Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.8 KB, 8 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
VIỆT BẮC
<b>(Trich)</b>
<b>Tố Hữu </b>
<b>I/Tìm hiểu chung:</b>
<b>1/ Hồn cảnh và mục đích sáng tác:</b>
- Tháng 10/1954, Trung ương Đảng, Chính phủ về tiếp quản thủ đơ Hà Nội. Tố
Hữu đã từng gắn bó với Việt Bắc trong suốt những năm kháng chiến. Nhà thơ
đã viết bài thơ này.
- Một trang sử mới của đất nước, một giai đoạn mới của cách mạng mở ra. Tố
Hữu viết bài thơ này với xúc cảm của anh cán bộ kháng chiến.
+ Bài thơ nhằm tổng kết, tái hiện lại giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng
và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc , nó trở thành kỉ niệm khắc sâu lịng người.
+ Bài thơ là khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến,
đồng thời thể hiện tình cảm ân nghĩa thuỷ chung.
+ Bài thơ còn thể hiện những dự cảm, mong ước về tương lai giữa miền xi và
miền ngược.
- Đoạn trích SGK nằm trong phần đầu của bài thơ. Nửa sau của bài thơ chủ yếu
nói về hẹn ước, tương lai giữa miền xi và miền ngược.
<b>2/ Kết cầu của bài thơ:</b>
- Kết cấu là thuật ngữ chỉ nội dung và hình thức của một tác phẩm văn học (thơ,
văn). Những biểu hiện bên ngồi là hình thức bên trong là nội dung.
- Bài thơ có kết cấu theo lối đối đáp của ca dao trữ tình. Thực chất nó là lối độc
- Lời đối đáp giữa mình, ta, kẻ ở người đi chỉ là sự phân thân của nhân vật trữ
tình, chỉ là cách để tâm trạng bộc lộ đầy đủ hơn trong hô ứng, đồng vọng giữa
hai con người tưởng tượng.
- Bài thơ chia làm 2 phần. Đoạn trích thuộc phần đầu ơn lại những kỉ niệm đầy
nghĩa tình sâu nặng của con người. Đó là tình cảm của anh cán bộ kháng chiến
đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc, tình cảm của Việt Bắc đối với cách
mạng và kháng chiến.
<b>3/ Cảm xúc chủ đạo của đoạn trích:</b>
- Cảm xúc chủ đạo là tình cảm của nhân vật trữ tình.
Đoạn trích bộc lộ nỗi nhớ thương da diết của anh cán bộ kháng chiến với thiên
nhiên và con người Việt Bắc. Đồng thời là khúc ca hùng tráng về cuộc kháng
chiến. Tình cảm ấy đọng lại niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ.
<b>II. Đọc hiểu văn bản:</b>
<b>1. Cuộc chia tay:</b>
Mình về có nhớ ta chăng
<i>Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng</i>
<i> Mình về mình có nhớ khơng</i>
<i>Nhìn cây nhớ núi nhìn sơng nhớ nguồn</i>
+ Anh cán bộ kháng chiến trả lời:
“Tiễn ai… hơm nay”
- Sử dụng từ ngữ diễn tả trong tình u đơi lứa, vợ chồng.
+ Mình (trở đi trở lại)
+ Ta
- Bằng âm điệu ngọt ngào như lời ru trong thể thơ lục bát. Ba biện pháp nghệ
thuật trên đây đã đưa người đọc vào thế giới tâm tình đầy ân nghĩa, trải dài trong
không gian, thời gian tâm tưởng.
- Lời của Việt Bắc lên tiếng trước. Đây là thể hiện sự nhạy cảm về tâm hồn trước
hoàn cảnh đổi thay. Việt Bắc hỏi về thời gian “mười lăm năm ấy”, hỏi về khơng
gian “nhìn cây nhớ núi, nhìn sơng nhớ nguồn”. Hỏi về khơng gian và thời gian
thường gợi kỉ niệm vừa gắn bó vừa sâu nặng. Nó chứng tỏ người dân Việt Bắc
sống gần gũi với thiên nhiên, với những gì rất cụ thể.
Lời hỏi của Việt Bắc đã khơi dậy bao kỉ niệm, khơi nguồn cho nỗi nhớ.
Không gian và thời gian cụ thể “mười lăm năm” bỗng trở thành không gian và
thời gian tâm tưởng.
- Lời anh cán bộ kháng chiến. Chia tay với Việt Bắc , anh cán bộ kháng chiến
thấy lịng mình bâng khng, xao xuyến. Hàng loạt những từ ngữ gợi tâm trạng:
“bâng khuâng”, “bồn chồn”, “tha thiết”. Anh cất lên lời đáp. Lời đáp lại như một
câu hỏi “Tiếng ai tha thiết bên cồn”. Biết rồi đấy mà vẫn hỏi. Một tiếng ai gợi ra
sự gắn bó của người trong cuộc. Nó như lời giả từ của một người yêu với một
người u. Hình ảnh “áo chàm” được lấy làm hốn dụ để chỉ người có áo, “áo
chàm” màu áo không bao giờ phai nhạt ấy lại là biểu tượng cho tấm lòng son sắt
thuỷ chung của đồng bào các dân tộc Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến.
Cảm động nhất vẫn là hình ảnh “cầm tay nhau biết nói gì hơm nay”. Cuộc chia
Tạo ra sự đối đáp, nhà thơ đã dàn dựng được cảnh chia tay. Nhưng đó
chỉ là hình thức kết cấu bên ngồi, cịn ở chiều sâu chính là sự thống nhất của
tình cảm trong tiếng nói chung.
- Đó là cách sử dụng ngơn ngữ diễn tả cuộc chia tay.
Nhà thơ sử dụng rất sáng tạo đại từ “mình”
chuyện). Nó góp phần tạo ra mối quan hệ gắn bó giữa hai người – Anh cán bộ
kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Ngôn ngữ vừa giản dị, mộc mạc
diễn tả tình cảm chân thật, cuộc chia tay bịn rịn, lưu luyến đến bâng khuâng.
- Để diễn tả cuộc chia tay đầy lưu luyến, nhà thơ sử dụng câu thơ lục bát cân
xứng, nhịp nhàng phù hợp với tâm trạng bâng khuâng của con người trong cuộc
tiễn đưa:
- Mình về / mình có / nhớ chăng
<i>Mười lăm năm ấy / thiết tha mặn nồng</i>
<i> Mình về / mình có / nhớ khơng</i>
<i>Nhìn cây nhớ núi / nhìn sơng nhớ nguồn</i>
<i>- Tiếng ai / tha thiết / bên cồn</i>
<i>Bâng khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi</i>
<i> Áo chàm / đưa buổi / phân li</i>
<i>Cầm tay nhau biết / nói gì hơm nay.</i>
Sự ngắt nhịp ấy chính là nhịp điệu tâm hồn. Nó tạo ra sự cộng hưởng,
đồng vọng của cả người ở, người đi. Đó là nỗi nhớ da diểt, mênh mang với thiên
<b>2. Nỗi nhớ da diết về thiên nhiên con người Việt Bắc:</b>
- Trong đoạn trích có hơn 30 từ “nhớ” (cụ thể là 35 từ).
- Tác dụng của việc lặp lại nhiều lần từ “nhớ”.
+ Về tâm lí, một hiện tượng, một âm thanh, một từ xuất hiện nhiều lần trước mắt
ta, buộc ta phải chú ý.
+ Về ý nghĩa “nhớ” gắn liền với đối tượng cụ thể. Nó khắc sâu trong tâm trạng
người đọc, người nghe về sắc thái tình cảm của con người. Khi diễn tả nỗi nhớ
của anh cán bộ kháng chiến, khi là sự đồng vọng cùng nhớ về sự kiện cách
mạng, kháng chiến. Nỗi nhớ mang nhiều cung bậc.
- Đặc sắc của đoạn thơ là ở chỗ Tố Hữu tạo ra lối đối đáp trong tưởng tượng.
Nhà thơ để Việt Bắc hỏi:
+ Mình đi, có nhớ?
+ Mình về, có nhớ?
Mỗi cụm từ ấy xuất hiện tới ba lần. Nó xốy sâu vào lịng người, gợi nỗi
nhớ như dịng chảy. Thiên nhiên Việt Bắc hiện ra:
+ “Trám bùi”, “măng mai”
+ Những mái nhà “hắt hiu lau xám”
+ Những địa danh cụ thể: “Tân Trào”, “Hồng Thái”
+ Những di tích lịch sử “mái đình, cây đa”
Việt Bắc. Cũng có thể người ở lại nhắc người ra đi đừng có qn những ngày
tháng, đừng qn chính mình, đánh mất mình. Thơ như thế thật dung dị mà sâu
sắc.
Đáp lại sự khẳng định:
<i> Ta với mình, mình với ta</i>
<i>Mình ta sau trước mặn mà đinh ninh</i>
<i> Mình đi mình lại nhớ mình</i>
<i>Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu</i>
Cũng là ba tiếng “mình”. Mình (1) và (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ
người ở lại. Tiếng gọi ấy gần gũi, thân thiết quá. Ta nghe như người yêu nói với
người yêu, tiếng của người bạn đời yêu dấu, tiếng của vợ, của chồng. Nhưng ba
tiếng “mình” ấy cũng để chỉ người ra đi. Lời hứa trở nên mặn mà, đinh ninh, sâu
sắc. Nhân vật trữ tình tự phân thân, lại hồ làm một xốy sâu vào tiếng nói của
tâm trạng để tìm sự đồng vọng của người đọc người nghe.
- Đó là đoạn thơ:
Ta về mình có nhớ ta
<i>Ta về ta nhớ những hoa cùng người</i>
<i> …</i>
<i>Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung</i>
- Thiên nhiên thật tươi tắn “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Thiên nhiên mang vẻ
đẹp riêng của Việt Bắc “Mùa xuân mơ nở trắng rừng” khơng ở đâu có được.
- Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ là sự kết hợp đến dung dị, cứ một câu tả về
thiên nhiên là một câu nói về con người.
+ “Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng”: Con người thật bình dị, khoẻ khoắn
trong lao động. Đến những câu:
+ “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
+ “Nhớ cơ em gái hái măng một mình”
Con người cần mẫn trong cơng việc. Con người Việt Bắc thật vui, thật
tươi sung sướng đón nhận cuộc sống hồ bình, khơng có tiếng súng, hạnh phúc
đã trở về với họ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”.
- Đoạn thơ hay và tiêu biểu khi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Thiên
nhiên làm nền để bức chân dung phác thảo về con người hiện lên mồn một. Con
người gần gũi với thiên nhiên, bình dị như thiên nhiên.
- Nhớ về những con người lam lũ nghèo khổ:
Tấm lưng người mẹ nghèo miền núi đã đi vào thơ không chỉ một mà
nhiều người:
<i>Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi</i>
<i>Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ</i>
(Nguyễn Khoa Điềm - Tiếng hát những em bé lớn trên lưng
<i>Buổi chiều mẹ lên rẫy</i>
<i>Thấy bóng cây Kơ nia</i>
<i>Bóng trịn che lưng mẹ</i>
<i>Về nhớ anh mẹ khóc</i>
(Bóng cây Kơ nia-Ngọc Anh phỏng dịch theo điệu Ka
choi)
Người đọc không thể quên hình ảnh “nắng cháy lưng” trong thơ Tố Hữu.
- Nhớ về những người thuỷ chung son sắt, nghĩa tình với kháng chiến:
<i> Thương nhau chia củ sắn lùi</i>
<i>Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng</i>
Thơ hay và thấm thía bởi đề cập tới nghĩa tình con người cùng chia sẻ
gian khổ và niềm vui. Cuộc sống con người chỉ đẹp khi gian khổ càng sắt son,
gắn bó. Thơ Tố Hữu ln đi sâu phát huy những gì tốt đẹp của truyền thống hơn
là theo hướng cách tân hiện đại. Vì thế, nhà thơ khám phá những nét riêng của
cuộc sống bình dị mà ấm áp của Việt Bắc:
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
<i>Chày đêm nện cối đều đều suối xa.</i>
- Nhưng cũng có lúc nỗi nhớ về cảnh và người Việt Bắc đẫm trong cảm xúc mơ
màng, lãng mạn:
Nhớ gì như nhớ người yêu
<i>Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương</i>
Nỗi nhớ thật đẹp. Ta nhận ra trong nỗi nhớ ba đối tượng khơng thể tách
rời: đó là nhớ về thiên nhiên, con người cuộc kháng chiến hào hùng và niềm tin
sâu sắc.
- Đoạn thơ sau:
+ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
<i>… mai lên”</i>
+ “Ai về ai có nhớ khơng… các khu”
Đọc những đoạn thơ này ta bắt nhịp được với âm vang, hình ảnh sống
động của khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến.
+ Đó là cuộc kháng chiến thể hiện thể trận của chiến tranh nhân dân. Toàn dân
đánh giặc, đánh giặc ngay tại chỗ, đánh giặc bằng tất cả những gì có trong tay.
Dựa vào rừng núi để đánh giặc, quân dân đoàn kết:
Núi giăng thành luỹ sắt dây
<i>Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù</i>
<i> Mênh mông bốn mặt sương mù</i>
<i>Đất trời ta cả chiến khu một lịng.</i>
+ Đó là cuộc kháng chiến tồn dân, tồn diện. Đây là hình ảnh trên đường ra
trận:
“Những người Việt Bắc của ta
<i>…mai lên”</i>
Những hình ảnh so sánh: “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Những
hình ảnh khẳng định đội ngũ “Quân đi điệp điệp trùng trùng”;
Những hình ảnh đẹp trong chiến đấu “ánh sao đầu súng”;
Những hình ảnh khẳng định sức mạnh: “bàn chân nát đá”
Tin vui chiến thắng gắn liền với chiến dịch lớn:
Tin vui chiến thắng trăm miền
<i>Hồ bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về</i>
Nhịp thơ sơi nổi, giọng thơ hào hùng, những hình ảnh gây ấn tượng mạnh
mẽ khác hẳn ở đoạn trên êm ả, ngọt ngào, Tố Hữu đã truyền đến cho người
đọc, người nghe khí thế sơi động của chiến tranh tồn dân mà khơng phải nhà
thơ nào cũng có được. Ở đây Tố Hữu đã kết hợp giọng điệu ngọt ngào của thơ
lục bát với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
+ Tố Hữu đã phản ánh cuộc chiến tranh toàn diện:
Ai về ai có nhớ khơng
<i>Ngọn cờ đỏ thẳm gió lồng cửa hang</i>
<i> …</i>
<i>Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu</i>
trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Ta nói vậy vì ta có niềm tin.
- Tin vào Đảng và Bác Hồ:
Ở đâu u ám quân thù
<i>Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi</i>
<i> Ở đâu đau đớn giống nịi</i>
<i>Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền</i>
Ở đâu, ở đâu dù u ám do quân thù tàn phá, giày xéo, đốt phá, chém giết
hãy hướng về Việt Bắc. Nơi ấy có Trung ương Đảng và Bác Hồ. Câu thơ đã gieo
một niềm tin tưởng. Nhịp thơ, lời thơ đã tạo ra giọng điệu trang trọng, lắng sâu
trong niềm tin tưởng vô bờ. Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc
Việt Bắc và cả chúng ta nữa đều có niềm tin ấy.
+ Sử dụng thể thơ lục bát, một hình thức thơ ca dân tộc. Nó phát huy đầy đủ
tiếng Việt nhất là con người Việt Nam. Đó là thuỷ chung tình nghĩa, đạo lí uống
nước nhớ nguồn.
* Những suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của con người đất nước gắn liền với đạo lí
tình nghĩa cách mạng.
- Tình nghĩa thuỷ chung, son sắt với căn cứ địa cách mạng:
Mình về có nhớ núi non
<i>Nhớ khi kháng chiến thuở còn Việt Minh</i>
<i> Mình đi mình có nhớ mình</i>
<i>Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa</i>
- Tình nghĩa thuỷ chung gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ, ác liệt:
+ “Mình đi có nhớ những ngày
<i>Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù</i>
<i>Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”</i>
+ “Nhớ sao ngày tháng cơ quan
<i>Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo”</i>
+ “Nhớ khi giặc đến giặc lùng
<i>Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây</i>
<i>Núi giăng thành luỹ sắt đầy</i>
<i>Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”</i>
- Thuỷ chung tình nghĩa, thơ diễn tả lối sống theo đạo lí uống nước nhớ nguồn:
+ “Mười lăm năm ấy ai quên
<i>Quê hương cách mạng dựng nên cộng hồ</i>
<i>Mình về mình lại nhớ ta</i>
<i>Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào”</i>
+ “Ở đâu u ám quân thù
<i>Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi</i>
<i>Ở đâu đau đớn giống nịi</i>
<i>Trơng về Việt Bắc mà ni chí bền”</i>
- Tình nghĩa thuỷ chung với nhân dân các dân tộc Việt Bắc:
+ “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
<i>Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô”</i>
+ “Ta đi ta nhớ những ngày
<i>Mình đây ta đấy đắng cay ngọt bùi</i>
<i>Thương nhau chia củ sắn lùi</i>
<i>Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng”</i>
+ “Mình đi có nhớ những nhà
<i>Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”</i>
+ “Nhớ từng bản khói cùng sương
<i>Sớm khuya bếp lửa người thương đi về</i>
<i>Nhớ từng rừng nứa bờ tre</i>
<i>Ngịi Thia, sơng Đáy, suối Lê vơi đầy”</i>
+ “Ta về mình có nhớ ta
<i>Ta về ta nhớ những hoa cùng người</i>
<i>…thuỷ chung”</i>
* Thể thơ lục bát được vận dụng trong một bài thơ dài và nhiều lời thể hiện
truyền thống dân tộc để làm sáng tỏ nghĩa tình cách mạng.
- Thơ lục bát tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hoá đa dạng:
+ Tha thiết ở nỗi nhớ
+ Sôi nỗi, mạnh mẽ, hào hùng ở ca ngợi kháng chiến
+ Trang trọng thiết tha thể hiện niềm tin biết ơn
- Lời nói giàu hình ảnh
+ Thiên nhiên, con người Việt Bắc
+ Biểu dương lực lượng và sức mạnh
+ Thế trận của chiến tranh nhân dân
- Sử dụng nhiều cách chuyển nghĩa truyền thống
+ Lối so sánh
+ Lối ẩn dụ
+ Tượng trưng, ước lệ
“Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”
“Ở đâu u ám quân thù”