Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Chiet tu mot phuong phap hoc nho chu Han docdao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.47 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>Chiết tự - một phương pháp học,</b></i>


<i><b>nhớ chữ Hán độc đáo</b></i>



Có lẽ, khi đi học chữ Hán, mấy người khơng nhắc cho nhau câu:


<i>Chim chích mà đậu cành tre </i>
<i>Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm. </i>


<i>(Chiết tự chữ đức </i><b>)</b>


Đó là một trong những mẹo nhớ chữ Hán của người xưa thường được gọi là chiết tự.
Chiết tự nảy sinh trên cơ sở nhận thức về hình thể của chữ Hán, cách ghép các bộ, cách bố trí các bộ,
các phần của chữ. Trên phương diện nào đó, chiết tự chính là sự vận dụng phân tích chữ Hán một
cách linh hoạt sáng tạo. Hơn thế nữa, nó khơng chỉ dừng lại ở hình thức phân tích chữ Hán thuần túy
mà còn chuyển sang địa hạt văn chương và các trị chơi thử tài trí tuệ đầy thú vị và hấp dẫn. Như
chúng ta đã biết, ở chữ Hán luôn có sự kết hợp nổi bật của ba mặt: hình - âm - nghĩa. Và chiết tự trong
những chữ Hán đã phát huy đặc điểm cấu trúc ba mặt này để tạo nên nét riêng độc đáo so với chiết tự
ở những hệ thống văn tự khác. Chiết tự trong chữ Hán khơng chỉ chiết về mặt hình thể chữ mà còn liên
hệ với cả phương diện âm và nghĩa. Về mặt hình thể, chiết tự dựa trên nguyên tắc phân


Chữ Hán ra các bộ phận cấu thành của chữ. Về mặt âm, chiết tự sử dụng các tri thức mang tính ngữ
âm học như nói lái và phiên thiết. Về mặt nghĩa, chiết tự dựa vào bản chất biểu ý của chữ Hán. Một chữ
Hán bất kỳ cũng gồm nhiều nét hay các phần tạo nên. Với chữ độc thể là các nét. Với chữ hợp thể là
các bộ phận hợp thành phức tạp hơn về cấu trúc.


Chính nhờ nét riêng độc đáo này, chiết tự trong chữ Hán trở nên đa dạng về hình thức và kiểu loại,
phong phú về nghệ thuật ngôn từ. Để dễ nhớ, chiết tự thường được thể hiện dưới dạng thơ hoặc văn
vần qua hàng loạt các bài thơ, câu đố chiết tự, rất cuốn hút đối với người học chữ. Những câu chiết tự
kiểu như:


<i>Cơ kia đội nón chờ ai </i>


<i>Hay cơ n phận đứng hồi thế cơ. </i>


<i>(Chữ an </i><b>)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>- Đấm một đấm, hai tay ôm quàng </i>
<i>Thuyền chèo trên núi, thiếp hỏi chàng chữ chi ? </i>


<i>- Lại đây anh nói nhỏ em nì </i>
<i>Ấy là chữ mật một khi rõ ràng.</i>


Đấm một đấm hai tay ôm quàng là dáng thuyền chèo là dáng dấp của chữ tất , thuyền chèo trên núi,
dấp của bộ miên trên chữ sơn có chữ tất . Ghép lại chúng ta được chữ mật (bí mật, rậm rạp) (Chiết


tự dựa vào hình thể).


Hay như:


<i>Hai người đứng giữa cội cây, </i>
<i>Tao chẳng thấy mày, mày chẳng thấy tao.</i>


Đó là hình chữ lai . Chữ lai có hình hai chữ nhân ở hai bên, chữ mộc ở giữa. Thực ra hai chữ
nhân này vốn là tượng hình hai cái gai. Lai là tên một loại lúa có gai, sau được dùng với nghĩa là đến.
(Chiết tự về mặt hình thể).


<i>Ba xe kéo lê lên đàng, âm vang như sấm.</i>


Đó là chữ oanh . Chữ oanh được viết với ba chữ xa và có nghĩa là "tiếng động của nhiều xe cùng
chạy". (Chiết tự về mặt ý nghĩa).


<i>Tây quốc hữu nhân danh viết Phật, </i>


<i>Đơng mơn vơ thảo bất thành "lan".</i>


Câu trên có thể dịch là: "Nước phương Tây có người tên là Phật". Phật Thích Ca là người Tây Trúc (ấn
Độ) so với nước ta thì ở phương Tây, chữ Phật được viết với chữ nhân đứng cạnh chữ tây trên chữ
quốc . Chữ này khơng thấy có trong các từ điển, tự điển của Trung Quốc (như Khang Hy tự điển, Từ
nguyên, Từ hải...) nhưng có mặt trong một số câu đối tại các chùa Việt Nam.
Câu dưới có nghĩa: "Cửa phía Đơng khơng có cỏ khơng thành lan”. Chữ lan (hoa lan) được viết: thảo
đầu (cỏ), ở dưới là chữ lan (lan can) gồm chữ môn (cánh cửa), bên trong có chữ đơng (phương
Đơng). Trong cách viết chính quy phải thay đông bằng giản (Chiết tự về mặt ý nghĩa).
Chiết tự về mặt âm đọc trong chữ Hán tiêu biểu nhất là lối phiên thiết phục vụ cho việc chú âm trong
các sách học, các tự điển. Nó cũng xuất hiện rải rác trong các câu đố chữ Hán. Ví dụ như:


<i>Con gái mà đứng éo le, </i>
<i>Chồng con chưa có kè kè mang thai.</i>


Đây là câu đố chiết tự chữ thủy . Chữ thủy vốn là một chữ hình thanh, có chữ thai 台 chỉ âm, chữ nữ


(con gái) nói nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

kèm theo cả phần hình thể hoặc ý nghĩa.
Qua những ví dụ chúng tơi vừa dẫn ra trên đây, có thể thấy các câu đố chiết tự này có ý nghĩa khơng
nhỏ đối với việc học nhớ chữ Hán. Dựa vào việc phân tích và mơ tả cụ thể, sinh động hình thể chữ
Hán, các câu đố chữ Hán đã giúp cho người giải đố có khả năng tái hiện lại những chữ đã học khơng
mấy khó khăn. Đồng thời, nó cũng giống như một bài kiểm tra định kỳ cho người mới học mà việc thuộc
lòng đề bài và lời giaỉ là rất dễ dàng (do tính ấn tượng của nó). Chẳng hạn những câu như:


<i>Anh kia tay ngón xuyên tâm</i>.
(Chữ tất )


<i>Mặt trời đã xế về chùa. </i>



(Chữ thời )


Việc vận dụng các liên tưởng hình ảnh vào hình thể, âm đọc hay ý nghĩa của chữ đã làm cho chiết tự
nói chung và chiết tự trong câu đố chữ Hán nói riêng có tính sáng tạo cao. Nhờ đó mà các bộ phận cấu


thành chữ Hán trở nên sống động, có hồn.


Trong số 70 câu đố chữ Hán trong kho tàng câu đố Việt Nam mà chúng tơi sưu tập được, có đặc điểm


chiết tự khá thú vị. Chẳng hạn:


Dưới đây là một số ví dụ:


<i>- Có tú mà chẳng có tài, </i>


<i>Cầm ngang ngọn giáo, đâm ngồi đít d</i>ê. (Chữ hy )


<i>- Chữ lập đập chữ viết, chữ viết đập chữ thập.</i> (Chữ chương )
- <i>Đất thì là đất bùn ao, </i>


<i>Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay. </i>
<i>Con ai mà đứng ở đây, </i>


<i>Đứng thì chẳng đứng, vịn ngay vào sào</i>. (Chữ hiếu )
- <i>Một vại mà kê hai chân, </i>


<i>Con dao cái cuốc để gần một bên</i>. (Chữ tắc )


<i>- Nhị hình, nhất thể, tứ chi, bát đầu, </i>


<i>Tứ bát, nhất bát phi toàn ngưỡng lưu</i>. (Chữ tỉnh )


<i>- Đóng cọc liễn leo, tả trên nhục dưới, giải bơi chèo</i>. (Chữ tùy )


<i>- Đêm tàn nguyệt xế về Tây, </i>


<i>Chó sủa canh chầy, trống lại điểm tư.</i> (Chữ nhiên )


<i>- Con dê ăn cỏ đầu non, </i>


<i>Bị lửa cháy hết khơng cịn chút đi</i>. (Chữ mỹ )
- <i>Thương em, anh muốn nên duyên, </i>
<i>Sợ e em có chữ thiên trồi đầu</i> (Chữ phu )


<i>- Khen cho thằng nhỏ có tài, </i>


<i>Đầu đội cái mão đứng hoài trăm năm</i>. (Chữ dũng )


<i>- Thiếp là con gái còn son, </i>


<i>Nếp hằng giữ vẹn ngặt con dựa kề</i>. (Chữ hảo )


<i>- Ruộng kia ai cất lên cao, </i>


<i>Nửa vầng trăng khuyết, ba sao giữa</i> trời. (Chữ tư )


<i>- Đất cứng mà cắm sào sâu, </i>


<i>Con lay chẳng nổi, cha bâu đầu vào</i>. (Chữ giáo 教)



<i>- Em là con gái đồng trinh </i>


<i>Chờ người tuổi Tuất gá mình vơ em</i>. (Chữ uy )


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>- Đất sao khéo ở trong cung, </i>


<i>Ruộng thời hai mẫu, bờ chung ba bờ</i>. (Chữ cương )


<i>- Muốn cho nhị mộc thành lâm </i>
<i>Trồng cây chi tử tiếng tăm lâu ngày</i>. (Chữ tự )


<i>- Hột thóc, hột thóc, phẩy đi trê, </i>
<i>Thập trên nhất dưới bẻ què lê.</i> (Chữ pháp )


Nhìn chung, các câu đố liên quan đến chiết tự chữ Hán đều dựa vào ba mặt hình - âm - nghĩa của chữ
Hán để "chiết" và "đố" chữ. Chúng tôi đã thống kê được 44 chữ chiết tự về mặt hình thể, 28 chữ chiết
tự về mặt ý nghĩa, và chỉ có một trường hợp được chiết tự về mặt âm đọc (chữ thủy 始) trên tổng số 73
chữ được sưu tập. Như thế, chiết tự về hình thể chiếm số lượng nhiều hơn. Điều đó có nghĩa là việc
nhận biết và nhớ hình thể chữ Hán ln là u cầu đầu tiên đối với người học chữ Hán. Hai bảng thống
kê 72 chữ chiết tự về mặt hình thể và ý nghĩa sẽ được chúng tôi để ở phần Phụ lục.


Qua thống kê, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ chữ được chiết tự về mặt hình thể chiếm khá cao, 60% (44 chữ
trong tổng số 73 chữ được chiết tự). Trong khi đó, tỉ lệ chữ được chiết tự về mặt ý nghĩa là 38% (28
chữ trên tổng số 73 chữ được chiết tự). Chỉ có 2% cịn lại là số chữ được chiết tự về mặt âm đọc. Điều
này chứng tỏ khi đem các chữ Hán ra chiết tự, người ta thường chú trọng đến hình thể chữ. Bằng cách
chú ý đến hình thể, chiết tự sẽ giúp cho người mới học dễ dàng tưởng tượng và hình dung ra các chữ
Hán cồng kềnh, nhiều nét mà họ đã học. Tất nhiên, khơng ít trường hợp chiết tự đã áp dụng vào tục tự,
biệt tự.


Phép phân tích chữ Hán được áp dụng chủ yếu trên cơ sở phân tích các thiên bàng tổ hợp nên hợp thể


tự. Các thiên bàng này cũng là những độc thể tự. Tuy nhiên, ở nhiều trường hợp chiết tự, phép phân
tích này cịn được tiến hành trên cả độc thể tự qua phương thức mô tả từng bộ phận của chữ. Điều đó
rất phù hợp với điều kiện truyền thống, khi chiết tự được thực hiện trên cơ sở phân tích hình thể chữ
Hán.


Tỉ lệ chữ độc thể và hợp thể được đưa ra chiết tự trong các câu đó cũng khơng giống nhau. Trong đó,
chiết tự). Trong 70% cịn lại là chữ hợp thể thì chữ hội ý chiếm đa số.


So sánh hai bảng thống kê, chúng tơi cịn thu được những kết quả rất khác nhau về tỉ lệ chữ độc thể. Tỉ
lệ chữ độc thể ở bảng 1 cao gấp 2 lần tỉ lệ chữ độc thể ở bảng 2 (36% so với 18%). Kết quả ấy chứng
tỏ khi chiết tự, những chữ độc thể chủ yếu áp dụng phương thức tả chữ.


Cũng qua hai bảng thống kê, tôi nhận thấy các chữ Hán được chiết tự đều là những chữ thông dụng,
thường dùng trong đời sống hàng ngày qua hệ thống tiếng Hán - Việt của chúng ta. Ví dụ như các chữ
thánh , vương , thủy , tử , an , điền , pháp ... Vì vậy, tìm hiểu chiết tự cịn rất tiện ích cho việc phổ cập
tri thức về chữ Hán trong trường phổ thông, giúp người Việt thơng hiểu hơn tiếng nói của mình.


</div>

<!--links-->

×