Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.42 KB, 12 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân là hai tác phẩm na ná như nhau. Hiện tượng ấy không phải là không
gây phiền tối, nhất là với Nguyễn Du. Nếu khơng vượt được tác phẩm
xuất hiện từ trước, nó chỉ cịn là sự mô phỏng. Khá hơn chút nữa, giá trị
cũng chỉ cịn là sự trau chuốt, gia cơng, cho dù ở đây có sự chuyển đổi
ngơn ngữ và thể loại. Cảm giác "nhuận sắc" này dễ có ở nơi người đọc đã
đành mà tác giả Truyện Kiều phải đối mặt với khơng ít khó khăn. Có lẽ, do
ý thức được khó khăn này - cái khó là tránh cho người đọc hiểu rằng đây
chỉ là một sự chuyển dịch ngôn ngữ đơn thuần - mà tác phẩm của Nguyễn
Du như một sự chỉ dẫn để không mang một cái tên đơn. Truyện Kiều là tên
thường gọi căn cứ vào hình tượng của nhân vật trung tâm ; còn ý đồ sáng
tạo của Nguyễn Du có lẽ gửi vào cái tên chính, tên gốc là Đoạn trường tân
thanh. "Đoạn trường" (đứt ruột) là nguyên nghĩa của Kim Vân Kiều truyện.
Còn "tân thanh" (tiếng kêu mới) là sự nâng cấp thăng hoa. Dấu vết của "cổ
thư" vì vậy khơng phải là khơng có, nhưng nó chỉ cịn là dáng dấp, một thứ
hồi ức xa xăm, nó thuộc về quá khứ.
Thay thế cho những ấn tượng mờ nhoè dễ lẫn ấy là một hệ thống cốt
truyện mà Nguyễn Du có thêm bớt với nền của bức tranh bằng độ đậm
nhạt, sáng tối khác đi để từ đó một thế giới nhân vật hiện lên vừa đa dạng,
vừa rõ nét, mới mẻ đến ngạc nhiên. Thành công đột xuất này phải nhờ vào
tài năng khắc họa, vào nghệ thuật dẫn truyện, vào sự tinh tế của ngôn ngữ
văn chương của nghệ sĩ thiên tài - nghĩa là một bản lĩnh. Bản lĩnh ấy truyền
cho tác phẩm một linh hồn, một thông điệp nghệ thuật và tư tưởng với
những hàm nghĩa nhiều tầng, chủ yếu là trên các khía cạnh sau đây.
1.Một tiếng kêu thương
2.Một tiếng thét phẫn nộ
3."Truyện Kiều" - một giấc mơ
Truyện Kiều trước hết và chủ yếu là một tiếng kêu thương, tiếng kêu đứt
ruột cho một mà cũng là cho mọi số kiếp bị đọa đày. Chủ đề "hồng nhan
bạc mệnh" ta đã từng gặp và đã quen gặp không chỉ trong văn học trung
đại nước ta mà cả ở văn học phương Đông, đặc biệt là văn học Trung
Quốc. Vậy thì có gì mới ở nội dung của tiếng kêu thương ? Thật ra, ngay từ
Văn tế thập loại chúng sinh, khi khóc thương cho bao nhiêu cuộc đời bất
hạnh, tuy không thể dừng lâu trước một hệ thống nạn nhân, nhà thơ đã
lưu ý người đọc về một hạng người - hạng người "buôn nguyệt bán hoa".
Cũng như với các hạng người khác, Nguyễn Du có tiếng khóc riêng ;
nhưng tiếng khóc về hạng người "nhỡ nhàng một kiếp" trong sự xót tủi có
cái cay đắng đến ngỡ ngàng.
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai ?
ở Thuý Kiều dứt khoát là hơn Vân một bậc. Liễu phải hờn giận, hoa phải
ghen ghét, cái đẹp "tót vời" tạo ra bao nhiêu đố kị. Có nhan sắc đã quý,
thêm tài năng, nhan sắc càng lộng lẫy, kiêu sa. Sắc và tài ấy chung quy
cũng là cái tình. Sự "sắc sảo mặn mà" của Kiều là cái tình đời ln dào dạt,
thiết tha, luôn quan tâm đến mọi buồn vui của con người và cuộc sống.
Trước một nấm mồ vô chủ, mọi người đi qua nhưng Kiều dừng lại. Không
chỉ hỏi han, nàng cịn nhỏ lệ. Khóc người mà thương mình, thương người
như thương mình, sự chân thành ấy đã động thấu đến người nằm dưới
mộ. Đạm Tiên dù sao cũng là một người xa lạ, mà tình cảm của Kiều cịn
Thuý Kiều sắc sảo khôn ngoan
Vô duyên là phận hồng nhan đã đành
Lại mang lấy một chữ tình
Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
thật hiếm hoi và cũng thật thấm thía. Ví dụ ở chốn lầu xanh lần thứ nhất :
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Sau mười lăm năm, khi đã sum họp với gia đình, đồn tụ với chàng Kim,
mỗi khi phải nhắc đến , nàng khơng khỏi "giật mình" mà "xót xa" cho thân
phận khơng chỉ một lần. Đó cũng là một cách tổng kết cuộc đời thơng qua
chiêm nghiệm bản thân. Đó là một cách tổng kết sâu sắc nhất, thuyết phục
nhất.
2.Truyện Kiều - một tiếng thét phẫn nộ
Về phương diện nhật thức lí tính hoặc tư duy lí luận, Nguyễn Du có thể
cịn mơ hồ khi hướng nguyên nhân dẫn đến nỗi khổ của con người trần thế
vào một lực lượng huyền bí, siêu nhiên, nhưng trái tim nhà thơ có một cách
"giải mã" riêng nhờ vào trực giác và vốn sống. Khả năng này ở nhà thơ khá
mạnh. Do vậy, những thế lực chà đạp con người, nhất là những con người
tài hoa, nhà thơ có thể chỉ trán gọi tên. Và trên phương diện miêu tả nhân
vật, đặc biệt là nhân vật phản diện, ngòi bút Nguyễn Du như có thần,
khơng một tác phẩm văn chương đương thời nào sánh nổi. Bọn chúng dù
khơng có quan hệ cụ thể với nhau nhưng lại tồn tại như một hệ thống,
những mắt xích của một sợi dây chuyền để tạo ra một thứ thiên la địa
võng. Trong số ấy có qn bn thịt bán người, bọn đầu trâu mặt ngựa, lũ
sai nha bắng nhắng, kẻ mũ cao áo dài đại diện cho công lý kĩ cương. Cách
miêu tả của nhà thơ không phải là "vơ đũa cả nắm". Bởi thực ra trong đó
vẫn cịn những con người khơng hẳn đã xấu xa. Đó là những lương tâm ít
nhiều cịn trong sạch, như ả Mã Kiều trong nhà chứa, mụ quản gia của
Hoạn Thư, viên quan xử án vụ Thúc Sinh vượt quyền cha lấy vợ lẽ, một vãi
Giác Duyên tuy tu hành thoát tục nhưng vẫn biết cưu mang, cứu vớt
trong đời Kiều. Nhưng vì có tiền , hắn lại có thể múa may nhảy nhót "Ghế
trên ngồi tót sỗ sàng" để phán quyết. Tú Bà bày mưu bắt Kiều tiếp khách
đã nhờ đến sự lì lợm, tráo trở của Sở Khanh. Bọn này mất hết cả nhân tính
lẫn nhân hình. Sở Khanh phải đeo mặt nạ giả, cịn nếu khơng, như bộ mặt
thật của Tú Bà, khơng ai nhìn được. Th Kiều lần đầu nhìn thấy đã khơng
khỏi ngạc nhiên vì sự phì nộn, nhất là vì cái màu da như da người chết của
mụ. Cái đắc chí của mụ là cái đắc chí hèn mọn của kẻ tiểu nhân. Khi bắt
được Kiều bỏ trốn , y thật lòng hả dạ :
Hung hăng chẳng hỏi chẳng tra
Chứng kiến một bông hoa non nớt và trinh bạch là nàng Kiều lần đầu tiên
phải chịu cảnh "Uốn lưng thịt đổ dập đầu máu sa", mụ đâu có một chút
mủi lịng. Nếu khơng có sự cầu xin của Kiều, nhất là câu "Phận tôi đã vậy
vốn người để đâu" thì Tú Bà đâu có sực tỉnh để dễ bề bng tha. Nhưng
bng tha roi vọt để làm cái việc còn đớn đau hơn roi vọt là tiếp khách
làng chơi, mụ đã đạt được cái đích cuối cùng. Nhưng người đàn bà trong
buổi báo oán sau này xếp hàng thứ nhất không phải là Tú Bà, mà là vợ cả
của Thúc Sinh, họ Hoạn. Điều này không phải ngẫu nhiên. Đối với Tú Bà,
Kiều biết người đó là ai (và đã một lần đánh được vào tâm lý). Còn Hoạn
Thư có mưu chước khác vì con người y cũng khác. Trước con người này,
Kiều bất lực trong sự đối phó. Chẳng hạn như khi bắt Kiều hầu rượu :
Chước đâu có chước lạ đời
Người đâu mà lại có người tinh ma.
và yêu Kiều - một cơ gái lầu xanh - như Từ Hải. Cịn với nàng Kiều, có bao
giờ hạnh phúc hiếm hoi lại đưọc che chở bằng một thanh gươm?
Nhưng sự tráo trở của một thứ Sở Khanh được diễn lại. Tài thao lược kinh
luân của viên tổng đốc Hồ Tôn Hiến chẳng qua cũng chỉ là sự lọc lừa được
nâng cấp, nó đánh vào lịng tin của một người cả tin. Người cả tin ấy là
nàng Kiều sau khi đã trải qua bao "gió dập sóng va", một kẻ lưu lạc xa nhà
với một quê hương đêm ngày tưởng nhớ. Nó lại nhân danh một quyền lực
tối cao để mà hứa hẹn. Mũi tên của Hồ Tơn Hiến đã nhằm vào trúng đích.
Đó là Kiều, một con người tưởng như đã từng trải, dạn dày, nhưng vẫn cịn
một góc khuất ảo tưởng, ngây thơ. Bị trúng kế mà khuyên Từ Hải ra hàng,
nàng biết đâu đã đốt cháy không chỉ sự nghiệp của Từ mà đốt ln những
3. "Truyện Kiều" - một giấc mơ
Cảm hứng nhân văn bao trùm lên tư tưởng Truyện Kiều không chỉ thể
hiện trên hai bình diện trong đời thực là tiếng kêu thương hay tiếng thét
phẫn nộ ; nó cịn ấp ủ những giấc mơ. Đây chính là mặt sáng, nguồn ấm
của cuộc đời, nhất là cuộc đời tăm tối. Trước hết là giấc mơ tình yêu.
Thực ra trong khu vực truyện Nôm của một thế kỉ truyện Nôm, vấn đề này
đã được đặt ra khá táo bạo. Cùng với những Phan Trần, Hoa Tiên, Sơ kính
tân trang, Truyện Kiều của Nguyễn Du là một sự nhập cuộc vào dòng chảy
chung của một thời đại văn chương. Nhưng đồng thời, tác phẩm của
lại Kim Trọng sau này, nàng đã nói " Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua
bướm lại đã thừa xấu xa" ;nhưng với chàng Kim, nàng vẫn là trong sạch,
bởi một người biết quyền biến " lấy hiếu làm trinh" thì sự trong sạch ấy
giống như bông sen "Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn". Ý nghĩa của
câu "Hoa tàn mà lại thêm tươi" là sự nhìn nhận trên khía cạnh tinh thần ấy.
Đây là cái nhìn nhân văn, một cái nhìn vừa đúng, vừa sâu trong một xã hội
khắt khe nhiều định kiến. Trước đó, trong mười lăm năm lưu lạc, bao
Đàn ông chớ kể Phan Trần
Đàn bà chớ kể Thuý Vân, Thuý Kiều
sống đầy nghịch lý ấy đâu phải cuộc sống đích thực của con người. Chính
vì vậy mà thanh gươm của Từ Hải phải vung lên để bênh vực những thân
phận "con sâu cái kiến". Cuộc sống ấy cần đến thanh gươm ấy. Thanh
gươm của Từ như một thứ tuyên ngôn về lẽ phải "Anh hùng tiếng đã gọi
Nàng rằng: ***g lộng trời cao
Hại nhân nhân hại sự nào tại ta.
Việc làm ấy của Kiều không chỉ được Từ Hải và ba quân ủng hộ mà mãi về
sau nó cịn được ngợi khen trong dư luận. Kẻ lại già họ Đô trong phủ
đường của Kim Trọng kể lại cái việc xảy ra đã hơn mười năm này và
triều đình là đã khó chịu, vì cái cảm giác đụng đến chỗ nào cũng vướng
"Áo xiêm ràng buộc lấy nhau. Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?". Nhưng
cuối cùng Từ phải "Đem thân bách chiến làm tơi triều đình" chẳng qua vì
quá tin Kiều. Cái chết của nhân vật gần giống với huyền thoại này là vì một
bài học đắt giá khơng sao sửa chữa được. Đó là nhân chứng về một lần ngộ
nhận của con cá kình ngồi biển bị mắc cạn trong ao. Bị cầm tù, điều này
đồng nghĩa với cái chết, cho dù chỉ là con đường đi đến sự cầm tù đó mà
thơi.
Nói về hạn chế trong tư tưởng của Truyện Kiều thì sự "bó thân về với triều
đình" của Từ là một trong những "bất cập" của Nguyễn Du. Nhà thơ, dù là
một nghệ sĩ thiên tài, cũng đã không điều chỉnh được ước mơ với hiện
thực. Bởi cái mong muốn, cái khao khát của con người này không thể hoà
4. Phân tích Nghệ thuật của Truyện Kiều
về mơ típ truyện, riêng về mặt tư tưởng, đó là sự dung hồ giữa nhu cầu
bng thả tình cảm kiểu thị dân với việc ngợi ca, khẳng định lễ giáo phong
kiến. Ảnh hưởng đến Việt Nam trong đó có Truyện Kiều, những mệnh đề
mang tính xung đột như "tài mệnh tương đố", "hồng nhan bạc mệnh" là lẽ
đương nhiên. Song cái mới, cái sáng tạo của Nguyễn Du là trên các mặt sau
đây.
Trước hết, từ một cuốn tiểu thuyết chương hồi (20 hồi) bằng văn xuôi của
Trung Quốc, Nguyễn Du đã tái tạo thành một truyện thơ của Việt Nam.
nội tâm, tả cảnh với tả tình, đặt cảnh và tình trong những trường hợp cụ
thể của nhân vật. Bao nhiêu lần Kiều đánh đàn mà không lần nào giống lần
nào. Tiếng đàn ấy dành cho Kim Trọng hai lần trước sau cũng khác. Nỗi
nhớ mẹ cha cũng thế. Vầng trăng trong tác phẩm trở đi trở lại, khi buồn khi
vui : có khi là nhân chứng cho sự thề nguyền, lúc bầu bạn cho đỡ cô đơn,
cũng có lần là "vầng trăng xẻ nửa". Vẫn là cánh én mùa xuân nhưng xào
xạc buồn tẻ cũng có mà tươi tắn nên thơ cũng có...
Cùng với thành cơng về xây dựng nhân vật, Truyện Kiều của Nguyễn Du
cịn được viết ra với một phong cách ngơn ngữ bậc thầy. Ngơn ngữ đó
đúng là đẹp, giản dị mà sang trọng, ngắn gọn mà dư ba, dân gian mà bác
học. Ngòi bút của Nguyễn Du như con dao phân tích và mổ xẻ, như một
sợi dây độc huyền ngân lên nhiều tâm trạng, nhiều giọng điệu. Nhân vật,
tâm trạng dù khó tả đến đâu, nhà thơ vẫn truyền đưọc cái thần của nó.
Ngay khi lược thuật diễn biến thời gian như từ cuối hạ đến xuân - một năm
vần xoay chuyển động, khó ai viết được hai câu :
Sen tàn, cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
Mỗi mùa một khác. Cả cái khác nhau trong sự giống nhau. Đó là trường
hợp Nguyễn Du dùng từ đồng âm khác nghĩa : "Phận rầu dầu vậy cũng
dầu" hay "Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình". Việc học tập và sử
dụng ca dao trong Truyện Kiều cũng là một gợi ý cho các nhà thơ. Ở đây,
sự kế thừa và sáng tạo để nâng cao và tạo được một bản sắc riêng rất rõ. Từ
câu ca dao "Ai đi muôn dặm non sông. Để ai chất chứa sầu đong vơi đầy",
Nguyễn Du cắt đi và nén lại. Áp suất ngơn từ vì thế mà tăng lên :
Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba thu dọn lại một ngày dài ghê.
tình, chưa nói đến thể thơ. Bởi vậy Truyện Kiều là một kiến trúc vừa đồ sộ,
vừa tinh vi. Nó là khối tồn bích đa chiều.