Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tóm tắt Luận án Tiến sĩ Y học: Nghiên cứu nồng độ sắt, ferritin và khả năng gắn sắt toàn phần trong huyết tương ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị thay thế thận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (577.66 KB, 28 trang )

1
MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thận mạn tính ngày càng gia tăng trên thế giới cũng như tại  
Việt nam do sự gia tăng nhanh chóng các ngun nhân gây tổn thương 
thận như đái tháo đường và tăng huyết áp. Dựa vào thay đổi mức lọc  
cầu thận, bệnh nhân bệnh thận mạn tính được phân chia thành 5 giai  
đoạn, các giai đoạn tuần tự, kế  tiếp nhau. Từ  giai đoạn 3 đến giai  
đoạn 5 của bệnh thận mạn tính (mức lọc cầu thận < 60 ml/phút) là  
giai đoạn có suy thận mạn tính. Khi mức lọc cầu thận < 15 ml/phút 
bệnh nhân cần được điều trị  thay thế  thận suy bằng lọc máu hoặc 
ghép thận 
Thiếu máu là biểu hiện thường gặp  ở bệnh nhân bệnh thận mạn 
tính. Thiếu máu thường do kết hợp 3 nhóm ngun nhân: do cơ  quan  
tạo  máu,   do   thiếu   ngun   liệu   và   do   chảy   máu,   trong   đó   thiếu 
erythropoietin và sắt  là hai yếu tố  quan trọng.  Tình trạng thiếu sắt 
xuất hiện  ở  những bệnh nhân bệnh thận giai đoạn có suy thận (mức 
lọc cầu thận < 60 ml/phút). Những bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai 
đoạn cuối tỷ lệ thiếu sắt cao, tuy nhiên những bệnh nhân lọc máu lại  
có hiện tượng thừa sắt. Việc thiếu hay thừa sắt trong cơ  thể  bệnh  
nhân bệnh thận mạn tính đều ảnh hưởng đến chất lượng điều trị thiếu  
máu ở nhóm bệnh nhân này. 
Theo khuyến cáo của Tổ  chức quản lý chất lượng điều trị  bệnh  
thận quốc gia (National Kidney Foundation Disease Outcomes Quality  
Initiative­ NKF­ K/DOQI), để  điều trị  thiếu máu  ở  bệnh nhân bệnh 
thận mạn tính hiệu quả, bên cạnh việc cung cấp erythropoietin bệnh  
nhân cần được bổ  sung thêm acid amin, các ngun tố  vi lượng và 
đặc biệt là sắt. Trên bệnh nhân bệnh thận mạn tính, cần xác định tình 
trạng dự trữ sắt huyết tương và phân mức: thiếu sắt, đủ  sắt và thừa  
sắt. Cũng theo khuyến cáo này, để  bù sắt đủ  cần dựa vào hai chỉ  số 
ferritin   và   độ   bão  hòa   transferin.   Độ   bão   hoà   transferrin   được   tính 


thơng qua 2 chỉ  số  sắt huyết tương và khả  năng gắn sắt tồn phần  
(Total Iron Binding Capacity – TIBC). Như vậy, có ba đại lượng cần 
thiết nhất để đánh giá tình trạng thừa thiếu sắt là sắt, ferritin và khả 
năng gắn sắt tồn phần. 
Tại Việt Nam, đã có nhiều cơng trình đã nghiên cứu về tình trạng sắt, 
ferritin, transferrin huyết tương ở bệnh nhân suy thận mạn tính, tuy nhiên 
chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến khả năng gắn sắt tồn phần huyết  


2
tương và đánh giá tình trạng dự trữ sắt theo khuyến cáo của Hội thận  
học thế giới  ở  bệnh nhân bệnh thận mạn chưa điều trị  thay thế  thận.  
Với những lý do trên, chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề  tài:  “Nghiên  
cứu nồng độ  sắt, ferritin và khả  năng gắn sắt tồn phần trong  
huyết tương ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị thay  
thế thận”
1. Mục tiêu nghiên cứu 
     Nghiên cứu được thực hiện  ở các bệnh nhân được chẩn đốn bệnh 
thận mạn tính (BTMT) có mức lọc cầu thận (MLCT) < 60 ml/phút, chưa  
điều trị thay thế thận tại Khoa Thận – Lọc máu, Bệnh viện Qn y 103,  
với 2 mục tiêu sau: 
     ­ Mơ tả  đặc điểm thiếu máu, nồng độ  sắt, ferritin, khả  năng gắn  
sắt tồn phần trong huyết tương và đánh giá tình trạng dự  trữ  sắt  
theo KDIGO ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai đoạn 3 đến 5 chưa  
điều trị thay thế thận.
       ­ Xác định mối liên quan giữa nồng độ  sắt, ferritin, TIBC huyết  
tương và tình trạng dự trữ sắt với một số đặc điểm bệnh nhân bệnh  
thận mạn tính chưa điều trị thay thế thận.  
2. Tính cấp thiết của đề tài 
      Thiếu máu là biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân BTMT, đặc biệt 

các bệnh nhân có MLCT < 60 ml/phút (bệnh nhân có suy thận). Cơ 
chế  thiếu máu của BTMT liên quan đến thiếu Erythropoietin và các 
ngun liệu tạo máu trong đó có sắt. Bồi phụ  sắt cho bệnh nhân  
BTMT trong điều trị thiếu máu cần có căn cứ khoa học và là một vấn  
đề khó cho các bác sỹ lâm sàng.
       Theo khuyến cáo của Hội thận học Thế giới và Việt nam, cần  
phải xác định tình trạng dự  trữ  sắt trước khi bù sắt. Đánh giá tình  
trạng sắt cần dựa vào nồng độ  ferritin huyết tương và độ  bão hồ 
transferin, trong đó độ bão hồ transferin được tính qua nồng độ sắt và 
TIBC huyết tương. Như  vậy, nghiên cứu nồng độ  sắt, ferritin, TIBC  
huyết tương, từ đó xác định tình trạng dự trữ sắt ở bệnh nhân BTMT  
chưa điều trị thay thế thận là một nghiên cứu cần thiết cho lâm sàng. 
3. Những đóng góp mới của đề tài luận án
Đây là cơng trình nghiên cứu trong nước đầu tiên định lượng nồng  
độ TIBC huyết tương, được Hội thận học khuyến cáo sử  dụng cùng  
với nồng độ sắt và ferritin để đánh giá tình trạng dự trữ sắt của bệnh 


3
nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị thay thế thận. Kết quả đề  tài  
đã khẳng định TIBC huyết tương trung bình  ở  bệnh nhân bệnh thận  
mạn tính chưa lọc máu thấp hơn nhóm chứng người bình thường.  
Kết quả  đề  tài cũng cho thấy tỷ lệ  bệnh nhân thiếu dự  trữ  sắt cao.  
Có một số yếu tố liên quan đến giảm TIBC và giảm dự  trữ  sắt, dựa  
vào kết quả này các nhà lâm sàng sẽ có chiến lược bù sắt, nâng cao  
hiệu quả điều trị thiếu máu cho bệnh nhân bệnh thận mạn tính. 
4. Cấu trúc của luận án: Luận án dài 118 trang. Đặt vấn đề: 2 trang, 
tổng quan: 34 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 16 trang,  
kết quả  nghiên cứu: 32 trang, bàn luận: 31 trang, kết luận và kiến  
nghị: 3 trang. Trong luận án có 55 bảng, 13 biểu đồ, 1 sơ đồ, 02 hình.  

Tài liệu tham khảo có 136, trong đó có 21 tiếng Việt và 115 tiếng  
Anh. 
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Thiếu máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính
       Theo tổ  chức y tế thế giới, thiếu máu là tình trạng giảm huyết  
sắc tố lưu hành ở máu ngoại vi dưới mức bình thường so với người  
cùng giới, cùng lứa tuổi và trong cùng một mơi trường sống. Theo tổ 
chức thận học quốc tế   ở  bệnh nhân bệnh thận mạn tính (BTMT)  
chẩn đốn thiếu máu khi Hb < 130g/l với nam, Hb < 120g/l với nữ, Hb  
< 110g/l với phụ nữ có thai.
1.2. Đánh giá tình trạng dự trữ sắt ở bệnh nhân bệnh thận mạn  
tính
       Trên lâm sàng, có nhiều chỉ số đánh giá chức năng sắt của người  
khoẻ  mạnh và của bệnh nhân bệnh thận mạn tính nói chung, bệnh 
nhân suy thận mạn tính nói riêng. Theo KDOQI và KDIGO, một số 
chỉ   số   thường   được   sử   dụng   trong   lâm   sàng   đó   là:   sắt,   ferritin,  
transferin,   TIBC   và   tính   tốn   độ   bão   hồ   transferrin   (Transferrin 
Saturation – TSAT). 
       Để đánh giá tình trạng dự trữ sắt, Hội thận học quốc tế khuyến  
cáo dựa vào 2 chỉ số ferritin và TSAT. Tính TSAT theo cơng thức sau: 
                                                    Sắt huyết t ương ( µmol/l) x 100
                              TSAT (%) = ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­


4
                                                            TIBC (µmol/l)
+ Thiếu sắt tuyệt đối: 
­ Bệnh nhân BTMT chưa điều trị thay thế thận: nồng độ ferritin huyết  
tương < 100ng/ml và hoặc độ bão hịa transferrin huyết tương < 20%.
­ Bệnh nhân BTMT lọc máu chu kỳ: nồng độ ferritin huyết tương < 

200ng/ml và hoặc độ bão hịa transferrin huyết tương < 20%.
 + Thiếu sắt chức năng: Nồng độ ferritin huyết tương ≥ 200ng/ml và 
độ bão hịa transferrin huyết tương < 20%.
+ Đánh giá thừa sắt cho bệnh nhân BTMT chưa điều trị  thay thế 
thận: Nồng độ ferritin huyết tương ≥ 500ng/ml và hoặc TSAT ≥ 50%
1.3.   Các   nghiên  cứu   về   sắt,   ferritin,   TIBC   ở   bệnh   nhân   bệnh 
thận mạn tính.
+  Trên thế  giới đã có nhiều nghiên cứu về  sử  dụng TIBC, sắt và  
ferritin huyết tương  để  đánh giá tình trạng dự  trữ  sắt  ở  bệnh nhân 
BTMT có và chưa lọc máu. Nhiều nghiên cứu đánh giá kết quả  bù sắt  
trong điều trị thiếu máu ở nhóm bệnh nhân bệnh thận mạn tính.
+ Tại Việt Nam: Một số nghiên cứu về nồng độ sắt, ferritin huyết 
tương, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào về TIBC, đánh giá tình trạng dự 
trữ  sắt  ở  nhóm bệnh nhân suy thận mạn chưa lọc máu với số  lượng 
bệnh nhân lớn.  
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện trên 190 đối tượng, được chia làm 2 nhóm:
­ Nhóm nghiên cứu: 124 bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai đoạn 3  
đến 5, chưa điều trị  thay thế  thận (Bệnh nhân BTMT có MLCT < 60  
ml/phút), điều trị nội trú tại Khoa Thận – Lọc máu, Bệnh viện Qn y  
103. 
­ Nhóm chứng người bình thường: 66 người. 
­ Thời gian nghiên cứu: 01/2014 – 04/2018
         + Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu 
­ Nhóm chứng: Người trưởng thành khoẻ  mạnh, khơng mắc bệnh 
thận, tiết niệu, đồng ý tham gia nghiên cứu. 
­ Nhóm bệnh: Bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai đoạn 3 đến 5 
chưa điều trị  thay thế  thận, tuổi của bệnh nhân ≥ 16 tuổi  và đồng ý 
tham gia nghiên cứu. 



5
         + Tiêu chuẩn loại trừ
­ Nhóm chứng: Mất máu cấp tính trong vịng 3 tháng trước đó hoặc  
đang bị chảy máu. Người mang thai hoặc mới sinh con trong vịng 6 tháng  
trước. 
­ Nhóm bệnh: Đã truyền máu trong thời gian 3 tháng trước đó. Bị 
mất máu cấp tính trong vịng 3 tháng trước hoặc đang bị chảy máu trong  
thời gian nghiên cứu. Bệnh nhân đã và đang sử dụng các chế phẩm sắt  
hoặc sắt. Bệnh nhân BTMT có chỉ định lọc máu cấp cứu. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
­ Thực hiện nghiên cứu mơ tả, cắt ngang so sánh bệnh chứng 
­ Tính cỡ mẫu:
Tỷ  lệ  bệnh nhân bệnh thận mạn tính thiếu sắt huyết tương từ 
54,4% đến 63,5% của các nghiên cứu trước đó. 
Tính cỡ mẫu theo cơng thức sau:
                        (Z1­α/2)2 x p (1­p)
                 n = ­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­­ 
                                D2
Trong đó: Z = 1,96, với độ tin cậy là 95%
       p = 0,544 (giá trị  thấp nhất tỷ  lệ   ở  các nghiên cứu 
trước)
    D = 0,1, độ chính xác mong muốn.
Theo cách tính, tối thiểu nghiên cứu phải có 96 bệnh nhân.
Trong nghiên cứu sử dụng n = 124 bệnh nhân.
2.2.1. Các chỉ tiêu nghiên cứu
         Bệnh nhân vào viện, được hỏi bệnh và khám bệnh, theo mẫu  
bệnh án nghiên cứu được thu thập các chỉ tiêu sau:
­ Tuổi, giới, tiền sử mắc bệnh

­ Đo huyết áp, đo chiều cao, cân nặng, tính BMI
­ Các xét nghiệm cận lâm sàng bao gồm: huyết học, sinh hố (glucose, 
ure, creatinine, albumin, acid uric, 4 chỉ s ố lipid máu, điện giải máu, 
hs­CRP máu...
­ Định lượng nồng độ  sắt, ferritin, và TIBC huyết tương: Lấy máu 
tĩnh mạch, lúc đói, sáng sớm. Định lượng sắt, ferritin trên hệ  thống  
máy Cobas 6000, kít của hãng Roche tại Khoa Sinh hố, Bệnh viện  
Qn y 103. Định lượng TIBC bằng phương pháp ELISA tại Bộ mơn 
Sinh lý bệnh, Học viện Qn y. Định lượng cả nhóm bệnh và chứng.


6
­ Tính mức lọc cầu thận theo hướng dẫn của NKF­K/DOQI sử dụng  
cơng thức tính MDRD trên máy tính dựa vào nồng độ  creatinin, tuổi,  
giới và chủng tộc.
­ Tính độ bão hồ transferrin theo nồng độ sắt và TIBC huyết tương.
­ Phân chia tình trạng dự  trữ  sắt dựa khuyến cáo của KDIGO  và  
KDOQI, qua 2 chỉ số ferritin huyết tương và TSAT đã tính tốn. 
­ Các tiêu chuẩn chẩn đốn, phân loại và đánh giá dựa vào các khuyến  
cáo của các hiệp hội chun ngành trong nước và quốc tế.
­ Đánh giá tăng; giảm nồng độ sắt, ferritin, TIBC nhóm bệnh dựa vào 
kết quả nhóm chứng. 
2.2.2. Xử lý số liệu
­ Các số  liệu được xử  lý theo phương pháp thống kê y học bằng 
chương   trình   phần   mềm   SPSS   16.0.   Phân   tích   hồi   qui   đa   biến 
Logistic.
­ Các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tỷ lệ %, so sánh 2 giá trị trung 
bình và tỷ lệ  % bằng t­test, so sánh nhiều tỷ lệ  bằng test  2, so sánh 
nhiều giá trị trung bình bằng kiểm định Anova, tính hệ số tương quan  
r.

2.2.3. Đạo đức trong nghiên cứu 
­ Nghiên cứu khơng vi phạm đạo đức trong y học, phục vụ cho sàng  
lọc cho bệnh nhân bệnh thận mạn tính. 
­  Nghiên  cứu được thơng qua đề  cương chi tiết được thơng qua Bộ 
mơn Tim­Thận­Khớp­Nội tiết, Học viện Qn y trước khi thực hiện.
­ Nghiên cứu sinh tự chi trả tiền định lượng TIBC
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
­ Đặc điểm tuổi và giới: 
+ Nhóm chứng gồm 66 người có tuổi trung bình là 41,86 ± 5,68 tuổi, 
nam chiếm 69,7% và nữ chiếm 30,3%.
+ Nhóm nghiên cứu gồm 124 bệnh nhân có tuổi trung bình là 52,65 ± 
17,95 tuổi, nam chiếm 72,6% và nữ chiếm 27,4%. 
­ Ngun nhân của BTMT:  Viêm cầu thận mạn chiếm cao nhất là 
49,2%, tiếp đến do Viêm thận bể  thận mạn tính chiếm 16,9%, Tăng  
huyết áp chiếm 15,3%, Đái tháo đường là 12,9%, thấp nhất do thận  
đa nang chỉ chiếm 3,2% và 2,4% bệnh nhân suy thận do gút.


7
­   Tỷ   lệ   bệnh   nhân   BTMT   giai   đoạn   5   chiếm   chủ   yếu   là   79,8%,  
BTMT giai đoạn 4 và 3 chỉ  chiếm 20,2%.   Mức lọc cầu thận trung 
bình trong nghiên cứu là 8,3 ml/phút.
­ Có tới 89,5% bệnh nhân THA trong nghiên cứu, chỉ  có 10,5% bệnh  
nhân khơng THA.
­ Nhóm bệnh nhân có chỉ  số  BMI trung bình chiếm tỷ  lệ cao nhất là 
70,2%, tỷ lệ thừa cân và béo phì chỉ chiếm 15,3% và thiếu cân chiếm 
14,5%. BMI trung bình là 20,05.
3.2.   Đặc   điểm   thiếu   máu,   nồng   độ   sắt,   ferritin,   TIBC   huyết 
tương và tình trạng dự  trữ sắt theo KDIGO  ở bệnh nhân bệnh 

thận mạn tính
3.2.1. Đặc điểm thiếu máu nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.1. Tỷ lệ bệnh nhân theo mức độ thiếu máu (n = 124)
Mức độ thiếu máu 
Số BN
Tỷ lệ (%)
Khơng thiếu máu 
05
4,0
Có thiếu máu 
119
96,0
Mức độ nhẹ
34
27,4
Mức độ vừa
43
34,7
  Mức độ nặng 
42
33,9
Hemoglobin trung bình (g/l)
91,13 ± 22,01
­ Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu là 96,0%, Hb trung bình là 91,13 g/l. 
­ Thiếu máu mức độ nhẹ chiếm 27,4%, mức độ vừa là 34,7% và mức  
độ nặng chiếm 33,9%
Bảng 3.2. Tỷ  lệ  bệnh nhân theo kích thước hồng cầu (n =  
119)
Tính chất thiếu máu  
Số BN

Tỷ lệ (%)
HC nhỏ
12
10,1
HC bình thường
107
89,9
HC to
0
0


8
­ Trong nhóm bệnh nhân thiếu máu, có 10,1% bệnh nhân thiếu máu có 
kích thước HC nhỏ. Số BN có kích thước HC bình thường chiếm đa số 
89,9%.
Bảng 3.3. Tỷ lệ bệnh nhân theo tính chất thiếu máu (n = 119)
 Tính chất thiếu máu  
Số BN
Tỷ lệ (%)
Thiếu máu nhược sắc
42
35,3
Thiếu máu đẳng sắc
74
62,2
Thiếu máu ưu sắc
3
2,5
­ Trong số BN thiếu máu thiếu máu nhược sắc chiếm tới 35,3%, tỷ lệ 

bệnh nhân thiếu máu ưu sắc là 2,5%. 
­ Chiếm cao nhất là BN thiếu máu đẳng sắc 62,2%. 
3.2.2. Nồng độ  sắt, ferritin, TIBC huyết tương  ở  đối tượng nghiên  
cứu 
Bảng 3.4. So sánh nồng độ sắt, ferritin và TIBC huyết tương 
nhóm bệnh nhân và nhóm chứng
Nhóm chứng 
Nhóm bệnh 
Chỉ số
p
(n = 66)
(n = 124)
Sắt* 
Trung 
15,81 
10,7 
< 0,001
(µmol/l)
vị
(11,56 – 19,26)
(6,62 – 15,25)
Min
7,3
2,1
Max
31,4
41,6
Ferritin*  Trung 
198,45 
403,73 

< 0,001
(ng/ml)
vị
(68,05 – 255,22) (211,36 ­ 548,42)
Min
16,5
31
Max
383,4
1070,1
TIBC* 
Trung 
67,58 ± 11,58
50,64 ± 19,79
< 0,001
(µmol/l)
bình
Min
46,12
17,5
Max
90,63
98,21
* Khoảng giá trị bình thường theo nhóm chứng: Sắt (Percentiles 2,5%  
­   97,5%):   7,31   –   29,8  µmol/l;   Ferritin   (Percentiles   2,5%   ­   97,5%):  
16,77 – 375,16 ng/ml; TIBC: Mean ± 1,96xSD: 44,89 – 90,27 µmol/l
­   Nồng   độ   sắt   và   TIBC   huyết   tương   nhóm   bệnh   thấp   hơn   nhóm 
chứng có ý nghĩa thống kê, p < 0,001.



9
­ Ngược lại, nồng độ  ferritin huyết tương nhóm bệnh cao hơn nhóm  
chứng có ý nghĩa, p < 0,001.
Bảng 3.5. Tỷ lệ bệnh nhân theo tăng; giảm nồng độ sắt, ferritin 
và TIBC huyết tương nhóm bệnh so nhóm chứng (n = 124)
Chỉ tiêu
Số lượng BN
Tỷ lệ %
Giảm
36
29
Sắt (µmol/l) 
Bình thường
84
67,7
Tăng
4
3,2
Giảm
0
0
Ferritin (ng/mL)
Bình thường
56
45,2
Tăng
68
54,8
Giảm
59

47,6
TIBC (µmol/L)
Bình thường
63
50,8
Tăng
2
1,6
­ Nồng độ sắt huyết tương nhóm bệnh nhân bình thường chiếm đa số 
67,7%, có tới 29% bệnh nhân có nồng độ sắt huyết tương giảm, 3,2%  
tăng hơn so nhóm chứng. 
­ Trong khi đó có tới 54,8% bệnh nhân tăng nồng độ  ferritin so nhóm  
chứng.
­ Tỷ lệ bệnh nhân giảm TIBC là 47,6%, chỉ có 1,6% bệnh nhân tăng TIBC. 
3.2.3. Đánh giá tình trạng dự  trữ  sắt huyết tương theo KDIGO  ở  
nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.6. Đặc điểm độ bão hồ transferin nhóm bệnh nhân 
nghiên cứu (n = 124)
Đặc 
điểm

Chung (n = 124)

Nam (n = 90)

Nữ (n = 34)

Số BN

Tỷ lệ 

%

Số 
BN

Tỷ lệ 
%

Số 
BN

Tỷ lệ 
%

Thấp

38

30,6

26

28,9

12

35,3

Bình 
thường


76

61,3

55

61,1

21

61,8

Cao

10

8,1

9

10

1

2,9

P

> 0,05



10
Giá trị 
22,31 
22,3 
22,02 
trung vị 
> 0,05
(17,77 – 33,5)
(18,5 – 34,47) (13,29 – 26,68)
(%)
­  Tỷ  lệ  bệnh nhân có TSAT mức thấp < 20% là 30,6%, mức cao >  
50% chỉ là 8,1%, cịn lại mức trung bình chiếm đại đa số 61,3%. 
­ Khơng có sự khác biệt về tỷ lệ các mức TSAT giữa nam và nữ.
­ Giá trị trung bình của TSAT là 22,31%. 
Bảng 3.7. Tình trạng dự trữ sắt huyết tương ở nhóm bệnh nhân 
nghiên cứu theo theo KDIGO (n = 124)
Tình trạng dự trữ sắt huyết 
tương* 

Số lượng BN

Tỷ lệ (%)

Thiếu sắt 

46

37,1


Đủ sắt

30

24,2

Thừa sắt 
48
38,7
*Thiếu sắt: Ferritin < 100 và/hoặc TSAT < 20%; Thừa sắt:  
Ferritin > 500 và/hoặc TSAT > 50%
­ Dựa theo khuyến cáo của KDIGO 2007 cho bệnh nhân bệnh thận 
mạn chưa lọc máu, tỷ lệ bệnh nhân thiếu sắt dự trữ trong nghiên cứu 
là 37,1%, tuy nhiên cũng có tới 38,7% bệnh nhân thừa sắt. 
3.3. Mối liên quan giữa sắt, ferritin, TIBC và tình trạng dự  trữ 
sắt với một số đặc điểm bệnh nhân bệnh thận mạn
3.3.1. Liên quan với giai đoạn bệnh thận mạn  
Bảng 3.8. So sánh giá trị trung bình nồng độ sắt, ferritin và TIBC 
huyết tương với giai đoạn bệnh thận mạn tính (n = 124)
TIBC 
Giai đoạn 
Ferritin 
Sắt (µmol/L)
(µmol/L)
bệnh thận 
(ng/mL)
Trung vị
mạn tính
Trung vị

X ± SD
10,16 (7 – 
252,6 (177,89 
3+4 (n = 25)
68,44 ± 16,36
14,58)
– 437)
10,7 (6,6 – 
435,5 (250,49 
5 (n = 99)
46,15 ± 18,02
15,6)
– 557,68)


11
p
> 0,05
< 0,001
< 0,05
­ Nồng độ sắt huyết tương khơng liên quan đến giai đoạn bệnh thận 
mạn tính có ý nghĩa thống kê, p > 0,05. 
­ Tuy nhiên, nồng độ ferritin huyết tương ở nhóm bệnh nhân bệnh thận  
mạn tính giai đoạn 5 cao hơn nhóm bệnh nhân giai đoạn 3+4 có ý nghĩa, 
p < 0,05. 
­ Ngược lại nồng độ TIBC nhóm bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai 
đoạn 5 thấp hơn nhóm bệnh nhân giai đoạn 3+4 có ý nghĩa, p < 0,001. 
Bảng 3.9. Tỷ lệ bệnh nhân theo tăng; giảm nồng độ sắt, ferritin 
và TIBC huyết tương theo giai đoạn bệnh thận mạn 
Giai đoạn 3  Giai đoạn 

Chỉ tiêu
p
+ 4 (n = 25)
5 (n = 99)
Giảm (n,%)
7 (28)
29 (29,3)
Sắt (mmol/l) Bình thường
18 (72)
66 (66,7)
> 0,05
Tăng
0 (0)
4 (4)
Giảm
0 (0)
0 (0)
Ferritin 
Bình thường
17 (68)
39 (39,4)
< 0,05
(ng/mL)
Tăng
8 (32)
60 (60,6)
Giảm
3 (12)
56 (56,6)
TIBC 

Bình thường
22 (88)
42 (41,4)
< 0,001
(µmol/L)
Tăng
0 (0)
2 (2)
­ Chưa thấy sự khác biệt về  tỷ lệ bệnh nhân có tăng hoặc giảm sắt  
huyết tương ở nhóm bệnh nhân BTMT giai đoạn 5 so với nhóm bệnh 
nhân BTMT giai đoạn 3+4.
­ Ngược lại, tỷ  lệ  tăng ferritin huyết tương  ở  bệnh nhân BTMT giai 
đoạn 5 cao hơn nhóm bệnh nhân BTMT giai đoạn 3+4 có ý nghĩa, p < 
0,05.  
­ Tỷ  lệ  giảm TIBC huyết tương  ở  bệnh nhân bệnh thận mạn giai  
đoạn 5 cao hơn bệnh nhân BTMT giai đoạn 3+4 có ý nghĩa, p < 0,001. 
Bảng 3.10. Liên quan tình trạng dự trữ sắt huyết tương với giai 
đoạn bệnh thận mạn tính ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu (n = 


12
124)
Giai đoạn 
bệnh thận 
mạn tính

Thiếu sắt

Đủ sắt


Thừa sắt

(n,%)

(n,%)

(n,%)

3 +4 (n = 25)

15 (60)

5 (20)

5 (20)

5 (n = 99)

31 (31,3)

25 (25,3)

43 (43,4)

p
< 0,05
­ Tỷ  lệ  bệnh nhân thiếu sắt  ở  nhóm BTMT giai đoạn 3+4 cao hơn  
nhóm bệnh nhân giai đoạn 5, ngược lại thừa sắt giai đoạn 5 lại cao  
hơn giai đoạn 3+4 có ý nghĩa thống kê, p < 0,05. 
3.3.2. Liên quan với thiếu máu 

Bảng 3.11. Tương quan giữa sắt, ferritin và TIBC huyết tương 
với hemoglobin máu ngoại vi (n = 124)
Hemoglobin  (g/l)
Chỉ số đánh giá 
Phương trình tương quan
tương quan
r
p
Sắt (µmol/L)
0,037
> 0,05
­
Ferritin  (ng/ml)
­0,134
> 0,05
­
TIBC= 0,168*Hemoglobin + 
TIBC (µmol/L)
0,208
< 0,05
32,474
­ Nồng độ sắt, TIBC huyết tương tương quan thuận và ferritin tương 
quan nghịch với nồng độ  hemoglobin máu có ý nghĩa thống kê, mức 
độ tương quan yếu, p < 0,05. 
3.3.3. Liên quan với CRP và albumin máu 
Bảng 3.12. Liên quan nồng độ sắt, ferritin và TIBC huyết tương 
với nồng độ albumin máu ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu (n = 
120)
Tình trạng 
albumin máu


Sắt (µmol/L)

Giảm (<35g/l) 
(n = 57)

8,1 
(4,85 – 11,9)

(Trung vị)

Ferritin 
(ng/mL)

TIBC (µmol/L)

(Trung vị)

( X ± SD)

428,23 

47,05 ± 20,63

(187,5 – 


13
563,09)
Bình thường  

(n = 63)

11,9 
(9,1 – 17,7)

380,39 
(236,76 – 
488,28)

54,12 ± 18,88

p
< 0,001
> 0,05
> 0,05
­ Nồng độ sắt huyết tương nhóm bệnh nhân giảm albumin máu thấp hơn 
nhóm bệnh nhân có albumin máu bình thường có ý nghĩa, p < 0,01.
­ Khơng thấy sự khác biệt nồng độ ferritin và TIBC huyết tương với  
tình trạng giảm albumin máu, p > 0,05. 
Bảng 3.13. Liên quan nồng độ sắt, ferritin và TIBC huyết tương 
với CRP ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu (n = 112)
Tình trạng 
CRP máu

Sắt (µmol/L)

Ferritin (ng/mL)

TIBC (µmol/L)


(Trung vị)

(Trung vị)

( X ± SD)

Tăng > 5 mg/l 
(n = 48)

6,87 

431,25 

(4,35 – 12,34)

(231,5 – 567,73)

Khơng tăng 

11,9 

385,2 

(n = 64)

(8,8 – 18,6)

(193,1 – 544,61)

46,52 ± 19,73

54,89 ± 19,45

p
< 0,001
> 0,05
< 0,05
­ Nhóm bệnh nhân có nồng độ  hs­CRP máu tăng, nồng độ  sắt, TIBC 
thấp hơn nhóm khơng tăng hs­CRP, tuy nhiên khác biệt có ý nghĩa  
thống kê, p < 0,05.
­ Ngược lại, nồng độ ferritin huyết tương nhóm bệnh nhân tăng hs­CRP 
cao hơn tuy nhiên chưa có ý nghĩa với nhóm khơng tăng hs­CRP, p > 0,05. 
3.3.4. Giá trị của TIBC trong đánh giá dự trữ sắt ở bệnh nhân nghiên  
cứu 


14

­

Diện tích dưới đường cong AUC = 0,755; p < 0,001

­

Điểm cut­off = 48,03

­

Độ nhạy Sp = 73,9%

­


Độ đặc hiệu Se = 69,2%

Biểu đồ 3.1. Đường cong ROC chẩn đốn thiếu dự trữ sắt của 
TIBC huyết tương
     Nhận xét:  Tại điểm cắt nồng độ  TIBC huyết tương tại 48,03  
µmol/L, có giá trị chẩn đốn thiếu sắt dự trữ, nồng độ TIBC càng tăng  
càng có giá trị  chẩn đốn thiếu sắt dự  trữ  trong huyết tương, p <  
0,001, diện tích dưới đường cong = 0,755. 
3.3.5. Phân tích hồi qui đa biến liên quan tình trạng giảm TIBC  
huyết tương và thiếu dự trữ sắt 
Bảng 3.14. Hồi quy đa biến logistic các yếu tố nguy cơ giảm 
TIBC huyết tương (n = 124)
Yếu tố
Odds ratio 
Khoảng tin cậy 
p
(OR)
95%
Tuổi ≥ 60

1,387

0,538 – 3,576

> 0,05


15
Giới nữ


0,595

0,217 – 1,630

> 0,05

Albumin   <   35 
g/l

1,411

0,522 – 3,814

> 0,05

Tăng CRP > 5

1,718

0,65 – 4,539

> 0,05

BMI < 18,5

0,439

0,116 – 1,654


> 0,05

Phát   hiện   lần 
đầu

0,831

0,318 – 2,173

> 0,05

MLCT   <   15 
ml/phút

19,363

3,884 – 96,53

< 0,001

Ferritin   <   100 
ng/ml

1,287

0,284 – 5,826

> 0,05

Mơ hình hồi qui logistic đa biến: Log(


) = ­2,625 + 0,327* Tuổi  

trên 60 ­ 0,519* Giới nữ + 0,344* Giảm Albumin + 0,541* Tăng CRP  
­ 0,823* BMI nhỏ  hơn 18,5 ­ 0,185* Chẩn đốn lần đầu   + 2,963*  
Mức   lọc  cầu   thận   nhỏ   hơn   15ml/phút   +   0,253*  Ferritin  nhỏ   hơn  
100ng/ml..
­ Có 1 yếu tố là MLCT < 15 ml/phút  là yếu tố nguy cơ độc lập tình  
trạng giảm TIBC huyết tương ở bệnh nhân BTMT giai đoạn 3 đến 5 
chưa điều trị thay thế thận, p < 0,001.  
Bảng 3.15. Hồi quy logistic các yếu tố nguy cơ giảm dự trữ sắt 
huyết tương (n = 124)
Yếu tố
Odds ratio 
Khoảng tin cậy 
p
(OR)
95%
Tuổi ≥ 60

0,961

0,342 – 2,702

> 0,05

Giới nữ

2,036


0,676 – 6,129

> 0,05

Albumin   <   35 

0,489

0,155 – 1,54

> 0,05


16
g/l
Tăng CRP > 5

2,579

0,805 – 8,267

> 0,05

BMI < 18,5

0,578

0,126 – 2,655

> 0,05


Phát   hiện   lần  
đầu

12,177

3,407 – 43,516

< 0,001

MLCT   <   15 
ml/phút

0,353

0,093 – 1,336

> 0,05

TIBC   >   48,03  
µmol/L

9,612

2,974 – 31,073

< 0,001

Mơ hình hồi qui logistic đa biến: Log(


) = ­2,568 ­ 0,04* Tuổi trên  

60 + 0,711* Giới nữ  ­ 0,715* Giảm Albumin + 0,948* Tăng CRP ­  
0,547* BMI nhỏ  hơn 18,5 + 2,5* Chẩn đốn lần đầu  ­ 1,041* Mức  
lọc cầu thận nhỏ hơn 15ml/phút + 2,263* TIBC lớn hơn 48,03.
­ Có 2 yếu tố là bệnh thận chẩn đốn lần đầu và tăng nồng độ TIBC 
huyết tương > 48,03 µmol/L là yếu tố  tiên lượng độc lập cho tình  
trạng giảm dự trữ sắt huyết tương, p < 0,001. 
Chương 4: BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung bệnh nhân nghiên cứu
           Nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tơi có đặc điểm nam  
chiếm chủ yếu, ngun nhân gây BTMT do viêm cầu thận chiếm gần  
½  số  bệnh  nhân.  Kết   quả  nghiên cứu của  chúng  tôi  phù  hợp  với  
nghiên cứu của các tác giả khác. 
      Bệnh nhân BTMT giai đoạn 5 chiếm chủ yếu, bởi các bệnh nhân  
vào điều trị  nội trú là những bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng khó 
chịu như  thiếu máu, buồn nơn, đau đầu…những biểu hiện của hội  
chứng tăng ure huyết kéo dài. 


17
             Tỷ  lệ  bệnh nhân THA chiếm cao, điều này phù hợp với đặc  
điểm bệnh lý bệnh thận mạn tính có suy thận. 
4.2.   Đặc   điểm   thiếu   máu,   nồng   độ   sắt,   ferritin,   TIBC   huyết 
tương và tình trạng dự trữ sắt của nhóm bệnh nhân  
4.2.1. Đặc điểm thiếu máu nhóm bệnh nhân nghiên cứu
      Thiếu máu là biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân BTMT, ngay cả 
khi bệnh nhân chưa có suy thận. Tỷ  lệ  thiếu máu trong nghiên cứu  
của chúng tơi là 88,6% với nồng độ  hemoglobin trung bình là 97,14  
g/l. Khi so sánh với các tác giả  trong và ngồi nước chúng tơi nhận 

thấy tỷ lệ và mức độ thiếu máu khác biệt trong các nghiên cứu.
Bảng 4.1. So sánh tỷ lệ thiếu máu giữa các nghiên cứu
Tỷ lệ 
Hemoglobin 
Tác giả
Đối tượng
thiếu máu
trung bình
1011 BN BTMT giai 
Mercadal L. và 
đoạn 1­5, MLCT 
53,1%
126 g/l
cộng sự 2014 
trung bình 35,9 
ml/phút
Li Y. và cộng 
2420 BN BTMT giai 
51,5 %
126,33 g/l
sự 2016 
đoạn 1­5
Ryu S.R. và 
2198 BN BTMT giai 
44,9 %
126,5 g/l
cộng sự 2017 
đoạn 1­5
615 BN BTMT có 
Salman M. và 

MLCT trung bình 27,8  75,8 %
109 g/l
cộng sự 2016 
ml/phút
124 BN BTMT giai 
Chúng tơi 2018
đoạn 3­5, MLCT 
96,0%
91,13 g/l
trung bình 8,3 ml/phút
         Với những đối tượng bệnh nhân là BTMT giai đoạn 1­5, tỷ  lệ 
thiếu máu cũng như nồng độ hemoglobin máu trung bình cho kết quả 
tương tự  nhau, MLCT càng giảm thì tỷ  lệ  thiếu máu càng tăng và 


18
nồng   độ   hemoglobin   càng   thấp.   Nhóm   đối   tượng   nghiên   cứu   của 
chúng tơi có MLCT thấp nhất nên tỷ  lệ  thiếu máu cao nhất và nồng  
độ hemoglobin thấp nhất là điều dễ hiểu. 
      Phân tích sâu hơn tính chất và đặc điểm thiếu máu chúng tơi nhận  
thấy trong 119 BN thiếu máu tỷ  lệ  BN có thiếu máu HC nhỏ  chiếm  
10,1%, thiếu máu nhược sắc chiếm 35,3%. Thiếu máu  ở  bệnh nhân  
BTMT thường có đặc điểm là thiếu máu đẳng sắc, hình thái HC bình  
thường, tuy nhiên khi MLCT giảm nhiều đặc biệt BTMT giai đoạn  
cuối thiếu máu có xu hướng nhược sắc và HC nhỏ lại. Như vậy kết  
quả nghiên cứu của chúng tơi phù hợp với y văn đã nêu. 
4.2.2. Nồng độ  sắt, ferritin, TIBC huyết tương  ở  bệnh nhân nghiên  
cứu
     Trong nghiên cứu này, do chưa có chỉ số nồng độ TIBC cho người  
Việt nam, nên chúng tơi sử  dụng nhóm chứng là những người bình  

thường để xác định điểm cắt giới hạn và xác định tỷ lệ bệnh nhân có 
tăng hoặc giảm các chỉ  số  này. Phân bố  nồng độ  sắt, ferritin khơng  
theo chuẩn nên chúng tơi xác định điểm tứ  phân vị  để  so lại, chỉ  có 
TIBC theo chuẩn do vậy khoảng giá trị bình thường theo nhóm chứng 
( X ± 2SD) của sắt là 7,31 – 29,8  µmol/l; của ferritin là 16,77 – 375,16  
ng/ml; của TIBC là 44,89 – 90,27 µmol/l. Kết quả  cho thấy nồng độ 
sắt,   TIBC   nhóm   bệnh  thấp   hơn   nhóm   chứng,   ngược   lại   nồng   độ 
ferritin nhóm bệnh lại cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p  
< 0,001. Kết quả của chúng tơi phù hợp với kết quả nghiên cứu của 
các các giả trong và ngồi nước.


19
Bảng 4.2. So sánh nồng độ sắt, ferritin và TIBC huyết tương 
giữa các nghiên cứu
Ferritin 
TIBC 
Tác giả, đối tượng
Sắt (µmol/l)
(ng/ml)
(µmol/l)
12,4
Chứng: 36 
77,8
(66,65 
88,66
khoẻ mạnh
(418,1 μg/dl)
Gupta S. 
µg/dl)

và cộng 
102 BN 
18,8
sự 2009
55,28
BTMT giai 
(101,5 
513,82
(297,2 μg/dl)
đoạn 5 – TNT
µg/dl)
Mercadal 
199 BN 
L. và cộng 
BTMT giai 
14,06
110
56,5
sự 2015
đoạn 1­5
Goyal H. 
100 BN 
11,16
62,78
và cộng 
BTMT giai 
157,7
(60 µg/dl)
(337,5 μg/dl)
sự 2017

đoạn 3­5
Chứng: 66 
15,81
198,45
67,58
người bình 
thường
Chúng tơi 
2018
124 BN 
10,7
403,73
50,64
BTMT giai 
đoạn 3­5
Như vậy, với cùng một phương pháp định lượng và đơn vị tính  
kết quả nghiên cứu của chúng tơi cũng như  các tác giả khác đều cho  
thấy, nồng độ  sắt  ở  bệnh nhân BTMT chưa lọc máu có xu hướng  
thấp hơn nhóm chứng, trong khi nồng độ  ferritin huyết tương có xu  
hướng cao hơn và nồng độ TIBC thấp hơn nhóm chứng. Dựa vào kết 
quả  nhóm chứng chúng tơi tính tỷ  lệ  tăng, giảm các chỉ  số, kết quả 
cho thấy có 29% bệnh nhân có giảm và 3,2% bệnh nhân có tăng nồng  
độ  sắt huyết tương, khơng có BN nào giảm ferritin so nhóm chứng  
tuy nhiên có tới 54,8% bệnh nhân tăng, có 47,6% bệnh nhân giảm và  
chỉ có 1,6% bệnh nhân tăng TIBC so với nhóm chứng. 


20
4.2.3. Đặc điểm độ  bão hồ transferrin và tình trạng dự  trữ  sắt  
huyết tương ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu

 * Đặc điểm độ bão hố transferrin ở đối tượng nghiên cứu 
        Đánh giá độ bão hồ transferrin nhóm bệnh nhân chúng tơi nhận  
thấy có 30,6% bệnh nhân có TSAT < 20% và cũng có 8,1% bệnh nhân 
có TSAT > 50%, chỉ  có 61,3% bệnh nhân có chỉ  số  TSAT trong giới 
hạn bình thường. Giá trị trung bình của TSAT là 22,31 %. Khi so sánh  
với kết quả  của một số  tác giả  trong và ngồi nước chúng tơi nhận 
thấy có điểm tương đồng. Nghiên cứu của Phan Thế  Cường năm  
2015, trên 105 bệnh nhân BMTM giai đoạn cuối có chỉ  định điều trị 
thay thế thận suy thì TSAT trung bình là 21,8%, có 52,4% bệnh nhân  
có TSAT thấp và 1,9% TSAT cao > 50%. Nghiên cứu của  Waziri B. 
và cộng sự năm 2016 giá trị trung bình của TSAT ở 67 BN BTMT giai  
đoạn 3­5 là 24,45%. Nghiên cứu của Li Y. và cộng sự  năm 2016 trên 
1338 BN BTMT giai đoạn 3­5 có giá trị  TSAT trung bình là 23,62%. 
Như vậy, các kết quả của các tác giả nước ngồi có cùng đối tượng  
nghiên cứu đều giống như  của chúng tơi. Kết quả  Phan Thế  Cường  
có tỷ lệ TSAT < 20% cao hơn và giá trị trung bình thấp hơn là bởi đối  
tượng nghiên cứu của tác giả  này 100% là bệnh nhân BTMT giai 
đoạn cuối, cịn của chúng tơi chỉ  có 79,8% bệnh nhân BTMT giai 
đoạn 5. 
      * Tình trạng dự trữ sắt ở bệnh nhân nghiên cứu 
      Dựa theo khuyến cáo của KDIGO 2012 cho bệnh nhân bệnh thận 
mạn chưa lọc máu, tỷ  lệ  bệnh nhân thiếu sắt trong nghiên cứu là  
37,1%, tuy nhiên cũng có tới 38,7% bệnh nhân thừa sắt. Nếu chỉ dựa  
vào tình trạng ferritin thì tỷ  lệ  thiếu sắt chỉ  có 8,9%, như  vậy có tới 
28,2% số  bệnh nhân là đánh giá thiếu sắt chưa đúng và bỏ  sót mất 
4,0% bệnh nhân chẩn đốn thừa sắt. Nếu bệnh nhân thừa sắt cứ tiếp 
tục bồi phụ sắt như vậy bệnh nhân sẽ q tải và ngộ độc sắt, ngược  


21

lại 28,2% bệnh nhân khơng bù đủ  gây hiệu quả  điều trị  thiếu máu 
kém. Việc tính tốn tình trạng sắt cho bệnh nhân BTMT vơ cùng quan  
trọng bởi bên cạnh việc cung cấp EPO, việc bồi phụ sắt cho đúng và  
đủ là u cầu trong thực hành lâm sàng.
Bảng 4.3. So sánh tình trạng sắt huyết tương theo KDIGO 2012 giữa 
các nghiên cứu
Tỷ lệ BN có 
ferritin < 100 
Tác giả
Đối tượng
ng/ml và hoặc 
TSAT < 20%
Trivedi H.S. và 
31 BN BTMT có MLCT 
61,3%
cộng sự 2003 
trung bình 22,9 ml/phút
Ryu S.R. và cộng  2198 BN BTMT giai đoạn 
54,4 %
sự 2017 
1­5
Fishbane S. và 
26142 BN BTMT có 6,6% 
63,5 %
cộng sự 2012 
CKD giai đoạn 3­5
124 BN BTMT giai đoạn 
Chúng tơi 2018
3­5, MLCT trung bình 8,3 
37,1%

ml/phút
        Cùng trên đối tượng bệnh nhân bệnh thận mạn tính có và chưa  
có suy thận, chúng tơi nhận thấy tỷ lệ  bệnh nhân có thiếu sắt tuyệt  
đối theo tiêu chuẩn KDIGO  ở  các nghiên cứu là khác nhau. Kết quả 
của chúng tơi với tỷ lệ thiếu sắt thấp hơn, so với kết quả nghiên cứu 
của các tác giả  khác, mặc dù đối tượng nghiên cứu của chúng tơi có  
MLCT trung bình là thấp nhất. Lý giải điều này chúng tơi cho rằng, 
mẫu nghiên cứu của chúng tơi khác với mẫu nghiên cứu của các tác  
giả khác, có thể liên quan đến chủng tộc. 
4.3. Mối liên quan giữa sắt, ferritin, TIBC và tình trạng dự  trữ 
sắt với một số đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu
4.3.1. Liên quan với giai đoạn bệnh thận


22
             Nồng độ  sắt,   ferritin  và  TIBC  có   liên quan  đến  giai   đoạn  
BTMT: Nhóm bệnh nhân BTMT giai đoạn 3+4 có nồng độ  trung  
bình của sắt huyết tương cao h ơn, n ồng độ  trung bình ferritin thấp 
hơn và nồng độ  trung bình TIBC thấp hơn nhóm bệnh nhân BTMT  
giai đoạn 5, tuy nhiên chỉ thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với 
p  <   0,05   của   ferritin   và   TIBC.   Về   tỷ   lệ   giảm   sắt,   theo   các   giai 
đoạn   bệnh  thận   mạn  tính   khơng   có   sự   khác   biệt.   Chúng   tôi   chỉ 
thấy sự khác biệt về tỷ lệ tăng ferritine và giảm TIBC theo các giai  
đoạn   BTMT,   p   <  0,001.   N ồng   độ   ferritin   huyết   tương   khơng  có 
tươ ng quan với nồng  độ  creatinine, chỉ  có xu hướ ng tươ ng quan 
thuận,   TIBC   tương   quan   ngh ịch   m ức   độ   yếu   với   nồng   độ 
creatinine, với h ệ s ố tương quan là r = ­0,39, p < 0,01. T ỷ l ệ bệnh  
nhân thiếu sắt tăng theo mức độ nặng của bệnh thận mạn tính. 
       Kết quả nghiên cứu của Lukaszyk E. và cộng sự năm 2017 trên 
84 bệnh nhân BTMT trong đó có 28 bệnh nhân suy thận có MLCT từ 

30 – 59 ml/phút và 56 bệnh nhân có MLCT từ 60 ml/phút trở lên. Kết  
quả  cho thấy giống như của chúng tơi, khơng có tương quan MLCT  
với sắt, tuy nhiên MLCT tương quan nghịch với ferritin huyết tương.  
Nghiên cứu của Alam F. và cộng sự  năm 2015 trên 126 bệnh nhân  
BTMT chia 3 phân nhóm trong đó 42 bệnh nhân có MLCT trung bình 
là 79 ml/phút, 42 bệnh nhân có MLCT trung bình là 45 và 42 bệnh  
nhân có MLCT trung bình là 20,22. Nồng độ  sắt huyết tương giảm  
dần từ  nhóm BN có MLCT cao hơn xuống nhóm MLCT thấp hơn,  
ngược lại ferritin trung bình thì tăng dần, p < 0,001. Nghiên cứu của 
Waziri B. và cộng sự  năm 2016 trên 67 BN BTMT giai đoạn 3­5 và  
của Mercadal L. và cộng sự  năm 2015 trên 199 BN BTMT giai đoạn 
1­5, thì TIBC giảm theo mức lọc cầu thận. 
4.3.2. Liên quan với đặc điểm thiếu máu 


23
       Tình trạng dự  trữ  sắt có liên quan đến đặc điểm thiếu máu của 
bệnh nhân BTMT giai đoạn 3­5 hay khơng chúng tơi thực hiện đánh  
giá trên nhóm có thiếu máu và khơng thiếu máu. Khi tiến hành lập  
mối tương quan giữa nồng độ  sắt, ferritine, TIBC huyết tương với  
một số  chỉ  số  huyết học máu ngoại vi như  số  lượng HST và Hct  
chúng tơi nhận thấy chỉ có mối tương quan thuận lỏng lẻo giữa TIBC  
với hai chỉ số trên với, p < 0,05. Chúng tơi khơng tìm thấy mối tương  
quan giữa sắt, ferritin với HST và HCT. 
4.3.3. Liên quan với CRP và albumin máu 
      Khi so sánh nồng độ trung bình sắt, ferritin và TIBC huyết tương  
ở  nhóm giảm albumin và nhóm khơng giảm albumin, chúng tơi nhận  
thấy nhóm giảm albumin có nồng độ sắt, TIBC thấp hơn, ferritin cao  
hơn nhóm khơng giảm albumin, chỉ có sắt có sự khác biệt có ý nghĩa, 
p < 0,01. Để  phân tích sâu hơn, chúng tơi thực hiện xác định mối 

tương quan giữa sắt, ferritin và TIBC với nồng độ  albumin, kết quả 
cho thấy chỉ có sắt có mối tương quan thuận mức độ yếu có ý nghĩa, 
p < 0,05. Kết quả  nghiên cứu của  Sezer M.T. và cộng sự  2007 cũng 
cho thấy nồng độ  albumin máu thấp là yếu tố  nguy cơ  sản sinh các  
chất oxy hố do thừa sắt gây ra. Suy dinh dưỡng và viêm có mối liên  
quan mật thiết với nhau,  ở những bệnh nhân viêm thường gây giảm  
albumin và ngược lại. 
      Trong nghiên cứu này, chúng tơi xác định mối liên quan giữa sắt  
và nồng độ hs­CRP huyết thanh. Kết quả cho thấy, nhóm bệnh nhân  
có nồng độ  hs­CRP huyết thanh tăng có nồng độ  trung bình của sắt, 
TIBC   huyết   tương   thấp   hơn,   nhưng   nồng   độ   ferritin   lại   cao   hơn  
nhóm bệnh nhân có nồng độ  hs­CRP khơng tăng, tuy nhiên chỉ  thấy  
khác biệt với sắt và TIBC, p < 0,001. Khi tìm mối tương quan giữa 
nồng độ  các chất chỉ  có mối tương quan nghịch mức độ  vừa giữa  
nồng độ sắt và hs­CRP huyết thanh, r = ­0,229, p < 0,05. Małyszko J.  
và cộng sự năm 2012 đã đánh giá các yếu tố liên quan đến giảm sắt ở 
98 bệnh nhân BTMT giai đoạn cuối có lọc máu. Kết quả  cho thấy  


24
nồng độ  albumin trung bình  ở  nhóm bệnh nhân có giảm sắt huyết 
tương là 37,5 g/l thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm khơng  
giảm sắt huyết tương là 40,6 g/l, p < 0,05. Ngược lại, nồng độ  hs­
CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân giảm sắt là 7,11 mg/l cao hơn có ý  
nghĩa so với nhóm khơng giảm chức năng sắt là 5,32 mg/l, p < 0,01. 
4.3.4. Giá trị của TIBC trong đánh giá thiếu sắt dự trữ
        Một câu hỏi được đặt ra: yếu tố nào có thể  đánh giá tình trạng  
thiếu sắt dự trữ khi chúng ta khơng tính được TSAT? Như chúng ta đã 
biết sắt tự do trong huyết tương ít có ý nghĩa, do vậy khuyến cáo của  
Hội thận học đưa ra cần dựa vào ferritin và TSAT để  đánh giá tình  

trạng sắt. Chúng tơi đã sử  dụng TIBC là chỉ  số  mới định lượng và 
nhận thấy TIBC có giá trị  chẩn đốn thiếu sắt tại điểm cắt 48,03 
µmol/L. Thực tế  lâm sàng cho thấy, mặc dù được khuyến cáo sử 
dụng nồng độ  ferritin và TSAT để  đánh giá dự  trữ  sắt, tuy nhiên các 
nhà thận học thường chỉ dựa vào ferritin huyết tương để đánh giá tình  
trạng dự trữ sắt của bệnh nhân BTMT, từ đó có phác đồ bổ sung sắt 
cụ thể cho từng bệnh nhân. Như vậy, TIBC có thể được sử dụng như 
một cơng cụ để đánh giá dự trữ sắt cho bệnh nhân BTMT. 
4.3.5. Phân tích hồi qui đa biến nguy cơ giảm TIBC và giảm dự trữ 
sắt
       Mặc dù khi phân tích đơn biến có nhiều yếu tố liên quan đến tình 
trạng giảm nồng độ  sắt, tăng ferritin và giảm TIBC, tuy nhiên khi phân 
tích đa biến chúng tơi nhận thấy có những điểm cần chú ý cho các nhà lâm  
sàng. Phân tích hồi qui đa biến các yếu tố liên quan giảm TIBC huyết  
tương, chúng tơi nhận thấy có duy nhất yếu tố nguy cơ độc lập đó là  
MLCT giảm < 15 ml/phút, p < 0,05. Thơng thường, sắt được hấp thụ 
từ   thức   ăn   và   vận   chuyển  khắp   cơ   thể   bởi   transferrin,   transferrin  
được sản xuất bởi gan. Khoảng 70% sắt được vận chuyển đến tủy 
xương và kết hợp với hemoglobin trong các tế bào HC. Phần cịn lại  
được lưu trữ  trong các mơ như  ferritin hoặc hemosiderin. Số  lượng  


25
transferrin trong máu phụ thuộc vào chức năng gan và tình trạng dinh 
dưỡng của cá thể. TIBC là phép đo tổng lượng sắt có khả  năng gắn  
kết với các protein trong máu, bao gồm transferrin và các protein khác 
(trong đó transferrin là protein chính gắn kết sắt, các xét nghiệm TIBC 
là một xét nghiệm có giá trị tốt). Bởi bản chất cũng là protein do vậy, 
TIBC thay đổi  ở  nhóm người lớn tuổi.  Ở bệnh nhân bệnh thận mạn 
tính, tình trạng suy dinh dưỡng tăng theo tình trạng giảm MLCT và tăng 

tình trạng viêm. 
       Trong phân tích hồi qui đa biến các yếu tố liên quan đến thiếu sắt 
dự  trữ  chúng tơi nhận thấy chỉ  BTMT phát hiện lần đầu và TIBC > 
48,03 µmol/L là những yếu tố  nguy cơ  độc lập cho tình trạng thiếu  
dự  trữ  sắt huyết tương, p < 0,01.   Thiếu máu  ở  bệnh nhân BTMT 
được xác định là thiếu máu đẳng sắc, tuy nhiên MLCT càng giảm tình 
trạng thiếu sắt huyết tương càng tăng, mặc dù nồng độ  ferritin tăng. 
Tình trạng này phản ánh dự trữ sắt tăng bởi việc thiếu tình trạng sử 
dụng sắt, dần đến thiếu hụt sắt. Như vậy, những bệnh nhân BTMT  
có suy thận chưa được phát hiện trước đó, khả năng thiếu sắt rất cao.  
Đây là một kết quả có ý nghĩa lâm sàng trong chẩn đốn tình trạng dự 
trữ sắt huyết tương và nên bổ sung sắt cho bệnh nhân khi bệnh nhân  
được chẩn đốn BTMT có MLCT thấp ngay từ  lần phát hiện đầu 
tiên, chưa cần định lượng sắt. 
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
      Mặc dù nghiên cứu đã đạt được các mục tiêu đề ra, tuy nhiên đề 
tài cịn hạn chế nhóm bệnh tỷ  lệ bệnh nhân BTMT giai đoạn 3 và 4  
số  lượng ít, nên chưa thực sự  thấy rõ thay đổi nồng độ  sắt, ferritin,  
TIBC huyết tương và dự trữ sắt ở nhóm bệnh nhân này. 
KẾT LUẬN
Nghiên cứu nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết tương ở 124 bệnh nhân  


×