Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.08 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
5 Điểm 3 câu trả lời 2777 lượt xem
<b>Chưa đặt tên </b>
16:06:16 28-10-2011Báo cáo lạm dụng
Trả
lời Nhận thông báo bằng email khi có câu trả lời mới được đăng
Câu trả lời sắp xếp theo thời gian<b>sắp xếp theo phiếu bầu</b>
<b>hingkom </b>
16:00:33 29-10-2011Báo cáo lạm dụng
- Trong thời đó, Nguyễn Đình Chiểu là người sớm nhận thấy được khá rõ lòng yêu nước, căm thù
giặc và tinh thần chiến đấu của nông dân. Sau ông, trong một thời gian khá lâu, chưa mấy ai thấy
được điều đó, kể cả Phan Bội Châu ( trong Hải ngoại huyết thư, Phan Bội Châu có kêu gọi tất cả các
thành phần xã hội phải đoàn kết để mưu việc chống Pháp, nhưng ông đã quên thành phần cơ bản là
nông dân). Cần đánh giá sự tiến bộ của Nguyễn Đình Chiểu.
Hình ảnh nghĩa quân trong bài :
- Nghĩa quân là những người nông dân suốt đời nghèo khổ, chỉ lo sao cho đủ bát cơm ăn, manh áo
mặc ( côi cút làm ăn ... mắt chưa từng ngó ... ).
- Vì lịng u nước và lịng căm thù giặc cao độ, họ xung phong vào quân mộ nghĩa. Họ làm những
việc anh hùng một cách tự nguyện, không suy tính đắn đo, họ đã khắc phục mọi khó khăn để đánh
giặc.
( Bữa thấy bòng bong che trắng lốp
... chi nài sắm dao tu nón gõ ).
- Họ đã chiến đấu với tinh thần anh dũng tuyệt vời.
(Hoả mai đánh bằng rơm con cúi... Trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ).
- Họ đã hi sinh một cách bình thản, anh dũng. Lịch sử không thể không ghi chép về họ. Nhân dân vơ
cùng thương tiếc, kính mến họ (đoạn cuối).
Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa có một bức tranh hào hùng như
thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nơng dân ở đây là sự kết tinh và thăng
hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất của họ . Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người
nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.
Nguyễn Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng
đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng . Khơng
có cái tập thể ấy, làm sao có được sự hồ hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo,
áp đảo cái chết, với những “đạp rào lướt tới”, “ xô cửa xông vào”. với những “ kẻ đâm ngang, người
chém ngược”, “ bọn hè trước, lũ ó sau” như thế được.
gửi lại cho đời, điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài
của họ, ấy là cái triết lí sống này : chết vinh hơn sống nhục.
<b>Phong Hoa Tuyết Nguyệt </b> 16:12:32 28-10-2011Báo cáo lạm dụng
Bài văn tế khóc thương người nơng đân Cần Giuộc vì nghĩa mà đứng lên đánh giặc Pháp và đã hy
sinh. Đó là đỉnh cao sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, rất bình dị mà đã dựng lên tượng đài nghệ
thuật rất đẹp, mang tính bị tráng.
1) Người nơng dân Nam Bộ nghèo khó, “cơi cút làm ăn” sống đời thầm lặng, cơ cực ở thôn ấp. Họ chỉ
biết ruộng trâu, đã biết gì đến võ nghê, võ khí, chiến trận. Nhưng tấm lịng của họ rất đẹp: yêu nước
cao độ, không đội trời chung với bọn xâm lăng và đã cầm gậy, cầm dao tự nguyện đứng lên đánh
giặc trong thời đại “ vĩ đại và khổ nhục” của dân tộc.
2) Tượng đài đẹp hùng tráng:
a) Về trang bị: khơng có áo giáp mà với “manh áo vải thô sơ” với “ngọn tầm vông” quen thuộc của quê
hương. Lần đầu tiên “ngọn tầm vông” đã đi vào văn học với ý nghĩa cao đẹp và nét tạo hình giàu giá
trị thẩm mĩ.
b)Về tinh thần, hành động : Với trang bị thô sơ, thiếu thốn, người dân ấp dân lân dùng “rơm con cúi,
lưỡi dao phay”, nhưng vật dùng của quê hương, gia định – mà chống lại súng đạn, tàu thiếc tàu đồng
của Tây. Đến đây, đoạn văn ngắt nhịp ngắn, khẩn trương cùng với hàng loạt từ ngữ đầy sức mạnh
chiến đấu quật cường “đạp rào lướt tới, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có. Kẻ đâm ngang,
người chém ngược.Bọn hè trước, lũ ó sau…”. Tất cả làm hiện ra quần thể tượng đài người nông dân
yêu nước trong tư thế tấn công mạnh mẽ hào sảng.
Những người nông dân chất phác đã tự dựng cho mình tượng đài anh hùng, cao cả, đầy nghĩa khí và
c) Kết quả chiến đấu: Đốt đồn giặc, chém rớt đầu tên quan chỉ huy.
d) Tuợng đài vừa tráng vùa bi: a) Đây là những người anh hùng thất thế: Những người nông dân đã
lấy gan đồng chọi với đạn sắt, lất cái yếu chống cái mạnh, lấy vũ khí thơ sơ chống phương tiện hiện
đại.
c) Giọt nước mắt của sông nước cỏ cây, của nhân dân và đặc biệt nỗi đau của mẹ già, vợ yếu.
3) Ý thức u nước mãnh liệt, lịng khâm phục và xót đau với người nghĩa sĩ trong trận Cần Giuộc đã
tạo ra kiệt tác cho nhà thơ mù Đồ Chiểu.
Vẻ đẹp của quần tượng này vừa mới lạ xưa nay chỉ có các chủ sối mới được đề cao như thế) vừa
rất đẹp, rất hào hùng, rất bi tráng, rất đáng tự hào. Đây là nước mắt của nhà thi sĩ anh hùng lao chẳng
ráo, khóc thưiưng những anh hùng ngã xuống nhưng bất tử.
Người dùng Chuyên nghiệp:
Chốn giang hồ không hề rơi nước mắt.... Mà giờ đây em ơm
hận khóc thầm.... Đêm về khuya ngàn sa0 lấp lánh.... Gu gồ
buồn... vắng bóng người em yêu…
<b>Phong Hoa Tuyết Nguyệt </b> 16:13:00 28-10-2011Báo cáo lạm dụng
Năm 1859, giặc Pháp tấn cơng thành Gia Định, Nguyến Đình Chiểu viết bài thơ “Chạy giặc”, hai câu
kết nói lên mong ước thiết tha:
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng / Nỡ để dân đen mắc nạn này?”
Và mấy năm sau, Nhà thơ viết bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” - đình cao nghệ thuật và tư tưởng
trong sự nghiệp thơ văn của ơng. Có thể coi bài văn tế là tấm lòng trung nghĩa của Nguyễn Đình
Chiểu đối với những nghĩa sĩ anh hùng của nhân dân ta trong buổi đầu chống Pháp xâm lược. Nhà
thơ mù đất Đồng Nai đã dựng lên một “tượng đài nghệ thuật” mang tính chất bi tráng về người nông
dân yêu nước chống ngoại xâm.
Sau khi chiếm đóng 3 tỉnh miền Đơng, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền tây Nam Bộ. Năm 1861, vào
đêm 14/12, nghĩa quân đã tấn công đồn giặc ở Cần Giuộc, thuộc tỉnh Long An ngày nay.Trận đánh
diễn ra vô cùng ác liệt “làm cho mã tà, ma ní hồn kinh”, Gần 30 chiến sĩ nghĩa quân đã anh dũng hi
sinh. Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài văn tế này - bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên
ngang.
“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một “tượng đài nghệ thuật” hiếm có. “Bi tráng” là tầm vóc và tính chất
của tượng đài nghệ thuật ấy: vừa hoành tráng, hùng tráng vừa thống thiết, bi ai. Hùng tráng ở nội
dung chiến đấu vì nghĩa lớn. Hùng tráng ở phẩm chất anh hùng, ở đức hi sinh quyết tử. Hùng tráng ở
chỗ nó dựng lên 1 thời đại sóng gió dữ dội, quyết liệt của đất nước và dân tộc. Hoành tráng về quy
mơ, nó khơng chỉ khắc hoạ về 1 nghĩa quân, 1 anh hùng mà đông đảo những người “dân ấp dân lân
mến nghĩa quân làm quân chiêu mộ” dưới ngọn cờ “bình tây” của Trương Cơng Định. Tính chất, quy
mơ hùng tráng, hồnh tráng ấy lại gắn liền với bi ai đau thương thống thiết. “Cái tượng đài nghệ thuật”
về người nông dân đánh Pháp giữa thế kỉ XIX đã được dựng lên trong nước mắt, trong tiếng khóc
của nhà thơ, của nhân dân và cả của đất nước. Trong toàn bài văn tế đặc biệt trong phân thích thực
và ai vãn , ta cảm nhận sâu sắc tính chất bi tráng này.
Mở đầu bài văn tế là 1 lời than qua 2 câu tứ tự song hành. Hai tiếng “Hỡi ôi!” vang lên thống thiết, đó
là tiếng khóc của nhà thơ đối với nghĩa sĩ, là tiếng nấc đau thương cho thế nước hiểm nghèo:
“Súng giặc, đất rền; lòng dân trời tỏ”
“Tan chợ vưà nghe tiếng súng Tây…” (“Chạy giặc”). Trong cảnh nước mất nhà tan, chỉ có nhân dân
Hình ảnh trung tâm của “tượng đài nghệ thuật” “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là những chiến sĩ nghĩa
quân. Nguồn gốc của họ là nông dân nghèo sống cuộc đời “côi cút” sau luỹ tre làng. Chất phác và
hiền lành, cần cù là chịu khó trong làm ăn, quanh quẩn trong xóm làng, làm bạn với con trâu, đường
cày, sá bừa, rất xa lạ với “cung ngựa trường nhung”:
“Nhớ linh xưa:
Côi cút làm ăn; toan lo nghèo khó
Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”.
Họ là lớp người đông đảo, sống gần fũi quanh ta. Quanh năm chân lấm tay bùn với nghề nông, “chưa
hề ngó tới” việc binh và vũ khí đánh giặc:
“Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt
chưa từng ngó”.
Thế nhưng khi đất nước quê hương bị giặc Pháp xâm lược, những “dân ấp, dân lân” ấy đã đứng lên
“mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Đánh giặc cứu nước cứu nhà, bảo vệ “bát cơm manh áo ở đời” là
cái nghĩa lớn mà họ “mến” là đeo đuổi. Nguyễn Đình Chiểu đã viết nên những câu cách cú hay nhất
(giản dị mà chắc nịch) ca ngợi long yêu nước, căm thù giặc của người nghĩa sĩ:
“Bữa thấy bong bong che trắng lốp, muốn tới an gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn
cổ”.
Đối với giặc Pháp và lũ tay sai bán nước, họ chỉ có 1 thái độ: “ăn gan” và “cắn cổ”, chỉ có 1 chí
hướng: “phen này xin ra sức đoạn kình…, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Hình ảnh người chiến sĩ nghĩa quân ra trận là những nét vẽ, nét khắc hùng tráng nhất, hoành tráng
nhất trong “tượng đài nghệ thuật” bài văn tế. Bức tượng đài có 2 nét vẽ tương phản đối lập: đoàn
dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc cướp được trang bị tối tân, có “tàu thiếc, tàu
đồng”, “bắn đạn nhỏ, đạn to”, có bọn lính đánh th “mã tà, ma ní” thiện chiến. Trái lại, trang bị của
nghĩa quân lại hết sức thô sơ. Quân trang chỉ là “1 manh áo vải” . Vũ khí chỉ có “một ngọn tầm vông”,
hoặc “một lưỡi dao phay”, một súng hoả mai khai hoả “bằng rơm con cúi”. Thế mà họ vẫn lập được
chiến công: “đốt xong nhà dạy đạo kia” và “chém rớt đầu quan hai nọ”.
“Tượng đài nghệ thuật” đã tái hiện lại những giờ phút giao tranh ác liệt của các chiến sĩ nghĩa quân
với giặc Pháp:
“Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ
thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu
thiếc, tàu đồng súng nổ”.
ngược”, “hè trước, ó sau”… Giọng văn hùng tráng, phép đối tài tình, các động từ mạnh được chọn lọc
và đặt đúng chỗ… đã tô đậm tinh thần quả cảm, vô song của các nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nguyễn Đình
Chiểu đã dành cho các chiến sĩ nghĩa quân những tình cảm đẹp nhất: ngợi ca, khâm phục, tự hào.
Qua đó, ta thấy, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa có nhà thơ nào văn nào viết về người nơng dân đánh
giặc hay và sâu sắc như thế.
Trong bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” cịn có những giọt lệ, lời than khóc, một âm điệu thơng thiết, bi
ai được thể hiện ở phần ai vãn. Nhiều nghĩa sĩ đã ngã xuống trên chiến trường trong tư thế người anh
hùng: “Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ” Đất nước, quê hương vô cùng
thương tiếc. Một không gian rông lớn bùi ngùi, đau đớn:
“Đối sơng Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ 2 hàng kuỵ nhỏ”.
Tiếng khóc của người mẹ già, nỗi đau đớn của người vợ trẻ được nói đến vơ cùng xúc động. “Hàng
trăm năm sau, chúng ta đọc Nguyễn Đình Chiểu có lúc như vẫn cịn thấy ngịi bút của nhà thơ nức nở
trên từng trang giấy” (Hoài Thanh):
“Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm
chồng, cơn bịn xế dật dờ trước ngõ”.
Các nghĩa sĩ đã sống anh dũng, chết vẻ vang. Tấm gương chiến đấu và hi sinh của họ là “tấm lịng
son gửi lại bóng trăng rằm”, đời đời bất diệt, sáng rực mãi, trường tồn cùng sông núi. Rất đáng tự
hào:
“Ơi! Một trận khói tan; nghìn năm tiết rỡ”
Bài học lớn nhất của người nghĩa sĩ để lại cho đất nước và nhân dân là bài học về sống và chết. Sống
hiên ngang. Chết bất khuất. Tâm thế ấy đã tô đậm chất bi tráng cho “tượng đài nghệ thuật” về người
nông dân đánh giặc:
“Sống đánh giặc, thác cũng đánh giăc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
…”.
Dám xả thân vì nghĩa lớn, “cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm”, các chiến sĩ nghĩa quân trong “Văn
tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là niềm tự hào và biết ơn sâu sắc của nhân dân ta.