Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản lý lễ hội tich điền tại xã đọi sơn,huyện duy tiên,tỉnh hà nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 75 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ VĂN HĨA – NGHỆ THUẬT

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠNG TÁC TỔ CHỨC VÀ QUẢN
LÝ LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN TẠI XÃ ĐỌI SƠN,HUYỆN
DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ VĂN HÓA – NGHỆ THUẬT

Giảng viên hướng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Anh Quyên
Sinh viên thực hiện

: Trần Thị Nhật Lệ

Lớp

: QLVH 10B

Hà Nội – 2013

1


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành Khóa luận này em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ths. Nguyễn
Thị Anh Quyên - giảng viên trường đại học Văn hóa Hà Nội. Trong suốt q trình
thực hiện đề tài em ln nhận được sự hướng dẫn và giúp đỡ nhiệt tình của cơ, giúp
em hồn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành gửi lời cảm ơn tới các thầy, cơ trong khoa Quản lí văn
hóa, thầy cơ trong thư viện trường Đai học văn hóa Hà Nội đã tận tình truyền đạt


kiến thức, tạo điều kiện để em có thể hồn thành đề tài này.
Em cũng chân thành cảm ơn chính quyền địa phương Hà Nam đã nhiệt tình
giúp đỡ cung cấp tài liệu và hình ảnh cho em những tài liệu quý báu và nhiệt tình
của các anh chị trong ban văn hóa xã Đọi Sơn.
Do thời gian có hạn, trình độ kinh nghiệm của em cịn hạn chế nên bài viết
của em khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến chỉ bảo của
thầy cơ giáo cùng các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

Trần Thị Nhật Lệ

2


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ 2
MỤC LỤC.............................................................................................................. 3
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CƠNG TÁC TỔ CHỨC VÀ QUẢN
LÝ LỄ HỘI ............................................................................................................ 8
1.1. Một số khái niệm về lễ hội ............................................................................ 8
1.1.1. Khái niệm lễ hội ...................................................................................... 8
1.1.2. Lễ hội truyền thống và đặc trưng của lễ hội truyền thống ...................... 10
1.1.3. Khái niệm về quản lý ............................................................................ 11
1.1.4. Khái niệm về quản lý lễ hội ................................................................... 12
1.2. Vai trò của lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt .............. 15
1.2.1. Giá trị cố kết cộng đồng dân tộc ............................................................ 15
1.2.2. Giá trị giáo dục...................................................................................... 16
1.2.3. Giá trị văn hoá tâm linh ......................................................................... 17

1.2.4. Giá trị bảo tồn nền văn hoá dân tộc ....................................................... 19
1.2.5. Giá trị kinh tế ........................................................................................ 21
1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước đối với công tác tổ chức lễ hội .............. 23
CHƢƠNG 2: CÔNG TÁC TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN
TẠI XÃ ĐỌI SƠN, HUYỆN DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM TỪ NĂM 2009
ĐẾN NAY. ........................................................................................................... 26
2.1 . Khái quát về lịch sử, kinh tế, văn hóa – xã hội của xã Đọi Sơn, Duy Tiên,
Hà Nam. ............................................................................................................. 26
2.1.1. Vị trí địa lý ............................................................................................ 26
2.1.2. Lịch sử hình thành ................................................................................. 26
2.1.3. Tình hình kinh tế - văn hóa xã hội ......................................................... 27
2.2. Lễ hội Tịch Điền xã Đọi Sơn, Duy Tiên, Hà Nam. ................................... 27
2.2.3. Công tác chuẩn bị cho việc tổ chức lễ hội Tịch Điền ............................. 29
2.2.4. Diễn trình lễ hội Tịch Điền .................................................................... 31
2.2.5. Ý nghĩa văn hóa của lễ hội Tịch Điền .................................................... 34
2.3. Thực trạng của công tác quản lý và tổ chức lễ hội Tịch Điền từ năm 2009
đến nay............................................................................................................... 35
2.3.1. Về công tác tuyên truyền phổ biến các văn bản về quản lý lễ hội .......... 35
2.3.2. Quản lý các nguồn lực tổ chức lễ hội..................................................... 36
2.3.3. Quản lý dịch vụ, hoạt động vui chơi, giải trí trong lễ hội ....................... 38
3


2.3.4. Quản lý công tác vệ sinh môi trường và an ninh trật tự công cộng ......... 39
2.3.5. Công tác tổ chức kiểm tra, giám sát trong quá trình tổ chức lễ hội ......... 39
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CÔNG TÁC TỔ
CHỨC VÀ QUẢN LÝ LỄ HỘI TỊCH ĐIỀN TẠI XÃ ĐỌI SƠN HUYỆN
DUY TIÊN, TỈNH HÀ NAM .............................................................................. 41
3.1. Đánh giá thực trạng về công tác tổ chức và quản lý lễ hội Tịch Điền ........... 41
3.1.1. Những thành tích ................................................................................... 41

3.1.2. Những hạn chế ...................................................................................... 42
3.1.3. Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế ....................................... 43
3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản lý lễ hội .................. 45
3.2.1. Tuyên truyền phổ biến các văn bản quy định của lễ hội ......................... 45
3.2.2. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp chính quyền và nâng cao trình
độ cán bộ văn hóa ở địa phương. ..................................................................... 46
3.2.3. Hồn thiện cơ cấu bộ máy tổ chức và quản lý lễ hội .............................. 47
3.2.4. Hồn thiện nội dung chương trình tổ chức lễ hội ................................... 47
3.2.5. Chú trọng bảo tồn giá trị của lễ hội và chống thương mại hóa. .............. 48
3.2.6. Tăng cường quản lý dịch vụ, vệ sinh môi trường, trật tự công cộng....... 49
3.2.7. Đẩy mạnh công tác xã hội hóa .............................................................. 50
3.2.8. Tổ chức lễ hội hướng vào hoạt động du lịch .......................................... 51
3.2.9.Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, khen thưởng và xử lý vi
phạm trong hoạt động lễ hội Tịch Điền. .......................................................... 52
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 55

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Lễ hội truyền thống là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa phi vật
thể của dân tộc Việt Nam và là một hiện tượng có tính chất tổng hợp chứa đựng
trong nó cả tín ngưỡng, tơn giáo, phong tục tập qn, diễn xướng dân gian và
văn nghệ dân gian. Bên cạnh đó, theo Giáo sư Trần Quốc Vượng trong Văn hóa
Việt Nam tìm tịi và suy ngẫm thì “Lễ hội cịn là một sản phẩm và biểu hiện của
một nền văn hóa”.
Ngày nay, lễ hội đang được tổ chức ngày càng nhiều để đáp ứng những đòi
hỏi trong đời sống sinh hoạt văn hóa tinh thần của mọi người dân.Việc tham dự các

lễ hội truyền thống là nhu cầu không thể thiếu được của nhân dân nhằm thỏa mãn
khát vọng hướng về cội nguồn, đáp ứng nhu cầu văn hóa tâm linh cũng như nhu cầu
giao lưu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng, góp phần tạo nên sự đa dạng của văn
hóa. Lễ hội truyền thống tồn tại đến hơm nay đều là kết quả của quá trình tiếp biến
văn hóa lâu dài. Q trình tiếp biến ấy khiến cho lễ hội luôn mang dáng vẻ của thời
đại mà vẫn không mất đi diện mạo ban đầu, cái cấu trúc hai mảng lễ và hội của nó.
Hiện nay, người dân đã có khả năng và điều kiện làm chủ bản thân thì niềm
tin vào sự linh thiêng của thần thánh chuyển hóa dần nhường chỗ cho những tình
cảm thiêng liêng nhớ về cội nguồn, lịng tơn kính và biết ơn tổ tiên, tình yêu và
niềm tự hào về quê hương đất nước trở thành cảm hứng chủ đạo của lễ hội truyền
thống. Vì vậy, chức năng tín ngưỡng của lễ hội có phần giảm thiểu, chức năng vui
chơi, giải trí của phần hội được tăng lên. Các trò chơi dân gian, những làn điệu dân
ca, dân vũ được khai thác thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia.
Vấn đề đặt ra là công tác tổ chức và quản lý đã phù hợp với truyền thống
văn hóa dân tộc, phong tục tập quán địa phương cũng như giữ gìn, phát huy
được các giá trị văn hóa truyền thống và giải quyết tốt những vấn đề phát sinh
trong khi lễ hội diễn ra chưa. Do đó, cần phải nghiên cứu, tìm hiểu về cơng tác
tổ chức và quản lý lễ hội để góp phần làm phong phú thêm kho di sản văn hóa
Việt Nam trong thời hiện nay.
Bản thân tôi là một người con được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Hà Nam
– một tỉnh thuộc đồng bằng sơng Hồng với bề dày lịch sử và có nhiều nét văn hóa
5


đặc sắc. Hơn nữa, tôi là một người học tập – nghiên cứu về văn hóa nên tơi nhận
thấy vấn đề nghiên cứu và tìm hiểu về lễ hội truyền thống ở địa phương mình là một
việc làm cần thiết để góp phần nâng cao chất lượng tổ chức lễ hội cũng như bảo lưu
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Trên cơ sở những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả
công tác tổ chức và quản lý lễ hội Tịch Điền tại xã Đọi Sơn,huyện Duy Tiên, tỉnh

Hà Nam” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu.
2.1.Đối tượng nghiên cứu.
Công tác tổ chức và quản lý lễ hội Tịch Điền, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên,
tỉnh Hà Nam.
2.2.Phạm vi nghiên cứu.
Lễ hội Tịch Điền, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam từ năm 2009
đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Nghiên cứu lễ hội Tịch Điền nhằm cung cấp một số thông tin về cơ sở ra đời,
quá trình hình thành, những đặc điểm cũng như tìm ra những giá trị tiêu biểu và
thực trạng của công tác tổ chức và quản lý lễ hơi. Từ đó, đề xuất một số giải pháp
để nâng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản lý lễ hội Tịch Điền, xã Đọi Sơn,
huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam từ năm 2009 đến nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng các phương pháp sau:
-

Quan sát

-

Phỏng vấn

-

Nghiên cứu tài liệu

-


Phân tích

5. Đóng góp của đề tài
Đóng góp về tư liệu nghiên cứu: Đề tài góp phần là một nguồn tư liệu, dẫn
chứng để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc nói chung và văn hóa ứng xử
trong lễ hội nói riêng. Đồng thời, làm phong phú và đa dạng thêm cho kho tàng tư
liệu văn hóa dân tộc về các lễ hội.
6


Các giải pháp đề xuất trong nghiên cứu góp phần nâng cao hiệu quả công tác
tổ chức và quản lý lễ hội trong thời gian tới.
6. Cấu trúc của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục đề tài có bố cục
gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về công tác tổ chức và quản lý lễ hội.
Chương II: Công tác tổ chức và quản lý lễ hội Tịch Điền tại xã Đọi Sơn,
huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.
Chương III: Giải pháp nhằm năng cao hiệu quả công tác tổ chức và quản lý
lễ hội Tịch Điền tại xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

7


CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ CƠNG TÁC TỔ CHỨC VÀ QUẢN LÝ LỄ HỘI
1.1. Một số khái niệm về lễ hội
1.1.1. Khái niệm lễ hội
Từ trước tới nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về văn hóa đã đưa khái
niệm lễ hội rất khác nhau, xuất phát từ nhiều góc độ. Để hiểu được khái niệm này

phải hiểu được lễ là gì, hội là gì.
- Lễ: là nghi thức được tiến hành để dánh dấu kỉ niệm một sự việc, một sự
kiện có ý nghĩa nào đó (theo từ điển Tiếng Việt 2002).
GS. Ngô Đức Thịnh cho rằng: “Lễ là một hiện tượng tổng thể, không phải là
thực thể chia đôi (phần lễ và phần hội) một cách tách biệt như một số học giả đã
quan niệm mà nó được hình thành trên cơ sở một cốt lõi nghi lễ tín ngưỡng nào đó
(thường là tơn thờ một vị thần linh lịch sử hay một vị thần linh nghề nghiệp nào đó)
rồi từ đó nảy sinh và tích hợp các hiện tượng sinh hoạt văn hóa, phái sinh để tạo nên
một tổng thể lễ hội. Cho nên trong lễ hội, phần lễ là phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội
là phần phái sinh tích hợp”.
Ngồi ra, các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam có nhiều cách trình bày định
nghĩa lễ hội như trong Từ điển bách khoa Việt Nam (2005) có viết: Lễ là hệ thống
các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lịng tơn kính của con người đối với thần linh,
phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ
chưa có khả năng thực hiện, cịn hội là sinh hoạt văn hóa, tơn giáo, nghệ thuật của
cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng
đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh
cho từng dịng họ, sự sinh sơi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng mà từ
bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ “Nhân khang, vật thịnh”.
Trong cuốn Văn hóa học xuất bản năm 1997, Đồn Văn Chúc cịn cho
rằng:“Lễ (cuộc lễ) là sự bày tỏ kính ý đối với một sự kiện xã hội, hay tự nhiên, tư
tưởng hay có thật, đã qua hay hiện tại được thực hiện theo nghi điển rộng lớn, mức
độ rộng lớn, tùy thuộc cấp nhóm xã hội có nhiệm vụ cử hành, nhằm biểu hiện giá trị
của đối tượng được cử lễ.
8


Trong Văn hóa học của Đồn Văn Chúc (1997). Hội là cuộc vui chơi bằng
vơ số hoạt động giải trí công cộng, diễn ra tại một địa phương nhất định vào dịp lễ
kỷ niệm một sự kiện tự nhiên xã hội, nhằm đạt được sự phấn khích, hoan hỉ của

cơng chúng dự lễ hội
+ Khái niệm lễ hội
Thấy giáo – TS. Cao Đức Hải trong giáo trình “Quản lý lễ hội và sự kiện “
đã đưa ra định nghĩa : “Lễ hội là một tổ hợp các yếu tố và hoạt động văn hóa đặc
trưng của cộng đồng, xoay xung quanh một trục ý nghĩa nào đó, nhằm tơn vinh và
quảng bá cho những giá trị nhất định”(trang 14).
TS. Dương Văn Sáu trong “Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển du lịch”
(2004) định nghĩa: “Lễ hội là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng diễn ra một địa
bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định; nhằm nhắc lại một sự kiện, nhân
vật lịch sử hay huyền thoại đồng thời là dịp để biểu hiện cách ứng xử văn hóa của
con người với thiên nhiên – thần thánh và con người trong xã hội”.
Trong cuốn Folklore một số thuật ngữ đương đại của Ngô Đúc Thịnh (2005) định
nghĩa: “Lễ hội là một hoạt động kỉ niệm định kỳ biểu thị thế giới quan của một nền
văn hóa hay một nhóm xã hội thơng qua hành lễ, diễn xướng, nghi lễ hay trò chơi
truyền thống. Là một hoạt động hết sức phổ biến, lễ hội có thể là sự kiện có tính
tượng trưng và tính xã hội phức tạp nhất, tồn tai lâu đời trong truyền thống”.
Như vậy, lễ hội là hoạt động của một tập thể người liên quan đến tín ngưỡng
và tơn giáo. Lễ hội bao gồm hai thành tố là lễ và hội kết hợp giữa tín ngưỡng và vui
chơi, giữa con người và thần linh, giữa thế giới âm và dương... để thông qua đó, con
người có thể bày tỏ niềm mong ước của mình vào các vị thần linh trên trời.
Đồng thời, thỏa mãn khát vọng trở về cội nguồn và đáp ứng nhu cầu văn hóa
tâm linh cũng như nhu cầu giao lưu trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
Trước đây, con người chưa có đủ khả năng chinh phục, chế ngự và làm chủ
thiên nhiên cũng như làm chủ xã hội nên bị bất lực và chi phối bởi những thiên tai
bất trắc, may rủi hay bất công do thiên nhiên hay con người gây nên. Vì thế, thần
linh là nơi họ đặt niềm tin vào đó như: thần linh trời đất, thần linh núi sơng... Vậy
nên, xưa kia có nhiều làng xã đã xây dựng đình, miếu... để thờ các vị thần linh tại
địa phương và thường tổ chức lễ hội tại những nơi đó, nhằm thể hiện sự biết ơn đối
9



với các vị thần linh đã ban cho người dân nơi đó sức khỏe, mùa màng bội thu, vật
ni sinh sơi phát triển. Hơn thế nữa, họ cịn cầu mong các vị thần tiếp tục che chở,
bảo vệ và ban phúc lành may mắn, thịnh vượng cho họ. Các lễ hội truyền thống thể
hiện rõ nhất điều này. Trong lễ hội truyền thống có sự tác động và ảnh hưởng của
yếu tố tơn giáo, tín ngưỡng. Tơn giáo thơng qua lễ hội làm phương tiện phô trương
thanh thế, ngược lại lễ hội thơng qua tơn giáo, tín ngưỡng để thần linh hóa trần tục.
1.1.2. Lễ hội truyền thống và đặc trưng của lễ hội truyền thống
Liên quan đến khái niệm “Lễ hội truyền thống” cịn có khái niệm “Lễ hội cổ
truyền” dùng với nghĩa gần như tương đương với nhau. Truyền thống hay cổ truyền
thật ra chỉ là hai thuật ngữ Hán – Việt dùng để nói về cùng một đối tượng.
Lễ hội truyền thống là một bộ phận những giá trị tốt đẹp trong lễ hội cổ
truyền của dân tộc được các thế hệ sau nối tiếp các thế hệ trước tái tạo và khẳng
định để bảo tồn và phát huy theo hướng tích cực trong đời sống xã hội. Như vậy, lễ
hội truyền thống được coi như là một thành tố quan trọng cấu thành nên hình thái
sinh hoạt văn hóa lịch sử tương ứng với những mơ hình xã hội được tổ chức theo
những giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong Hán – Việt Từ điển bách khoa, Đào Duy
Anh đã định nghĩa truyền thống như sau: “Thống gồm có nghĩa là mối tỏ, đường
mối, đầu gốc; cịn truyền là trao lại, trao cho và chúng ln đi liền với nhau mang ý
nghĩa “Đời nọ truyền xuống đời kia””.
Ngoài “Lễ hội truyền thống” và “Lễ hội cổ truyền” cịn có “Lễ hội dân gian”
là lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần của các xã hội truyền thống. Xã hội truyền
thống có thể hiểu là những tập hợp người được tổ chức bởi các đơn vị “cộng đồng”,
dựa trên ưu thế của tính chất “cộng đồng”. Hơn nữa, xã hội truyền thống là các cộng
đồng thị tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, các xã hội truyền thống là các cộng đồng thị
tộc, bộ lạc, liên minh bộ lạc, các xã hội tiền công nghiệp tồn tại trước khi hình thành
những dân tộc quốc gia. Từ đó có thể thấy, “Lễ hội truyền thống”, “Lễ hội cổ
truyền” hay “Lễ hội dân gian” là đồng nhất với nhau nói về lễ hội trong sinh hoạt
văn hóa tinh thần của người dân xưa và nay.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về lễ hội truyền thống, tùy thuộc vào các tác

giả tiếp cận ở khía cạnh nào theo phương thức nào. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu
văn hóa đều cho rằng lễ hội truyền thống là hình thái văn hóa có tính chất hai mặt
10


trong một chỉnh thể thống nhất. Lễ hội truyền thống là một hệ thống hành vi nghi
thức biểu đạt thế ứng xử của cộng đồng hướng tới một đối tượng thần linh nhất định
và những hoạt động văn hóa để minh họa cho các hành vi nghi lễ. Lễ càng thiêng thì
hội càng đơng, hội càng đơng thì lễ càng thiêng. Mặc dù vậy, khi đứng ở góc độ
quản lý văn hóa để tiếp cận và tìm hiểu về lễ hội thì tất cả các yếu tố của lễ hội sẽ
được quan tâm để nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống dân
gian của dân tộc, đồng thời tái sáng tạo những giá trị văn hóa bác học dựa trên
những yếu tố dân gian. Có thể nói quản lý văn hóa quan tâm đến việc bảo tồn, phát
huy và khai thác những vốn văn hóa truyền thống cùng với sự tái sáng tạo để làm
nên những lễ hội truyền thống mang đúng nghĩa của nó, đáp ứng được nhu cầu sinh
hoạt văn hóa tinh thần của mọi người dân.
Lễ hội truyền thống là hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến của
cộng đồng cư dân nơng nghiệp nước ta. Tính ngun hợp của lễ hội thể hiện ở chỗ
lễ hội vừa là hoạt động tín ngưỡng thờ cúng các vị thần linh, vừa là hoạt động vui
chơi giải trí, là sinh hoạt văn hóa tinh thần gắn bó trực tiếp với hoạt động sản xuất
vật chất
Như vậy, có thể hiểu: Lễ hội truyền thống là lễ hội được sáng tạo và lưu
truyền theo phương thức dân gian, được hình thành trong các hình thái văn hóa
lịch sử, được truyền lại trong các cộng đồng nông nghiệp với tư cách như một
phong tục tập quán.
1.1.3. Khái niệm về quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại và phát
triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ đến phạm vi
rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải thừa nhận, chịu một sự quản lý
nào đó. Như vậy, quản lý là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực

khác nhau như: kinh tế, luật học, điều khiển học... Vì thế, các nhà nghiên cứu ở từng
lĩnh vực đã đưa ra những quan niệm khác nhau về quản lý.
Theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của con người.
Theo nghĩa hẹp, quản lý là sự sắp đặt, chăm nom công việc.
Ngồi ra cịn có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quản lý:

11


- Theo Từ điển tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ - nxb Đà Nẵng năm 2002) thì
quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động hoặc trông coi và giữ gìn theo những
yêu cầu nhất định.
- Theo điều khiển học thì: Quản lý là sự điều khiển, định hướng, chỉ đạo một
hệ thống hay một quá trình căn cứ vào những quy luật, định luật hay nguyên tắc,
luật định tương ứng để cho quá trình ấy vận động theo ý muốn của người quản lý
nhằm đạt được mục đích đã định trước.
PGS.TS Phan Văn Tú trong “ Đại cương về khoa học quản lý”(1999) định
nghĩa :“Quản lý là một quá trình: đi từ chỗ nắm được, nắm đúng cái hiện có – thấy
được, thấy đúng cái gì cần có – Biết tìm mọi biện pháp khả thi và tối ưu để đưa ra
cái thiện có lên tới cái cần có”.
Như vậy, một cách tổng quát nhất có thể định nghĩa về quản lý theo Mai Hữu
Khuê trong cuốn Lý luận quản lý hành chính nhà nước (2003) như sau: “Quản lý là
hoạt động nhằm tác động có tổ chức của chủ thể vào một đối tượng nhất định để
điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành vi của con người nhằm duy trì sự ổn
định và phát triển của đối tượng theo những mục đích nhất định”. Hay “Quản lý là
sự tác động của chủ thể lên đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”.
Quản lý nhà nước là sự tác động của các chủ thể mang quyền lực nhà nước,
chủ yếu bằng pháp luật tới các đối tượng quản lý nhằm thực hiện các chức năng đối
nội, đối ngoại của nhà nước. Tất cả các cơ quan nhà nước đều làm chức năng quản
lý nhà nước. Bằng chính sách và pháp luật Nhà nước trao cho các tổ chức hoặc cá

nhân để họ thay mặt Nhà nước tiến hành hoạt động quản lý nhà nước.
1.1.4. Khái niệm về quản lý lễ hội
Quản lý nhà nước về văn hóa là hoạt động của bộ máy nhà nước trong lĩnh
vực hành pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhà nước với
vai trị là thiết chế trung tâm trong hệ thống chính trị, đại diện cho nhân dân, đảm
bảo cho mọi người dân đều được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có
các quyền về văn hóa như: quyền học tập, sáng tạo, phê bình văn hóa nghệ thuật, tự
do sinh hoạt tơn giáo tín ngưỡng... Nhà nước có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo sự
hài hòa giữa các thành tố văn hóa, điều tiết lợi ích văn hóa của các giai tầng, các
yêu cầu phát triển và thỏa mãn nhu cầu văn hóa của tồn xã hội.
12


Ở Trung ương, các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về văn hóa là Chính
Phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Chính Phủ thống nhất quản lý và phát
triển sự nghiệp văn hóa – nghệ thuật trên cả nước. Thi hành các biện pháp để bảo
tồn và phát triển văn hóa, chống các hiện tượng, hành vi truyền bá tư tưởng văn hóa
phản động, đồi trụy, các hủ tục mê tín dị đoan. Chính Phủ và Bộ Văn hóa, Thể thao
và Du lịch trình các dự án, pháp lệnh về tổ chức hoạt động và quản lý văn hóa,
quyết định quy hoạch, kế hoạch xây dựng và phát triển văn hóa. Ban hành các nghị
định, chế tài quản lý, quyết định các chính sách, đầu tư, tài trợ, hợp tác với nước
ngoài về việc tổ chức hoạt động phát triển văn hóa.
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính pháp chế nhà nước ở các địa phương
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về văn hóa ở địa phương mình theo quy định
của pháp luật. Các Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực thuộc tỉnh, thành phố, các
Phịng Văn hóa Thơng tin cấp huyện, các Ban Văn hóa các xã, phường, thị trấn là
cơ quan chuyên môn trực tiếp tham mưu tư vấn giúp Ủy ban nhân dân các cấp quản
lý văn hóa ở địa phương mình.
Nhà nước tiến hành quản lý văn hóa bằng chính sách và pháp luật về văn
hóa. Chính sách pháp luật về văn hóa được hiểu là những nguyên tắc thực hiện tư

tưởng chủ đạo của Nhà nước về chủ trương đường lối, phương hướng xây dựng và
phát triển nền văn hóa phù hợp với mục tiêu phát triển chung của đất nước. Song
song với việc tiến hành các chính sách về văn hóa, để quản lý văn hóa, Nhà nước đã
ban hành hệ thống các văn bản pháp luật về văn hóa nhằm phát huy tác dụng của
văn hóa đối với việc hình thành nhân cách, nâng cao chất lượng đời sống tinh thần
của con người, chế ước những ảnh hưởng tiêu cực, loại bỏ những hủ tục lạc hậu.
Quản lý văn hóa bằng pháp luật là một yêu cầu mang tính tất yếu khách quan. Cùng
với việc banh hành các văn bản pháp luật, Nhà nước tạo ra một hành lang pháp lý
an toàn, rộng mở cho việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Quản lý lễ
hội là một lĩnh vực cụ thể trong ngành văn hóa.
Theo TS. Cao Đức Hải trong giáo trình “Quản lý lễ hội và sự kiện”(trang
17-18) được hiểu theo hai góc độ:
Thứ nhất, Quản lý Nhà nước đối với hoạt động của lễ hội và sự kiện

13


Đó là việc ngiên cứu, xây dựng, củng cố và hồn thiện hệ thống chính sách
và luật pháp có liên quan và can thiệp bằng hệ thống công cụ cơ bản này của cơ
quan hữu trách nhằm các mục tiêu phù hợp với các đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước cũng như hệ thống pháp luật hiện hành, đảm bảo các lợi ích văn hóa
của cơng dân, cộng đồng và quốc gia dân tộc.
Thứ hai : Tổ chứ lễ hội và sự kiện
Được hiểu như sự huy động, sự tổ chức và điều hành các nguồn lực nhằm
tôn vinh và phat triển các giá trị vốn có của lễ hội dân gian cổ truyền lên một tầm
mức mới, phù hợp với các nhu cầu văn hóa – kinh tế - xã hội của coonhj đồng, địa
phương, đất nước. Nói cách khác, là việc quản lý lễ hội nhằm các mục tiêu lợi ích
cơng cộng hay mục tiêu lợi nhuận hay cả hai đặt trong bối cảnh hiện tại cũng như
xu hướng phát triển của đất nước”.
Tóm lại, quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội nói chung, lễ hội truyền

thống nói riêng được hiểu là quá trình sử dụng các cơng cụ quản lý: chính sách,
pháp luật, các nghị định, chế tài, tổ chức bộ máy vận hành và các nguồn lực để kiểm
soát, can thiệp vào các hoạt động của lễ hội bằng các phương thức tổ chức thực hiện
thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm duy trì việc thực hiện hệ thống chính sách, hệ
thống các văn bản pháp quy, chế tài của Nhà nước đã ban hành.
Quản lý lễ hội là một quá trình thực hiện bốn cơng đoạn: xác định nội dung
và phương thức tổ chức; xây dựng kế hoạch; tổ chức chỉ đạo thực hiện và kiểm tra,
giám sát việc thực hiện; tổng kết, đúc kết kinh nghiệm.
Cơ sở pháp lý của việc thực thi công tác quản lý nhà nước về lễ hội truyền
thống là dựa trên hệ thống các chính sách và pháp luật hiện hành của Nhà nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Luật pháp và văn bản mang tính pháp quy nêu trên đã thể hiện rõ mục tiêu
của quản lý nhà nước đối với hoạt động lễ hội truyền thống là duy trì và thực hiện
nghiêm minh các điều khoản đã được ghi trong luật và các văn bản pháp quy – nghị
định – chế tài, các văn bản liên quan.
Theo quy định hiện hành, ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách
nhiệm cấp phép, kiểm tra, giám sát hoạt động lễ hội. Đồng thời, phối hợp cùng các
cơ quan chức năng như: công an, quản lý thị trường, môi trường giao thông, y tế...
14


xử lý sai phạm trong lễ hội. Việc chịu trách nhiệm quản lý nhà nước nói chung
thuộc chính quyền sở tại, nhưng được phân chia trách nhiệm cụ thể cho các đơn vị
chức năng thuộc cơ quan quản lý nhà nước có liên quan. Do đó, cơng tác kiểm tra,
giám sát và xử lý vi phạm tùy từng vụ việc mà có những cơ quan chức năng chịu
trách nhiệm giải quyết.
1.2. Vai trò của lễ hội trong đời sống văn hóa tinh thần của ngƣời Việt
Lễ hội truyền thống là một loại hình sinh hoạt văn hố tinh thần đặc biệt
mang tính tập thể cộng đồng, lễ hội truyền thống chứa đựng và phản ánh nhiều mặt
của đời sống kinh tế - văn hố - xã hội. Nó là sản phẩm tinh thần, là di sản văn hoá

phi vật thể có giá trị to lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân. Lễ hội truyền
thống trong đời sống xã hội hiện nay có thể khái quát thành năm giá trị cơ bản: Giá
trị cố kết cộng đồng dân tộc, giá trị giáo dục, giá trị tâm linh, giá trị bảo tồn nền văn
hoá dân tộc, giá trị kinh tế.
1.2.1. Giá trị cố kết cộng đồng dân tộc
Lễ hội là một hoạt động tập thể mang tính cộng đồng, lễ hội của người Việt ở
đồng bằng Bắc bộ thường được gọi là hội làng. Hội làng là đặc trưng nổi bật nhất
của đồng bào các dân tộc nước ta. Làng, bản là một kết cấu tổ chức xã hội có tính
cộng đồng cao, biểu hiện ở cộng đồng dân cư, cương vực kinh tế - văn hoá - xã hội.
Dân cư của làng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau từ rất lâu đời, có khi là quan hệ
dịng tộc, có khi là quan hệ láng giềng "Tối lửa tắt đèn có nhau”, "Bán anh em xa
mua láng giềng gần” và như vậy lễ hội là một hoạt động tinh thần gắn kết họ lại với
nhau để cùng chung một niềm tin cùng hướng về tổ tơng dịng tộc, cùng chung một
thần linh, thành hồng…
Tính cố kết cộng đồng ấy thể hiện qua sự cộng mệnh và cộng cảm. Cộng
mệnh là sự gắn bó giữa con người trong cộng đồng thông qua vận mệnh của cộng
đồng, thể hiện ở việc cả làng cùng suy tôn, cùng tôn thờ một sức mạnh siêu nhiên
bảo vệ cho sự tồn vong của cả cộng đồng. Đó là Đức quốc Tổ Hùng Vương trong lễ
hội Đền Hùng, Quốc mẫu Âu Cơ trong lễ hội Đền Mẫu Âu Cơ (Hạ Hoà), Thành
hoàng làng trong các lễ hội Đình; Đức Phật, Thánh Mẫu trong các lễ hội, tơn giáo…
Cộng cảm là sự thể hiện có chung thái độ tình cảm của các cá nhân và cả tập thể
trong ứng xử văn hoá với tự nhiên, thần thánh và con người.
15


Trong các lễ hội truyền thống các hoạt động của lễ và hội đều thể hiện tính
cộng mệnh và cộng cảm, tính quần thể. Các lễ hội cịn thấm đượm tinh thần đoàn
kết, dân chủ và nhân bản sâu sắc. Khi tham dự lễ hội đứng trước thần linh hay nhân
vật thiêng liêng thì dù là người tổ chức hay người dân tham gia lễ hội hay bất kỳ
cương vị nào cũng đều bình đẳng trước thánh thần và bình đẳng với nhau trong tư

cách người tham gia. Vì thế những câu như "nước lụt thì lút cả làng”, hay "nước
nổi, bèo trơi”, "chết một đống cịn hơn sống một mình” đã thể hiện tính cố kết cộng
đồng trong một đơn vị làng xã và lớn hơn là dân tộc.
Bất kể một lễ hội nào cho dù là lễ hội nông nghiệp, lễ hội lịch sử, lễ hội tôn
giáo suy tôn các vị thần linh hay anh hùng dân tộc thì các lễ hội ấy bao giờ cũng là
lễ hội của một cộng đồng; biểu dương các giá trị văn hố và sức mạnh của cộng
đồng trên mọi bình diện. “Mọi hoạt động diễn ra trong các lễ hội ấy đều thể hiện
tính cố kết cộng đồng, mang tính biểu trưng nhằm kêu gọi, tập hợp quần chúng
nhân dân trong một vịng tay lớn". Bởi vậy, tính cộng đồng và cố kết cộng đồng là
nét đặc trưng và là giá trị văn hoá tiêu biểu nhất của lễ hội truyền thống.
1.2.2. Giá trị giáo dục
Lễ hội truyền thống là biểu hiện của hai q trình: lịch sử hóa và huyền thoại
hoá những nhân vật được nhân dân thờ phụng. Trong dân gian ln tồn tại quan
niệm "Có tích mới dịch nên trò”. Những nghi thức cúng tế, những tục hèm, những
trò chơi dân gian truyền thống trong các lễ hội thường có nguồn gốc xuất phát từ
một sự thật lịch sử hay hư cấu nào đó. Tất cả những “tích” như vậy đều có hạt nhân
cơ bản là mong ước, sở nguyện của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Thực tế qua
khảo sát lễ hội ở vùng trung du bắc bộ nhất là ở khu vực Phú Thọ, hầu hết các lễ hội
truyền thống ở vùng này được gắn chặt với các sự kiện mang tính lịch sử thời kỳ
Hùng Vương dựng nước. Hệ thống di tích Đình, Đền đều thờ các vị tướng lĩnh thời
kỳ Hùng Vương như Tản viên Sơn Thánh, Quý Minh Đại Vương… và được coi là
thành hồng làng.
Lễ hội truyền thống cịn là kết quả q trình sân khấu hố đời sống xã hội, là
sự mơ phỏng, tái hiện lại hình ảnh của các nhân vật của sự kiện lịch sử đã diễn ra
trong quá khứ dưới hình thức diễn xướng dân gian, các trị diễn dân gian. Điển hình
như lễ hội "Rước Chúa Gái” ở Lâm Thao, Phú Thọ là quá trình tái hiện truyền
16


thuyết lễ thời Hùng Vương về tích truyện Sơn Tinh đón Ngọc Hoa cơng chúa đưa

về núi Tản Viên và phản ánh cả các phong tục tập quán sinh hoạt thời kỳ Hùng
Vương dựng nước. Vì vậy có thể nói lễ hội truyền thống là một “bảo tàng lịch sử
sống” một “kho báu sống” về lịch sử dân tộc.Giá trị giáo dục của lễ hội cũng được
thể hiện trong tính hướng về cội nguồn "Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về
nguồn cội.
Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ đó sinh ra và nay vẫn là một
bộ phận hữu cơ, nguồn cội cộng đồng, như dân tộc, đất nước xóm làng, tổ tiên,
nguồn cội văn hoá… Hơn thế nữa hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con
người Việt Nam”."uống nước nhớ nguồn”, "ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, "chim có tổ
người có tơng, như cây có cội như sơng có nguồn” Điều đó giúp nhắc nhở mọi
người trong cộng đồng những bài học về đạo lý của ông cha về lịch sử của làng, lịch
sử của dân tộc và truyền thống ông cha…Lễ hội truyền thống là hoạt động văn hoá
tinh thần thể hiện tình cảm con người với tổ tiên, thần thánh để cầu mong mọi lực
lượng siêu nhiên che chở phù hộ cho con người. Cũng từ tín ngưỡng thờ cúng tổ
tiên giúp con người không bao giờ quên cội nguồn, con người đến với lễ hội là đến
với lòng thành kính tổ tiên và các bậc tiền nhân, nhắc nhở mọi người nhớ đến bổn
phận và trách nhiệm của mình với ơng bà, tổ tiên, dịng tộc… Do vậy lễ hội truyền
thống có giá trị lớn trong việc giáo dục đạo đức giáo dục truyền thống lịch sử của
làng bản quê hương đất nước đối với mọi thành viên tham gia lễ hội.
1.2.3. Giá trị văn hoá tâm linh
Con người ln có nhu cầu lớn về đời sống vật chất và tinh thần. Bên cạnh
cuộc sống vật chất, cuộc sống hiện thực thì các yếu tố thuộc về lĩnh vực tinh thần là
nhu cầu khơng thể thiếu, nó giúp con người cân bằng trong đời sống thực tại. Trong
cuộc sống thế tục, con người đôi khi bất lực trước sức mạnh tự nhiên, có lúc họ bế
tắc trong sự giải thốt và phải tìm đến nguồn sức mạnh tinh thần, tìm đến sự che
chở phù hộ của tổ tiên dịng tộc, của thành hồng, của các vị thần, từ đó giúp họ có
niềm tin tạo nên động lực, sức mạnh để vượt qua khó khăn trong lao động sản xuất
và cuộc sống. Họ cầu mong và tin tưởng vào sự che chở của tổ tiên và thần linh cho
cuộc sống bình an, mùa màng bội thu, dân khang vật thịnh.
Trong các lễ hội truyền thống Việt Nam, các yếu tố tâm linh được ẩn chứa

khá sâu sắc từ việc chuẩn bị đồ cúng tế, các nghi lễ tế, lễ rước, các bài tế… cầu
17


nguyện thần linh đến các trò diễn đều chứa đựng giá trị văn hố tâm linh.Bên cạnh
đó, giá trị văn hoá tâm linh của lễ hội trong đời sống xã hội hiện nay cịn thể hiện ở
chỗ con người ln hướng tới cái chân- thiện- mỹ, cái cao cả mà con người ln
ước vọng tơn thờ, trong đó có cả niềm tin tơn giáo tín ngưỡng. Một điều chắc chắn
rằng đứng trước tổ tiên, thần linh không một người nào cầu mong ước nguyện điều
xấu sa có hại cho người khác, có hại cho cộng đồng. Khi trở về thế giới tâm linh, họ
luôn mong muốn và tin tưởng vào sự chứng giám và phù hộ của thần linh vì sự
trung thực, thành tâm của họ. Vì vậy, những nghi lễ, tín ngưỡng trong lễ hội đã giúp
con người thoả mãn nhu cầu về đời sống tâm linh.Trong xã hội hiện đại, với sự phát
triển mạnh mẽ của công nghiệp và cơng nghệ thơng tin, đời sống vật chất có thể đầy
đủ, đời sống tinh thần cũng có thể được nâng lên do hệ thống thông tin, các hoạt
động vui chơi, giải trí, phim ảnh, thể thao, nghỉ dưỡng…
Tuy nhiên, các hoạt động trên vẫn không thể tạo ra sức mạnh cộng đồng, sự
“cộng cảm”, "cộng mệnh’’; khơng thể có “thời điểm mạnh”, "không gian thiêng”
như ở hoạt động lễ hội. Chỉ khi nào trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền, con
người hiện đại mới được tắm mình trong dịng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân
tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng vọng những biểu tượng siêu
việt cao cả chân- thiện - mỹ, được sống những giờ phút giao cảm hồ hởi đầy tinh
thần cộng đồng. “Con người có thể phơ bày tất cả những gì tinh tuý đẹp đẽ nhất của
bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn
mặc lộng lẫy đẹp đẽ khác hẳn ngày thường… tất cả đó là trạng thái thăng hoa từ
cuộc sống hiện thực, vượt lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã
thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái
trần tục của đời sống hiện thực’’
Đối với người dân Việt Nam, lễ hội là một trong những loại hình văn hố
lâu đời nhất, lễ hội có sức lơi cuốn, hấp dẫn và trở thành nhu cầu, khát vọng của

người dân cần được đáp ứng, thoả nguyện qua mọi thời đại "Thông qua những hình
thức biểu hiện của mình, lễ hội khơng phải là mê tín dị đoan mà là cách ứng xử
thơng minh, khôn ngoan của con người đối với sức mạnh vơ hình hay hữu hình mà
họ chưa nhận thức được. Lễ hội trở thành một hiện tượng văn hoá tổng hợp làm
thoả mãn nhu cầu văn hoá tâm linh và tâm lý vật chất của con người. Bản chất của
18


lễ hội là sự tổng hợp và khái quát cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân
trong xã hội ở từng giai đoạn lịch sử ”
1.2.4. Giá trị bảo tồn nền văn hoá dân tộc
Nền văn hoá Việt Nam bắt nguồn từ nền văn minh nông nghiệp, văn minh
lúa nước, cộng đồng làng xã là cái nôi sản sinh ra nền văn hoá phong phú và độc
đáo, đồng thời làng xã cũng là cái nôi bảo tồn nền văn hố ấy khơng bị đồng hố.
Dân tộc ta phải trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc nhưng chúng ta khơng bị đồng
hố, nền văn hố Việt Nam vẫn tồn tại và phát triển nhờ văn hoá làng xã, với
phương thức sinh hoạt cộng đồng. Các phong tục, tập quán, tín ngưỡng gắn với ngơi
đình, mái chùa cùng với lễ hội là cái nơi giữ gìn bảo tồn văn hố Việt Nam. Đúng
như GS.TSKH Tô Ngọc Thanh nhận xét: “Không có làng xã Việt Nam thì khơng có
văn hố Việt Nam”.Lễ hội là một hình thức tái hiện cuộc sống q khứ thơng qua
các hoạt động tế lễ, các trị diễn. Đó là cuộc sống lao động sáng tạo và khát vọng
chống lại thiên tai địch hoạ.
Cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước của nhân dân được thể hiện dưới các
hình thức sinh hoạt văn hóa tinh thần vơ cùng sinh động hấp dẫn như các hoạt động
tế lễ, rước, các trang phục truyền thống, các bài văn tế, các trò diễn dân gian, các
điệu dân ca, dân vũ, hát xoan, hát ghẹo… Các hoạt động ấy trong lễ hội khơng
những tái hiện cuộc sống mà nó góp phần giữ gìn và bảo tồn nền văn hố dân tộc,
được lưu giữ từ đời này sang đời khác. Nói một cách khác lễ hội truyền thống là kết
quả của quá trình lịch sử hố q khứ và hiện tại, kết hợp q trình huyền thoại hố
những nhân vật là sự kiện lịch sử được nhân dân thờ phụng. Đồng thời cịn là kết

quả của q trình sân khấu hố đời sống xã hội và q trình xã hội hố trong tiến
trình lịch sử.
Q trình mơ phỏng tái hiện cuộc sống quá khứ và những nhân vật sự kiện
lịch sử trong lễ hội đã đạt đến tính xã hội hố cao. Hình thức và nội dung của lễ hội
phản ánh khá đầy đủ và sinh động đời sống vật chất là tinh thần xã hội trong một
giai đoạn lịch sử cụ thể. Đồng thời qua quá trình hình thành và tồn tại, lễ hội đã tác
động mạnh mẽ và có ảnh hưởng sâu sắc tới toàn thể cộng đồng trong một khu vực
làng xã, một vùng, một dân tộc, một quốc gia, tuỳ theo tính chất và mức độ của lễ
hội ấy. Và như vậy lễ hội truyền thống góp phần bảo tồn văn hố dân tộc ngay trong
chính tâm thức của cộng đồng.
19


Đặc trưng của lễ hội là tính truyền miệng, những sự kiện lịch sử, đời sống xã
hội được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua dịp lễ hội hàng năm.
Nói một cách khác lễ hội truyền thống là “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được
hồi sinh sáng tạo và trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.Lễ hội là bảo tàng
sống về văn hoá dân tộc được thể hiện ở hai phương diện:Thứ nhất, lễ hội là sinh
hoạt cộng đồng mô phỏng tái hiện lại hình ảnh các nhân vật sự kiện lịch sử được
nhân dân thờ phụng thông qua các hoạt động tế lễ, diễn xướng, các trò diễn dân
gian; Hoạt động này có sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân, được nhân dân lưu
giữ trong trí nhớ và được chính nhân dân tái hiện mơ phỏng một cách sinh động hấp
dẫn và sáng tạo…Thứ hai, toàn bộ nội dung lễ hội, hình thức lễ hội, ý nghĩa và các
giá trị văn hoá của lễ hội được tồn tại trong lịng cộng đồng. Nó xâm nhập vào đời
sống xã hội, trở thành nhu cầu tinh thần, thành mong ước, trở thành tiềm thức trong
nhân dân. Như vậy, lễ hội được bảo tồn ngay trong lòng cộng đồng, vừa là mơi
trường sản sinh ra văn hố, vừa là mơi trường tốt nhất để bảo tồn làm giàu thêm và
phát huy nó trong đời sống xã hội.Vì vậy, muốn bảo tồn văn hố trong đời sống
cộng đồng, phải đưa nó trở lại trong đời sống nhân dân và xã hội hố nó, cụ thể là
phải đưa lễ hội, khơi phục lễ hội trong đời sống nhân dân, nó phải được gắn với đời

sống tinh thần nhân dân, gắn với phong tục tập qn, tín ngưỡng của nhân dân.
Do vậy khơng thể tách lễ hội truyền thống ra khỏi đời sống nhân dân, ra khỏi
cộng đồng, cái nơi hình thành và đã sản sinh ra nó. Đây là đặc trưng mà trong quá
trình nghiên cứu lễ hội cần xem xét để bảo tồn lễ hội một cách phù hợp.Nếu đem so
sánh các hình thức bảo tồn văn hóa giữa trạng thái "bảo tàng sống" của lễ hội với
“Bảo tàng tĩnh” trong các viện Bảo tàng thì sẽ thấy rõ điểm khác biệt. Hầu hết các
hiện tượng văn hóa vật thể (hiện vật, bảo vật, cổ vật…) được lưu giữ bảo tồn trong
nhà bảo tàng đều là bảo tàng tĩnh có thể lưu trữ lâu và q trình hao mịn mất đi dễ
nhìn thấy và có thể phục chế gần như ngun bản.
Tuy nhiên, Bảo tàng tĩnh ít có tác động đến đời sống tinh thần cộng đồng.
Nhưng khác với văn hoá vật thể, văn hố phi vật thể nói chung và lễ hội nói riêng
được bảo tồn trong trạng thái động là chủ yếu. Lễ hội mô phỏng đời sống xã hội,
lịch sử… ngay trong hoạt động cộng đồng do đó cơ hội tác động trực tiếp vào giác
quan con người qua lễ tế, lễ rước, trị diễn, đồng thời hình thành thái độ, tình cảm,
20


cảm xúc mới trước các sự kiện của lễ hội, tạo ra hình ảnh mới, vì thế lễ hội được
bảo tồn ngay trong đời sống, tâm thức cộng đồng, trong mỗi người dân. Sự hao mịn
của văn hố phi vật thể và lễ hội khơng dễ nhìn thấy, nó lặng lẽ âm thầm mai một,
thậm chí mất đi (thất truyền) mà khơng dễ phục hồi. Vì vậy, cần đưa lễ hội trở về
đời sống cộng đồng, trở thành nhu cầu tinh thần không thể thiếu của nhân dân, bảo
tồn và phát huy giá trị văn hố lễ hội góp phần bảo tồn nền văn hoá dân tộc.
1.2.5. Giá trị kinh tế
Lễ hội là hoạt động văn hoá tinh thần của nhân dân, giá trị to lớn của lễ hội
không chỉ ở phương diện văn hố mà cịn có giá trị kinh tế, góp phần thúc đẩy kinh
tế xã hội phát triển.Lễ hội vừa là sản phẩm độc đáo đặc biệt của ngành kinh tế du
lịch, vừa là tài nguyên du lịch nhân văn phong phú và có giá trị. Lễ hội truyền thống
là một "bảo tàng sống” về văn hoá, là nơi sản sinh, nuôi dưỡng, bảo tồn, phát huy
nền văn hoá dân tộc, là nơi sáng tạo lưu giữ những hình thức sinh hoạt văn hố nghệ

thuật đặc sắc và độc đáo, tạo nên những nét văn hóa riêng của từng vùng, từng cộng
đồng người, ẩn chứa trong tầng sâu các lễ tế, trò diễn, các hoạt động cộng đồng
phong phú và hấp dẫn. Bên cạnh đó, lễ hội với những giá trị tâm linh giúp giải thoát
con người khỏi bế tắc và khó khăn cuộc sống, tạo nên niềm lạc quan giúp con người
giải quyết nhu cầu cầu mong cho bản thân gia đình và cộng đồng một cuộc sống
bình an… tạo nên sức hút du lịch mạnh mẽ.
Lễ hội cũng chứa đựng truyền thống văn hoá phong phú kết hợp với hệ thống
di tích lịch sử, cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ kỳ thú của làng quê Việt Nam là những
lời mời gọi thiết tha khách du lịch đến với lễ hội. Ngành du lịch không thể không khai
thác lễ hội truyền thống với tư cách là một nguồn tài nguyên du lịch nhân văn, một
sản phẩm du lịch văn hoá đặc biệt mang lại nguồn thu lớn cho ngành kinh tế du lịch.
Thế giới đang hướng đến một sự phát triển bền vững, một nền công nghiệp
sạch, trong đó du lịch chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. Bản chất của du lịch là
khám phá, tìm hiểu văn hố, nhu cầu du lịch là do nhu cầu văn hố quyết định,
trong đó sự mong muốn hiểu biết văn hố, giao lưu, tìm hiểu phong tục tập quán,
các giá trị văn hoá lại chứa đựng chủ yếu trong lễ hội truyền thống, vì thế lễ hội là
động lực thúc đẩy hoạt động du lịch.Lễ hội truyền thống không phải chỉ là tiềm
năng du lịch nội địa mà còn là tiềm năng du lịch quốc tế, lễ hội cùng với hệ thống di
21


sản văn hoá và cảnh quan thiên nhiên đã là một nguồn lực cho phát triển kinh tế du
lịch. Đúng như một nhà kinh doanh Pháp về tiềm năng du lịch Việt Nam, ơng Jean
Cois Dugard đã nói: "Các bạn nằm ngủ trên một di sản văn hoá lớn, một tiềm năng
kinh tế khổng lồ, các bạn chưa đánh giá đúng, chưa khai thác hết sức mạnh và lợi
nhuận mang lại từ lăng tẩm, cung điện kia”.
Theo Tổng cục Du Lịch Việt Nam thống kê : Đất nước ta với gần 9.000 lễ
hội cùng với hệ thống di tích lịch sử văn hoá của mấy ngàn năm dựng nước với
những cảnh quan thiên nhiên đẹp đẽ, hệ thống di sản văn hoá thế giới, những kỳ
quan thiên nhiên, hệ thống lăng tẩm, bờ biển… đã tạo môi trường tốt cho du lịch.

Do vậy chỉ sau mấy năm đổi mới du lịch Việt Nam đã mang lại nguồn thu lớn: Năm
1994 du lịch Việt Nam đón 1 triệu khách nước ngồi, 3,6 triệu du khách trong nước,
thu hơn 4000 tỷ đồng; Năm 2005 đã có 3,43 triệu lượt khách quốc tế đến Việt Nam
thu 30.000 tỷ đồng, đến năm 2008 khách quốc tế đến Việt Nam là 4,3 triệu lượt
người, khách nội địa là 20 triệu lượt, thu 60.000 tỷ đồng. Bên cạnh đó, lễ hội cùng
với hệ thống di sản văn hố góp phần tạo lập các mối quan hệ kinh tế với nước
ngồi, thơng qua du lịch, việc tìm hiểu các phong tục tập quán, truyền thống văn
hoá tạo nên sự hiểu biết tin cậy lẫn nhau, tạo lập mối quan hệ ngoại giao với đối tác
nước ngoài gia tăng. Đồng thời hệ thống lễ hội truyền thống và di sản văn hoá Việt
Nam là một tiềm năng du lịch để thu hút đầu tư nước ngoài phát triển tại Việt Nam.
Có thể nói di sản văn hố thơng qua hoạt động du lịch là nguồn thu hút vốn
đầu tư nước ngoài tốt nhất với sức hút đặc biệt của nó. Trong số 1000 dự án đầu tư
vào Việt Nam đã được cấp phép với số vốn 10,23 tỷ đơ la thì du lịch chiếm 117 dự
án với số vốn 1,95 tỷ đô la. Như vậy du lịch Việt Nam chiếm 20% số vốn đầu tư
vào Việt Nam… ngoài ra cịn hàng chục triệu đơ la của các tổ chức quốc tế đầu tư
vào việc tôn tạo bảo tồn các di sản văn hố… nguồn vốn này khơng chỉ tạo điều
kiện cho ngành kinh tế du lịch phát triển mà còn tác động đến sự tăng trưởng của
các ngành kinh tế khác và toàn bộ nền kinh tế đất nước.
Vì vậy, lễ hội truyền thống cùng với di sản văn hố Việt Nam mang trong
mình giá trị kinh tế đặc biệt.

22


1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc đối với công tác tổ chức lễ hội
Trước năm 1945 về cơ bản, lễ hội là một phong tục “đến hẹn lại lên”. Ngay
khi giành chính quyền từ tay thực dân Pháp, với tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh
đã kí sắc lệnh về bảo tồn di sản văn hóa lịch sử trong đó có di tích và lễ hội. Nhưng
trong thực tế do hoàn cảnh của cuộc chiến tranh ác liệt kéo dài gần 30 năm cũng
như quan niệm sai lầm, ấu trĩ một thời khiến phần lớn các đình, chùa, miếu mạo,

đền bị phá hủy hoặc hư hại nặng nề. Lễ hội và nhiều hoạt động dân gian khác khơng
có điều kiện tổ chức. Có thể nó đây là “ khoảng đứt đoạn của” truyền thống lễ hội ở
nước ta.
Sau năm 1975, tuy đã giành đươc độc lập và thống nhất đất nước nhưng cả
nước vừa phải tập trung mọi nỗ lực vào để hàn gắn vết thương chiến tranh đồng thời
đối mặt với hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía
Bắc. Chế độ bao cấp lại duy trì qua lâu làm cho bức tranh kinh tế xã hội của xã hội
của đất nước không sang sủa lên trong thời gian dài. Trong bối cảnh ấy, chẳng ai
chú ý đến di sản văn hóa mà tiêu biểu là lễ hội.
Bước sang năm 80, tình hình đổi khác nhanh chóng. Do sự đổ khác nhanh
chóng do có sự ổn định dần quy lai cuộc sống đời thường, tạo điều kiện cho nhu cầu
đã trở thành tiềm thức từ ngàn đời sống lại. Nhân dân đóng góp tiền để tu sửa
những di tích cịn sót lại hoặc dựng mới trên nền những cơng trình tín ngưỡng đã
mất. Cùng với đó nhiều truyền thống lễ hội được phục hồi, chủ yếu đáp ứng nhu cầu
tín ngưỡng của nhân dân, do nhân dân tự tổ chức. Tuy nhiên lễ hội lúc này còn han
chế về tổ chức và quản lý. Với tình hình đó tháng 4/1984 Nhà nước còn ban hành
pháp lệnh “ Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh “.
Đây là cơ sở pháp lý dầu tiên tạo điều kiện và cơ hội cho hàng loạt di tích lịch sử
được trùng tu, tôn tạo điều kiện và cơ hội cho hàng loạt di tích lịch sử được trùng tu,
tôn tạo trong cả nước từ nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội. chỉ vài năm sau
sắc lệnh năm 1984 được ban hành, hàng trăm bằng công nhận di tích lịch sử văn
hóa cấp quốc gia, đây là điều kiện cho lễ hội được phục tồn và tổ chức trở lại.
Sau một thời gian dài trong cơ chế bao cấp, Đảng ta đã đổi mới và chuyển
sang cơ chế thi trường có sự quản lý của nhà nước, mở rộng giao lưu hợp tác quốc
tế nên nền kinh tế được phục hồi và phát triển sự phát triển ngày càng mạnh, nhiều
23


phong tục tập quán cũng được phát huy. Trong đó là sự bùng nổ của các lễ hội dân
tộc và được coi là thời kì phục hưng văn hóa dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên do thiếu

sự định hướng kịp thời nên nhiều nơi xuất hiện những biểu hiện phục hồi hủ tục, mê
tín dị đoan và tiếp thu văn hóa ngoại lai một cách ồ ạt, khơng có sự chon lọc. Hơn
nữa, nhiều gia đình làm xáo mịn đạo đức bởi nó phá hoại thuần phong mỹ tục. ảnh
hưởng lớn tớ đời sống vật chất và tinh thần của người dân, đó là vấn đề xã hội rất
nhức nhối.
Trước tình hình đó Nhà nước ban hành chỉ thi 27/CT – TW ngày 12/1/1998
của Ban chấp hành Trung ưng Đảng về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc
cưới việc tang và lễ hội.
Bộ chính trị đã hướng về nếp sống văn minh trong lễ hội như sau:
+ Bảo tồn chọn lọc, cải tiến, đổi mớ những phong tục tập quán tố đệp của
dân tộc, loai bỏ dần trong cuộc sống những hình thức vừa văn minh, vừa giữ gìn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
+ Lành mạnh, tiết kiệm, tránh xa hoa, lãng phí và phiền nhiễu.
+ Xóa bỏ hủ tục, bài trừ mê tín di doan
Để thực hiện chỉ thị 27, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị 14/CT – TTg ngày
28/3/1998 về việc thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Thủ tướng Chính phủ yêu cầu: các cấp các ngành có kế hoạch tổ chức các hoạt động
cũng như triển khai thực hiện nếp sống văn minh văn hóa, tiến bộ và giàu bản sắc
dân tộc.
Bộ Văn hóa Thơng tin (nay là Bộ Văn hóa – Thể Thao – Du Lịch) ban hành
thông tư 04/1998/TT – BVTT ngày 11/7/1998 về việc nếp sống văn minh theo chỉ thị
của Đảng và Nhà nước. Trong đó quy định rõ một số nguyên tắc về tổ chức lễ hội :
+ Hướng dẫn những ý nghĩa tốt đẹp của ngày lễ, ngày kỉ niệm.
+ Giáo dục truyền thống tốt đệp của dân tộc: về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật
để bồi dưỡng lịng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và thắt chặt tình cảm cộng đồng.
+ Tưởng nhớ cơng đức của thần thánh, tiền nhân, anh hùng dân tộc ghi nhớ
công lao của các tiền bối trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.
+ Giới thiệu các di tích lịch sử, danh lam tháng cảnh, các cơng trình văn hóa
nghệ thuật và phát huy vốn văn hóa truyền thống của dân tộc.
24



+ Tổ chức lễ hội phải được phép quản lý theo phân cấp của Bộ Văn hóa
Thơng tin. Tất cả lễ hội truyền thống đều được cơ quan văn hóa thơng tin kiểm định
nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa, nghi thức truyền thống và giá trị nhân bản trong lễ
hội. Nếu có sự thay đổi về nội dung hoặc hình thức của lễ hội phải được cơ quan có
thẩm quyền của ngành Văn hóa Thơng tin quyết định, được phép của giám đốc Sở
Văn hóa Thơng tin.
Tại Nghị quyết Trung ương 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nêu ra
quan điểm chỉ đạo về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc phải gắn với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc cái
hay, cái tiến bộ trong văn hóa các dân tộc khác, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục tập quán và lề thói cũ.
Tại Quyết định số 39/2001/QĐ/BVHTT của Bộ Văn hóa Thơng tin về việc
ban hành Quy chế tổ chức lễ hội trong đó chương II đề cập đến vấn đề quản lý và tổ
chức lễ hội.
Tại Quyết định số 308/ 2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành
quy chế thực hiên nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội.
Luật Di sản văn hóa Việt Nam điều 25 quy định: “ Nhà nước tạo điều kiện
duy trì và phát huy các giá tri truyền thống, bài trừ các hủ tục chống các biểu hiện
tiêu cực, thương mại hóa trong tổ chức và hoạt động lễ hội. Việc tổ chức lễ hội phải
theo quy định của pháp luật”.
Cục Văn hóa – Thơng tin cơ sở cũng u cầu các địa phương thực hiện công
tác quy hoạch lễ hội, phân cấp quản lý rành mạch, phù hợp với quy mơ, đặc điểm
của di tích và lễ hội. Đối với các lễ hội tổ chức lần đầu, hoặc khôi phục lại sau nhiều
năm gián đoạn, hoặc có thay đổi nội dung hay quy mơ thì phải xin giấy cấp phép tổ
chức. Những lễ hội theo quy định thì khơng phải xin giấy phép mà phải thực hiện
báo cáo bằng văn bản.
Có thể nói, Đảng và Nhà Nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, đường lối,
chính sách ngày càng phù hợp cho việc tổ chức lễ hội ở nước ta góp phần giữ gìn và

phát huy giá trị di sản văn hóa của dân tộc.

25


×