Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Công tác quản lý sách và xuất bản sách ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.65 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................1
MỞ ĐẦU...........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài.............................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài..................................................................4
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài...............................................................4
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài...................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài...........................................................4
6. Bố cục của đề tài.......................................................................................5
Chương 1...........................................................................................................6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA SÁCH...............................6
1.1. Khái niệm chung....................................................................................6
1.1.1. Sách.................................................................................................6
1.2.1. Đặc điểm của sách và hoạt động xuất bản.......................................8
Chương 2.........................................................................................................12
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ SÁCH VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN SÁCH 12
3.1. Vấn đề đặt ra.........................................................................................17
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý xuất bản sách.................18
KẾT LUẬN.....................................................................................................21

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sách là sản phẩm văn hóa tinh thần, kho tàng tri thức của nhân loại hiện
hữu dưới dạng vật thể, giúp con người trau dồi tri thức, nâng cao dân trí, từ đó
định hướng suy nghĩ và hành động của mỗi cá nhân trong đời sống xã hội,
góp phần giáo dục nhân cách con người; Sách chuyển tải và lưu trữ các kiến
thức, kinh nghiệm sống, lao động sản xuất qua nhiều thế hệ; Truyền bá, giao
lưu văn hóa, góp phần xây dựng tinh thần đồn kết, gắn bó giữa các quốc gia,
dân tộc; Bên cạnh đó, sách cịn là một trong những phương tiện giải trí, đáp
ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa, bồi dưỡng nhân sinh quan và lối sống tích
cực của mọi đối tượng xã hội.



1


Hiện nay, nước ta đang đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế, nên hoạt động xuất bản phải phục vụ cho sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, hoạt động xuất bản không thể tách rời phạm trù sản xuất hàng hóa
và tiền tệ. Tất cả những người tham gia hoạt động xuất bản đều có quan hệ
chặt chẽ với kinh tế hàng hóa và thị trường. Trong cơ chế thị trường, hoạt
động xuất bản mang tính xã hội hóa cao, không thể dùng cơ chế bao cấp của
Nhà nước như trước đây. Bởi ngân sách Nhà nước không thể đủ khả năng
thỏa mãn mọi nhu cầu đa dạng của bạn đọc về xuất bản phẩm, trừ một số loại
thiết yếu phục vụ cho một số đối tượng và nhiệm vụ thiết yếu do Đảng và Nhà
nước quy định. Do đó, cùng với đổi mới cơ chế kinh tế, cơ chế và phương
thức hoạt động xuất bản cũng đã thay đổi. Nghĩa là, hoạt động xuất bản phải
gắn với thị trường, phần lớn xuất bản phẩm phải trở thành hàng hóa, phải tiến
hành việc hạch tốn kinh doanh, kết hợp sự điều tiết của thị trường với sự
quản lý vĩ mô của Nhà nước trong hoạt động xuất bản. Cụ thể là, hoạt động
xuất bản cũng bị cạnh tranh trên thị trường, để giành giật bạn đọc. Người tiêu
dùng có quyền lựa chọn xuất bản phẩm theo nhu cầu của mình. Các nhà xuất
bản đều tìm mọi cách để dành được bạn đọc tiềm tàng bằng cách cho ra thị
trường những xuất bản phẩm mà bạn đọc ưa thích. Nhưng mục tiêu cao cả của
hoạt động xuất bản là văn hóa, tư tưởng, khoa học nhằm hồn thiện nhân cách
con người, hướng con người tới chân, thiện, mỹ. Đảng ta ln khẳng định
mục tiêu văn hóa, tư tưởng, khoa học của hoạt động xuất bản và coi đó là tơn
chỉ, mục đích mà các nhà xuất bản và hoạt động xuất bản phải đặt lên hàng
đầu. Chính vì thế, hoạt động xuất bản không đơn thuần chỉ là kinh doanh
theo đuổi lợi nhuận, mà phải thực hiện mục tiêu văn hóa, tư tưởng, khoa học;
khơng thể coi mục tiêu kinh doanh chỉ thuần túy là lợi nhuận, mà phải luôn

luôn kết hợp hai mục tiêu: văn hóa, tư tưởng, khoa học và kinh tế. Hai mục
tiêu này có thể kết hợp thực hiện được nếu diễn biến thị trường được phân
2


tích một cách tối ưu và trên cơ sở xử lý và phản ứng một cách linh hoạt các
thông tin thị trường mà xây dựng chiến lược kinh doanh xuất bản hợp lý. Ở
đây, có thể vận dụng câu nói của C.Mác nhắc nhở những người làm công tác
nghệ thuật ở lĩnh vực này: "Cố nhiên nhà văn phải kiếm tiền để sống và viết,
nhưng trong bất cứ trường hợp nào anh ta cũng không được sống và viết để
kiếm tiền... Nhà văn khơng thể xem cơng việc của mình như là một kế sinh
nhai. Đó là mục đích tự thân, nó khơng phải là một kế sinh nhai đối với anh ta
cũng như đối với người khác, đến nỗi nhà văn phải hy sinh sự tồn tại của
mình cho sự tồn tại của nó, nếu cần”2. Do tính chất hai mặt đó, hoạt động
xuất bản phải vừa chịu sự tác động của các quy luật kinh tế, vừa phải tuân
theo các quy luật văn hóa, tư tưởng, khoa học. Cho nên, hoạt động xuất bản
sách phải tính đến đặc điểm nổi bật này.
- Hoạt động xuất bản sách đang bị mặt trái của cơ chế thị trường tác
động. Tình hình quốc tế hiện nay biến chuyển nhanh chóng và phức tạp, cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và q trình tồn cầu hóa
diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước trên tất cả
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa học, kỹ thuật,... Nó có ảnh
hưởng và tác động mạnh đến hoạt động xuất bản ở nước ta cả mặt tích cực và
tiêu cực. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được
xây dựng và hoàn thiện, các cơ chế, chính sách đang được thể chế hóa. Tuy
nhiên, nhiều cơ chế, chính sách cịn đang trong q trình xây dựng và hồn
thiện và cịn nhiều bất cập, chưa đáp ứng đòi hỏi từ thực tế của hoạt động xuất
bản. Đúng như Văn kiện Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra: “Quản lý văn hóa,
văn nghệ, báo chí, xuất bản cịn thiếu chặt chẽ. Mơi trường văn hóa bị xâm
hại, lai căng, thiếu lành mạnh, trái với thuần phong mỹ tục, các tệ nạn xã hội,

tội phạm và sự xâm nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi
đạo đức,… rất đáng lo ngại”3. Điều đó cũng tác động mạnh đến hoạt động
xuất bản. Trong điều kiện kinh tế thị trường, hoạt động xuất bản đang bị mặt
3


trái của cơ chế này tác động, đang nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực như:
khuynh hướng thương mại hóa, lai căng, chạy theo thị hiếu tầm thường, chụp
giật bản thảo, "nạn dịch" sách kém chất lượng, hiện tượng gian lận trong kinh
doanh, trốn thuế, bán giấy phép thu phí quản lý mà không quan tâm đến nội
dung, đặc biệt là tình trạng in lậu sách có chiều hướng ngày càng gia tăng,
diễn biến phức.
Chính vì lẽ trên, học viên quyết định chọn “Công tác quản lý sách và
xuất bản sách ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp” làm đề tài nghiên cứu
của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nêu ra những thực trạng quản lý sách và hoạt động xuất
bản sách từ thực trạng đó đưa ra giải pháp nhằm nâng cơng tác quản lý sách
và xuất bản sách lên một tầm cao mới .
3. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài chọn công tác quản lý sách và hoạt động xuất bản sách để nghiên
cứu, làm rõ thực trạng quản lý sách, xuất bản sách.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Không gian: Một số Thành phố lớn Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,
một số thành phố và mở rộng so sánh tại một số tỉnh trên toàn quốc.
Thời gian: sách có lịch sử phát triển rất sớm, tuy nhiên học viên chọn
nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong bài đề tài học viên đã sử dụng phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê

- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp nghiên cứu tổng hợp
4


6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận đề tài chia thành 3 chương :
Chương 1: Cơ sở lý luận về sách và vai trò của sách
Chương 2: Thực trạng quản lý sách và hoạt động xuất bản sách
Chương 3: Vấn đề đặt ra và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
sách và hoạt động xuất bản sách

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SÁCH VÀ VAI TRÒ CỦA SÁCH
1.1. Khái niệm chung
1.1.1. Sách
Sách là một sản phẩm của xã hội, là một cơng cụ để tích lũy, truyền bá tri
thức từ thế hệ này sang thế hệ khác. Sách chứa đựng các giá trị văn hóa tinh
thần (các tác phẩm sáng tác hoặc tài liệu biên soạn) thuộc các hình thái ý thức
xã hội và nghệ thuật khác nhau, được ghi lại dưới các dạng ngôn ngữ khác
nhau (chữ viết, hình ảnh, âm thanh, ký hiệu,...) của các dân tộc khác nhau
nhằm để lưu trữ, tích lũy, truyền bá trong xã hội.
Sách là một khái niệm mở, hình thức sách cịn được thay đổi và cấu
thành các dạng khác nhau theo các phương thức chế tác và nhân bản khác
nhau, tùy thuộc vào môi trường sống và sự phát triển của khoa học công nghệ

ở mỗi thời đại.
1.1.2. Phân loại sách
Có nhiều cách phân loại khác nhau tủy thuộc vào mục đích đặt ra. Căn
cứ vào kỹ thuật sản xuất có thể chia sách thành: sách chéo tay, sách bìa mềm,
sách bìa cứng, sách ảnh, sách điện tử… Căn cứ vào kích cỡ chia sách thành:
sách khổ lớn, sách khổ vừa, sách khổ nhỏ. sách bỏ túi... Căn cứ vào nội dung
chia sách thành: sách văn học - nghệ thuật, sách khoa học - kỹ thuật, sách giáo
khoa, sách chính trị, sách tơn giáo...
Cách phân loại sách hợp lý nhất la dựa vào nội dung và mục đích sử
dung. Theo đó, sách được chia thành các loại chính như sau:
Sách thương mại gồm tồn bộ sậch cho người tiêu dùng nói chung, trong
đó có các tác phẩm văn học - nghệ thuật, các loại sách phể biến vân hoố, khoa
học, kỹ tbuật phổ thông... Các nhà xuất bản in loại sách này để bốn rộng rãi

6


trên thị trường. Loại sách này trở thành một thứ hàng hố đăjc biệt, nhằm
phục vụ cho mục đích kinh doanh và có nhiều độc giả nhất.
Sách chuyên biệt là sách phục vụ cho cốc nhiệm vụ đặc thù. Đó là các
sách văn kiện của Đảng, Nhà nước, của các tổ chức chính trị - xã hội, sách
giới thiệu các cơ quan, đơn vị, địa phương... Kinh doanh không phải là mục
tiêu chính của loại sách này.
Sách tra cứu bao gồm các loại tki điển, bách khoa thư, sách dữ liệu thống
kê, các tệp bản chuyên dụng, v.v. Những loại sách này cũng được trao đổi trên
thị trường nhưng giá cả thường cao hơn và phạm hơn sách thương mại.
Sách chun khảo là sách cơng bố vể các cơng trình, kết quả nghiên cứu
khoa học, những bộ tài liệu tham khảo chuyên sâu theo các ngành khoa học
hay các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Loại sách này cũng được trao đổi trên
thị trường, song độc giả của nó có chọn lọc theo những ngành nhỏ hay lĩnh

vực hẹp.
Sách giáo khoa gồm toàn bộ sách chuyên phục vụ giảng dạy và học tập
trong hệ thống giáo dục quốc dân từ cấp học mẫu giáo, phổ thông, Trung học
chuyên nghiệp, các trường cạy nghể. các trung tâm đào tạo - bồi dưỡng nâng
cao trình độ chun mơn, đến các trưởng đại học, các cơ sở đào tạo sau đại
học.
Sách tôn giáo là loại sách đùng phục vụ cho các hoạt động tôn giáo như
sách kinh thánh, thánh ca, sách về giáo lý của các tôn giáo khác nhau. Loại
sách này thường được biên soạn, in ấn và phát hành theo yêu cầu và cách thức
đặc thù của các tổ chức tôn giáo.
Việc phân loại sách chỉ mang ý nghĩa tương đối. Trên thực tế, loại sách
nào cũng có thể trở thành sách thương mại hoặc sách thương mại cũng có thể
trở thành sách phục vụ tra cứu, chuyên khảo...

7


1.2. Đặc điểm của sách và hoạt động quản lý Nhà nước bằng pháp
luật về xuất bản, sách
1.2.1. Đặc điểm của sách và hoạt động xuất bản
Hoạt động xuất bản mang đặc điểm truyền thơng. Xuất bản phẩm, trong
đó có sách, là sản phẩm văn hóa tinh thần, là phương tiện lưu giữ, tích lũy,
truyền bá tri thức của lồi người. Trong lịch sử, sự ra đời của sách là một
thành tựu kỳ diệu trong sự phát triển của nhân loại. Sách ghi lại sự trưởng
thành về nhận thức và tư duy, về cải tạo và xây dựng xã hội của lồi người,
đồng thời nó trao truyền các giá trị di sản văn hóa tinh thần và các thành tựu
của văn hóa vật chất mà lồi người đã đạt được. Xuất bản là một môn khoa
học và là một trong những "binh chủng" quan trọng của cơng tác chính trị, tư
tưởng, văn hóa, giáo dục và khoa học của Đảng và Nhà nước ta. Cho đến
nay, cùng với báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng khác, xuất bản

là trung tâm của hệ thống giáo dục, tạo lập, phân phối kiến thức và ni
dưỡng trí tuệ con người. Nếu khơng có sách và các xuất bản phẩm khác, văn
hóa, giáo dục sẽ bị tổn hại và khơng thể trao truyền kiến thức, kinh nghiệm
từ thế hệ này qua thế hệ khác. Do đó, xuất bản mang đặc điểm truyền thông
và thuộc trung tâm của mạng lưới truyền thông rộng lớn, nhất là trong thời
đại bùng nổ thông tin và kinh tế tri thức như hiện nay.
- Hoạt động xuất bản mang đặc điểm văn hóa tinh thần. Xuất bản là một
quá trình gồm nhiều khâu nối tiếp nhau như đề tài, cộng tác viên, biên tập
bản thảo, trình bày và chế bản, in, tuyên truyền và phát hành, trong đó có ba
khâu cơ bản là: biên tập, in và phát hành. Mục đích cao nhất của hoạt động
xuất bản là đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần, cịn việc tổ chức sản xuất, lưu
thơng, phát hành là phương thức của hoạt động này. Trong thời kỳ bao cấp
trước đây, các nhà xuất bản ở nước ta đều hoạt động theo cơ chế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp, thực hiện việc cấp phát, giao nộp theo chỉ tiêu kế
hoạch pháp lệnh, phần lớn xuất bản phẩm được phân phối, lưu thông trên thị
8


trường theo địa chỉ đã định. Về giá cả mua bán là giá kế hoạch do Nhà nước
ấn định. Mọi yếu tố sản xuất của quy trình xuất bản đều do Nhà nước chỉ
đạo. Do đó, việc tổ chức sản xuất và quản lý các hoạt động xuất bản được
thực hiện theo các cơ quan, đơn vị sự nghiệp của Đảng, của Nhà nước.
- Hoạt động xuất bản mang đặc điểm sản xuất hàng hóa. Bước sang cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các nhà xuất bản tự bươn trải, tự
đổi mới hoạt động cho phù hợp với cơ chế mới để tồn tại và phát triển, nên
thị trường xuất bản có điều kiện phát triển. Các nhà xuất bản phải tự hạch
toán, chịu cạnh tranh và chịu mọi chính sách điều tiết về thuế, về giá trên thị
trường. Sản phẩm của hoạt động xuất bản thực hiện trên thị trường dưới hình
thức hàng hóa. Có nghĩa là, sản phẩm của hoạt động xuất bản được sản xuất
ra với tư cách là hàng hóa. Q trình tổ chức sản xuất, lưu thông phải được

thực hiện theo quy luật của sản xuất hàng hóa, theo quy luật của kinh tế thị
trường. Xuất bản là hoạt động vật chất hóa, xã hội hóa các tác phẩm thuộc
lĩnh vực văn hóa tinh thần. Để làm được điều đó, hoạt động xuất bản địi hỏi
những chi phí vật chất và tinh thần không nhỏ. Để tồn tại và phát triển, hoạt
động xuất bản phải được hạch toán chi tiết từ đầu vào đến đầu ra. Do đó,
trong cơ chế thị trường, hoạt động xuất bản tất yếu mang tính chất sản xuất
hàng hóa, phải được thực hiện giá trị hàng hố thông qua trao đổi trên thị
trường và trở thành đối tượng của kinh doanh hàng hóa. Sự ra đời của công
nghệ điện tử nhân bản, hoạt động xuất bản được máy tính trợ giúp và gần đây
là internet, tất cả đã tác động sâu sắc đến hoạt động xuất bản, làm cho nó trở
thành ngành cơng nghiệp hiện đại, góp phần không nhỏ vào sự phát triển
kinh tế - xã hội của nước ta.
- Đặc điểm nổi bật của hoạt động xuất bản là vừa phải thực hiện các quy
luật kinh tế, vừa phải tuân theo các quy luật văn hóa, tư tưởng, khoa học.
Xuất bản là một tổ hợp hoạt động phức hợp, trong đó có bộ phận sản xuất
văn hóa tinh thần như biên soạn, biên tập, quản lý xuất bản..., có bộ phận sản
9


xuất vật chất như công nghệ in, nhân bản sách, phát hành sách..., nên tính
chất kinh doanh thương mại ở mỗi khâu và quy luật kinh tế tác động không
giống nhau. Ví như: Việc tổ chức sản xuất kinh doanh của các cơ sở in hoàn
toàn tuân theo quy luật của kinh tế thị trường và quy luật sản xuất vật chất.
Trái lại, việc tổ chức biên soạn, biên tập bản thảo tuân theo quy luật sáng tạo
giá trị văn hóa tinh thần. Cịn cơ sở phát hành làm cơng việc lưu thơng, vừa
phải tun truyền giá trị văn hóa, vừa tuân theo quy luật của thị trường; vừa
phải đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của xã hội, vừa phải tính tốn đến lợi
ích kinh doanh.
1.2.2. Những đặc trưng cơ bản của quản lý Nhà nước bằng pháp luật
về xuất bản

Quản lý Nhà nước bằng pháp luật trong xuất bản có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt, xuất phát từ các đặc trưng cơ bản là thuộc tính của các quan hệ xã hội
về văn hoá, xuất bản. Nhưng ý chí của Nhà nước về quản lý xuất bản “để lên
thành luật” phải “bắt nguồn trong các quan hệ vật chất” về xuất bản. Sau đây là
các đặc trưng chính trong quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật.
- Quản lý Nhà nước về xuất bản bằng pháp luật là bảo tồn, phát triển
nền văn hoá dân tộc, hiện đại nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hố và tiến bộ
về khoa học - cơng nghệ của nhân loại.
- Quản lý Nhà nước bằng pháp luật về xuất bản là mở đường cho hoạt
động sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học để cơng bố
dưới hình thức xuất bản.
Nhà nước quản lý hoạt động của tư duy sáng tạo trong xuất bản
bằng pháp luật, khơng kìm hãm và khống chế các ý tưởng sáng tạo; khuyến
khích tài năng và đề cao các tác phẩm có giá trị về khoa học và nghệ thuật.
Chính từ cơ chế thị trường được pháp luật thừa nhận, là nơi đánh giá công
minh các tác phẩm. ở đó, cơng chúng với tư cách là người tiêu dùng, họ là
thước đo về năng lực sáng tạo của tác giả qua tác phẩm.
10


Như vậy, Nhà nước với công cụ hàng đầu để quản lý xã hội là pháp
luật, đã tạo ra cơ chế và thiết chế nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá
dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hố, khoa học và cơng nghệ mới, tiến bộ của
nhân loại. Các chủ thể xuất bản, chủ thể quản lý với địa vị pháp lý, với các
quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, góp phần đảm bảo cho ý chí của
Nhà nước được thực hiện trong thực tế về việc xây dựng một nền văn hoá
mới, tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; loại trừ và ngăn chặn những độc hại về
văn hoá. Là phương tiện điều chỉnh có hiệu lực, pháp luật tạo mơi trường
thuận lợi cho các hoạt động văn hoá phát triển theo định hưỡng xã hội, loại
trừ khả năng hoà tan và đổi mầu trong q trình hồ nhập.

Như vậy, việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt động xuất bản là
điều chỉnh hoạt động kinh tế trong văn hoá - tư tưởng, đồng thời điều chỉnh
hoạt động văn hoá- tư tưởng trong cơ chế thị trường. Đó là hai mặt của một
vấn đề phải được thể chế hoá phù hợp, đảm bảo cho xuất bản hoạt động đúng
quy luật, phát triển theo trật tự của pháp luật.

11


Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ SÁCH VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT BẢN SÁCH
2.1. Hoạt động xuất bản sách ở Việt Nam trong những năm gần đây
Những năm gần đây, hoạt động xuất bản đã có bước phát triển nhanh,
từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và
đa dạng của người đọc, góp phần tích cực vào việc tuyên truyền phổ biến
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao dân trí, phát triển kinh
tế - văn hố... Nhiều bộ sách có giá trị được xuất bản. Các mảng sách chính trị
- xã hội, khoa học - kỹ thuật - công nghệ và sách cho thanh niên, thiếu niên
khá phong phú, đa dạng. Chất lượng sách giáo khoa từng bước được nâng cao
cả về nội dung và hình thức. Cơng tác chỉ đạo, quản lý xuất bản có tiến bộ,
chú trọng đảm bảo định hướng chính trị - tư tưởng và hiệu quả kinh tế của
hoạt động xuất bản, phát hiện, uốn nắn và khắc phục những lệch lạc, sai phạm
Trong hơn 10 năm qua, hoạt động xuất bản đã từng bước thích ứng với
cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giữ vững định hướng chính trị
trong q trình phát triển, ổn định hệ thống tổ chức, có bước phát triển đáng
kể về lực lượng và năng lực hoạt động, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu đa dạng
ngày càng cao về xuất bản phẩm của toàn xã hội, góp phần làm ổn định chính
trị - xã hội, nâng cao dân trí, phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá của đất nước.
- Về lĩnh vực xuất bản: Nhịp độ phát triển chung của toàn ngành liên tục
tăng qua từng năm cả về tên sách và số lượng bản sách. Cơ cấu đề tài giữa các

loại sách phân bố tương đối hợp lý, chất lượng nội dung từng bước được nâng
cao, đáp ứng nhu cầu đọc ngày càng đa dạng của nhân dân và phục vụ tốt
nhiệm vụ chính trị của đất nước. Cơ sở vật chất và nhân lực được tăng cường,
điều kiện làm việc của người lao động từng bước được cải thiện.
Có thể khẳng định rằng, từ một nước thiếu sách, Việt Nam đã trở thành một
quốc gia có nền xuất bản độc lập, tự chủ, quy mô và tốc độ phát triển ngày
12


càng cao, góp phần tích cực vào cơng cuộc đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Nhà nước.
- Về lĩnh vực in: Đã có bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng
ở tất cả các giai đoạn công nghệ: trước in, in và sau in. Các cơ sở in trang bị
đồng bộ các dây chuyền in hiện đại như máy in oppset nhiều màu thế hệ mới,
hệ thống thiết bị chế bản hiện đại và kỹ thuật đóng sách bằng keo dán tổng
hợp… Sản lượng sản phẩm ngành in bình quân hàng năm tăng hơn 10%. Chất
lượng các sản phẩm in có bước phát triển nhanh. Qua các cuộc triển lãm sách
trong nước và quốc tế, hình thức và kỹ thuật in sách của Việt Nam không thua
kém các nước trong khu vực.
- Về lĩnh vực phát hành: Vượt qua những khó khăn, thử thách trong cơ
chế thị trường, hoạt động phát hành sách dần dần đi vào thế ổn định, thích
ứng với cơ chế thị trường và hoạt động có hiệu quả. Các cơ sở phát hành sách
đã chủ động tìm tịi hình thức hoạt động phù hợp, khôi phục được mạng lưới
tổ chức và kinh doanh có lãi để tích luỹ mở rộng quy mô sản xuất và cải thiện
đời sống cán bộ, nhân viên. Hoạt động xuất, nhập khẩu sách tích cực và chủ
động khôi phục thị trường truyền thống và mở rộng thị trường mới, phục vụ
tốt nhiệm vụ công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Hoạt động xuất bản sau 3 năm thực hiện Chỉ thị 42 đã góp phần quan
trọng và tích cực phục vụ nhiệm vụ chính trị, tư tưởng của Đảng. Ngành xuất
bản có bước phát triển nhanh, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, phát

triển cả về tiềm lực, năng lực, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu về xuất bản phẩm
của xã hội, góp phần xứng đáng vào việc phát triển một nền xuất bản độc lập,
tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.2. Thực trạng quản lý Nhà nước về xuất bản ở Việt Nam
Những kết quả đã đạt được:
Hiện nay, cả nước có 55 nhà xuất bản, 1.200 cơ sở in, 129 công ty phát
hành sách quốc doanh và khoảng 12.000 cửa hàng, nhà sách tư nhân. Thực
13


trạng hoạt động xuất bản sau 3 năm thực hiện Chỉ thị 42 đã đạt được những
kết quả cụ thể như sau:
- Công tác tuyên truyền, quán triệt và triển khai thực hiện Chỉ thị 42CT/TW về nâng cao chất lượng tồn diện của hoạt động xuất bản đã góp phần
nâng cao nhận thức của cán bộ trong ngành hiểu rõ ý nghĩa, tinh thần của Chỉ
thị 42, từ đó có những việc làm cụ thể đưa Chỉ thị về xuất bản của Đảng vào
cuộc sống.
- Hoạt động xuất bản thực hiện định hướng phát triển toàn ngành, phục
vụ tốt các nhiệm vụ chính trị của đất nước; nâng cao chất lượng của các xuất
bản phẩm, phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu của các đối tượng đọc khác
nhau, góp phần nâng cao dân trí, phát triển văn hóa dân tộc.
- Tập trung xây dựng tiềm lực và năng lực của hoạt động xuất bản, hoạt
động xuất bản đã từng bước thích ứng cơ chế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong 3 năm (2004 - 2007) tốc độ phát triển của tồn ngành xuất
bản khơng ngừng tăng. Năm 2004, xuất bản được 19.695 tên sách với
242,700 triệu bản; năm 2007 với 26.609 tên sách (tăng 146% so với năm
2004), đạt 276,447 triệu bản, mức hưởng thụ bình quân 3,3 bản sách/người/
năm.
Cơ quan chỉ đạo của Đảng và cơ quan quản lý nhà nước đã chú trọng xây
dựng quy hoạch ngành xuất bản và xác định lại chức năng, nhiệm vụ của các
nhà xuất bản. Trong 3 năm qua đã ban hành các văn bản quy phạm pháp luật

quan trọng theo tinh thần của Chỉ thị 42. Đó là: Luật Xuất bản (2004), Nghị
định 111 (2005), về hỗ trợ mua bản quyền tác giả trong hoạt động xuất bản.
Việc áp dụng các tiến độ khoa học kỹ thuật trong ngành in được chú trọng,
chất lượng các sản phẩm in bảo đảm tốt hơn
- Hoạt động các nguồn lực cho ngành xuất bản; phát triển nhu cầu văn
hóa đọc của nhân dân đã có chuyển biến rõ nét, việc đổi mới, sắp xếp một số
nhà xuất bản chuyển sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp và đẩy nhanh
14


q trình cổ phần hóa doanh nghiệp in và phát hành sách nhà nước đã tạo
động lực cho toàn ngành xuất bản phát triển. Cổ phần hóa doanh nghiệp phát
hành sách nhà nước đã làm thay đổi nhận thức, tạo thế chủ động cho doanh
nghiệp. Đến tháng 12 năm 2007, đã có 36 doanh nghiệp cổ phần hóa.
Một số nhà xuất bản thu hút tư nhân góp trên 50% vốn tham gia xuất bản
sách và độc quyền phát hành một số tên sách. Hệ thống phát hành sách thuộc
thành phần kinh tế tư nhân năng động và phát triển khá nhanh. Xuất hiện
nhiều nhà sách có năng lực và tiềm lực lớn, có tâm huyết và kinh nghiệm
trong liên kết xuất bản và phát hành. Ngành xuất bản đã chủ động hội nhập
quốc tế và tham gia các hoạt động quốc tế về xuất bản.
- Đào tạo nguồn nhân lực gắn liền với thực tiễn sản xuất kinh doanh, lực
lượng lao động của các nhà xuất bản tăng nhanh, trình độ đại học và trên đại
học chiếm hơn 70%. Các cơ sở đào tạo đã chủ động hơn trong xây dựng
khung chương trình sát với yêu cầu của thực tiễn xuất bản, đã biên soạn được
một số bộ giáo trình chuyên ngành, phù hợp hơn với phương pháp giảng dạy
theo hướng phát huy tính chủ động của sinh viên. Xuất hiện một số hình thức
“tự đào tạo” ở một số nhà xuất bản, cơ sở in. Một số cơ sở đào tạo đã tổ chức
đào tạo trên đại học cho biên tập viên và cử nhân phát hành sách.
Những mặt hạn chế
Quy mô, năng lực hoạt động xuất bản ở nước ta vẫn còn chưa đủ đáp

ứng nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của xã hội về cung cấp thông tin, tri
thức và thưởng thức văn học nghệ thuật trong thời kỳ đổi mới, cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá, mở rộng giao lưu, hội nhập quốc tế, nhất là còn thiếu nhiều
loại sách phổ cập tri thức phục vụ đông đảo quần chúng. Nhưng điều đáng
quan tâm hơn là chất lượng hoạt động xuất bản chưa cao. Sách nghiên cứu,
tổng kết thực tiễn cịn ít, chất lượng cịn hạn chế. Sách viết về công cuộc đổi
mới, những nhân tố mới, con người mới, viết về cuộc đấu tranh giữa cái mới,
tiến bộ và cái cũ, cái lạc hậu, kìm hãm, cái hư hỏng cịn ít và kém sâu sắc,
15


sinh động; vẫn còn xuất bản và lưu hành một số sách có nội dung sai phạm về
chính trị, tư tưởng, gây ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống xã hội.
Khuynh hướng thương mại hoá, chạy theo lợi nhuận kinh tế thuần tuý
tác động xấu đến hoạt động xuất bản. Tệ in lậu xảy ra khá phổ biến, nhưng
chưa được kiểm tra, ngăn chặn có hiệu quả. Mạng lưới phát hành cịn chưa
đến được nhiều vùng sâu, vùng xa, nơng thôn, miền núi và vùng đồng bào dân
tộc thiểu số
Đội ngũ biên tập viên cịn hiều hạn chế về trình độ, năng lực. Công tác
đào tạo chưa được quan tâm đúng mức.
Việc hợp tác, liên doanh về xuất bản, in và phát hành xuất bản phẩm với
nước ngồi cịn lúng từng.
Một số cơ quan chủ quản nhận thức chưa đầy đủ, đúng mức về vai trò,
chức năng của xuất bản, chưa làm tốt nhiệm vụ chỉ đạo về công tác tổ chức,
cán bộ, về định hướng nội dung, cung cấp thông tin và uốn nắn những sai
phạm của nhà xuất bản thuộc quyền, thiếu quan tâm đầu tư kinh phí, cơ sở vật
chất - kỹ thuật, trang thiết bị cho hoạt động xuất bản.
Nguyên nhân chính của những yếu kém, khuyết điểm trên là do công tác
lãnh đạo của các cấp uỷ đảng, công tác quản lý nhà nước về xuất bản và sự
lãnh đạo của các nhà xuất bản, cơ số in, mối quan hệ giữa chức năng văn hoá

- tư tưởng và nhiệm vụ kinh doanh của hoạt động xuất bản; chậm ban hành
những chính sách, chế độ, quy định phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho
hoạt động xuất bản phát triển đúng hướng trong cơ chế kinh tế mới.

16


Chương 3
VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUÁ
QUÁN LÝ SÁCH VÀ XUẤT BẢN SÁCH
3.1. Vấn đề đặt ra
Nâng cao chất lượng toàn diện các xuất bản phẩm: đảm bảo tính tư
tưởng, tính khoa học, chất lượng giáo dục, văn hoá và sự đa dạng, hấp dẫn
của ấn phẩm xuất bản, đảm bảo đủ các loại sách và tải liệu đáp ứng nhu cầu
của các đối tượng người đọc khác nhau. Chú trọng mảng sách về chủ nghĩa
Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước; sách khoa học - kỹ thuật và công nghệ; sách về
truyền thống dân tộc và cách mạng, về bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc;
phấn đấu có nhiều sách, nhiều bài hay, sâu sắc về tổng kết thực tiễn, phổ biến
kinh nghiệm hay, tuyên truyền, động viên, biểu dương nhân tố mới, con người
mới. Tiếp tục coi trọng sách, bài viết về đấu tranh phê phán các quan điểm sai
trái, phản động, chống tham nhũng, tiêu cực, tham ơ, lãng phí, sự xuống cấp
về đạo đức, lối sống và các thói hư, tật xấu, tệ nạn xã hội, nhưng phải quan
tâm đạt được hiệu quả khơng những làm cho mọi người căm ghét mà cịn
nâng cao thêm ý thức trách nhiệm, dũng khí và quyết tâm đấu tranh với những
cái sai trái, tiêu cực, hư hỏng đó.
Tiếp tục rà sốt, bổ sung và thực hiện tốt quy hoạch ngành xuất bản; tập
trung xây dựng tiềm lực và năng lực của hoạt động xuất bản; nâng cao hiệu
quả kinh tế của xuất bản, in và phát hành, xây dựng các mơ hình và cơ cấu
mới phù hợp với sự phát triển của công nghiệp xuất bản hiện đại: thí điểm xây

dựng các tập đồn xuất bản, tổ hợp xuất bản - báo chí, nghiên cứu hồn chỉnh
mơ hình doanh nghiệp làm nhiệm vụ xuất bản.
Xây dựng chương trình quốc gia xuất bản các loại sách thiết yếu về
chính trị - xã hội và văn hố.
17


Chăm lo phát triển nhu cầu văn hoá đọc của các tầng lớp nhân dân, tổ
chức và phát triển các lực lượng, mạng lưới phát hành xuất bản phải đảm bản
đáp ứng đầy đủ, đúng đối tượng và địa bàn, đặc biệt quan tâm vùng nông
thôn, vùng sâu, vùng xa và miền núi. Phát triển hệ thống sách song ngữ, xuất
bản nhiều sách bằng tiếng dân tộc với trình độ thích hợp, đáp ứng nhu cầu cua
đồng bào các dân tộc thiểu số.
Đến năm 2010, phấn đấu đưa sách về đến cấp huyện và đưa sách đến
phần lớn các xã để đạt chỉ tiêu 6 bản sách/người/năm. Tập trung củng cố và
phát triển hệ thống thư viện, các loại phòng đọc, trước hết ở cơ sở. Huy động
các nguồn lực xã hội cho xuất bản và phát hành sách phục vụ đông đảo nhân
dân. Xây dựng, ban hành cơ chế quản lý phù hợp, có hiệu quả đới với lực
lượng tham gia hoạt động xuất bản, in và phát hành ngoài quốc doanh. Xây
dựng kế hoạch dài hạn đào tạo, bồi dưỡng và phát triển lực l,lùng, đội ngũ của
ngành xuất bản, đảm bảo về quan điểm chính trị và chất lượng nghề nghiệp
cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, các tác giả,
cộng tác viên trong cả ba khâu xuất bản, in và phát hành ngoài quốc doanh
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý xuất bản sách
Đổi mới và nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với lĩnh
vực xuất bản, in và phát hành.
Củng cố, kiện toàn tổ chức và tăng cường đội ngũ cán bộ có đủ phẩm
chất, năng lực cho các cơ quan chỉ đạo, quản lý và tham mưu trên lĩnh vực
xuất bản, in và phát hành từ Trung ương đến các địa phương.
Xây đựng quy chế phối, hợp chỉ đạo, quản lý giữa cơ quan Đảng, cơ

quan quản lý nhà nước các cấp và cơ quan chủ quản. Xác định rõ vai trò của
cơ quan chủ quản, đồng thời nêu cao vai trò tự chịu trách nhiệm, chủ động
của lãnh đạo nhà xuất bản và cơ quan phát hành.

18


Củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng trong các nhà
xuất bản, cơ sở in và phát hành.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của Hội Xuất bản - in - phát hành sách Việt
Nam trong việc xây dựng ngành xuất bản.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất bản, in,
phát hành sách. Rà soát, sửa đổi, bổ sung và xây dụng các văn bản pháp luật,
cơ chế, chính sách đồng bộ, thống nhất để quản lý hoạt động xuất bản. Nghiên
cứu bổ sung, sửa đôi Luật Xuất bản đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Xây dựng chế
độ, chính sách cho các doanh nghiệp xuất bản có nhiệm vụ kinh doanh đặc
thù, những nhà xuất bản có ấn phẩm phục vụ nhiệm vụ chính trị.
Xây dựng quy chế, chính sách cho hoạt động của hệ thống nhà sách tư
nhân và tập thể. Xây dựng chính sách ưu tiên cho việc xuất bản, phát hành,
vận chuyển xuất bản phẩm lên miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số và hoạt động thơng tin đối ngoại. Có chính sách giảm giá
sách đối với một số đối tượng chính sách xã hội.
- Xây dựng và tổ chức chặt chẽ việc thực hiện các quy chế, tiễu chuẩn
trong nghiệp vụ xuất bản.
- Thường xuyên tiến hành thanh tra, kiểm tra, xem xét, rút kinh nghiệm
để nâng cao chất lượng biên tập, nộp và xử lý sách lưu chiếu, khắc phục các
sai phạm, yếu kém trong công tác in, xuất bản. Kiên quyết ngăn chặn nạn xuất
bản, in, phát hành sách trái phép. Thực hiện nghiêm pháp luật về bản quyền
tác giả. Đẩy mạnh xã hội hoá, huy động các nguồn lực để phát triển sự nghiệp
xuất bản, in và phát hành:

Khai thác các nguồn lực, tiến hành họp tác, liên doanh, liên kết (trong và
ngoài nước) để tăng cường nguồn lực cho xuất bản, in và phát hành. Xây
dựng quy chế quan hệ giữa xuất bản, phát hành xuất bản phẩm và hệ thống
thư viện: Nhà nước có chính sách tăng nguồn kinh phí mua sách cho các thư
viện, đảm bảo thư viện trở thành trung tâm bồi dưỡng và phát triển nhu cầu
19


văn hố đọc của quần chúng, góp phần tăng lượng bản in cho các nhà xuất
bản. Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, triển lãm, hội chợ sách, xây dựng tủ
sách gia đình, phong trào đọc sách trong nhân dân, huy động các phương tiện
thông tin đại chúng tham gia tuyên truyền và giới thiệu xuất bản phẩm. Nâng
cao chất lượng hoạt động giới thiệu, phê bình sách, phê bình văn học, nghệ
thuật.Rà soát, đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình, phương thức đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ trong cả ba lĩnh vực xuất bản, in, phát hành để đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ.
- Đổi mới, nâng cấp và từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật
và công nghệ xuất bản.
Lập kế hoạch xây dựng, nâng cấp trụ sở các nhà xuất bản, các trung tâm
sách ở các thành phố lớn, các khu vực trọng điểm, khôi phục và xây dựng mới
hệ thống cửa hàng sách cấp huyện; áp dụng công nghệ thông tin để hiện đại
hố quy trình biên tập và thực hiện quản lý xuất bản phẩm theo tiêu chuẩn
quốc tế. Nghiên cứu thí điểm xuất bản sách điện tử, trung tâm thơng tin về
sách. Tiếp tục hiện đại hố cơng nghệ in phù hợp với nhu cầu và thực tiễn đất
nước.
Mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực xuất bản, in và phát hành.
Bổ sung các quy định pháp lý, chính sách để các nhà xuất bản chủ động
tham gia quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt đối với vấn đề bản quyền, sở
hữu trí tuệ, xuất bản điện tử. Mở rộng hợp tác trong lĩnh vực xuất bản, in và
phát hành với các nước trong khu vực và quốc tế, khuyến khích đưa sách của

nước ta ra thế giới. Nhà nước có chính sách tài trợ để xuất bản bằng tiếng
nước ngồi một số đầu sách có giá trị của các tác giả được giải thưởng Hồ Chí
Minh và giải thưởng Nhà nước.

20


KẾT LUẬN
Trong cơ chế thị trường, khi các hoạt động xuất bản và phát hành được
bung ra, nạn sách lậu cũng đang là vấn đề nhức nhối. Việc một tác phẩm bị in
lậu đã trở nên phổ biến, chuyên nghiệp. Trong khi giá sách còn là khá cao so
với thu nhập trung bình của người lao động thì sách lậu đã kích thích sức mua
của người tiêu dùng, với giá thành được chiết khấu cao. Hạ giá sách là chiêu
thức đánh vào tâm lý người tiêu dùng. Tuy nhiên, thực trạng sách lậu đã khiến
cho nhiều nhà xuất bản khốn đốn, mặt khác chất lượng của cuốn sách không
được coi trọng, cẩu thả trong in ấn gây phản cảm với người đọc. Những biện
pháp ngăn chặn sách lậu thời gian qua chưa đủ sức răn đe với các đầu nậu, hệ
quả là sách lậu vẫn ngang nhiên có mặt trên thị trường sách. Chính điều này
làm giảm doanh thu của nhà xuất bản, đồng thời có ảnh hưởng đến nhuận bút
của nhà văn. Nhuận bút của tác giả không được trả thỏa đáng cũng là yếu tố
kìm hãm sức sáng tạo nghệ thuật. Tỷ lệ được chi trả cho người trực tiếp làm
ra sản phẩm hàng hóa đặc biệt, ở đây là tác phẩm văn học, thường là thấp
trong tương quan với giá sách. Tăng nhuận bút cho tác giả cũng như tăng mức
phạt cho việc in lậu sách là việc làm cần thiết nhằm hướng tới một thị trường
xuất bản, phát hành sách hiệu quả, lành mạnh.Ðây là dấu mốc quan trọng trên
con đường sách Việt Nam hội nhập với thị trường sách thế giới, đồng thời
giúp cho các NXB trong nước vươn tới tiêu chuẩn và những thông lệ quốc tế.
Nhìn chung, có thể thấy việc đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản
lý Nhà nước về xuất bản; đổi mới công tác quản lý; phát triển cơ sở vật chất,
hoạt động xuất bản từng bước thích ứng với cơ chế thị trường định hướng

XHCN... chính là những nỗ lực đáng kể đem lại thành tích cho toàn ngành.

21



×