1975, Vương quốc Lào lệ thuộc mạnh mẽ vào Hoa Kỳ
trong cuộc chiến chống Cộng sản tại Đơng Dương, tình hình đó đã lôi kéo Lào vào
cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ hai, là yếu tố dẫn đến nội chiến Lào và xảy ra
một vài cuộc đảo chính.


Đảng đề ra nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn mới là: “đoàn kết, lãnh đạo
<i>toàn dân, phấn đấu hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thực hiện một nước </i>
<i>Lào hịa bình, độc lập, dân chủ, thống nhất và thịnh vượng”.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

nước Đông Dương đã dồn đế quốc Mỹ và tay sai ở Lào vào thế bị động, khốn quẩn
chưa từng thấy. Mỹ thấy không thể thắng được Pathét Lào bằng sức mạnh quân sự do
đó phải chấp nhận phương sách “hịa hỗn” với các lực lượng cách mạng Lào.


Năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, phong trào
cộng sản Pathét Lào đã lật đổ chính quyền hồng tộc. Ngày 29/11/1975, nhà vua Lào
phải tuyên bố thoái vị, chấm dứt chế độ quân chủ Lào. Ngày 02/12/1975, Đại hội đại
biểu nhân dân toàn quốc Lào quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ, thành lập nước
Cộng hồ Dân chủ Nhân dân Lào. Đồng chí Suphanuvong được cử giữ chức Chủ tịch
Nước, đồng chí Cayxỏnphơmvihẳn Tổng Bí Thư được cử làm Thủ tướng. Từ đó,


ngày 02 tháng 12 được lấy làm ngày Quốc khánh của nước Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào.


Sau hơn 30 năm ròng rã đấu tranh, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, cuộc
cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân Lào đã kết thúc thắng lợi trọn vẹn. Việc khai
sinh nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào (02/12/1975) đã kết thúc vẻ vang cuộc
đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các bộ tộc Lào kéo dài suốt 197 năm kể từ
khi phong kiến Xiêm đặt ách thống trị Lào vào năm 1778. Đây là một thắng lợi oanh
liệt nhất và vĩ đại nhất trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm
của nhân dân các bộ tộc Lào. Với thắng lợi này, nhân dân các bộ tộc Lào bước vào kỷ
nguyên độc lập, tự do, hịa bình và tiến bộ.


<b>2. Nền văn hố Lào: </b>


Nước Lào, trước đây còn gọi là Vương quốc Lạn Xạng, “Lạn” tiếng Lào là
triệu, “xạng” là voi. Lạn Xạng có nghĩa là “Triệu Voi”. Được mệnh danh là “Miền đất
Triệu voi


Nền văn hóa Lào là nền văn hóa Phật giáo. Đạo Phật đã ăn sâu vào tư tưởng
của người Lào, ảnh hưởng này được phản ánh trong ngôn ngữ và nghệ thuật, tạo nên
một dân tộc Lào rất riêng.


Người dân Lào đã thấm nhuần trong mình những lời Phật dạy, một mực kính
trọng các bậc tăng ni, những vị sư sãi trong chùa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tháng 9; Bun Suanghua (đua thuyền) vào tháng 10. Lễ hội ở Lào hay còn được gọi là
Bun, nghĩa là phước, làm Bun nghĩa là làm phước để được phước.


Lào có tết cổ truyền Bunpimay (có nghĩa là mừng năm mới), hay còn gọi là Tết
té nước diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 4 hàng năm.



Âm nhạc của Lào ảnh hưởng lớn của các nhạc cụ dân tộc như khèn (một dạng
của ống tre. Một dàn nhạc điển hình bao gồm người thổi khèn cùng với biểu diễn múa
bởi nghệ sĩ khác. Múa Lăm vông (<i>Lam saravane</i>) là thể loại phổ biến nhất của âm
nhạc Lào, những người Lào ở Thái Lan đã phát triển và phổ biến rộng rãi trên thế giới
gọi là <i>mor lam sing</i>.. Khi được mời cùng múa Lăm Vông với người khác giới, hai
người đi song song nhưng không va chạm vào người phụ nữ.


Chăm pa (hoa đại) là một loài hoa biểu tượng của đất nước và con người Lào.
Mang đậm một bản sắc riêng biệt, hương sắc ngào ngạt của hoa chăm pa phản ảnh rõ
tính cách, tâm hồn của dân tộc Lào, với những con người có một vẻ đẹp giản dị, chan
hồ, gìn giữ và chất phác, thật thà. Hạnh phúc biết bao khi được các cô gái chồng lên
cổ vịng hoa chăm pa, buộc vào cổ tay vịng chỉ cầu mong phúc lành, đam mê khơng
muốn dứt trong những điệu múa Lăm vơng dưới bóng cây chăm pa.


Văn hố Lào như một dịng chảy ngọt ngào đời này qua đời khác, hun đúc nên
tâm hồn, cốt cách, và văn hoá của người Lào. Qua thời gian năm tháng được kết tinh
ở những phong tục văn hoá đẹp đẽ như Tết Té nước để giải trừ mọi lo âu phiền muộn;
Buộc chỉ cổ tay chúc phúc người thân, chúc phúc khách quý, bạn bè… đó là mỹ tục
rất đẹp đẽ, độc đáo và hiếm có; và hồ cùng với tiếng chiêng, tiếng khèn, điệu Lăm
vơng mềm mại uyển chuyển làm say đắm lịng người, như mời gọi, như níu giữ bước
chân du khách đã đặt chân đến đất nước Lào là không muốn rời xa, là dẫu chỉ một lần
mà lưu luyến mãi.


Các nước đạo Phật phát triển trở thành quốc giáo thì phong tục tập quán cơ bản
giống nhau. Con người Lào lịch sự, lễ phép, không thoa đầu mọi người kể cả trẻ em,
không bá vai, bá cổ. Người Lào gặp nhau, người dưới chắp tay chào người trên; trẻ
em chắp tay chào người lớn, không bao giờ họ lớn tiếng cãi nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<i> Người Việt còn lưu lại trong thư tịch cổ:“người Lào thuần hậu chất phác”, trong </i>


giao dịch bn bán thì<i>“họ vui lịng đổi chác”. Đó cũng là tình cảm bình dị, chân </i>
thành mà người dân nước Việt giành cho người người dân láng giềng của mình.


<i>Viên Chăn - tên gọi của thành phố bắt nguồn từ tiếng Pali, có nghĩa là “thành </i>
phố của gỗ đàn hương” – một loại cây quý trong kinh điển Ấn Độ. Theo tiếng Lào -
Wiang Jan có nghĩa là “thành phố của mặt trăng”. Tại Viêng Chăn, có rất nhiều chợ
đường phố.


<i>Tháp That Luang (Thạt Luổng)- di sản văn hóa thế giới, biểu tượng văn hóa </i>
Phật giáo và hiện được coi là biểu tượng của nước Lào. Tháp That Luang được coi là
rất linh thiêng nên có nhiều người đến đây cầu khấn các nguyện vọng.


<i>Luông Pra Băng hay Luông Pha Băng, nghĩa là Phật Vàng Lớn. Luông </i>
Pha-băng là Thủ đô của Vương triều Lan Xang thế kỷ thứ 14, thời kỳ hưng thịnh của Lào
dưới triều Vua Xê-tha-thi-lát, nhưng từ năm 1545 chiến tranh xảy ra liên miên, Vua
Xê-tha-thi-lát quyết định rời kinh đô đến Viêng Chăn.


<b>Cánh đồng chum</b><i><b> - một di tích khảo cổ học nằm ở tỉnh</b></i> <i><b>Xiêng Khoảng có </b></i>
<i><b>khoảng 2.000 cái chum lớn nhỏ ở 52 địa điểm </b><b>nằm rải rác tại chân dãy núi Trường</b></i>


<i><b>Sơn. </b><b>Kích thước của các chum đá dao động khoảng từ 0,5 đến 3m, trọng lượng lên</b></i>


<i><b>đến 6000 kg và có niên đại khoảng 1500 đến 2000 năm. </b></i>


<i><b>Các câu chuyện huyền thoại của người Lào cho rằng có những người khổng</b></i>
<i><b>lồ đã từng định cư ở khu vực này. Theo một truyền thuyết khác, một vị vua cổ đại </b></i>
<i><b>tên là </b><b>Khun Cheung</b><b> - đã tiến hành cuộc chiến chống lại kẻ thù thành cơng. Ơng </b></i>
<i><b>đã cho tạo lập cánh đồng chum để ủ lên men và chứa số lượng lớn rượu gạo lao </b></i>
<b>lao để ăn mừng chiến thắng. </b><i><b>Cánh đồng chum </b><b> mang trong mình những bí ẩn của </b></i>
<i><b>một nền văn hoá, một thế giới tâm linh mà cho đến bây giờ vẫn chưa rõ về xuất </b></i>


<i><b>xứ…</b></i>


Đất nước, con người và nền văn hoá Lào quả là đang mang trong mình nguốn
sức mạnh vơ biên, ẩn chứa biết bao điều kỳ diệu, đó chính là tiềm năng và là nguồn
nội lực to lớn. Tiềm năng và nguồn lực to lớn đó đang được Đảng, Nhà nước và nhân
dân các bộ tộc Lào trân trọng, giữ gìn, bồi đắp và phát huy trong thời đại mới, thời đại
hội nhập và phát triển.




<b>---10. CẦN LÀM GÌ ĐỂ GÌN GIỮ, PHÁT HUY TÌNH CẢM HỮU NGHỊ </b>
<b>ĐẶC BIỆT VIỆT NAM- LÀO </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

lịch sử cách mạng thế giới đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô
sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đồn kết liên minh chiến đấu đặc biệt
lâu dài và tồn diện như vậy”.


Tình đồn kết đặc biệt giữa hai nước đã góp phần quan trọng vào việc củng cố
và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và
Lào trong thời kỳ mới. Trong các chuyến thăm của lãnh đạo hai nước, hai bên luôn
khẳng định quan điểm nhất quán, tiếp tục coi trọng và dành mọi ưu tiên cho việc củng
cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện
Việt Nam - Lào, coi đây là tài sản vơ giá cần gìn giữ và truyền lại cho muôn đời con
cháu mai sau


Định hướng cơ bản của chiến lược hợp tác Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 là: “Phát huy truyền thống quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào -
Việt Nam trở thành động lực tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ trong hợp tác kinh tế,
góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập của mỗi nước”.
Thường xuyên phối hợp và cụ thể hóa quan điểm về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào,


Lào - Việt Nam trên tinh thần các tuyên bố chung và thỏa thuận cấp cao giữa lãnh đạo
hai Đảng, hai Nhà nước vào các nội dung hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật
giữa hai nước..


Trên cơ sở những kết quả to lớn của sự hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào,
Lào-Việt Nam những năm qua, lãnh đạo cấp cao hai Đảng, hai Nhà nước thống nhất đặt
ưu tiên cao nhất cùng phấn đấu nâng quan hệ đặc biệt Việt Nam-Lào, Lào-Việt Nam
lên <i>tầm cao mới</i>, theo phương châm <i>chất lượng và hiệu quả</i>, góp phần giữ vững ổn
định an ninh chính trị, tăng trưởng kinh tế bền vững, hội nhập ngày càng sâu rộng và
có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế. Để đạt được mục tiêu này, lãnh đạo cấp cao
hai nước đã nhất trí trước hết tiếp tục củng cố, tăng cường sự gắn bó, tin cậy và phối
hợp chặt chẽ, thường xuyên trong những vấn đề có tính chiến lược giữa hai Đảng, hai
nước; duy trì các cuộc gặp cấp cao truyền thống. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục
bằng nhiều hình thức phong phú, hiệu quả và thiết thực về mối quan hệ hữu nghị
truyền thống, tình đồn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào, Lào-Việt
Nam cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ thanh
thiếu niên hôm nay và mai sau./.


<b>11. TẠI SAO HAI NƯỚC VIỆT NAM- LÀO</b>


<b>PHẢI YÊU THƯƠNG GẮN BÓ CHẶT CHẼ VỚI NHAU</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Hai nước Việt Nam - Lào có lịch sử gắn bó rất lâu đời với nhau trong suốt
chiều dài dựng nước và giữ nước của mỗi dân tộc. Trong chiều dài lịch sử ấy, nhân
dân hai nước đã “chung lưng đấu cật” để xây dựng mỗi nước phát triển. Là hai nước
láng giềng có nhiều nét tương đồng về văn hóa, Việt Nam và Lào đã chung tay viết
nên những trang sử hào hùng của hai dân tộc. Mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu
đời Việt Nam - Lào bắt nguồn từ tình cảm láng giềng thân thiết, sự gắn bó keo sơn
giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các bộ tộc Lào đã trải qua muôn vàn thử thách,
được nhiều thế hệ lãnh đạo hai Đảng và nhân dân hai nước, đặc biệt là Chủ tịch Hồ


Chí Minh vĩ đại và Chủ tịch Cayxỏn Phơmvihản kính mến trực tiếp gây dựng nền
móng, được các thế hệ lãnh đạo kế tục của hai Đảng, hai nước, cùng nhân dân hai
nước quý trọng, nâng niu và dày công vun đắp, không ngừng phát triển và trở thành
mối quan hệ đặc biệt, thủy chung, trong sáng và là mẫu mực hiếm có trong quan hệ
quốc tế hiện nay.


Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “<i>Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên </i>
<i>cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã </i>
<i>nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào </i>
<i>thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được</i>”. Chủ tịch Cayxỏn Phơmvihản cũng
nói: “<i>Núi có thể mịn, sơng có thể cạn, song tình nghĩa Lào - Việt sẽ mãi mãi vững </i>
<i>bền hơn núi, hơn sông</i>”. Tư tưởng lớn của hai nhà lãnh đạo đã trở thành kim chỉ nam
soi đường, chỉ lối, được Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước thực hiện nhất quán
trong suốt những năm tháng chiến đấu chống kẻ thù chung, giành độc lập, thống nhất
đất nước đến hịa bình, xây dựng, đổi mới, hội nhập và phát triển.


</div>

<!--links-->

×