Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

Các trình ứng dụng và công cụ của Microsoft Windows XP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 46 trang )

BÀI ĐIỀU KIỆN
Mơn: Tin học
Các trình ứng dụng và cơng cụ của
Microsoft Windows XP


2

MỤC LỤC
I.

MỞ ĐẦU…………………………………………………………...3

II.

NỘI DUNG CHÍNH…………………………………………….....4

1. Lịch sử phát triển của Microsoft Windows..……………………..…4
2. Tổng quan về Microsoft Windows XP……………………………..17
3. Các trình ứng dụng và cơng cụ của Microsoft Windows XP……..29

Các trình biên soạn văn bản…..…………………………………….…29
Notepad………………………………………………………………...29
Wordpad……………………………………………………..………...30
Các trình tiện ích đĩa…………………………………………………...32
Error checking…………………………………………………………32
Defragment…………………………………………………………….33
Backup………………………………………………………………….34
Trình ứng dụng Multimedia……………………………………...……35
Control panel………………………………………………………….. 41
III.



KẾT LUẬN……………………………………………………….45

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….46


3

I.

MỞ ĐẦU

Ba mươi năm có lẽ là khoảng thời gian đủ để xây dựng một công ty thành công,
song để xây dựng một đế chế hùng mạnh thì tưởng như là khơng thể. Ấy thế mà
tồn thế giới đang chứng kiến và ngưỡng mộ điều khơng thể đó với cái tên
Microsoft.
Với doanh thu năm vừa qua đạt 40 tỷ USD cùng 84 ngàn nhân công làm việc tai
85 quốc gia và cùng lãnh thổ, Microsoft là công ty sản xuất phần mềm lớn nhất thế
giới. Trong hơn 30 năm, dưới bàn tay chèo lái của chủ tịch Bill Gates, Microsoft đã
đi từ hết thành công này đến thành công khác, trong đó mỗi thành tựu đều ghi lại
dấu mốc trong lịch sử ngành máy tính hiện đại.


4

II. NỘI DUNG CHÍNH
1. Lịch sử phát triển của Microsoft Windows
Quả thực mà nói, hệ điều hành Windows đã có một lịch sử phát triển khá dài,
phiên bản đầu tiên của hệ điều hành này đã được phát hành cách đây khoảng 25
năm và quãng thời gian mà Windows chiếm được ưu thế đối với các máy tính cá

nhân cũng vào khoảng trên 15 năm. Rõ ràng, qua rất nhiều thay đổi về kỹ thuật
trong 25 năm qua, phiên bản ngày nay của Windows đã được phát triển hơn rất
nhiều so với phiên bản Windows 1.0.
Phiên bản đầu tiên của Windows này (Windows 1.0) khá sơ đẳng. Sơ đẳng hơn
cả hệ điều hành DOS trước đó, tuy nhiên nhược điểm phát sinh là ở chỗ rất khó sử
dụng. Vì thực tế khi đó nếu bạn khơng có chuột thì việc sử dụng sẽ khó khăn hơn
rất nhiều so với giao diện dòng lệnh của DOS.
Tuy nhiên Windows được phát triển ngày một tốt hơn và cũng được phổ biến
rộng rãi hơn. Microsoft đã nâng cấp Windows trên một cơ sở nhất quán qua hai thập
kỷ qua. Phát hành một phiên bản Windows mới sau một vài năm; đôi khi phiên bản
mới chỉ là một nâng cấp nhỏ nhưng đôi khi lại là q trình đại tu tồn bộ.
Cho ví dụ, Windows 95 (phát hành năm 1995), phiên bản được viết lại tồn bộ
từ Windows 3.X trước đó nhưng trong khi đó phiên bản kế tiếp, Windows 98, lại là
một nâng cấp và phiên bản Windows 98 thứ hai (năm 1999) thực sự khơng khác gì
một bản vá lỗi nhỏ.
Vậy phiên bản Windows 7 sắp ra nằm ở đâu trong timeline này? Windows Vista,
phiên bản trước đó, là một sự đại tu triệt để đối với hệ điều hành này thì Win7 cũng
có vẻ giống như Windows 98 – một nâng cấp bổ sung thứ thiệt.
Đó là việc dõi theo lịch sử phát triển của Windows, rõ ràng, các nâng cấp thứ
yếu thường được phát hành sau những nâng cấp chủ đạo. Ở đây Vista là chủ đạo,
Windows 7 là thứ yếu, và đó cũng chính là chu trình phát triển hệ điều hành của
Microsoft.


5

Với những giới thiệu tổng quan trên, chúng ta hãy xem xét chi tiết hơn về mỗi
một phiên bản liên tiếp của Windows – bắt đầu với hình thức sơ khai nhất của nó,
hệ điều hành được biết đến với tên DOS
DOS

Windows được phát triển từ hệ điều hành DOS ban đầu của Microsoft, đây là
hệ điều hành được phát hành năm 1981. Hệ điều hành mới này đã được Bill
Gates và Paul Allen phát triển để chạy trên máy tính cá nhân IBM, với giao diện
hồn tồn bằng văn bản và các lệnh người dùng giản đơn.
Những cải tiến tiếp tục được thực hiện, IBM đã liên hệ với công ty
Microsoft để cung cấp hệ điều hành cho các máy tính IBM vào thời điểm ban đầu
này. Khi đó Gates và Allen đã mua QDOS (quick and dirty operating system) từ
Seattle Computer Products và đã điều chỉnh những cần thiết cho hệ thống máy tính
mới.
Hệ điều khi đó được gọi là DOS, viết tắt cho cụm từ disk operating
system. DOS là một tên chung cho hai hệ điều hành khác nhau. Khi được đóng gói
với các máy tính cá nhân IBM, DOS được gọi là PC DOS. Còn khi được bán dưới
dạng một gói riêng bởi Microsoft, DOS được gọi là MS-DOS. Tuy nhiên cả hai
phiên bản đều có chức năng tương tự nhau.
Hầu hết người dùng PC thế hệ đầu tiên đều phải học để điều hành máy tính
của họ bằng DOS. Nhưng hệ điều hành này khơng thân thiện một chút nào; nó yêu
cầu người dùng phải nhớ tất cả các lệnh và sử dụng các lệnh đó để thực hiện hầu hết
các hoạt động hàng ngày, chẳng hạn như việc copy các file, thay đổi thư mục,… Ưu
điểm chính của DOS là tốc độ và tiêu tốn ít bộ nhớ, đây là hai vấn đề quan trọng khi
hầu hết các máy tính chỉ có 640K bộ nhớ.
Windows 1.0
Microsoft tin rằng các máy tính các nhân sẽ trở thành xu thế chủ đạo, chúng
phải dễ dàng hơn trong sử dụng, bảo vệ cho sự tin tưởng đó chính là giao diện đồ


6

họa người dùng (GUI) thay cho giao diện dòng lệnh của DOS. Với quan điểm đó,
Microsoft đã bắt tay vào thực hiện phiên bản mở đầu của Windows vào năm 1983,
và sản phẩm cuối cùng được phát hành ra thị trường vào tháng 11 năm 1985.


Hình 2: Phiên bản đầu tiên của Windows - Windows 1.0
Windows ban đầu được gọi là Interface Manager, và khơng có gì ngồi một
lớp vỏ đồ họa đặt trên hệ điều hành DOS đang tồn tại. Trong khi DOS chỉ là một hệ
điều hành sử dụng các lệnh bằng văn bản và gắn chặt với bàn phím thì Windows 1.0
đã hỗ trợ hoạt động kích vào thả của chuột. Tuy nhiên các cửa sổ trong giao diện
hồn tồn cứng nhắc và khơng mang tính xếp chồng.
Không giống các hệ điều hành sau này, phiên bản đầu tiên của Windows này
chỉ có một vài tiện ích sơ đẳng. Nó chỉ có chương trình đồ họa Windows Paint, bộ
soạn thảo văn bản Windows Write, bộ lịch biểu, notepad và một đồng hồ. Tuy nhiên
thời đó Windows 1.0 cũng có Control Panel, đây là thành phần được sử dụng để cấu
hình các tính năng khác cho mơi trường, và MS-DOS Executive - kẻ tiền nhiệm cho
bộ quản lý file Windows Explorer ngày nay.
Khơng hề ngạc nhiên vì Windows 1.0 khơng thành cơng như mong đợi. Do
lúc đó khơng có nhiều nhu cầu cho một giao diện đồ họa người dùng cho các ứng
dụng văn bản cho các máy tính PC của IBM và đây cũng là phiên bản Windows đầu
tiên yêu cầu nhiều công xuất hơn các máy tính vào thời đại đó.


7

Windows 2.0
Phiên bản thứ hai của Windows được phát hành vào năm 1987, đây là phiên
bản được cải tiến dựa trên phiên bản Windows 1.0. Phiên bản mới này đã bổ sung
thêm các cửa sổ có khả năng xếp chồng nhau và cho phép tối thiểu hóa các cửa sổ
để chuyển qua lại trong desktop bằng chuột.

Hình 3: Các cửa sổ xếp chồng của Windows 2.0
Trong phiên bản này, Windows 2.0 đã có trong nó các ứng dụng Word và
Excel của Microsoft. Lúc này Word và Excel là các ứng dụng đồ họa cạnh tranh với

các đối thủ khi đó WordPerfect và Lotus 1-2-3; các ứng dụng của Microsoft cần một
giao diện đồ họa để có thể chạy hợp thức, do đó Microsoft đã tích hợp chúng vào
với Windows.
Lúc này khơng có nhiều ứng dụng tương thích với Windows. Chỉ có một
ngoại lệ đáng lưu ý đó là chương trình Aldus PageMaker.
Windows 3.0
Lần thứ ba có tiến bộ hơn các phiên bản trước rất nhiều và đánh dấu một
mốc quan trọng trong thương mại. Windows 3.0, phát hành năm 1990, là phiên bản
thương mại thành công đầu tiên của hệ điều hành, Microsoft đã bán được khoảng 10
triệu copy trong hai năm trước khi nâng cấp lên 3.1. Đây là phiên bản hệ điều hành


8

đa nhiệm đích thực đầu tiên. Sau sự thành cơng với Macintosh của Apple, thế giới
máy tính cá nhân đã sẵn sàng cho một hệ điều hành đa nhiệm cùng với giao diện đồ
họa người dùng.

Hình 4: Phiên bản Windows 3.0
Windows 3.0 là một cải thiện lớn so với các phiên bản trước đây. Giao diện
của nó đẹp hơn nhiều với các nút 3D và người dùng có thể thay đổi màu của
desktop (tuy nhiên thời điểm này chưa có các ảnh nền - wallpaper). Các chương
trình được khởi chạy thơng qua chương trình Program Manager mới, và chương
trình File Manager mới đã thay thế cho chương trình MS-DOS Executive cũ trong
vấn đề quản lý file. Đây cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có trị chơi
Solitaire trong đó. Một điều quan trọng nữa là Windows 3.0 có một chế độ
Protected/Enhanced cho phép các ứng dụng Windows nguyên bản có thể sử dụng bộ
nhớ nhiều hơn hệ điều hành DOS của nó.
Sau phát hành Windows 3.0, các ứng dụng được viết cho Windows được
phát triển rất rộng rãi trong khi đó các ứng dụng khơng cho Windows (nonWindows) thì ngược lại. Windows 3.0 đã làm cho các ứng dụng Word và Excel đã

đánh bại các đối thủ cạnh tranh khác như WordPerfect, 1-2-3.
Windows 3.1


9

Windows 3.1, phát hành năm 1992, có thể coi là một nâng cấp cho phiên bản
3.0. Phiên bản này không chỉ có các bản vá lỗi cần thiết mà nó còn là phiên bản đầu
tiên mà Windows hiển thị các font TrueType –làm cho Windows trở thành một nền
tảng quan trọng cho các máy desktop. Một điểm mới nữa trong Windows 3.1 là bộ
bảo vệ màn hình (screensaver) và hoạt động kéo và thả.

Hình 5: Các font TrueType của Windows 3.1
Windows cho các nhóm làm việc (Workgroup)
Cũng được phát hành vào năm 1992, Windows cho các nhóm làm việc (viết
tắt là WFW), là phiên bản dùng để kết nối đầu tiên của Windows. Ban đầu được
phát triển như một add-on của Windows 3.0, tuy nhiên WFW đã bổ sung thêm các
driver và các giao thức cần thiết (TCP/IP) cho việc kết nối mạng ngang hàng. Đây
chính là phiên bản WFW của Windows thích hợp với mơi trường cơng ty.

Hình 6: Windows cho các nhóm làm việc – phiên bản kết nối đầu tiên của Windows


10

Với WFW, các phát hành của Windows được chia thành hai hướng: hướng dành cho
khách hàng, được thiết kế dành cho sử dụng trên các máy tính PC riêng lẻ, hiện thân
là Windows 3.1 và Windows 95 sắp ra đời, và một hướng là dành cho khối doanh
nghiệp, được thiết kế để sử dụng trên các máy tính có kết nối mạng, hiện thân là
WFW và Windows NT sắp ra đời.

Windows NT
Phát hành kế tiếp cho khối doanh nghiệp của Windows là Windows NT (từ
NT là viết tắt của cụm từ new technology), phiên bản chính thức được phát hành
vào năm 1993. Mặc dù vậy NT không phải là một nâng cấp đơn giản cho WFW mà
thay vì đó nó là một hệ điều hành 32-bit đúng nghĩa được thiết kế cho các tổ chức
có kết nối mạng. (Các phiên bản khách hàng vẫn được duy trì ở các hệ điều hành
16-bit).

Hình 7: Windows NT – phiên bản Windows 32-bit đầu tiên dành cho sử dụng trong
khối doanh nghiệp
Windows NT cũng là một thành viên trong hợp tác phát triển hệ điều hành
OS/2 của Microsoft với IBM. Tuy nhiên khi mối quan hệ giữa IBM và Microsoft bị
đổ vỡ, IBM vẫn tiếp tục với OS/2, trong khi đó Microsoft đã thay đổi tên phiên bản
của OS/2 thành Windows NT.


11

Phục vụ cho khách hàng doanh nghiệp, Windows NT đã có hai phiên bản:
Workstation và Server. NT Workstation được dành cho các PC riêng rẽ trên mạng
cơng ty, cịn NT Server có nhiệm vụ máy chủ cho tất cả các PC được kết nối với
nhau.
Với những khả năng cải thiện về công nghệ kết nối mạng, NT đã trở thành một hệ
điều hành chủ đạo cho các máy chủ và máy trạm doanh nghiệp trên tồn thế giới.
Nó cũng là cơ sở cho hệ điều hành Windows XP, hệ điều hành sát nhập hai luồng
Windows thành một hệ điều hành chung vào năm 2001.
Windows 95
Quay trở lại với hướng khách hàng, Microsoft đã sẵn sàng một phát hành
mới vào tháng 8 năm 1995. Phiên bản Windows 95 này có lẽ là phát hành lớn nhất
trong số các phát hành Windows.


Hình 8: Windows 95 – phát hành Windows lớn nhất chưa từng có
Có thể khá khó khăn để hình dung lại sau 15 năm, nhưng phát hành
Windows 95 là một sự kiện mang tính lịch sử, với việc đưa tin rộng rãi trên phương
tiện thông tin đại chúng, các khách hàng đã xếp thành những hàng dài bên ngoài các
cửa hàng từ nửa đêm để mua được những bản copy đầu tiên của hệ điều hành này.
Tuy nhiên những gì mới thực sự gây chống? Windows 95 có diện mạo đẹp hơn và
khả năng làm việc cũng tốt hơn, cả hai thứ đó đều đạt được mong mỏi của người
dùng sau nhiều năm chờ đợi. Đây là một hệ điều hành được viết lại phần lớn và đã
cải thiện được giao diện người dùng và đưa Windows sang nền tảng 32-bit giả mạo.
(Nhân kernel 16-bit vẫn được giữ lại để có thể tương thích với các ứng dụng cũ).


12

Windows 95 đã xuất hiện Taskbar, thanh tác vụ này có các nút cho các cửa sổ mở.
Nó cũng là phiên bản đầu tiên của Windows có sử dụng nút Start và menu Start; các
shortcut trên desktop, kích phải chuột và các tên file dài cũng lần đầu tiên xuất hiện
trong phiên bản này.
Một điểm mới nữa trong Windows 95 – mặc dù khơng có trong phiên bản
ban đầu – đó là trình duyệt web Internet Explorer của Microsoft. IE 1.0 lần đầu tiên
xuất hiện là trong Windows 95 Plus! Với tư cách một add-on; phiên bản 2.0 có
trong Win95 Service Pack 1, gói dịch vụ được phát hành vào tháng 12 năm 1995.
Windows 98
Windows 98, cũng được lấy tên năm phát hành của nó (1998), là một thay
đổi mang tính cách mạng so với phiên bản trước đó. Diện mạo bên ngồi của nó đẹp
hơn Windows 95 khá nhiều, và thậm chí nó cịn có nhiều cải thiện hữu dụng bên
trong. Những cải thiện ở đây như sự hỗ trợ cho USB, chia sẻ kết nối mạng và hệ
thống file FAT32, tuy tất cả đều những cải thiện này rất đáng giá nhưng khơng làm
cho


cả

thế

giới

chống

ngợp

như

lần

ra

mắt

của

Windows

95.

Microsoft đã phát hành phiên bản nâng cấp "Second Edition" của Windows 98 vào
năm 1999. Phiên bản này có ít những thay đổi đáng chú ý mà chỉ có hầu hết các bản
vá lỗi.
Windows Me
Microsoft phát hành phiên bản Windows Millennium edition vào năm 2000.

Windows Me, có lẽ là lỗi lớn nhất của Microsoft, một nâng cấp thứ yếu với rất
nhiều lỗi thay vì sửa các lỗi trước đó.
Trong phiên bản mới này, Microsoft đã nâng cấp các tính năng Internet và
multimedia của Windows 98, bổ sung thêm ứng dụng Windows Movie Maker, giới
thiệu tiện ích System Restore – tất cả đều là những ứng dụng tốt. Tuy nhiên điều
đáng chú ý nhất trong Windows Me đó là hiện tượng dễ đổ vỡ và hệ thống dễ bị


13

treo. Nguyên nhân này đã làm cho nhiều khách hàng và các doanh nghiệp bỏ qua
toàn bộ nâng cấp này.
Windows 2000
Được phát hành gần như đồng thời với phát hành dành cho khách hàng
Windows Me, Windows 2000 là một nâng cấp thành công cho khối doanh nghiệp
của Microsoft. Kế vị ngay sau Windows NT, Windows 2000 là một sự tiến hóa từ
nền tảng cơ bản NT, và vẫn nhắm đến thị trường doanh nghiệp.

Hình 9: Windows 2000 – kẻ kế nhiệm cho Windows NT cho thị trường doanh
nghiệp
Không giống như NT, Windows 2000 có hai phiên bản (Workstation và
Server), Windows 2000 có đến 5 phiên bản khác nhau: Professional, Server,
Advanced Server, Datacenter Server và Small Business Server. Tất cả các phiên bản
đều kết hợp chặt chẽ các tính năng từ Windows 95/98 và tạo nên một giao diện đẹp
mắt và tinh tế.
Windows XP
Các dòng hệ điều hành khách hàng và doanh nghiệp của Windows đã được
nhập thành một với phát hành năm 2001 của Windows XP. Đây là phiên bản đầu
tiên mà Microsoft đưa sự tin cậy trong dòng doanh nghiệp ra thị trường khách hàng
– và đưa sự thân thiện vào thị trường doanh nghiệp. XP có sự pha trộng tốt nhất

giữa các phiên bản Windows 95/98/Me với thao tác 32-bit của Windows NT/2000


14

và giao diện người dùng được tân trang lại. Về bản chất có thể cho rằng XP là kết
hợp giao diện của Windows 95/98/Me vào NT/2000 core, bỏ qua cơ sở mã DOS đã
xuất hiện trong các phiên bản khách hàng trước của Windows.

Hình 10: Giao diện thân thiện hơn của Windows XP
Với Windows XP, Microsoft đã bắt đầu phân khúc thị trường bằng một số
phiên bản khác nhau, mỗi một phiên bản lại có một tập các tính năng riêng biệt. Các
phiên bản khác nhau được phân khúc ở đây gồm có: XP Home Edition, XP
Professional (cho người dùng khối doanh nghiệp), XP Media Center Edition, XP
Tablet PC Edition, và XP Starter Edition (cho người dùng trong các nước đang phát
triển). Tuy nhiều người dùng cảm thấy lộn xộn về sự phân khúc này, nhưng
Microsoft dường như lại không quan tâm đến điều đó.
Từ quan điểm của người dùng, XP là một phiên bản đẹp hơn, nhanh hơn so
với các phiên bản trước đó Windows 95/98 hoặc Windows 2000. (Nó cũng có độ tin
cậy cao hơn so với hệ điều hành Windows Me thất bại trước đó). Giao diện Luna
cho bạn thấy đẹp hơn và thân thiện hơn, tính năng Fast User Switching cho phép
cùng một máy có thể được chia sẻ dễ dàng với những người dùng khác.
Windows Vista
Được phát hành năm 2007, phiên bản Windows này đã phát triển các tính
năng của XP và bổ sung thêm sự bảo mật và độ tin cậy, chức năng truyền thông số
được cải thiện và giao diện đồ họa người dùng Aero 3D đẹp mắt.


15


Hình 11: Giao diện Aero của Windows Vista
Chúng ta hãy bắt đầu với giao diện, để chạy được giao diện nâng cao này địi
hỏi các máy tính phải có cấu hình cao, chính vì lý do này mà Vista bị hạn chế khả
năng nâng cấp từ nhiều máy tính cũ. Giao diện Aero hiển thị các thành phần 3D gần
như trong suốt và đường bao cửa sổ kiểu kính, bên cạnh đó cịn nhiều thứ trong
Vista cũng rất khác biệt.
Các biểu tượng thư mục và file hiển thị bằng các thumbnail nội dung của
chúng. Khi bạn chuyển giữa các ứng dụng đang mở, Windows sẽ cuộn và xoay
vòng để hiển thị theo ngăn xếp 3D. Các cửa sổ trông uyển chuyển hơn, trịn trịa hơn
và có tính mờ đục, tăng cảm giác sâu khi bạn xem nhiều cửa sổ trên màn hình. Bên
cạnh đó cịn có một Sidebar để giữ các Gadget, các ứng dụng nhỏ chuyên dụng cho
một nhiệm vụ nào đó.
Bên trong, Vista được thiết kế để chạy an toàn và tráng kiện hơn Windows
XP. Tuy nhiên một trong những tính năng bảo mật – người dùng phàn nàn nhiều – là
User Account Control, tính năng này góp phần vào làm gián đoạn các hoạt động
thông thường của người dùng. Dự định thì tốt (nhằm ngăn chặn khơng cho truy cập
trái phép vào hệ thống), tuy nhiên khi thực thi thì chương trình lại làm cho người
dùng tỏ ra rất khó chịu với các cửa sổ địi hỏi sự cho phép xuất hiện quá nhiều.
Thậm chí tồi tệ hơn, nhiều người dùng gặp phải các vấn đề trong việc nâng cấp thiết
bị cũ lên Vista. Nhiều thiết bị ngoại vi cũ khơng có driver tương thích với Vista (đây
có thể coi là một vấn đề với bất cứ nâng cấp Windows nào), tuy nhiên có một số


16

chương trình chạy trên XP khơng thể làm việc đúng cách trong môi trường Vista.
Chắc hẳn từ những yếu tố không thành công trên của Windows Vista mà Microsoft
đã bắt tay vào để phát triển kẻ kế nhiệm cho Vista ngay lập tức – Windows 7 sắp
được phát hành.
Windows 7

Phiên bản mới nhất của Windows dự kiến được phát hành vào tháng 10 năm
2009. Đó là quãng thời gian hai năm ngắn ngủ sau khi phát hành Windows Vista,
điều đó cũng có nghĩa rằng nó khơng phải một nâng cấp chủ đạo (khơng đủ thời
gian).
Thay vì đó chúng ta có thể nghĩ về Windows 7 với Windows Vista giống như mối
quan hệ của Windows 98 với Windows 95. Nó chỉ là một phát hành thứ yếu, giống
một gói dịch vụ hơn là một nâng cấp quy mơ lớn.

Hình 12: Taskbar mới trong Windows 7
Vậy có những gì thay đổi trong Windows 7? Đầu tiên, phát hành này sẽ thay đổi
những gì mà người dùng khơng thích trong Windows Vista. Phần cứng cũ và phần
mềm cũ tương thích nhiều hơn, và thậm chí cịn có cả tính năng Windows XP Mode
cho phép chạy các ứng dụng trong thời đại XP trong môi trường nguyên bản của
Windows 7. User Account Control cũng được cải thiện nhiều hơn để giảm bớt sự
gián đoạn gây khó chịu đối với người dùng.
Tiếp đến, Windows 7 cịn có một số thay đổi về mặt giao diện. Sidebar bị bỏ đi
và thay vào đó bạn có thể đặt các Gadget trực tiếp lên desktop. Bên cạnh là chế độ


17

Aero Peek mới cho phép bạn nhìn “đằng sau” tất cả các cửa sổ mở để thấy những gì
bên dưới desktop, cũng như các hoạt động Aero Snaps mới cho phép bạn dễ dàng di
chuyển và cực đại hóa các cửa sổ.
Mặc dù vậy thay đổi lớn nhất lại rơi vào taskbar, một dải cố định trên màn hình
xuất hiện lần đầu tiên trong Windows 95. Taskbar mới trong Windows 7 cho phép
bạn dock (neo đậu) cả các cửa sổ đang mở và các ứng dụng lẫn tài liệu ưa thích của
bạn. Kích chuột phải vào một nút của taskbar, bạn sẽ thấy một Jump List các tài liệu
gần đây và các hoạt động hữu dụng khác; đưa chuột qua nút taskbar, bạn sẽ thấy
một ứng dụng đang mở và bạn thumbnail của tất cả các tài liệu. Có thể nói

Windows 7 thay đổi cách bạn thực hiện trong nhiều thứ, tuy nhiên được nhiều người
nhận định là những cách mang tính tích cực.
Phát hành Windows 7 sắp tới đã kết thúc lịch sử của Windows cho đến thời điểm
này. Tuy nhiên các chuyên gia phát triển của Microsoft vẫn đang làm việc trên các
phiên bản mới của hệ điều hành lõi, và vì vậy chúng ta vẫn có thể mong đợi những
điều thú vị sẽ xuất hiện trong một tương lai gần. Và Windows sẽ không bao giờ
ngừng phát triển.

2. Tổng quan về Microsoft Windows XP
Microsoft Windows là tên của các dòng phần mềm hệ điều hành độc quyền của
hãng MicroSoft. Lần đầu tiên Microsoft giới thiệu một môi trường điều hành mang
tên Windows (Cửa sổ) là vào tháng 11 năm 1985 với những tín năng thêm vào Hệ
điều hành đĩa từ Microsoft giao diện dụng hộ đồ hoạ (Graphical User Interfaces,
gọi tắt là GUI) - đang được sự quan tâm cao vào thời điểm này đồng thời để cạnh
tranh với hãng Apple Computers.
- Windows khởi đầu được phát triển cho những máy tính tương thích với IBM (dựa
vào kiến trúc x86 của Intel), và ngày nay hầu hết mọi phiên bản của Windows đều
được tạo ra cho kiến trúc này (tuy nhiên Windows NT đã được viết như là một hệ
thống xuyên cấu trúc cho bộ xử lý Intel và MIPS, và sau này đã xuất hiện trên các
cấu trúc PowerPC và DEC Alpha. Sự phổ biến của Windows đã khiến bộ xử lý


18

trung ương của Intel trở nên phổ biến hơn và ngược lại. Thật vậy, thuật ngữ Wintel
đã được sử dụng để miêu tả những máy tính cá nhân đang chạy một phiên bản của
Windows.
- Từ đó đến nay Microsofts Windows dần dần chiếm ưu thế trong thị trường máy
tính cá nhân trên tòan thế giới với số lượng được cài đặt khoảng 90% vào năm
2004. Windows là phần mềm nguồn đóng có bản quyền do cơng ty Microsoft giữ và

kiểm sốt việc phân phối. Vì lý do này, Microsoft đang có một vị trí độc quyền
trong lĩnh vực máy tính cá nhân. Tất cả các phiên bản hệ điều hành gần đây của
Windows đều dựa trên sự phát triển từ phiên bản đầu tiên.
Miêu tả về hệ điều hành Windows
- Một hệ điều hành đa nhiệm (multi tasking) có thể xử lý nhiều chương trình cùng
một lúc.
- Gồm các biểu tượng (icon). Mỗi biểu tượng đại diện cho một đối tượng (object)
như thư mục hồ sơ, thư mục nghe nhạc ...
- Một trình tổng hợp của những trình ứng dụng; như trình thảo văn bản, trình đồ họa
và các ứng dụng hữu ích như lịch, đồng hồ, máy tính, bản tính, phần mềm lướt
mạng, soạn thảo văn bản, trị chơi .
- Từ khi mới được tung ra thị trường, Windows đã được nhiều người dùng đón
nhận, tạo ra một sự thành công mang tầm khủng khiếp cho Microsoft. Lý do chính
mà Windows được nhiều người lựa chọn là có giao diện dễ sử dụng, bắt mắt với độ
đồ họa cao và vì được sử dụng bởi đơng đảo người dùng nên các công ty phần cứng
cũng như các công ty phần mềm đã tạo cho ra đời rất nhiều sản phẩm tương thích
với Windows- như bàn phím, con chuột, USB, các chương trình lập trình, ứng dụng
như phàn mềm tăng tốc tải Internet Downlaod Manager, phần mềm ghi đĩa Nero
vân vân. Chính điều này đã làm cho Windows càng trở nên phổ biến hơn. Mặc dù


19

Windows được nhiều người dùng, nhưng Windows không được các chuyên gia máy
tính đánh giá cao bằng các hệ điều hành dựa trên môi trường Unix như Ubuntu do
tốc độ làm việc của Windows chậm hơn nhiều lần so với Unix(một ví dụ điển hình
là Google- cỗ máy tìm kiếm khổng lồ cũng làm việc dựa trên Unix thay vì
Windows)và các ứng dụng của Windows cũng không được đánh giá cao bằng các
ứng dụng trong các hệ điều hành dựa trên Unix- ví dụ Latex ln ln có tốc độ làm
việc cao hơn MS Word của Microsoft chạy trong Windows.

Giao diện

Màn hình của Windows Vista.
- Nền, (Desktop) nền đặt các biểu tượng. Khi nhấp chuột lên một biểu tượng bất kỳ
này, người dùng sẽ chạy được một ứng dụng mặc định gán cho biểu tượng ấy.
- Nút khởi động, (Start Button) đi vào khởi động các chương trình mặc định (đi kèm
với hệ điều hành) hoặc được cài đặt thêm vào sau này. Những thành phần chính của
nút khởi hành là"
1. Trình định cấu hình (Settings) chỉnh sửa các thay đổi của các thiết bị
hoặc phần mềm được đặt vào máy.


20

1. Khống chế diện bản (Control Panel) - chỉnh sửa các thơng số
định dạng của chuột, bàn phím, định dạng màu sắc hoặc nền
màn hình, cài vào hoặc tháo gỡ các chương trình phần mềm
2. Cài đặt mạng (Network Connection) thiết lập hệ thống mạng
3. Máy in và fax (Printer and Fax) thiết lập cấu hình cho máy in
và máy fax
2. Chương trình (Programs) bao gồm những trình ứng dụng
3. Văn bản (Documents) gồm các văn kiện người dùng đã lưu (hình ảnh,
văn thơ, nhạc ..)
4. Thiết bị ổ đĩa (My Computer) nơi đi vào những ổ đĩa khác nhau.
Chức năng hỗ trợ
Window hỗ trợ chức năng
1. Cài xong dùng liền (Plug & Play)
Những phần cứng (hardware) mới cài vào máy có thể chạy ngay do máy tự
động tìm trình điều khiển (driver) của phần cứng và cài đặt cấu hình cùng
cách thức hoạt động của phần cứng.

2. Kéo và thả (Drag & Drop)
Bất cứ đối tượng của cửa sổ điều có thể dùng chuột để chọn và di chuyển đến
một nơi khác dễ dàng
Đặt tên
Tên các đối tượng như thư mục, hồ sơ... có thể dài hơn tên theo quy ước (8 ký tự
tên-1 chấm-3 ký tự đuôi).
Thư mục chính
|-Desktop


21

|-My Computer
|--A:
|--C:
|--D:
|--Control Panel
|-My Documents
|--My Music
|--My Pictures
|-My Network Places
C://windows
C://windows/system
Công cụ


Lịch




Đồng hồ

Thảo văn bản


Bút ký bản (NotePad): trình thảo văn bản thường (text)



Tả tự bản (WordPad): trình thảo văn bản thường và siêu văn bản (hyper text)

Đồ họa


Hoạ đồ Microsoft (Microsoft Paint): trình vẽ, chỉnh hình

Hộp thoại khởi động
Dùng một dịng lịnh trong hộp thoại khởi động (Run) để thực thi một cơng việc
1. Địa chỉ trang mạng. Thí dụ:
2. Khởi động một trình. Trong hộp thoại của run gõ: calc để mở máy tính
Phiên bản


22

Windows 1.0
Các phiên bản của Windows là tên gọi chung cho các thế hệ của sản phẩm phần
mềm Windows và có thể được chia thành các thể loại sau:
- Mơi trường làm việc 16 bit. Dùng trong những máy vi tính cá nhân (personal
computer).

+ Các phiên bản đầu tiên của Windows chỉ là giao diện đồ họa hay desktop, phần
lớn vì chúng dùng hệ điều hành MS-DOS ở lớp dưới cho các dịch vụ hệ thống tập
tin và các tiến trình hệ thống.
+ Sau đó, các phiên bản Windows 16 bit đã có dạng tập tin có thể chạy được và tự
cung cấp chương trình điều khiển thiết bị (device driver) (cho bo mạch đồ họa, máy
in, chuột, bàn phím và âm thanh).
+ Khác với DOS, môi trường của Windows cho phép mọi người dùng thi hành
nhiều chương trình đồ họa cùng một lúc. Hơn nữa, chúng đã thực thi một phối hợp
bộ nhớ ảo theo đoạn (segment) trong phần mềm cho phép GUI thi hành các chương
trình lớn hơn bộ nhớ: các đoạn mã nguồn và nguồn lực được đem vào và bị loại bỏ
khi khơng cịn giá trị nữa hay khi số lượng còn lại trong bộ nhớ bị thấp và các đoạn
dữ liệu được đưa vào bộ nhớ khi một chương trình nào đó trả quyền điều khiển cho
bộ xử lý. Các hệ điều hành này gồm có Windows 1.0, (1985), Windows 2.0 (1987)
và Windows/286 (gần giống Windows 2.0).
- Môi trường làm việc 16/32 bit. Dùng trong các máy vi tính hệ Intel Pentium 386
- 486 - 586.
+ Windows/386 ra mắt hạt nhân hoạt động trong chế độ bảo vệ và một trình theo
dõi máy ảo. Trong một phiên làm việc của Windows, nó cung cấp các it provided a
device virtualization cho bộ điều khiển đĩa, bo mạch đồ họa, bàn phím, chuột, bộ
định thời và bộ điều khiển ngắt. Kết quả rõ nhất mà người sử dụng nhìn thấy là họ


23

có thể làm việc tạm thời với nhiều mơi trường MS-DOS trong các cửa sổ riêng (các
ứng dụng đồ họa yêu cầu cửa sổ phải được chuyển về chế độ tồn màn hình).
+ Các ứng dụng của Windows vẫn thuộc loại "đa nhiệm cộng tác" trong môi trường
chế độ thực. Windows 3.0 (1990) và Windows 3.1 (1992) đã hoàn thiện thiết kế này,
đặc biệt là tính năng bộ nhớ ảo và trình điều khiển thiết bị ảo (VxDs) cho phép họ
chia sẻ các thiết bị dùng chung (như đĩa cứng, đĩa mềm...) giữa các cửa sổ DOS.

+ Quan trọng nhất là các ứng dụng Windows có thể chạy trong chế độ bảo vệ 16-bit
(16-bit protected mode) (trong khi Windows đang chạy trong chế độ chuẩn hay chế
độ 386 nâng cao), cho phép người sử dụng truy cập đến một vài megabyte bộ nhớ
mà khơng phải tham gia vào q trình quản lý bộ nhớ ảo. Các chương trình này vẫn
chạy trong cùng một khơng gian địa chỉ, trong đó bộ nhớ đã được phân đoạn để chia
thành các mức bảo vệ riêng, và vẫn hoạt động "đa nhiệm cộng tác".
+ Trong phiên bản Windows 3.0, Microsoft đã chuyển các tác vụ quan trọng từ C
sang assembly, làm cho phiên bản này chạy nhanh hơn và ít tốn bộ nhớ hơn các
phiên bản trước đó.
- Hệ điều hành 16/32 bit. Bằng việc công bố khả năng truy cập file 32-bit trong
Windows for Workgroups 3.11, Windows cuối cùng đã chấm dứt phụ thuộc vào
DOS trong việc quản lý hồ sơ (file). Ngoài ra, Windows 95 cũng đưa ra hệ thống
"Tên file dài", do vậy hệ thống tên file 8.3 của DOS chỉ còn vai trò trong đoạn mã
khởi động nạp hệ điều hành.
+ Đặc điểm mang tính cách mạng nhất trong phiên bản này là khả năng chạy các
chương trình giao diện đồ họa 32-bit đồng thời, trong khi các chương trình này lại
chia thành các phân tuyến (thread) chạy song song với nhau.


24

+Microsoft đã đưa ra 3 phiên bản của Windows 95 (phiên bản đầu tiên năm 1995,
các phiên bản sửa lỗi được đưa ra năm 1996 và 1997 chỉ được bán cho nhà sản xuất
máy tính, được bổ sung thêm một vài tính năng mới như hỗ trợ FAT32).
+Hệ điều hành tiếp theo của Microsoft là Windows 98; có 2 phiên bản (bản đầu tiên
năm 1998, và bản thứ hai là "Windows 98 Second Edition", năm 1999). Trong năm
2000, Microsoft đưa ra Windows Me, với mục tiêu cố gắng thu hẹp khoảng cách
giữa Windows 98 SE và Windows NT, bao gồm một vài tính năng mới như hồn
ngun hệ thống (System Restore), cho phép người sử dụng đưa máy tính của mình
trở lại trạng thái trước đó. Dù vậy, đó vẫn khơng phải là một tính năng được chấp

nhận rộng rãi vì đã có nhiều người sử dụng gặp phải vấn đề. ME được coi là sự thay
thế tạm thời trong việc hợp nhất hai dòng sản phẩm này. Microsoft đã đợi một
khoảng thời gian ngắn để Windows Millennium trở nên phổ biến trước khi công bố
phiên bản Windows tiếp theo - Windows XP.
- Hệ điều hành 32 bit ban đầu được thiết kế và quảng bá là các hệ thống có độ tin
cậy cao và đặc biệt là khơng thừa kế từ DOS.
+ Phiên bản đầu tiên được đưa ra là Windows NT 3.1 vào năm 1993, được đánh số
"3.1" để chỉ thị ngang hàng với Windows 3.1 và hơn 1 cấp so với hệ điều hành OS/2
2.1, hệ điều hành của IBM do Microsoft đồng phát triển và là đối thủ chính của
dịng Windows NT tại thời điểm đó.
+ Phiên bản tiếp theo là Windows NT 3.5 (1994), NT 3.51 (1995), và cuối cùng NT
4.0 (1996) đã có giao diện của Windows 95.
+ Sau đó Microsoft bắt đầu chuyển sang việc hợp nhất hai dòng hệ điều hành dành
cho cá nhân và cho doanh nghiệp. Thử nghiệm đầu tiên, Windows 2000, đã thất bại,
và được phân phối là một phiên bản dành cho doanh nghiệp. Phiên bản Windows
2000 cho cá nhân, tên mã là "Windows Neptune" bị hủy bỏ và Microsoft đã thay thế


25

bằng Windows ME. Mặc dù vậy, "Neptune" vẫn được tích hợp vào dự án mới,
"Whistler", để sau đó trở thành Windows XP.
+ Sau đó, hệ điều hành mới, Windows Server 2003, đã mở rộng dòng sản phẩm cho
doanh nghiệp này. Cuối cùng, hệ điều hành sắp được ra mắt Windows Vista sẽ hồn
thiện các tính năng cịn thiếu của các sản phẩm trên. Với Windows CE, Microsoft
cũng đã ngắm tới thị trường di động và các thiết bị cầm tay, cũng là một hệ điều
hành 32-bit.
- Hệ điều hành 64 bit, một loại hệ điều hành mới nhất, được thiết kế cho kiến trúc
AMD64 của AMD, IA-64 của Intel, và EM64T (Intel® Extended Memory 64
Technology).

+ Dịng sản phẩm Windows 64-bit bao gồm "Windows XP Itanium", "Windows
Professional x64 Edition" và "Windows Server 2003". "Windows XP Professional"
và "Windows Server 2003 x64 Edition" được ra mắt vào 25 tháng 4 năm 2005.
Windows XP Itanium đã được đưa ra trước đó, năm 2002.
+ Một số dấu hiệu cho thấy Windows Vista, được coi là sự kế vị của Windows XP,
sẽ có cả hai phiên bản 32-bit và 64-bit.
Các phiên bản tạm thời
Windows XP và Windows Server 2003 là các phiên bản Windows hiện hành.
Windows XP được thiết kế dành cho các máy tính để bàn, còn Windows Server
2003 lại dành cho các máy chủ và bao gồm bốn dòng sản phẩm: Phiên bản Web
(Web Edition), Phiên bản chuẩn (Standard Edition), Phiên bản xí nghiệp (Enterprise
Edition) và Phiên bản Trung tâm dữ liệu (Datacenter Edition). Phiên bản Web được
thiết kế với các tính năng tập trung dành cho lưu trữ web (web hosting), trong khi
đó phiên bản Trung tâm dữ liệu có một cơ sở hạ tầng cực kỳ vững mạnh cho việc


×