Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Tham khảo lịch sử văn minh TG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.93 KB, 56 trang )

VÀI Ý KIẾN VỀ SỰ RA ĐỜI CỦA CÁC NHÀ NƯỚC Ở PHƯƠNG ĐƠNG
VÀ PHƯƠNG TÂY
Posted on 28 Tháng Chín, 2009 by Civillawinfor
THS. BÙI XUÂN PHÁI – Giảng viên khoa Hành chính – Nhà nước, Đại học
Luật HN
Cho đến nay, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về sự xuất hiện của nhà
nước. Các cơng trình đó ít nhiều đã chỉ ra những nội dung khoa học cho biết
về cách thức, thời gian, điều kiện cho sự ra đời của các nhà nước như cơng
trình nghiên cứu có tính chất kinh điển[1], các giáo trình lịch sử hay lý luận
nhà nước và pháp luật của các cơ sở đào tạo luật…
Nó cho thấy sự phức tạp của việc nghiên cứu quá trình ra đời của nhà nước. Sự
phức tạp đó khơng chỉ ở chỗ các nguồn tư liệu rất phong phú, có rất nhiều quan
điểm chưa phải là đã nhất trí với nhau mà cịn ở chỗ biểu hiện của bản thân sự ra
đời của nhà nước. Hiện nay, có một quan điểm có thể coi như được thừa nhận
chung là nhà nước ra đời trên cơ sở của xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất
định với sự xuất hiện của chế độ tư hữu sau khi có sự phân cơng lao động xã hội và
trong xã hội đã xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Tuy nhiên, cho đến nay, những thơng tin có được từ các hoạt động như khảo cổ với
những thư tịch cổ, các công cụ lao động, sinh hoạt… của con người thời kỳ cổ đại,
từ các cơng trình nghiên cứu lịch sử đã cho chúng ta những cách nhìn toàn diện
hơn về sự ra đời của các nhà nước cũng như pháp luật. Bài viết này là sự bày tỏ
một số suy nghĩ của bản thân về sự xuất hiện của nhà nước, trong đó có sự so sánh
và đưa ra cách luận giải về sự khác nhau trong sự xuất hiện của các nhà nước ở
phương Đông và phương Tây và ý nghĩa của việc xác định sự khác nhau đó.
Trong bài viết này, xin được ngược dịng thời gian để trở về quá khứ, thông qua
những kết quả của lịch sử để lại và hiện thực cuộc sống để lý giải về sự xuất hiện
của nhà nước dưới các góc độ văn hóa, kinh tế, chính trị…
Ta bắt đầu từ sự xuất hiện của nhà nước ở Phương Đơng. Dưới góc độ văn
hóa, người phương Đơng sống trong văn hóa duy tình. Nếu như nhà nước ra đời là
kết quả của nhiều yếu tố trong đó có văn hóa, thì văn hóa lại là sự kết tinh của quá
trình con người sáng tạo ra các giá trị làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp hơn. Văn


hóa duy tình ở phương Đơng có thể thấy qua rất nhiều hiện tượng của cuộc sống
hàng ngày ,chẳng hạn nếu phức tạp thì quan hệ trong cộng đồng làng xã ,như kết
cấu gia đình bền vững “tam đai đồng đường, tứ đại đồng đường”, nhà thờ họ, còn


đơn giản thì bát canh, bát nước chấm chung của cả gia đình, ấm nước trà uống
chung cả xóm … Nếu nhìn ra một phạm vi rộng hơn ra nhiều nước ở phương
Đơng, ta nhìn thấy “văn hóa ăn bằng đũa”. Đó vừa là yếu tố văn hóa, là tập quán,
là phong tục hình thành dần do lối sống, vừa là biểu hiện của phương thức làm
kinh tế, của quan hệ cộng đồng trong những điều kiện tự nhiên gắn liền với con
người trong các cộng đồng dân cư. Đã có nhiều ý kiến về sự ảnh hưởng của yếu tố
địa lý đến văn hóa làm hình thành nên phong tục tập quán nhưng những yếu tố tự
nhiên này đã ảnh hưởng như thế nào đến sự ra đời của nhà nước ở phương Đơng
thì cần làm rõ hơn. Có thể nói các yếu tố kinh tế, văn hóa, chính trị có quan hệ qua
lại với nhau rất mật thiết. Từ yếu tố này, có thể nhìn thấy yếu tố kia ở những khía
cạnh nhất định. Chẳng hạn như “văn hóa ăn bằng đũa” của nhiều dân tộc phương
Đơng cho ta thấy khía cạnh kinh tế. Đó là các dân tộc này thiên về các loại thực
phẩm là sản phẩm của nền kinh tế trồng trọt. Đó là biểu hiện của điều kiện tự nhiên
ở phương Đông chủ yếu gắn với văn minh nơng nghiệp. Điều đó làm cho con
người lệ thuộc vào điều kiện tự nhiên rất nhiều và muốn tồn tại và phát triển, con
người phải biết liên kết với nhau để tạo nên sức mạnh của cộng đồng để khắc phục
sự khó khăn của điều kiện tự nhiên đó để có thể tồn tại và phát triển.
Do sử dụng các sản phẩm chủ yếu từ hoạt động sản xuất nơng nghiệp trồng trọt
nên con người thuần tính hơn. Điều này đã được khẳng định về mặt sinh học ở chỗ
những sinh vật nào ăn thức ăn từ thực vật, lồi vật đó sẽ “hiền lành” hơn” thích
sống theo bầy đàn, ít có sự cạnh tranh hơn so với các loài mà thức ăn của chúng lấy
từ động vật vì lồi này phải săn mồi nên thường phải rèn luyện kỹ năng săn mồi
nên chúng cũng trở nên mạnh mẽ hơn. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến cách sống,
đến tổ chức cuộc sống và quan hệ xã hội. Có thể vì sử dụng các sản phẩm từ nơng
nghiệp trồng trọt nên con người có thể khơng có nhiều sức mạnh về mặt thể chất

nên cũng ít có xu hướng xung đột lẫn nhau. Những xu hướng mở rộng các quan hệ
ra bên ngồi cũng ít được thực hiên do nhu cầu bị bó hẹp. Mặt khác, trong điều
kiện địa lý phức tạp của phương Đông, việc đi lại cũng khó khăn hơn nên việc giao
tiếp với bên ngoài cũng trở nên bị hạn chế. Khi con người sống trong điều kiện
quần cư đó, sự liên kết trở nên bền vững hơn. Chính vì sức mạnh về thể chất hạn
chế mà con người cần phải liên kết để chinh phục thiên nhiên, chống lại thú dữ,
chống lại sự tấn cơng của các thế lực từ bên ngồi. Chưa nói tới yếu tố giai cấp, sự
quần cư của các cư dân là một yếu tố có thể coi là tiên quyết cho sự hình thành
nhà nước ở phương Đơng.
Bên cạnh đó, ta cịn thấy tiếp cận yếu tố văn hóa thì cần quan tâm đến những cơng
trình vĩ đại mà con người đã tạo ra. Các cơng trình này thậm chí cịn được coi là kỳ


quan của thế giới trong thời kỳ cổ đại còn được con người biết đến lại tập trung
hầu như ở phương Đông. Đây là kết quả lao động của người phương Đông với sức
mạnh chủ yếu của cơ bắp và sự khôn ngoan lại khẳng định sức mạnh của họ. Có
thể nhìn thấy nhiều khía cạnh của vấn đề rất gần gũi với sự ra đời của nhà nước:
Thứ nhất, đó phải là biểu hiện sức mạnh của một cộng đồng lớn trong q trình
xây dựng các cơng trình quy mô như vậy và rất cần một sự quản lý và phối hợp
hoạt động chặt chẽ từ một tổ chức có uy tín và sức mạnh;
Thứ hai, có nhiều cơng trình mang yếu tố tâm linh, chứng tỏ mối quan hệ bền chặt
của con người vào đấng tối cao mà người đại diện cho quyền lực tối cao ấy là
những người đứng đầu cộng đồng do uy tín tự nhiên của họ (các Kim tự tháp ở Ai
cập, đền Ăng co ở Campuchia, đền Tamahan ở Ấn độ…). Điều này cho ta biết về
mối liên hệ của các yếu tố thiên nhiên khắc nghiệt mà con người chưa khám phá và
chinh phục được, trong đó mong muốn chinh phục đã thúc đẩy con người cố gắng
thực hiện những công việc mà cho đến ngày nay người ta vẫn còn chưa lý giải nổi
nó đã được thực hiện như thế nào;
Thứ ba, các cơng trình này có ý nghĩa góp phần tổ chức và bảo vệ cuộc sống, sản
xuất trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên và nguy cơ bị tấn cơng của các thế lực

bên ngồi (Vạn lý trường thành, các các con sông đào ở Trung quốc, ngọn Hải
đăng ở Ai cập);
Thứ tư, các cơng trình này thường gắn với những khu vưc địa lý đặc biệt, nhất là
những dịng sơng hay ngọn núi (hay dãy núi lớn) liên quan rất nhiều đến hoạt động
sản xuất hay sinh hoạt tín ngưỡng của một cộng đồng. Điều nay cho thấy một thực
tế là địa hình cắt xẻ, phức tạp là một hạn chế cho sự đi lại giao lưu giữa các khu
vực về cả kinh tế, văn hóa. Nó dẫn đến một kết quả là sự cạnh tranh giữa các dân
tộc hay cộng đồng người không nhiều, sự học hỏi nhau gần như khơng có nên sự
phát triển trở nên chậm chạp hơn rất nhiều so với phương Tây nên có những phát
minh khoa học từ rất sớm nhưng khơng được phổ biến rộng rãi.
Thứ năm, là các cơng trình này được thực hiện bởi sự tham gia của rất nhiều nơ lệ
của nhà nước. Nơ lệ ít tham gia vào các quá trình sản xuất ra của cải vật chất và
khơng phải là đối tượng bóc lột chủ yếu như ở phương Tây.
Nói chung, có thể rút ra một số nhận xét về sự xuất hiện của các nhà nước ở
phương Đơng cổ đại như sau:
Trước hết, có thể thấy, các nhà nước ở phương Đông ra đời sớm hơn khá nhiều so
với các nhà nước ở phương Tây. Các nhà nước phương Đơng có sự ra đời sớm có


thể được lý giải là do yêu cầu của việc tổ chức quá trình sản xuất, bảo vệ sản xuất,
bảo vệ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng.
Thứ hai, thời điểm của sự ra đời một tổ chức nhà nước khó xác định chính xác vì
tính chất q độ của xã hội cộng sản nguyên thủy lên xã hội có nhà nước là rất lâu
dài. Nói cách khác thì các nhà nước có q trình “thai nghén và trở dạ rất lâu”.
Bằng chứng là sự tồn tại của các công xã nông thôn kéo dài rất lâu mà Mác đã có
một khẳng định về phương thức sản xuất Á đông đã ảnh hưởng tới tổ chức xã hội
và nhà nước. Điều này được lý giải bởi một căn cứ như đã nêu ở trên là do tính
cạnh tranh khơng cao, con người ít có xung đột, mâu thuẫn ít xảy ra hơn nên ít có
cách mạng xã hội hơn.
Thứ ba, nhà nước phương Đông cổ đại phát triển chậm chạp hơn. Điều này được lý

giải ở việc tính chất duy tình trong các quan hệ xã hội làm cho con người tuy có
gắn bó với nhau bền chặt hơn nhưng sẽ làm cho người ta trở nên bảo thủ ít chịu
thay đổi vì thích sống trong hịa bình. Điều này được chứng minh bởi quan niệm
của người phương Đông trong quan hệ giữa con người với trời, đất ( Thiên- ĐịaNhân). Người ta chỉ chịu làm cách mạng khi mà khơng cịn cách nào khác sau khi
đã cam chịu. Cũng vì lý do này mà quan hệ giai cấp trong xã hội phương Đơng
cũng trở nên ít gay gắt hơn rất nhiều so với phương Tây mà kết quả của nó là nhà
nước phương Đơng ra đời gắn liền với chế độ nô lệ gia trưởng. Hơn thế nữa, do
quan hệ gắn bó, gần gũi với nhau con người phương Đơng hay vì sĩ diện nên hay
tự che giấu hoặc bao che cho nhau những khuyết tật của bản thân làm cho họ trở
nên thủ cựu, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của xã hội.
Thứ tư, càng gần với phương Tây và phương Bắc, các nhà nước càng có xu thế ra
đời sớm hơn. Điều này được lý giải ở khía cạnh yêu cầu của việc tổ chức chống
chiến tranh của các cộng đồng người. Các dân tộc ở phía Tây và phía Bắc thường
là các dân tộc du mục, giỏi cưỡi ngựa, săn bắn mà thức ăn của họ chủ yếu là từ
chăn nuôi và săn bắn nên họ có sức mạnh và thường trở nên hiếu chiến và cũng
thiện chiến hơn.Việc chống lại các thế lực ngoại xâm này đòi hỏi các dân tộc này
phải liên kết với nhau chặt chẽ hơn. Việc tổ chức chiến đấu địi hỏi những người có
bản lĩnh, kinh nghiệm và có uy tín cao. Điều này mang lại một kết quả là sự phục
tùng của xã hội đối với họ gần như là lẽ tự nhiên vì sự phục tùng đó vừa mang lại
sự gắn kết trong cộng đồng để tạo nên sức mạnh, vừa nâng cao tính trách nhiệm
của những người chỉ huy, quyền lực của người chỉ huy dễ được thần thánh hóa. Nó
được coi như là một nguyên nhân dẫn đến sự “ngại làm cách mạng” của người
phương Đông.


Thứ năm, tổng kết về quá trình xâm lược các quốc gia phong kiến ở phương Đông
của các thế lực thực dân phương Tây, người ta thấy chỉ có hai nhà nước phong kiến
Nhật bản và Thái lan tránh được sự xâm lược và ách cai trị của người phương Tây.
Đây là hai nhà nước phong kiến đã tự làm cuộc cách mạng xã hội, mở cửa và tiếp
nhận văn minh phương Tây, khơng thi hành chính sách bế quan tỏa cảng như các

nhà nước phong kiến còn lại. Điều đó cho thấy việc hạn chế giao lưu của các dân
tộc phương Đông là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chậm phát triển của
khu vực này ngay từ thời kỳ cổ đại gắn với những điều kiện tự nhiên;
Thứ sáu, sự chậm phát triển của các nhà nước ở phương Đơng cịn được lý giải qua
tinh thần các giáo lý tơn giáo ở phương Đơng mà điển hình là tư tưởng diệt dục,
triệt tiêu các ham muốn, các nhu cầu của con người được thể hiện trong đạo Phật,
làm cho con người tự thu mình lại, khơng thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Có
quan điểm cho rằng nhu cầu của con người chính là động lực cho sự phát triển của
xã hội loài người, giáo lý đạo Phật lại đi ngược lại với quan điểm này. Ta thấy một
điều rất rõ ở các nhà sư- những người đi theo đạo Phật thường ăn chay, tính tình
của họ cũng vì thế mà trở nên nhu mì, hiền lành hơn. Nó rất gần với thói quen
trong ăn uống của người phương Đông là ăn lương thực là chủ yếu và nhu cầu của
họ cũng trở nên bị thu hẹp.
Việc đưa ra những kết luận trên đây có ý nghĩa góp phần nhìn nhận lại sự chậm
phát triển và tính chất dân chủ hạn chế của các dân tộc phương Đông với những
nguyên nhân và điều kiện tự nhiên liên quan và để có thể phần nào đó có thể khắc
phục những truyền thống lạc hậu của người Phương Đơng ,trong đó có Việt nam
trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay.
Đối với sự xuất hiện của các nhà nước ở phương Tây, cách tiếp cận cũng tương tự
như trên. Theo cách tiếp cận này, ta thấy truyền thống của lối sống phương Tây là
duy lý. Truyền thống văn hóa duy lý là kết quả được hình thành từ thói quen sinh
hoạt, sản xuất và chiến đấu của người phương Tây. Nó gắn liền với điều kiện tự
nhiên ở phương Tây rất khác so với phương Đơng. Đó là khí hậu tương đối điều
hịa, địa hình khá bằng phẳng, rất ít thiên tai, các dịng sơng thì n ả, êm đềm. Khi
đó ta thường có cảm nghĩ về cuộc sống dễ chịu của người phương Tây. Nhưng hãy
nhìn vào “văn hóa ăn bằng dao dĩa” của người phương Tây để phân biệt với “văn
hóa ăn bằng đũa” của người phương Đông. Thông thường ta thấy con người ở
phương Tây tự lập từ rất sớm. Họ có thể thốt ly khỏi gia đình ngay từ bắt đầu sang
tuổi thành niên để sống cuộc sống tự lập. Chính vì thế mà quan hệ theo thiết chế
gia đình “tam đại, tứ đại đồng đường” thường rất hiếm. Điều này có thể được giải

thích là tính cách và khí chất mạnh của người phương Tây. Nhưng tính cách và khí


chất mạnh này có nguồn gốc từ đâu? Ta lại xuất phát từ nguồn thức ăn mà họ sử
dụng. Văn hóa ăn bằng dao dĩa của họ cho ta thấy thức ăn của họ chủ yếu là thực
phẩm- sản phẩm của chăn nuôi và săn bắt. Điều kiện tự nhiên thuận lợi như đã nêu
ở trên đã làm cho nền kinh tế tự nhiên của người phương Tây kéo dài hơn. Đó là
nền kinh tế mà hoạt động của con người chủ yếu là khai thác các sản phẩm tự
nhiên sẵn có mà ít phải chinh phục thiên nhiên, chưa phải lao động sản xuất. Trong
khi đó, điều kiện địa hình bằng phẳng ít cách trở bởi sơng núi đã tạo cho con người
có khả năng mở rộng phạm vi hoạt động và giao lưu. Điều này kéo theo các hệ
quả:
Thứ nhất, con người mang đến trao đổi cho nhau các yếu tố văn hóa, kinh tế, kinh
nghiệm sản xuất… Biểu hiện cụ thể là các biểu hiện văn hóa của các dân tộc
phương Tây là khá gần nhau (từ kiến trúc, chữ viết, âm nhạc đến ăn uống…) Điều
đó làm cho phương Tây phát triển nhanh hơn do con người phát huy được các giá
trị mà họ đã sáng tạo ra và thường xuyên được trao đổi;
Thứ hai, việc mở rộng phạm vi hoạt động cũng có nguy cơ dẫn đến sự xung đột là
rất cao. Chiến tranh xảy ra cũng rất khắc nghiệt và cũng rất nhanh chóng do tính
chất thiện chiến của các tộc người vốn rất giỏi săn bắn và chăn nuôi. Giữa người đi
chinh phục với người bị chinh phục có quan hệ phân biệt rất rõ ràng, trong đó ai là
kẻ mạnh người đó sẽ chiến thắng và thống trị, người kia trở thành nô lệ. Nhiều khi
cả một dân tộc bị nô lệ hóa như người Hilốt bị người Xpác xâm lược. Cũng vì lẽ đó
mà việc áp đặt sự cai trị cần có một lực lượng đủ mạnh để đàn áp sự chống đối của
người bị trị nên nhà nước hình thành sẽ rất nhanh chóng;
Thứ ba, sự xung đột trong xã hội sẽ giúp cho việc loại trừ nhanh chóng những gì
khơng phù hợp, yếu đuối. Tính chất cách mạng cịn xuất phát từ chỗ người bị trị
khi bị đàn áp dã man , tàn bạo quá cũng sẽ đấu tranh mạnh mẽ hơn, từ đó dẫn đến
chỗ giai cấp thống trị cũng cần có sự thay đổi chính sách cai trị cho phù hợp để duy
trì trật tự xã hội nên nền dân chủ ở phương Tây sớm được hình thành hơn;

Thứ tư, sự giao lưu giữa các cộng đồng người do điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ
góp phần cải tạo giống nịi do chế độ quần hơn nhanh chóng bị phá bỏ hơn. Trong
hồn cảnh như vậy, kẻ mạnh càng có điều kiện để chứng minh ưu thế của mình so
với những người khác. Kết quả là nguồn gen để lại cho các thế hệ sau cũng có chất
lượng hơn. Điều này được chứng tỏ ở tầm vóc và sức khỏe của người phương Tây
là hơn hẳn so với người phương Đơng mặc dù ngày nay đã có ít nhiều thay đổi.
Thứ năm, nhu cầu của người phương Tây cũng cao hơn so với người phương
Đông. Điều này có được là do khí chất rất mạnh của người phương Tây. Họ vừa là


những thế lực hay gây chiến tranh xâm lược nhưng họ cũng là những người có
nhiều phát minh khoa học để đáp ứng nhu cầu của mình. Có thể nói đây là một
nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự phát triển nhanh chóng của phương Tây. Các
thế lực xâm lược phải là các thế lực có sức mạnh để có khả năng chinh phục các
dân tộc khác. Điều này đã được lịch sử chứng minh một cách khá đầy đủ.
Với những phân tích trên đây, ta có thể đi đến một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, các nhà nước phương Tây ra đời muộn hơn so với các nhà nước ở
phương Đông. Nguyên nhân của sự ra đời muộn này là do ở phương Tây, nền kinh
tế tự nhiên kéo dài hơn, con người được hưởng các sản phẩm có sẵn nhiều hơn do
sự ưu đãi của thiên nhiên. Sự ưu đãi này làm cho con người ít phải đấu tranh với
thiên nhiên khắc nghiệt, mức độ cạnh tranh của con người với nhau ở phạm vi rộng
vì lý do sinh tồn vì vậy cũng khơng quyết liệt như ở phương Đông;
Thứ hai, thời kỳ quá độ chuyển tiếp từ chế độ cộng sản nguyên thủy lên xã hội có
giai cấp nhanh hơn, thời điểm ra đời của nhà nước ở phương Tây có tính xác định
hơn do qua trình thai nghén của nhà nước ngắn hơn như đã phân tích ở trên;
Thứ ba, tính chất của quan hệ giai cấp trong các nhà nước ở phương Tây là rất gay
gắt mà biểu hiện cụ thể của nó là chế độ nơ lệ ở phương Tây có tính chất điển hình
qua sự thống trị của chủ nơ đối với nơ lệ, trong đó vai trị sản xuất của cải vật chất
cho xã hội chủ yếu do người nô lệ thực hiện. Đó vừa là kết quả của điều kiện sống,
vừa là nguyên nhân của sự phát triển về sau ở phương Tây. Điều này có sự khác

biệt so với chế nộ nô lệ gia trưởng ở phương Đông với vai trị khơng lớn của nơ lệ
(chủ yếu là phục dịch trong các gia đình quyền quý và thực hiện cơng việc xây
dựng các cơng trình cơng cộng). Việc đấu tranh giai cấp vì vậy mà cũng trở nên
quyết liệt hơn, các cuộc cách mạng xã hội diễn ra nhiều hơn mà kết quả của nó là
những cải cách xã hội có tính chất tiến bộ đã sớm mang lại một nền dân chủ và
nhanh chóng trở thành truyền thống của phương Tây;
Thứ tư, đã có một số nhà nước hình thành từ kết quả của các cuộc chiến tranh xâm
lược mà kẻ đi xâm lược do có sức mạnh nên đã chiến thắng và thiết lập nên nhà
nước để áp đặt sự thống trị với người bị thất bại. Đây cũng là một trong những
phương thức giúp cho nhà nước ở phương Tây ra đời nhanh hơn. Đây cũng là một
lý do giải thích cho sự hiếu chiến và cũng rất thiện chiến của người phương Tây và
sau này, các nước thực dân cũng là các nước ở phương Tây. Trong khi đó các dân
tộc phương Đơng lại là những nạn nhân của các đế quốc, thực dân phương Tây.
Trong chiến tranh thế giới, các nước phát xít cũng là các nước có truyền thống bá
quyền xâm lược ( La mã và Giéc – manh). Riêng nước Nhật phát xít là nước rất


mạnh ở phương Đông là nhà nước đã mở cửa với bên ngồi, phát triển kinh tế do
có sự giao lưu rộng rãi với bên ngoài hơn hẳn các dân tộc khác ở phương Đơng.
Những nội dung được phân tích và so sánh ở trên đây có thể cho chúng ta một cách
nhìn về thời đại hiên nay. Xu thế hội nhập và mở rộng các quan hệ với bên ngoài sẽ
làm thay đổi rất nhiều lối sống truyền thống của người phương Đơng, trong đó có
Việt nam chúng ta. Cơ hội cho chúng ta trở nên nhiều hơn nhưng nó cũng là thách
thức với điều kiện hiện tại của chúng ta, buộc chúng ta phải rèn luyện bản lĩnh để
tăng khả năng cạnh tranh, tận dụng cơ hội. Việc Việt nam chính thức trở thành
thành viên của WTO trong thời gian gần đây cũng chính là kết quả nhận thức về xu
thế hội nhập và mở rộng các quan hệ ra bên ngoài. Việt nam đã từng mất một cơ
hội phát triển, đồng thời phải chịu ách đô hộ của thực dân phương Tây khi các vua
nhà Nguyễn không chịu nghe lời khuyến nghị của Nguyễn Trường Tộ trong việc
mở rộng giao lưu với phương Tây. Khó khăn thách thức với Việt nam khi vào

WTO chỉ nên coi là cơ hội cho Việt nam vươn lên để khẳng định mình vì chưa có
một Quốc gia nào lại xin ra khỏi tổ chức này do lợi ích mà nó mang lại. Mặt khác,
việc gia nhập WTO sẽ giúp cho ta “nhăt sạn”, loại trừ những yếu tố tiêu cực trong
cả hoạt động của bộ máy nhà nước lẫn các hoạt động của xã hội. Hy vọng vào sự
phát triển của đất nước trong tương lai gắn liền với sự mở rộng và giao lưu với thế
giới.


Văn minh Phương Đông
Văn minh Ai Cập cổ đại
Văn minh Ấn Độ cổ đại
Văn minh Lưỡng Hà cổ đại
Văn minh Trung Quốc cổ đại
MỞ ĐẦU
Nói đến lịch sử văn minh nhân loại, người ta thường nghĩ đến những giá trị
to lớn mà loài người đã đạt được trong thời đại ngày nay. Nhưng chúng ta cần phải
nhìn nhận lại quá trình phát triển của lịch sử xã hội lồi người, ngay từ rất sớm –
thời cổ đại, loài người đã bước vào xã hội văn minh của mình, chính khu vực
phương Đông chứ không phải là khu vực nào khác, những thành tựu văn minh rực
rỡ đầu tiên của lịch sử nhân loại đã được hình thành và phát triển rực rỡ.
Xét về vùng lãnh thổ, phương Đông ngày nay được hiểu là khu vực bao phủ toàn
bộ châu Á và phần Đông Bắc châu Phi. Mặc dù khái niệm Đông phương học
(Oriental Studies) xuất phát từ phương Tây song vai trị của Đơng phương học nói
chung, văn minh phương Đơng nói riêng càng ngày càng được giới khoa học thế
giới khẳng định và quan tâm. Ngày nay, xét trên nhiều góc độ như lịch sử, chính
trị, kinh tế, văn hố,… phương Đơng chiếm một vị trí vơ cùng quan trọng. Nói đến
phương Đơng, người ta khơng thể khơng nhắc đến những nền văn hoá – văn minh
nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Arập, Trung Hoa, không thể không nhắc
đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hinđu giáo và hàng loạt tín ngưỡng bản địa
mang màu sắc phương Đơng. Nói đến phương Đơng, người ta cũng nhắc ngay đến

các đại ngữ hệ như Nam Á, Nam đảo, Hán – Tạng, Thái – Kađai, Antai…; đến
những cơng trình văn hố kì vĩ như Ăngco Vát, Vạn lí trường thành, Borobudur,
các kim tự tháp Ai Cập… Và, từ góc nhìn văn hố – văn minh hiện đại, phương
Đơng cịn làm cho thế giới ngạc nhiên về “sự thần kì Nhật Bản”, về hàng loạt các
con rồng châu Á như Singapore, Hàn Quốc, Hồng Kơng, Đài Loan,… Tóm lại,
phương Đơng là một khu vực văn hố-văn minh có “bản sắc” riêng cả về phương
diện truyền thống lẫn hiện đại.
Vì vậy, tìm hiểu về nền văn minh phương Đơng cổ đại có một ý nghĩa to lớn, giúp
chúng ta hiểu rõ bản sắc văn hóa truyền thống cũng như sự phát triển của lịch sử
khu vực này. Ngồi ra, nó cịn mang một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tiến


trình hội nhập của khu vực nói chung và đất nước nói riêng trong thời đại ngày
nay.
NỘI DUNG
1.Văn minh phương Đơng được hình thành gắn liền với các dịng sơng lớn:
Một đặc điểm mà chúng ta dễ dàng nhận thấy đối với nền văn minh phương Đông
thời cổ đại, như văn minh Ai Cập, văn minh Ấn Độ, văn minh Trung Quốc, văn
minh Lưỡng Hà… tất cả đều hình thành trên lưu vực các con sông lớn.
Trong các nền văn minh trên thế giới, văn minh Ai Cập được hình thành sớm nhất.
Văn minh Ai Cập gắn liền với cư dân sống ở hai bên bờ sông Nil. Sông Nil hay
được Việt hóa thành sơng Nin, là dịng sơng thuộc châu Phi, một con sông dài nhất
thế giới, với chiều dài 6.650 km và đổ nước vào Địa Trung Hải, nhưng phần chảy
qua Ai Cập chỉ dài 700km. Miền đất đai do sống Nil bồi đắp chỉ rộng 15-25 km,
phía Bắc có nơi rộng 50 km vì ở đây sơng Nil chia thành nhiều nhánh trước khi đổ
ra biển. Đây là dịng sơng có ảnh hưởng nhất ở châu Phi, gắn liền với sự hình
thành, phát triển và lụi tàn của nhiều vương quốc cổ đại, góp phần tạo dựng nên
nền Văn minh sơng Nin.
Sơng Nil có hai nhánh chính, quan trọng nhất là sông Nil Trắng và sông Nil
Xanh. Sông Nil trắng bắt nguồn từ hồ Victoria nằm giữa Uganda , Kenya và

Tanzania. Sông Nil Xanh bắt nguồn từ Hồ Tana trên vùng cao nguyên của Ethiopia.
Dòng Nil Xanh chảy được khoảng 1.400 km (850 dặm) tới Khartoum thì hai dòng
Nil Xanh và Nil Trắng gặp nhau, hợp lưu tạo nên sông Nil. Phần lớn nguồn nước
của sông Nil được cung cấp từ Ethiopia, khoảng 80-85%, nhưng chỉ về mùa hè khi
những cơn mưa lớn đổ xuống vùng này. Sông Nil với nguồn nước dồi dào đã tạo
nên vùng thung lũng trù phú nhất “lục địa đen”. Nó đã góp phần rất lớn tới sự hình
thành nền văn minh Ai Cập cổ đại, với những kim tự tháp kỳ vĩ. Sơng Nil đã ảnh
hưởng lớn tới nền văn hố Ai Cập cổ ngay từ thời đại đồ đá, khi mà sa mạc Sahara
đang ngày càng xâm lấn sang phía Đông của lục địa châu Phi. Sông Nin bắt nguồn
từ hồ Victoria ở khu vực xích đạo có mưa quanh năm nên lượng mưa khá lớn. Tới
Khác-tum sông Nin nhận thêm nước từ phụ lưu Nin Xanh ở khu vực cận xích đạo,
lưu lượng trở nên rất lớn, mùa nước lũ lên tới 90.000 m³/s; đến biên giới Ai Cập
mặc dù sông Nin chảy giữa miền hoang mạc và không nhận được thêm phụ lưu
nào nữa, nước sông vừa ngấm xuống đất, vừa bốc hơi mạnh, gần biển lưu lượng
nước giảm nhiều nhưng ở Cai-rô (Ai Cập) về mùa cạn lưu lượng vẫn cịn 700
m³/s. Phần hạ lưu sơng Nil rộng lớn, giống như hình tam giác dài 700 km, hai bên
bờ sông rộng từ 10 dến 50 km tạo thành một vùng sinh thái ngập nước và bán ngập


nước – một đồng bằng phì nhiêu với động thực vật đa dạng và đông đúc. Hàng
năm từ tháng 6 đến tháng 11, nước lũ sông Nil dâng lên làm tràn ngập cả khu đồng
bằng rộng lớn và bồi đắp một lượng phù sa khổng lồ, màu mỡ. Các loại thực vật
chủ yếu như: đại mạch, tiểu mạch, chà là, sen,… sinh sơi nảy nở quanh năm. Ai
Cập cũng có một quần thể động vật đa dạng và phong phú, mang đặc điểm đồng
bằng-sa mạc như voi, hươu cao cổ, sư tử, trâu, bị, các lồi cá, chim, …
Tất cả các điều kiện thiên nhiên ưu đãi đã góp phần hình thành nền văn minh Ai
Cập sớm nhất. Các ngành nghề như đánh bắt cá, nông nghiệp, thủ công nghiệp và
thương nghiệp đều phát triển ngay từ 3.000 năm trước Công nguyên. Đặc biệt, các
di sản kiến trúc đồ sộ và đạt đến một trình độ vươn lên tầm kỳ quan của thế giới
như: các kim tự tháp, các kiệt tác về hội hoạ, điêu khắc và nghệ thuật ướp xác…

Cũng chính vì vậy, nhà sử học Hy Lạp Hê-rơ-đốt đã nói rằng: “Ai Cập là tặng
phẩm của sơng Nil”
Giống như văn minh Ai Cập, văn minh Lưỡng Hà cũng được hình thành gắn liền
với hai con sơng Euphrates ở phía Đơng và Tigris ở phía Tây. Cả hai sơng này đều
bắt nguồn từ miền rừng núi Armenia chảy qua lãnh thổ Iraq ngày nay rồi đổ ra vịnh
Ba Tư (Péc-xích). Lưỡng Hà là tên gọi của một vùng địa lý và của một nền văn
minh ở nơi gồm lãnh thổ Iraq, đông Syria, đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, và tây nam Iran
hiện đại. Tên gốc của nó xuất phát từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là “giữa” và “sơng”,
để chỉ hai vùng châu thổ sông Euphrates và sông Tigris cũng như vùng đất nằm
giữa chúng.
Tigris là con sơng phía đông thuộc hai con sông lớn phân định nền văn minh
Lưỡng Hà, cùng với sông Euphrates (dài 2800km). Tigris chảy từ các khu vực núi
của Thổ Nhĩ Kỳ qua Iraq. Sông Tigris dài khoảng 2000 km, bắt nguồn từ Dãy núi
Taurus phía đơng Thổ Nhĩ Kỳ và chảy theo hướng đông nam đên khi nhập vào
Euphrates gần Al Qurna ở phía nam Iraq. Hai sơng cùng nhau tạo ra đường thủy
Shatt al-Arab chảy vào Vịnh Ba Tư. Sơng Tigris có nhiều nhánh, bao gồm Diyala
và thượng và hạ lưu của các sông Zab. Thủ đô Baghdad của Iraq nằm hai bờ của
Tigris. Thành phố cảng Basra nằm ở tuyến đường thủy Shatt al-Arab. Trong thời
kỳ cổ đại, nhiều thành phố của nền văn minh Lưỡng Hà nằm hai bên hoặc gần sơng
Tigris, những cư dân thời đó là lấy nước sông này để tưới nước cho những khu vực
nông nghiệp của người Sumeria. Các thành phổ đáng chú ý bên sơng Tigris có
Nineveh, Ctesiphon, và Seleucia, cịn thành phố Lagash lấy nước từ Tigris qua một
con kênh từ khoảng năm 2400 TCN. Sông Tigris từ lâu đã là một con đường vận
tải quan trọng ở quốc gia phần lớn là sa mạc này. Việc buôn bán qua con sông này
đã giảm sút tầm quan trọng của nó trong thế kỷ 20 khi tuyến đường sắt và đường


bộ đã thay thế đường thủy. Hằng năm, vào mùa xuân, băng tuyết vùng rừng núi
Armenia tan ra, nước đổ vào hai con sông, làm cho mực nước dâng cao gây nên lũ
lụt làm ngập cả một vung rộng lớn. Nhưng chính nhờ những trận lũ lụt ấy, đất đai ở

khu vực này liên tục được phù sa bồi đắp và trở nên màu mỡ. Lượng phù sa ở đây
nhiều đến nỗi, qua mấy nghìn năm, cả một vùng biển rộng lớn của khu vực này đã
trở thành đồng bằng, bờ biển của vịnh Ba Tư phải lùi xa gần 200km. Cũng vì vậy,
hai dịng sơng Tigris và Ephrates vốn đổ ra biển bằng hai cữa sông khác nhau đã
nhập lại thành một trước khi ra đến biển. Chính nhờ có đất đai phì nhiêu như vậy,
nên cũng như Ai Cập cổ đại, khi cơng cụ sản xuất cịn tương đối thơ sơ, kinh tế ở
đây vẫn có điều kiện phát triển; do đó đã sớm bước vào xã hội văn minh.
Nền văn minh Ấn Độ được hình thành từ khá sớm, có nguồn gốc từ nền Văn hóa
Harappa và Mohenjo Daro, gọi theo địa danh của một trong những nơi khai quật
chính là một nền văn minh thời Cổ đại phát triển vào khoảng thời gian từ năm
2.800 TCN đến năm 1.800 TCN dọc theo sông Ấn nằm về phía tây bắc của tiểu lục
địa Ấn Độ.
Lịch sử hình thành nền văn minh Ấn Độ cũng gắn liền với sông Ấn và sông Hằng.
Sông Hằng, con sông quan trọng nhất của tiểu lục địa Ấn Độ. Sông Hằng dài
2510km bắt nguồn từ dãy Hymalaya của Bắc Trung Bộ Ấn Độ, chảy theo hướng
Đông Nam qua Bangladesh và chảy vào Vịnh Bengal. Tên của sông được đặt theo
tên vị nữ thần Hindu Ganga. Sơng Hằng có lưu vực rộng 907.000 km2, một trong
những khu vực phì nhiều và có mật độ dân cao nhất thế giới. Sông Hằng được tạo
thành bởi hai con sông đầu nguồn là sông Bhagirathi và sông Alaknanda ở dãy núi
Himalaya của bang Uttaranchal thuộc Ấn Độ. Nguồn nước thường được mọi người
thừa nhận là Bhagirathi, một con sông bắt nguồn từ một động băng tại độ cao
4000m và là con sông nhỏ hơn trong hai chi lưu của sông Hằng. Sông Alaknanda
bắt nguồn từ khu vực nằm dưới đỉnh Nanda Devi gần biên giới Tây Tạng. Được
tạo thành từ những khối băng tuyết tan ra từ các địa điểm như Gangotri và các đỉnh
như Nanda Devi và Kamet, hai sơng nhánh này chảy về phía Nam qua trung độ
Haymalaya đến nơi hội tụ của chúng để tạo nên sông Hằng. Sau khi chảy hơn 200
km (125 dặm), sơng Hằng đến thành phố Haridwar, nơi nó xẻ dọc Dãy núi Siwalik
và bắt đầu chảy theo hướng nhìn chung là Đơng-Nam qua Đồng bằng sơng Hằng.
Tại Haridwar, một con đập đã chuyển hướng nước đến Kênh thượng lưu sông
Hằng. Giữa Haridwar và Allahabad, một khoảng cách gần 800km (500 dặm), sông

Hằng theo một đường ngoằn ngoèo và khơng thể lưu thơng bằng tàu thuyền được
do có nhiều chỗ nông và thác ghềnh. Tại Allahabad, sông Hằng được sơng Yamuna
chảy từ Tây Nam nhập vào, sau đó sơng Hằng chảy theo hướng Đông qua các


thành phố Mirzapur, Varanasi, Patna, và Bhagalpur gần biên giới với Bangladesh.
Tại đoạn này, sông Hằng cũng nhận được nước đổ thêm vào từ sơng Son từ phía
Nam, sơng Gumti, sơng Ghaghra, sơng Gandak, và sơng Kosi từ phía Bắc. Qua
Bhagalpur, sông chạy quanh dãy đồi Rajmahal tại biên giới Bangladesh. Ở đây, qua
hướng Nam là Đồng bằng châu thổ sơng Hằng, cách Allahabad khoảng 900 km về
phía thượng lưu và cách Vịnh Bengal 450 km về phía hạ lưu. Gần Pakaur, Ấn Độ,
sông Hằng chia nhánh. Nhánh Bhagirathi chảy về hướng Nam để tạo nên sông
Hugli, là nhánh cực Tây của đồng bằng châu thổ, cũng như là kênh vận chuyển
đường thủy chính của khu vực đồng bằng này. Các tàu biển có thể chạy vào Hugli
từ cửa sơng Hằng ở Vịnh Bengal đến thành phố Kolkata nằm cách cửa sơng
khoảng130 km phía thượng lưu. Nhánh chính của sơng Hằng tiếp tục chảy qua
Bangladesh, nơi có đoạn nó được gọi là sông Padma. Sông Hằng đã tạo ra nhiều
nhánh sông tạo thành một mạng lưới đường thủy cũng như tạo ra một trong những
đồng bằng châu thổ rộng lớn và phì nhiêu nhất thế giới. Dịng chính của sơng Hằng
tiếp tục chảy theo hướng Nam và được nhận thêm nước từ sông Brahmaputra đổ
vào và tiếp nữa là từ sơng Meghna (tên mà kể từ đoạn này nó được gọi) trước khi
đổ vào Vịnh Bengal. Tại Vịnh Bengal, cửa sơng Meghna có bề rộng 30km. Lưu
lượng nước hàng năm của sông Hằng chỉ xếp sau sông Amazon và sông Congo. Do
sơng Hằng mang theo trong mình lượng phù sa lớn nên vùng đồng bằng châu thổ
do nó tạo ra ngày càng tiếp tục được mở rộng. Lưu vực sông Hằng là khu vực đông
dân nhất, sản xuất nông nghiệp lớn nhất và rộng lớn nhất ở Ấn Độ. Ở châu Á, chỉ
có vùng Bình ngun Hoa Bắc của Trung Quốc là có mật độ dân cư tương tự ở lưu
vực này. Ở phần phía Tây của đồng bằng sơng Hằng, con sông này cung cấp nước
tưới và một hệt thống kênh rạch chằng chịt với các kênh huyết mạch chính là Kênh
Thượng lưu sơng Hằng và Kênh Hạ lưu sông Hằng. Các loại lương thực và hoa

màu trồng trọt và thu hoạch ở khu vực này có: lúa, mía đường, đậu lăng, hạt có
dầu, khoai tây và lúa mỳ. Hầu như cả khu vực đồng bằng sông Hằng đã bị khai
hoang hết rừng cây và cỏ để phục vụ cho nơng nghiệp. Thơng thường, hai bên bờ
sơng Hằng có các vùng đầm lầy và các hồ nước. Ở các khu vực đầm lầy và các khu
vực ao hồ này, người ta trồng rau, lúa, ớt, cây mù tạc, vừng (mè) và cây đay. Một
số khu vực khác có rừng đước và có cá sấu sinh sống. Do sơng Hằng được cấp
nước từ các đỉnh núi phủ băng tuyết, lượng nước của nó vẫn giữ mức cao quanh
năm và dịng sơng vẫn được sử dụng làm thủy lợi thậm chí vào mùa khơ và nóng
từ tháng 4 đến tháng 6. Vào mùa mưa mùa Hè, lượng mưa lớn có thể gây lũ lụt
hoành hành, đặc biệt là vùng đồng bằng châu thổ.


Sông Ấn Độ gọi tắt là Sông Ấn (Sindh darya), còn được biết đến như là Sindhu
trong tiếng Phạn, Sinthos trong tiếng Hy Lạp, và Sindus trong tiếng Latinh, là một
con sơng chính của Pakistan. Trước khi diễn ra sự chia cắt Ấn Độ thành các quốc
gia ngày nay là Ấn Độ và Pakistan năm 1947 thì sơng Ấn là con sông lớn thứ hai
sau sông Hằng khi xét về khía cạnh tầm quan trọng văn hóa và thương mại của khu
vực, và nó là nguồn gốc của tên gọi của Ấn Độ. Con sông này bắt nguồn từ Tây
Tạng, chảy từ dãy núi Himalaya theo hướng đông bắc-tây nam qua Kashmir, và
sau đó chảy theo hướng nam gần như theo toàn bộ đường chiều dài biên giới của
Pakistan với Ấn Độ nhưng sâu trong lãnh thổ của Pakistan. Chiều dài của sơng này
được tính tốn theo các nguồn khác nhau dao động từ 2.900 đến 3.200 km. Nền
văn minh lưu vực sơng Ấn có một số điểm định cư dân kiểu đô thị sớm nhất thế
giới. Thượng nguồn của sơng Ấn nằm ở Tây Tạng; nó bắt đầu ở chỗ hợp lưu của
hai sông là sông Sengge và sông Gar là các con sông tiêu nước cho các dãy núi
Nganglong Kangri và Gangdise Shan. Sơng Ấn sau đó chảy theo hướng đơng bắctây nam tới Gilgit-Baltistan ở phía nam của dãy núi Karakoram, sau đó dần dần
chuyển hướng theo hướng nam, ra khỏi các vùng núi ở đoạn giữa Peshawar và
Rawalpindi. Nó bị đắp đập ngăn nước ở khu vực này, tạo ra hồ chứa nước Tarbela.
Phần còn lại trên hành trình của nó ra tới biển là các khu vực đồng bằng của
Punjab và Sind, và dòng chảy của nó bị chậm đi rất nhiều. Nó nối với sơng

Panjnad tại Mithankot. Chảy qua Hyderabad, nó kết thúc tại khu vực đồng bằng
châu thổ lớn ở phía đơng nam Karachi. Sơng Ấn là một trong số rất ít sơng trên
trên thế giới có hiện tượng sóng cồn khi thủy triều dâng. Sông Ấn, theo lưu lượng,
là “sông ngoại lai lớn nhất (dịng chảy chính của nó khơng chảy qua quốc gia mà
nó mang tên) trên thế giới”. Nền văn minh thung lũng sông Ấn là một trong bốn
nền văn minh của thế giới cổ đại, ba nền văn minh cổ đại khác là nền văn minh
Lưỡng Hà (Mesopotamia), nền văn minh Ai Cập cổ đại và nền văn minh Trung
Hoa. Các đơ thị chính của nền văn minh thung lũng sông Ấn, chẳng hạn như
Harappa và Mohenjo Daro đã ra đời vào khoảng năm 3000 TCN, và là hiện thân
của những khu vực con người cư trú lớn nhất trong thế giới cổ đại.
Ngoài ra, điều kiện thiên nhiên ở Ấn Độ có nét rất đặt biệt: miền Bắc có nhiều
sơng ngồi và miền Nam lắm rừng nhiều núi, có núi cao và rừng già bí hiểm lại có
hai dải bờ biển dài vào loại nhất trên thế giới, có sa mạc nóng cháy lại có mưa theo
gió mùa. Thật lài một thiên nhiên, vừa đóng kín vừa cởi mở, vừa là một tiểu lục địa
thống nhất; cách biệt với bên ngoài, vừa chia cắt và khác nhau bên trong, vừa hùng
vĩ lại vừa cực kì đa dạng. Với điều kiện thiên nhiên như vậy, cùng với sự bồi đắp
của sơng Ấn và sơng Hằng đã hình thành nên hai đồng bằng màu mỡ cho miền Bắc


Ấn Độ. Vì vậy, nơi đây từ rất sớm đã trở thành một trong những cái nôi của nền
văn minh nhân loại.
Nếu như văn minh Ấn Độ gắn liền với sơng Ấn và sơng Hằng thì văn minh Trung
Quốc đã được hình thành trên lưu vực sơng Trường Giang và sơng Hồng
Hà. Trung Quốc có hàng ngàn con sơng lớn nhỏ, nhưng có hai con sơng quan trọng
nhất là sơng Hồng Hà và sơng Trường Giang (hay sơng Dương Tử). Hai con sông
này đều chảy theo hướng tây-đông và hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những
cánh đồng ở phía đơng Trung Quốc.
Hồng Hà, nghĩa là “sơng màu vàng”, là con sông dài thứ hai ở Trung Quốc với
chiều dài 5.464 km sau sông Dương Tử. Cũng như các tên gọi khác có nguồn gốc
từ Trung Quốc, tiếng Việt gọi sơng này làsơng Hồng Hà, tuy nhiên về mặt ngữ

nghĩa có vẻ khơng chính xác vì Hà đã có nghĩa là sơng cịn Hồngchỉ màu vàng
của nước sơng này.
Hồng Hà bắt nguồn từ dãy núi Cơn Lơn ở phía tây bắc tỉnh Thanh Hải, từ độ cao
4.500m trong vùng lịng chảo Yekuzonglie nằm ở phía bắc của dãy núi Bayankara
(hay Ba Nhan Khách Lạp) trên cao nguyên Thanh Tạng. Từ đầu nguồn của nó, con
sơng chảy theo hướng nam, sau đó tạo ra một chỗ uốn cong về hướng đơng nam và
sau đó lại chảy theo hướng nam một lần nữa cho đến khi tới thành phố Lan Châu,
thủ phủ của tỉnh Cam Túc, là nơi mà điểm uốn cong lớn về phía bắc, bắt đầu. Con
sơng chảy về phía bắc qua Khu tự trị dân tộc Hồi Ninh Hạ tới khu tự trị Nội Mông,
đoạn cong này gọi là Hà Sáo. Sau đó con sơng này lại đổi hướng, chảy gần như
thẳng về phía nam, tạo ra ranh giới của hai tỉnh Thiểm Tây và Sơn Tây. Khoảng
130 km về phía đơng bắc của thành phố Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây, Hoàng
Hà lại đổi hướng để chảy về phía đơng. Nó chảy tới những vùng đất trũng ven biển
ở miền đông Trung Quốc gần thành phố Khai Phong và chảy qua chúng về phía
cửa sơng của nó theo hướng đơng bắc. Nó tưới tiêu cho một khu vực rộng 944.970
km vuông (364.417 dặm vuông), nhưng do tính chất khơ cằn chủ đạo của vùng này
(khơng giống như phần phía đơng thuộc Hà Nam và Sơn Đơng) nên lưu lượng
nước của nó tương đối nhỏ. Tính theo lưu lượng nó chỉ bằng 1/15 của sơng Trường
Giang và 1/5 của sông Châu Giang, mặc dù khu vực tưới tiêu của con sông cuối
(Châu Giang) chưa bằng một nửa của Hoàng Hà. Trong lịch sử hàng ngàn năm của
Trung Quốc, Hồng Hà vừa đem lại lợi ích vừa đem lại tai họa cho người dân, vì
thế nó cịn được coi là “Niềm kiêu hãnh của Trung Quốc” và “Nỗi buồn của Trung
Quốc”. Các ghi chép chỉ ra rằng, từ năm 602 đến ngày nay, con sông này đã ít nhất
5 lần đổi dòng và các con đê bao bọc đã vỡ khơng dưới 1.500 lần. Lần thay đổi
dịng năm 1194 đã phá vỡ hệ thống tưới tiêu của sơng Hồi trong gần 700 năm sau.


Phù sa Hồng Hà đã ngăn chặn dịng chảy của sơng Hồi và làm hàng ngàn người
mất nhà ở. Mỗi lần đổi dịng nó khi thì đổ ra biển Hồng Hải, khi thì ra vịnh Bột
Hải. Hồng Hà có dịng chảy như ngày nay từ năm 1897 sau lần đổi dịng

cuối cùng năm 1855.
Hiện tại Hồng Hà chảy qua Tế Nam, thủ phủ của tỉnh Sơn Đông và đổ ra biển Bột
Hải (vịnh Bột Hải).Màu nước vàng của con sông là do phù sa mà nó mang theo.
Hàng thế kỷ của việc bồi đắp và sự bao bọc của các con đê đã làm con sông này
chảy ở độ cao lớn hơn so với đất nông nghiệp hai bên bờ, làm cho việc ngập lụt trở
nên nguy hiểm hơn. Ngập lụt của Hồng Hà đã gây ra sự chết chóc khủng khiếp
trong lịch sử. Mặc dù vậy, sau khi nước lũ rút đi, nó đã để lại một khối lượng phù
sa khổng lồ, tạo nên đồng bằng phì nhiêu, thuận lợi cho cư dân quần cư để sinh
sống. Đôi khi người ta cịn gọi nó làTrọc Lưu, nghĩa là dịng nước đục. Thành ngữ
Trung Quốc “Khi nước Hoàng Hà trong” ám chỉ điều không bao giờ xảy ra.
Sông Dương Tử, cịn có tên gọi phổ biến hơn là Trường Giang, là con sông dài
nhất châu Á. Sông Trường Giang dài khoảng 6.300 km, bắt nguồn từ phía tây
Trung Quốc – tỉnh (Thanh Hải) và chảy về phía đơng đổ ra Đông Hải, Trung Quốc.
Thông thường sông này được coi như điểm phân chia giữa hai miền Hoa bắc và
Hoa nam Trung Quốc, mặc dù sơng Hồi cũng đơi khi được coi như vậy. Tên
gọiDương Tử nguyên thủy là tên gọi của người dân khu vực hạ lưu sông này để
chỉ khúc sơng chảy qua đó. Vì được phổ biến qua những nhà nhà truyền giáo châu
Âu nên tên “Dương Tử” đã được dùng trong tiếng Anh để chỉ cả con sơng
(Yangtse, Yangtze Kiang). Con sơng này đơi khi cịn được gọi là Thủy lộ Vàng
(Golden Waterway). Ngồi ra, con sơng này mang nhiều tên khác nhau tùy theo
khu vực mà nó chảy qua. Ở cao nguyên Thanh Tạng, Tây Tạng, nó được gọi
là Vbri-chu. Ở thượng nguồn, thuộc tỉnh Thanh Hải nó được gọi là Đà Đà
Hà, Đương Khúc Hà, Thông Thiên Hà. Đoạn từ Thanh Hải chảy đến Nghi Tân
tỉnh Tứ Xuyên được gọi là Kim Sa Giang. Đoạn từ Nghi Tân đến Nghi Xương
được gọi là Xuyên Giang . Đoạn từ Nghi Đô tỉnh Hồ Bắc đến Nhạc Dương tỉnh
Hồ Nam được gọi là Kinh Giang (xưa là đất Kinh Châu). Cuối cùng, khi chảy qua
khu vực Dương Châu tỉnh Giang Tơ nó được gọi là Dương Tử Giang. Trường
Giang là con sông lớn nhất của Trung Quốc về chiều dài, lượng nước chảy, diện
tích, lưu vực và ảnh hưởng kinh tế. Trường Giang bắt nguồn từ vùng cao nguyên
tỉnh Thanh Hải, chảy về hướng nam, dọc theo ranh giới cao nguyên Tây Tạng vào

địa phận tỉnh Vân Nam, sau đó rẽ sang hướng đơng bắc vào tỉnh Tứ Xuyên, qua
các tỉnh Hồ Bắc, Giang Tây, An Huy và Giang Tơ rồi đổ ra biển ở giữa Hồng Hải
và Đông Hải. Sông Trường Giang là đầu mối giao thông quan trọng của Trung


Quốc. Nó nối liền Trung Hoa lục địa với bờ biển. Việc vận chuyển trên sông rất đa
dạng từ vận chuyển than, hàng hóa tiêu dùng và hành khách. Các chuyến tàu thủy
trên sông trong vài ngày sẽ đưa ta qua các khu vực có phong cảnh đẹp như khu vực
Tam Hiệp ngày càng trở nên phổ thông hơn làm cho du lịch Trung Quốc phát triển.
Hoàng Hà và Trường Giang từ xưa thường gây ra nhiều lũ lụt, nhưng qua đó đã
bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nông
nghiệp khi cơng cụ sản xuất cịn tương đối thơ sơ. Chính vì vậy, nơi đây đã trở
thành cái nơi của nền văn minh Trung Quốc…
Ngồi ra, nền Văn minh sơng Hồng của Việt Nam ở thời cổ đại cũng được hình
thành trên lưu vực các con sơng như: sơng Hồng, sông Mã.
Như vậy, những trung tâm văn minh lớn của phương Đơng cổ đại, mặc dù thời gian
xuất hiện có khác nhau nhưng cùng có chung đặc điểm vơ cùng quan trọng, đó là
hình thành trên lưu vực các con sơng lớn.
2.Văn minh cổ đại phương Đơng được hình thành trên nền nông nghiệp lúa
nước
Với những điều kiện vô cùng thuận lợi, đó là: thuỷ lượng cao, khí hậu ấm áp, đất
đai màu mỡ, dễ canh tác. Cho nên, ngay từ rất sớm, cư dân phương Đông đã bước
vào nền văn minh nông nghiệp, chủ yếu là kinh tế nông nghiệp lúa nước. Nền kinh
tế phương Đơng mang nặng tính chất tự nhiên, nông nghiệp chủ đạo. Do đặc điểm
của tự nhiên ở vùng sơng nước, cho nên có rất nhiều đồng bằng màu mỡ, phì
nhiêu, có nguồn nước dồi dào do các con sơng lớn cung cấp…Do đó, nền kinh tế
phương Đơng có những đặc thù riêng, kinh tế tự nhiên chiếm địa vị thống trị. Hoạt
động kinh tế chủ đạo là nông nghiệp, qui mô sản xuất nhỏ, gắn liền với cơng tác
thủy lợi. Vì nơng nghiệp là hoạt động kinh tế chính của phương Đơng nên tư liệu
sản xuất chính là ruộng đất. Khơng chỉ trong thời kỳ cổ đại mà trong suốt chiều dài

lịch sử của các quốc gia phương Đông, vấn đề ruộng đất luôn là một vấn đề hết sức
quan trọng. Kinh tế công thương ở phương Đơng có phát triển nhưng rất yếu ớt,
chỉ là một hoạt động kinh tế phụ hay kinh tế thứ yếu trong các gia đình nơng dân.
Sự phân cơng chun mơn hóa giữa các ngành chưa diễn ra một cách sâu sắc, vì
năng suất lao động thấp kém, kỹ thuật sản xuất lạc hậu, công cụ lao động thô sơ.
Những sản phẩm của nền kinh tế phương Đông thì rất đơn điệu, chủ yếu là nơng
sản, lương thực thực phẩm và các nhu yếu phẩm cần thiết khác.
Bên cạnh nông nghiệp và luôn luôn đi cùng với nông nghiệp, cư dân phương Đơng
cịn thể hiện trình độ văn minh của mình thơng qua cơng cuộc chinh phục tự nhiên,


đặc biệt là trong công tác trị thủy và làm thủy lợi. Điều kiện tự nhiên của phương
Đông vô cùng thuận lợi đối với nền kinh tế nông nghiệp nhưng nó cũng đặt ra
khơng ít những khó khăn, thách thức. Vì vậy, để có được cuộc sống ổn định lâu
dài, cư dân phương Đông trong quan hệ ứng xử với thiên nhiên, phương Đơng
khơng chỉ nghiêng về hồ đồng, thuận tự nhiên mà họ cịn tìm cách từng bước
chinh phục tự nhiên để phục cho cuộc sống của mình.
Một trong những điều kiện thuận lợi khác của phương Đơng chính là việc cư dân
phương Đông đã sớm bước vào thời đại kim khí, tức là có sự xuất hiện của những
cơng cụ lao động bằng kim khí như đồng đỏ, đồng thau và sắt. Sự xuất hiện của
công cụ lao động bằng kim khí đã làm biến đổi to lớn xã hội loài người. Ngay từ
thiên niên kỷ IV TCN, con người đã biết phát minh ra và sử dụng công cụ bằng
đồng, đầu tiên là đồng đỏ. Vào khoảng 5500 năm trước đây, cư dân Tây Á và Ai
Cập đã biết sử dụng đồng đỏ. Đến khoảng 4000 năm trước đây thì nhiều cư dân
trên trái đất đã biết dùng đồng thau. Từ đồng thau, người ta đã biết chế tạo ra nhiều
loại công cụ như: lưỡi cày, lưỡi cuốc, rìu, dao…Đến khoảng cuối thiên niên kỷ II,
đầu thiên niên kỉ I TCN, con người đã biết chế tạo ra công cụ lao động bằng sắtmột thứ kim loại cứng và sắc hơn đồng rất nhiều. “Sắt cho phép người ta có thể
trồng trọt trên những diện tích rộng lớn hơn, có thể khai hoang những miền rừng
rú rộng lớn hơn; sắt khiến cho người thợ thủ cơng có được một cơng cụ cứng và
sắc mà khơng có một loại đá nào hay một loại kim khí quen thuộc nào có thể

đương đầu với nó được”. Lần đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người, trong suốt
thời kỳ đồ đá, cuộc sống của con người từ chỗ sống bấp bênh, đến chỗ tìm kiếm
thức ăn để ni sống mình và lúc này, vào buổi đầu của thời đại kim khí, sản phẩm
họ làm ra khơng chỉ đủ ăn mà còn dư thừa thường xuyên.
Với Ai Cập, ngay từ thời kỳ sơ khai, nền nông nghiệp đã bắt đầu xuất hiện với
công cụ sản xuất đều làm bằng đá, bằng gỗ, phương pháp canh tác thô sơ, lạc hậu;
người ta chỉ biết xới đất lên rồi gieo hạt giống. Tuy vậy, nhờ đất đai màu mỡ nên
đã được thu hoạch một cách đều đặng. Theo các văn tự cổ, thời Cổ vương quốc đã
có những loại lúa mì đặc biệt ở Thượng và Hạ Ai Cập; nghề trồng nho, trồng cây
ăn quả và trồng cây gai cũng được nói đến trong các văn tự cổ. Sang đến thời kỳ
Tân vương quốc, nền kinh tế Ai Cập chủ yếu vẫn dựa trên sự phát triển của kinh tế
nông nghiệp tưới tiêu. Ở thời kỳ này, nền nơng nghiệp đã có bước phát triển mới.
Bước tiến đó thể hiện trước hết trong kỹ thuật canh tác. Công cụ bằng đồng thau
được sử dụng rộng rãi trong sản xuất, người ta biết dừng loại cày cán đứng có lỗ
cầm và biết dùng vồ để đập đất.


Từ thời Cổ vương quốc, người Ai Cập đã biết chú trọng đến công tác thủy lợi và đã
tiến hành xây dựng nhiều cơng trình thủy lợi có quy mơ to lớn. Herodote cũng nói
rằng vùng châu thổ sơng Nil chằng chịt những kênh đào. Nhà nước còn đặt ra chức
nơng quan có nhiệm vụ trơng nom các cơng trình thủy lợi. Ở thời kỳ Trung vương
quốc, các Pharaon đã hiểu một cách sâu sắc tác dụng của các công trình thủy lợi và
tầm quan trọng của việc quan sát mực nước sơng Nil đối với sản xuất nơng nghiệp.
Vì thế, chính quyền nhà nước rất quan tâm đến cơng tác thủy lợi. Có quy mơ to lớn
nhất trong thời kỳ này là cơng trình sửa chữa hồ Phayum thành một bể chứa nước
nhân tạo rộng lớn. Đến thời vương triều XII, người ta đã đào một con kênh dẫn
nước nối từ hồ tới sông Nil dài 19 km. Sang thời Tân vương quốc, nhà nước đã cử
quan Vizir lãnh đạo mọi công việc sản xuất nông nghiệp cũng như công tác thủy
lợi trong cả nước.
Với Lưỡng Hà, ngay từ đầu, nền kinh tế nông nghiệp cũng khá phát triển. Do được

phù sa bù đắp từ hai con sông Tigris và Euphrates, đất đai ở khu vực này rất màu
mỡ, dày đặt thích hợp cho việc gieo trồng lúa mạch lúa mì. Vì khí hậu Lưỡng Hà
nóng và khơ nên lượng mưa hằng năm không đáng kể; do vậy nông nghiệp chủ yếu
được tiến hành trên những vùng đất đã được nước sông tưới tiêu tự nhiên hay bằng
sức lao động của con người. Từ xa xưa, cư dân Lưỡng Hà đã biết chăm lo đến công
tác thủy lợi, đào kênh máng để tưới tiêu cho đồng ruộng. Dưới thời thống trị của
vương triều III Ur, kinh tế nông nghiệp đã được phục hưng và phát triển mạnh mẽ.
Công tác thủy lợi được phục hồi, sửa chữa và đào đắp thêm. Cư dân Lưỡng Hà thời
kỳ này đã biết dùng gầu, guồng đơn giản để đưa nước lên cao. Việc sử dụng sức
kéo của bò, ngựa cũng được phổ biến rộng rãi, diện tích canh tác được mở rộng,
sản phẩm nông nghiệp phong phú. Bên cạnh ngũ cốc, chà là, người Lưỡng Hà cũng
bắt đầu biết trồng và và sử dụng nho. Sang thời kỳ trị vì của vua Hammurabi, với
sự xuất hiện của công cụ lao động bằng kim khí như đồng và sắt, điều này đã thúc
đẩy cho nền kinh tế nông nghiệp phát triển; công tác thủy lợi được triển khai rộng,
nó khơng chỉ là cơng việc của nhà nước mà đã trở thành việc của toàn dân, những
điều luật trong bộ luật Hammurabi đã minh chứng cho điều ấy. Sản phẩm làm ra
trong nông nghiệp không những đủ tiêu dùng mà còn được tiến hành trao đổi mua
bán với các vùng lân cận, nhất là cho các bộ lạc chăn nuôi ở Xiri. Nền kinh tế nông
nghiệp của Lưỡng Hà tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thời gian trị vì của Vua
Nabuchodonosor, với sự quan tâm của nhà nước phong kiến, kinh tế nông nghiệp
tiếp tục giữ vị trí hàng đầu trong hoạt động kinh tế ở Tân Babylone.
Ngay từ thời tiền sử, với nền văn hóa sơng Ấn, cư dân Ấn Độ đã tiến hành làm
kinh tế nông nghiệp. Với điều kiện thuận lợi do sông Ấn và sông Hằng mang lại,


kinh tế nông nghiệp ở Ấn Độ từng bước phát triển qua các thời kỳ lịch sử. Ấn Độ
cũng là một trong những quốc gia có được nền văn minh lúa nước. Ở Ấn Độ, các
vị Vua vẫn được xem là người sở hữu tối cao về ruộng đất, nhưng cũng thừa nhận
hình thức chiếm hữu tư nhân. Cây lúa nước vẫn được xem là cây trồng chính của
cư dân Ấn Độ. Sự xuất hiện của nàng Sita trong bộ sử thi Ramayana đã minh

chứng cho điều này. Cuộc xung đột của Rama và Ranava phải chăng là sự đấu
tranh trên con đường phát triển giữa cư dân nông nghiệp ở lưu vực sông Hằng với
cư dân săn bắn và hái lượm trong vùng núi Vindia. Từ khi cư dân Arya định cư ở
lưu vực sông Hằng, cư dân ở đây đã bắt đầu biết dùng ngựa và trồng lúa nước. Họ
đã biết sử dụng công cụ lao động bằng đồng. Từ năm 800 TCN, kỹ nghệ sắt đã
được áp dụng, đã thúc đẩy nghề rèn đúc kim khí, thợ mộc và thợ rèn là những tầng
lớp được xã hội quý trọng. Sang thời trị trị vì của vương triều Morya, kinh tế nông
nghiệp tiếp tục được phát triển, nông dân tự nhận ruộng đất của làng để tự canh tác
và phải nộp từ 1/6 đến ¼ sản phẩm, tùy theo chất lượng đất và thuế được tính theo
diện tích, căn cứ vào đó mà chính quyền địa phương phải thu thuế và nộp lên triều
đình. Gắn liền với nơng nghiệp là thủy lợi. Nhà nước hết sức quan tâm đến công
tác thủy lợi, như tổ chức đào kênh, đắp đập, đê…Một viên quan thời Chandragupta
được giao trọng trách đắp đập tạo nên một hồ nước gần Girnar. Đập này vẫn cịn có
tác dụng đến 800 năm sau. Thủy lợi là một nhiệm vụ quan trọng của quan chức địa
phương và cũng là một chính sách quan trọng của nhà nước nhằm kiểm sốt chính
trị trên tồn lãnh thổ. Nhà nước cũng định cả mức thuế đối với nông dân nói chung
và nhất là những người có sử dụng các cơng trình thủy lợi do nhà nước làm.
Nền kinh tế nông nghiệp lúa nước được phát triển rất mạnh mẽ trong suốt chiều
dài lịch sử của Trung Quốc. Ngay từ thời nhà Hạ (khoảng thế kỷ XXI-XVI TCN),
cư dân Trung Hoa cổ đại đã biết sử dụng đồng đỏ, mặc dù số lượng cịn rất ít. Sang
đến thời Nhà Thương (khoảng thế kỷ XVI-khoảng năm 1066 TCN), đồng thau đã
được sử dụng một cách phổ biến. Thời Tây Chu, do cư dân đã tích lũy được rất
nhiều kinh nghiệm, nhờ việc quy hoạch đồng ruộng gắn liền với hệ thống tưới
nước, sản xuất nơng nghiệp đã có bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, nền kinh tế
Trung Quốc lúc bây giờ cịn mang nặng tính chất tự nhiên. Đến thời Xuân ThuChiến Quốc, tiến bộ nhất trong lĩnh vực kinh tế lúc bây giờ là sự xuất hiện của
công cụ lao động bằng sắt. Các nhà Khảo cổ học đã phát hiện được một số đồ sắt
cuối thời Xuân Thu trong một ngôi mộ cổ ở Hồ Nam mà ngày xưa là nước Sở.
Thời Chiến Quốc, công cụ sắt như lưỡi cày, lưỡi cuốc, xẻng, liềm, búa được sử
dụng một cách phổ biến. Họ cũng biết dùng súc vật để làm sức kéo. Bên cạnh sự
xuất hiện của công cụ lao động bằng kim khí, vấn đề thủy lợi ở thời kỳ này cũng



được coi trọng. Nước Ngô thời Phù Sai (thế kỷ V TCN) đã đào một hệ thống kênh
nối Trường Giang với sơng Hồi và nối sơng Hồi với mấy con sơng khác ở lưu
vực sơng Hồng Hà. Đến thời Chiến Quốc, các cơng trình thủy lợi lớn lại càng
nhiều hơn. Các nước Ngụy, Tần đều có kênh đào khá dài. Quan hệ sở hữu ruộng
đất cũng có sự thay đổi. Trong giai đoạn trước, toàn bộ ruộng đất ở Trung Quốc
đều thuộc quyền sở hữu của nhà nước, nhưng bắt đầu từ thời Xuân Thu, chế độ
ruộng đất của nhà nước dần dần tan rã, ruộng tư đã xuất hiện ngày càng nhiều.
Xã hội phương Đơng, như đã trình bày ở trên, là xã hội nông nghiệp. Nền sản xuất
cổ truyền của các xã hội phương Đông về cơ bản đều là nền sản xuất nơng nghiệp.
Điều kiện địa lí tự nhiên của các quốc gia phương Đơng nói chung đều thuận lợi
cho sự phát triển nông nghiệp. Biểu hiện rõ nhất của các điều kiện này là sự có mặt
của những con sông lớn: Sông Nil ở Bắc Phi; sông Tigris, sông Euphrates ở Tây Á;
sông Ấn (Indus), sông Hằng (Gangga) ở Ấn Độ; sơng Hồng Hà, sơng Dương Tử
(Trường Giang) ở Trung Quốc; sông Mêcông ở bán đảo Trung – Ấn, sông Mênam
ở Thái Lan, sông Hồng ở Việt Nam, v.v. Lưu vực các con sông này tạo ra những
đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của phương Đông và thế giới. Và cũng chính từ các
dịng sơng ấy đã xuất hiện các nhà nước cổ đại – các nền văn hố – văn minh
phương Đơng. Rõ ràng khơng phải ngẫu nhiên mà các nhà nghiên cứu lại đưa ra
các cụm từ như “văn minh sông Hồng”, “văn minh sơng Mã”, “văn minh sơng Ấn
– sơng Hằng”, v.v. Có thể nói, ngay từ đầu, văn minh phương Đơng đã là văn minh
nông nghiệp. Và đặc điểm này “đeo đuổi” văn hố phương Đơng cho đến tận ngày
nay.
Khơng chỉ trong lịch sử xa xưa, ngày nay nông nghiệp vẫn phổ biến ở nhiều quốc
gia phương Đông. Các nhà khoa học cho biết rằng hiện nay 90% diện tích trồng lúa
trên thế giới nằm ở châu Á và sản lượng lúa gạo tại châu Á bằng 92% tổng sản
lượng của thế giới. Như vậy rõ ràng là sản xuất nông nghiệp gắn chặt với các quốc
gia phương Đơng, và đó là cơ sở tạo ra loại hình văn hố gốc nơng nghiệp, tạo ra
bản sắc nông nghiệp – nông thôn của văn minh phương Đơng. Tính chất nơng

nghiệp – nơng thơn được thể hiện ở rất nhiều bình diện văn hố và là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt quá trình phát triển của các nền văn hố phương Đơng.
3. Ở phương Đơng – nhà nước được hình thành từ rất sớm với thiết chế chính
trị qn chủ chun chế
Phương Đơng bước vào xã hội chiếm hữu nơ lệ – xã hội có giai cấp đầu tiên trong
lịch sử phát triển của nhân loại – tương đối sớm. Điều này cũng dễ hiểu. Như trên
đã nói, nơng nghiệp ở phương Đơng ra đời sớm và giữ vai trị chủ đạo. Khi nơng


nghiệp phát triển thì tổ chức xã hội cũng phát triển, dẫn đến việc xã hội sớm phân
hoá thành giai cấp và hệ quả là nhà nước sớm ra đời. Thời gian xuất hiện nhà nước
phương Đông cổ đại sớm nhất (dưới hình thức nhà nước chiếm hữu nơ lệ) là vào
khoảng thế kỉ thứ IV TCN. Dĩ nhiên các nhà nước chiếm hữu nô lệ không ra đời
cùng một lúc và cũng không chấm dứt cùng một lúc. Ra đời sớm nhất là nhà nước
chiếm hữu nô lệ ở Ai Cập và Lưỡng Hà (thế kỉ thứ IV TCN), sau đó mới đến các
nhà nước ở khu vực sơng Ấn, sơng Hằng và Hồng Hà, Dương Tử (thế kỉ thứ III
TCN). Về sự “lụi tàn” của các nhà nước chiếm hữu nô lệ phương Đông cũng tương
tự. Nếu như đế quốc Ba Tư ở vùng Trung Cận Đông sụp đổ ngay từ thế kỉ thứ IV
TCN thì nhà nước cổ đại Ấn Độ còn kéo dài mãi đến tận những thế kỉ đầu công
nguyên.
Các nhà nước cổ đại phương Đơng khơng chỉ có những đặc trưng chung của một
xã hội chiếm hữu nơ lệ mà cịn có những đặc điểm riêng mang màu sắc phương
Đông, như sau:
– Do các quốc gia cổ đại phương Đông ra đời ở thời kì mà sức sản xuất xã hội
đang cịn ở trình độ thấp kém, tức là ở giai đoạn cuối của thời đại đồ đá mới, nên
xã hội chiếm hữu nô lệ khơng thể phát triển nhanh chóng, khiến các quốc gia đó,
nói chung, khơng trở thành những xã hội chiếm hữu nơ lệ phát triển thành thục và
điển hình.
– Sự tồn tại dai dẳng và ngoan cố của các tổ chức cơng xã nơng thơn, tàn tích của
xã hội thị tộc thời nguyên thuỷ, và sự phát triển rất yếu ớt của chế độ tư hữu về

ruộng đất trong các xã hội cổ đại phương Đơng. Nói như Marx (trong thư gửi
Engels ngày 2–6–1853): “Việc khơng có sở hữu tư nhân về ruộng đất là cơ sở của
tất cả các hiện tượng ở phương Đơng”. Engels cũng có nhận xét tương tự khi ông
viết (trong thư gửi lại cho Marx ngày 6–6–1853): “Việc khơng có sở hữu tư nhân
về ruộng đất thực sự là chiếc chìa khố để hiểu tồn bộ phương Đông”.
– Sự bảo tồn lâu dài của chế độ nơ lệ gia trưởng và của các hình thức áp bức, bóc
lột kiểu gia trưởng, việc sử dụng lao động của nô lệ chưa được phổ cập trong các
ngành sản xuất xã hội và vai trị của nơ lệ trong sản xuất kinh tế chưa chiếm vị trí
chủ đạo. Nơ lệ phương Đơng khơng phải là lực lượng chính làm ra của cải vật chất.
Tuyệt đại đa số nô lệ được sử dụng để hầu hạ, phục dịch trong các gia đình quan
lại, chủ nơ quyền q. Điều này cũng dễ hiểu bởi ở các quốc gia nông nghiệp
phương Đơng, nhà nước bóc lột nơng dân là chính, bằng chế độ lao dịch, thuế
khoá.


– Sự xuất hiện và phát triển mạnh của một hình thức tổ chức nhà nước đặc biệt –
nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền – gọi là chủ nghĩa chuyên
chế phương Đông. Các quốc gia phương Đơng sở dĩ thiết lập được thiết chế chính
trị này bởi vua các nước đó nắm được quyền sở hữu tối cao về ruộng đất và về thần
dân trong cả nước. Có thể nói “khắp dưới gầm trời khơng đâu không phải đất nhà
vua, khắp dưới mặt đất không đâu không phải thần dân của nhà vua”. Do nắm
được tư liệu sản xuất là toàn bộ ruộng đất nên các nhà vua đã dùng nó để ràng buộc
các thần dân và nắm trọn quyền chính trị. Một lí do nữa về sự tồn tại của nhà nước
quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền là yêu cầu của việc trị thuỷ, đắp đê
phòng lụt, bảo vệ mùa màng. Nhu cầu này đòi hỏi phải tập trung quyền lực vào
trung ương để có thể huy động được sức người sức của, nhân tài vật lực. Ngoài ra
các nhà nước chiếm hữu nơ lệ phương Đơng cịn phải tiến hành các cuộc chiến
tranh để mở rộng bờ cõi hoặc bảo vệ lãnh thổ của mình, do đó cũng cần phải tập
trung quyền lực vào tay trung ương để huy động lực lượng vật chất và tinh thần.
Căn cứ và những ngườn sử liệu còn lại, chúng ta biết rằng, ngay từ rất sớm, cụ thể

là từ thiên niên kỷ IV TCN, nhà nước đã được hình thành ở Ai Cập. Với điều kiện
tự nhiên thuận lợi cộng với nền kinh tế nông nghiệp phát triển từ rất sớm, các liên
minh công xã lần lượt xuất hiện mà người Ai Cập gọi la Nơm,ở Ai Cập lúc bây giờ
có 40 Nơm (hay cịn gọi là Châu). Đứng đầu Nôm là một thủ lĩnh gọi
là Nomarque – tức Chúa Châu. Chúa châu đồng thời cũng là thủ lĩnh quân sự,
thẩm phán và là tăng lữ tối cao của châu. Chức tăng lữ tối cao đã đem lại cho họ
thêm một quyền lực rất lớn: thần quyền. Chúa châu được xem như một vị thần
sống. mỗi châu có một tín ngưỡng riêng, thờ một vị thần riêng. Chiến tranh cướp
bóc của cải và nơ lệ, thơn tính đất đai lẫn nhau thường xun xảy ra giữa các châu.
Ngồi ra, chiến tranh giữa các châu cịn xuất phát từ những vấn đề về tôn giáo.
Do yêu cầu thống nhất để quản lý công tác thủy lợi với quy mô ngày một rộng lớn,
lại cũng do nguyện vọng chấm dứt những cuộc tranh chấp lâu dài và tàn khốc
nhằm thơn tính đất đai của nhau, dần dần các châu hợp nhất lại thành một quốc gia
thống nhất tương đối rộng lớn. Giữa thiên niên kỷ IV TCN, các châu miền Bắc Ai
Cập thống nhất thành vương quốc Hạ Ai Cập, còn các châu ở miền Nam thống
nhất thành vương quốc Thượng Ai Cập. Mỗi vương quốc gồm khoảng 20 châu.
Vào khoảng năm 3200 TCN, sau một quá trình đấu tranh lâu dài, hai vùng Thượng
và Hạ Ai Cập đã hợp nhất thành một quốc gia thống nhất. Người có cơng to lớn ấy
cũng là vị Vua đầu tiên của Ai Cập chính là Menes, Ơng cũng là người đặt nền
móng xây dựng thành Memphis-kinh đơ đầu tiên của Ai Cập. Nhà nước Ai Cập
thống nhất trải qua ba thời kỳ phát triển chính: Cổ vương quốc (khoảng từ năm


3000 đến năm 2300 TCN), Trung vương quốc (khoảng từ năm 2200 đến năm 1570
TCN) và Tân vương quốc (khoảng từ năm 1570 đến khoảng thế kỷ X TCN). Ngoài
ra, thời kỳ mới ra đời của nhà nước được gọi là thời Tảo kì vương quốc, thời kỳ
cuối là Hậu kỳ vương quốc. Thời Tảo kì vương quốc gồm hai vương triều I và II,
tồn tại từ năm 3200 đến khoảng năm 3000 TCN. Tổ chức nhà nước bây giờ còn sơ
khai nhưng đã mang đặc điểm của một nhà nước chuyên chế phương Đông.
Đứng đầu bộ máy nhà nước Ai Cập là một ông vua chuyên chế, người Ai Cập gọi

là Pharaon. Pharaon được xem như một vị thần sống. Quyền lực của Pharaon là tối
cao và vô hạn. Bất cứ là thường dân hay là quý tộc, một được khi tiếp xúc với
Pharaon đều phải quỳ lạy. Quý tộc, quan lại khi muốn tâu trình với Pharaon điều gì
đều phải cúi mặt xuống sát đất, cách xa nhà Vua. Người Ai Cập coi Pharaon là
“con của thần Ra”-thần Mặt Trời. Như vậy, mọi người không thể tiếp xúc với nhà
Vua một cách tùy tiện. tên gọi đó một mặt phản ánh bản chất tôn giáo của các giai
cấp ở Ai Cập cổ đại, mặt khác nó phản ánh quyền lực vô hạn của nhà nước quân
chủ chuyên chế mà đứng đầu là nhà Vua-đã được thần thánh hóa. Với quyền lực tối
cao và vô hạn, những mệnh lệnh của nhà Vua tuyên bố trong hội đồng vương quốc
hay trước tòa án đều là pháp luật. Các Pharaon ở Ai Cập có chức năng tăng lữ tối
cao, là thẩm phán tòa án tối cao, lãnh tụ quân sự tối cao. Như vậy, tất cả những
chức vụ cao nhất, to lớn nhất của nhà nước này đều nằm trong tay nhà Vua. Nhà
nước, mà người đứng đầu là Vua, là chủ sở hữu lớn nhất về đất đai, tài sản và thần
dân của đất nước. Vua dùng quyền sở hữu đó để ban tặng cho thân tộc, quý tộc,
quan lại, tăng lữ-những người giúp việc cho mình, để tạo ra chỗ dựa vững chắc cho
mình cho chính quyền. Vì là người có quyền sở hữu tài sản lớn nhất nên cuộc sống
của nhà vua rất xa hoa, lộng lẫy, phù phiếm giữa đám thân nhân hồng tộc và đám
đình thần thân tín nhất trong triều.
Cùng với tầng lớp quí tộc, quan lại, tầng lớp tăng lữ cao cấp có vai trị vơ cung
quan trọng trong đời sống chính trị xã hội của Ai Cập. Tăng lữ là chỗ dựa về mặt
tinh thần cho cả nhà nước quân chủ chuyên chế và cả thần dân. Các tăng lữ ln
tìm cách thần thánh hóa địa vị và quyền lực của nhà Vua cho nên họ có quyền hành
to lớn và được hưởng nhiều đặc quyền đặc lợi của nhà nước ban cho.
Đồng thời, với việc củng cố bộ máy nhà nước, củng cố quyền lực của nhà Vua, nhà
nước Ai Cập còn chú trọng xây dựng và phát triển lực lượng quân đội mạnh để tiến
hành chiến tranh xâm lược, cướp bóc của cải và thống trị nhân dân các nước khác.
Ngoài ra, cịn dùng nó để đàn áp và thống trị nhân dân trong nước.


Nhà nước Ai Cập cổ đại được coi là nhà nước quân chủ chuyên chế điển hình trong

tất cả các nhà nước cổ đại ở phương Đông.
Ở Lưỡng Hà, vào cuối thiên niên kỷ IV TCN – đầu thiên niên kỷ III TCN, những
quốc gia đầu tiên của người Sumer đã xuất hiện. Sự xuất hiện nhà nước đánh dấu
thời kỳ tan rã của chế độ thị tộc và sự bắt đầu thời đại văn minh. Những quốc gia
đầu tiên của người Sumer là quốc gia thành bang, tiêu biểu như Ur, Eridu, Lagash,
Uruk, Nippua… Tiếp đến, người Akkad cũng xây dựng nên quốc gia riêng của
mình. Sau khi lật đổ vương triều III của thành bang Ur , người Amorites đã xây
dựng nên một quốc gia mới, chọn thành Babylonia ở trung tâm lưu vực sông
Euphrates làm kinh đô. Kể từ đây, Lưỡng Hà bước vào thời kỳ phát triển hưng
thịnh khá lâu dài ( từ đầu thế kỷ XIX TCN đến đầu thế kỷ XVI TCN), cường thịnh
nhất là dưới thời trị vì của Vua Hamurabi (1792-1750 TCN). Lịch sử gọi thời kỳ là
Cổ Babylonia để phân biệt với thời kỳ Tân Babylonia sau này. Vưong quốc Tân
Babylonia phát triển thịnh trị nhất dưới thời trị trị vì của vua Nabuchodonosor
(605-562 TCN).
Ngay từ thời Xume, tổ chức chính trị ở Lưỡng Hà đã được xây dựng và phát triển
theo mơ hình nhà nước phong kiến qn chủ chun chế tập quyền, quyền lực tập
trung vào trong tay nhà Vua và tập đoàn thống trị trung ương. Ở thời Xume, vì tồn
tại nhiều quốc gia nhỏ, đứng đầu nhà nước là một Patesi – người làm chủ – là đại
diện của tầng lớp thống trị. Chức Patesi ban đầu do quý tộc bầu ra, nhưng về sau
được cha truyền con nối. Chính vì vậy, các Patesi sẽ dần thâu tóm mọi quyền lực to
lớn nhất, cùng với đó, dần dần Patesi được coi là đại diện tăng lữ tối cao của tầng
lớp tăng lữ, là đại diện của thần thánh, là chỉ huy lực lượng quân sự của thành
bang, là người quản lý kinh tế và là người sở hữu tối cao đối với đất đai và mọi tài
sản của thành bang. Mặc dù nhà nước đã được hình thành và ngày càng hoàn thiện
nhưng điểm nổi bật của nhà nước Lưỡng Hà thời kỳ Xume vẫn còn mang tính chất
sơ khai, tồn tại nhiều tàn dư của chế độ dân chủ thị tộc, bộ lạc. Những cơ quan dân
chủ của thời kỳ thị tộc, bộ lạc vẫn còn tồn tại và vẫn có quyền lực nhất định bên
cạnh chính quyền chuyên chế của nhà vua. Mặt khác, sự tồn tại của các công xã
nông thôn đã buộc nhà nước Xume phải thiết lập và sử dụng các cơ quan quản lý
của công xã như là một bộ phận của chính quyền trong cả nước, bỡi vì, có thơng

qua những cơ quan cơng xã thì nhà nước qn chủ chuyên chế mới với tay tới các
cơ quan đơn vị hành chính nhỏ nhất, mới có thể điều khiển các thành viên của công
xã.
Sang thời kỳ Cổ Babylonia, xã hội Lưỡng Hà phát triển thịnh đạt dưới triều Vua
Hamurabi. Đây là thời kỳ mà lãnh thổ vương quốc được mở rộng nhất, toàn bộ khu


×