1
MỞ ĐẦU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh thận mạn tính ngày càng gia tăng trên thế giới cũng như tại
Việt nam do sự gia tăng nhanh chóng các ngun nhân gây tổn thương
thận như đái tháo đường và tăng huyết áp. Dựa vào thay đổi mức lọc
cầu thận, bệnh nhân bệnh thận mạn tính được phân chia thành 5 giai
đoạn, các giai đoạn tuần tự, kế tiếp nhau. Từ giai đoạn 3 đến giai
đoạn 5 của bệnh thận mạn tính (mức lọc cầu thận < 60 ml/phút) là
giai đoạn có suy thận mạn tính. Khi mức lọc cầu thận < 15 ml/phút
bệnh nhân cần được điều trị thay thế thận suy bằng lọc máu hoặc
ghép thận
Thiếu máu là biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân bệnh thận mạn
tính. Thiếu máu thường do kết hợp 3 nhóm ngun nhân: do cơ quan
tạo máu, do thiếu ngun liệu và do chảy máu, trong đó thiếu
erythropoietin và sắt là hai yếu tố quan trọng. Tình trạng thiếu sắt
xuất hiện ở những bệnh nhân bệnh thận giai đoạn có suy thận (mức
lọc cầu thận < 60 ml/phút). Những bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai
đoạn cuối tỷ lệ thiếu sắt cao, tuy nhiên những bệnh nhân lọc máu lại
có hiện tượng thừa sắt. Việc thiếu hay thừa sắt trong cơ thể bệnh
nhân bệnh thận mạn tính đều ảnh hưởng đến chất lượng điều trị thiếu
máu ở nhóm bệnh nhân này.
Theo khuyến cáo của Tổ chức quản lý chất lượng điều trị bệnh
thận quốc gia (National Kidney Foundation Disease Outcomes Quality
Initiative NKF K/DOQI), để điều trị thiếu máu ở bệnh nhân bệnh
thận mạn tính hiệu quả, bên cạnh việc cung cấp erythropoietin bệnh
nhân cần được bổ sung thêm acid amin, các ngun tố vi lượng và
đặc biệt là sắt. Trên bệnh nhân bệnh thận mạn tính, cần xác định tình
trạng dự trữ sắt huyết tương và phân mức: thiếu sắt, đủ sắt và thừa
sắt. Cũng theo khuyến cáo này, để bù sắt đủ cần dựa vào hai chỉ số
ferritin và độ bão hòa transferin. Độ bão hoà transferrin được tính
thơng qua 2 chỉ số sắt huyết tương và khả năng gắn sắt tồn phần
(Total Iron Binding Capacity – TIBC). Như vậy, có ba đại lượng cần
thiết nhất để đánh giá tình trạng thừa thiếu sắt là sắt, ferritin và khả
năng gắn sắt tồn phần.
Tại Việt Nam, đã có nhiều cơng trình đã nghiên cứu về tình trạng sắt,
ferritin, transferrin huyết tương ở bệnh nhân suy thận mạn tính, tuy nhiên
chưa có nhiều nghiên cứu đề cập đến khả năng gắn sắt tồn phần huyết
2
tương và đánh giá tình trạng dự trữ sắt theo khuyến cáo của Hội thận
học thế giới ở bệnh nhân bệnh thận mạn chưa điều trị thay thế thận.
Với những lý do trên, chúng tơi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên
cứu nồng độ sắt, ferritin và khả năng gắn sắt tồn phần trong
huyết tương ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị thay
thế thận”
1. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện ở các bệnh nhân được chẩn đốn bệnh
thận mạn tính (BTMT) có mức lọc cầu thận (MLCT) < 60 ml/phút, chưa
điều trị thay thế thận tại Khoa Thận – Lọc máu, Bệnh viện Qn y 103,
với 2 mục tiêu sau:
Mơ tả đặc điểm thiếu máu, nồng độ sắt, ferritin, khả năng gắn
sắt tồn phần trong huyết tương và đánh giá tình trạng dự trữ sắt
theo KDIGO ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai đoạn 3 đến 5 chưa
điều trị thay thế thận.
Xác định mối liên quan giữa nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết
tương và tình trạng dự trữ sắt với một số đặc điểm bệnh nhân bệnh
thận mạn tính chưa điều trị thay thế thận.
2. Tính cấp thiết của đề tài
Thiếu máu là biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân BTMT, đặc biệt
các bệnh nhân có MLCT < 60 ml/phút (bệnh nhân có suy thận). Cơ
chế thiếu máu của BTMT liên quan đến thiếu Erythropoietin và các
ngun liệu tạo máu trong đó có sắt. Bồi phụ sắt cho bệnh nhân
BTMT trong điều trị thiếu máu cần có căn cứ khoa học và là một vấn
đề khó cho các bác sỹ lâm sàng.
Theo khuyến cáo của Hội thận học Thế giới và Việt nam, cần
phải xác định tình trạng dự trữ sắt trước khi bù sắt. Đánh giá tình
trạng sắt cần dựa vào nồng độ ferritin huyết tương và độ bão hồ
transferin, trong đó độ bão hồ transferin được tính qua nồng độ sắt và
TIBC huyết tương. Như vậy, nghiên cứu nồng độ sắt, ferritin, TIBC
huyết tương, từ đó xác định tình trạng dự trữ sắt ở bệnh nhân BTMT
chưa điều trị thay thế thận là một nghiên cứu cần thiết cho lâm sàng.
3. Những đóng góp mới của đề tài luận án
Đây là cơng trình nghiên cứu trong nước đầu tiên định lượng nồng
độ TIBC huyết tương, được Hội thận học khuyến cáo sử dụng cùng
với nồng độ sắt và ferritin để đánh giá tình trạng dự trữ sắt của bệnh
3
nhân bệnh thận mạn tính chưa điều trị thay thế thận. Kết quả đề tài
đã khẳng định TIBC huyết tương trung bình ở bệnh nhân bệnh thận
mạn tính chưa lọc máu thấp hơn nhóm chứng người bình thường.
Kết quả đề tài cũng cho thấy tỷ lệ bệnh nhân thiếu dự trữ sắt cao.
Có một số yếu tố liên quan đến giảm TIBC và giảm dự trữ sắt, dựa
vào kết quả này các nhà lâm sàng sẽ có chiến lược bù sắt, nâng cao
hiệu quả điều trị thiếu máu cho bệnh nhân bệnh thận mạn tính.
4. Cấu trúc của luận án: Luận án dài 118 trang. Đặt vấn đề: 2 trang,
tổng quan: 34 trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 16 trang,
kết quả nghiên cứu: 32 trang, bàn luận: 31 trang, kết luận và kiến
nghị: 3 trang. Trong luận án có 55 bảng, 13 biểu đồ, 1 sơ đồ, 02 hình.
Tài liệu tham khảo có 136, trong đó có 21 tiếng Việt và 115 tiếng
Anh.
Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. Thiếu máu ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính
Theo tổ chức y tế thế giới, thiếu máu là tình trạng giảm huyết
sắc tố lưu hành ở máu ngoại vi dưới mức bình thường so với người
cùng giới, cùng lứa tuổi và trong cùng một mơi trường sống. Theo tổ
chức thận học quốc tế ở bệnh nhân bệnh thận mạn tính (BTMT)
chẩn đốn thiếu máu khi Hb < 130g/l với nam, Hb < 120g/l với nữ, Hb
< 110g/l với phụ nữ có thai.
1.2. Đánh giá tình trạng dự trữ sắt ở bệnh nhân bệnh thận mạn
tính
Trên lâm sàng, có nhiều chỉ số đánh giá chức năng sắt của người
khoẻ mạnh và của bệnh nhân bệnh thận mạn tính nói chung, bệnh
nhân suy thận mạn tính nói riêng. Theo KDOQI và KDIGO, một số
chỉ số thường được sử dụng trong lâm sàng đó là: sắt, ferritin,
transferin, TIBC và tính tốn độ bão hồ transferrin (Transferrin
Saturation – TSAT).
Để đánh giá tình trạng dự trữ sắt, Hội thận học quốc tế khuyến
cáo dựa vào 2 chỉ số ferritin và TSAT. Tính TSAT theo cơng thức sau:
Sắt huyết t ương ( µmol/l) x 100
TSAT (%) =
4
TIBC (µmol/l)
+ Thiếu sắt tuyệt đối:
Bệnh nhân BTMT chưa điều trị thay thế thận: nồng độ ferritin huyết
tương < 100ng/ml và hoặc độ bão hịa transferrin huyết tương < 20%.
Bệnh nhân BTMT lọc máu chu kỳ: nồng độ ferritin huyết tương <
200ng/ml và hoặc độ bão hịa transferrin huyết tương < 20%.
+ Thiếu sắt chức năng: Nồng độ ferritin huyết tương ≥ 200ng/ml và
độ bão hịa transferrin huyết tương < 20%.
+ Đánh giá thừa sắt cho bệnh nhân BTMT chưa điều trị thay thế
thận: Nồng độ ferritin huyết tương ≥ 500ng/ml và hoặc TSAT ≥ 50%
1.3. Các nghiên cứu về sắt, ferritin, TIBC ở bệnh nhân bệnh
thận mạn tính.
+ Trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về sử dụng TIBC, sắt và
ferritin huyết tương để đánh giá tình trạng dự trữ sắt ở bệnh nhân
BTMT có và chưa lọc máu. Nhiều nghiên cứu đánh giá kết quả bù sắt
trong điều trị thiếu máu ở nhóm bệnh nhân bệnh thận mạn tính.
+ Tại Việt Nam: Một số nghiên cứu về nồng độ sắt, ferritin huyết
tương, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào về TIBC, đánh giá tình trạng dự
trữ sắt ở nhóm bệnh nhân suy thận mạn chưa lọc máu với số lượng
bệnh nhân lớn.
Chương 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu thực hiện trên 190 đối tượng, được chia làm 2 nhóm:
Nhóm nghiên cứu: 124 bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai đoạn 3
đến 5, chưa điều trị thay thế thận (Bệnh nhân BTMT có MLCT < 60
ml/phút), điều trị nội trú tại Khoa Thận – Lọc máu, Bệnh viện Qn y
103.
Nhóm chứng người bình thường: 66 người.
Thời gian nghiên cứu: 01/2014 – 04/2018
+ Tiêu chuẩn lựa chọn đối tượng nghiên cứu
Nhóm chứng: Người trưởng thành khoẻ mạnh, khơng mắc bệnh
thận, tiết niệu, đồng ý tham gia nghiên cứu.
Nhóm bệnh: Bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai đoạn 3 đến 5
chưa điều trị thay thế thận, tuổi của bệnh nhân ≥ 16 tuổi và đồng ý
tham gia nghiên cứu.
5
+ Tiêu chuẩn loại trừ
Nhóm chứng: Mất máu cấp tính trong vịng 3 tháng trước đó hoặc
đang bị chảy máu. Người mang thai hoặc mới sinh con trong vịng 6 tháng
trước.
Nhóm bệnh: Đã truyền máu trong thời gian 3 tháng trước đó. Bị
mất máu cấp tính trong vịng 3 tháng trước hoặc đang bị chảy máu trong
thời gian nghiên cứu. Bệnh nhân đã và đang sử dụng các chế phẩm sắt
hoặc sắt. Bệnh nhân BTMT có chỉ định lọc máu cấp cứu.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu mơ tả, cắt ngang so sánh bệnh chứng
Tính cỡ mẫu:
Tỷ lệ bệnh nhân bệnh thận mạn tính thiếu sắt huyết tương từ
54,4% đến 63,5% của các nghiên cứu trước đó.
Tính cỡ mẫu theo cơng thức sau:
(Z1α/2)2 x p (1p)
n =
D2
Trong đó: Z = 1,96, với độ tin cậy là 95%
p = 0,544 (giá trị thấp nhất tỷ lệ ở các nghiên cứu
trước)
D = 0,1, độ chính xác mong muốn.
Theo cách tính, tối thiểu nghiên cứu phải có 96 bệnh nhân.
Trong nghiên cứu sử dụng n = 124 bệnh nhân.
2.2.1. Các chỉ tiêu nghiên cứu
Bệnh nhân vào viện, được hỏi bệnh và khám bệnh, theo mẫu
bệnh án nghiên cứu được thu thập các chỉ tiêu sau:
Tuổi, giới, tiền sử mắc bệnh
Đo huyết áp, đo chiều cao, cân nặng, tính BMI
Các xét nghiệm cận lâm sàng bao gồm: huyết học, sinh hố (glucose,
ure, creatinine, albumin, acid uric, 4 chỉ s ố lipid máu, điện giải máu,
hsCRP máu...
Định lượng nồng độ sắt, ferritin, và TIBC huyết tương: Lấy máu
tĩnh mạch, lúc đói, sáng sớm. Định lượng sắt, ferritin trên hệ thống
máy Cobas 6000, kít của hãng Roche tại Khoa Sinh hố, Bệnh viện
Qn y 103. Định lượng TIBC bằng phương pháp ELISA tại Bộ mơn
Sinh lý bệnh, Học viện Qn y. Định lượng cả nhóm bệnh và chứng.
6
Tính mức lọc cầu thận theo hướng dẫn của NKFK/DOQI sử dụng
cơng thức tính MDRD trên máy tính dựa vào nồng độ creatinin, tuổi,
giới và chủng tộc.
Tính độ bão hồ transferrin theo nồng độ sắt và TIBC huyết tương.
Phân chia tình trạng dự trữ sắt dựa khuyến cáo của KDIGO và
KDOQI, qua 2 chỉ số ferritin huyết tương và TSAT đã tính tốn.
Các tiêu chuẩn chẩn đốn, phân loại và đánh giá dựa vào các khuyến
cáo của các hiệp hội chun ngành trong nước và quốc tế.
Đánh giá tăng; giảm nồng độ sắt, ferritin, TIBC nhóm bệnh dựa vào
kết quả nhóm chứng.
2.2.2. Xử lý số liệu
Các số liệu được xử lý theo phương pháp thống kê y học bằng
chương trình phần mềm SPSS 16.0. Phân tích hồi qui đa biến
Logistic.
Các giá trị trung bình, độ lệch chuẩn, tỷ lệ %, so sánh 2 giá trị trung
bình và tỷ lệ % bằng ttest, so sánh nhiều tỷ lệ bằng test 2, so sánh
nhiều giá trị trung bình bằng kiểm định Anova, tính hệ số tương quan
r.
2.2.3. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu khơng vi phạm đạo đức trong y học, phục vụ cho sàng
lọc cho bệnh nhân bệnh thận mạn tính.
Nghiên cứu được thơng qua đề cương chi tiết được thơng qua Bộ
mơn TimThậnKhớpNội tiết, Học viện Qn y trước khi thực hiện.
Nghiên cứu sinh tự chi trả tiền định lượng TIBC
Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm tuổi và giới:
+ Nhóm chứng gồm 66 người có tuổi trung bình là 41,86 ± 5,68 tuổi,
nam chiếm 69,7% và nữ chiếm 30,3%.
+ Nhóm nghiên cứu gồm 124 bệnh nhân có tuổi trung bình là 52,65 ±
17,95 tuổi, nam chiếm 72,6% và nữ chiếm 27,4%.
Ngun nhân của BTMT: Viêm cầu thận mạn chiếm cao nhất là
49,2%, tiếp đến do Viêm thận bể thận mạn tính chiếm 16,9%, Tăng
huyết áp chiếm 15,3%, Đái tháo đường là 12,9%, thấp nhất do thận
đa nang chỉ chiếm 3,2% và 2,4% bệnh nhân suy thận do gút.
7
Tỷ lệ bệnh nhân BTMT giai đoạn 5 chiếm chủ yếu là 79,8%,
BTMT giai đoạn 4 và 3 chỉ chiếm 20,2%. Mức lọc cầu thận trung
bình trong nghiên cứu là 8,3 ml/phút.
Có tới 89,5% bệnh nhân THA trong nghiên cứu, chỉ có 10,5% bệnh
nhân khơng THA.
Nhóm bệnh nhân có chỉ số BMI trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất là
70,2%, tỷ lệ thừa cân và béo phì chỉ chiếm 15,3% và thiếu cân chiếm
14,5%. BMI trung bình là 20,05.
3.2. Đặc điểm thiếu máu, nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết
tương và tình trạng dự trữ sắt theo KDIGO ở bệnh nhân bệnh
thận mạn tính
3.2.1. Đặc điểm thiếu máu nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.1. Tỷ lệ bệnh nhân theo mức độ thiếu máu (n = 124)
Mức độ thiếu máu
Số BN
Tỷ lệ (%)
Khơng thiếu máu
05
4,0
Có thiếu máu
119
96,0
Mức độ nhẹ
34
27,4
Mức độ vừa
43
34,7
Mức độ nặng
42
33,9
Hemoglobin trung bình (g/l)
91,13 ± 22,01
Tỷ lệ bệnh nhân thiếu máu là 96,0%, Hb trung bình là 91,13 g/l.
Thiếu máu mức độ nhẹ chiếm 27,4%, mức độ vừa là 34,7% và mức
độ nặng chiếm 33,9%
Bảng 3.2. Tỷ lệ bệnh nhân theo kích thước hồng cầu (n =
119)
Tính chất thiếu máu
Số BN
Tỷ lệ (%)
HC nhỏ
12
10,1
HC bình thường
107
89,9
HC to
0
0
8
Trong nhóm bệnh nhân thiếu máu, có 10,1% bệnh nhân thiếu máu có
kích thước HC nhỏ. Số BN có kích thước HC bình thường chiếm đa số
89,9%.
Bảng 3.3. Tỷ lệ bệnh nhân theo tính chất thiếu máu (n = 119)
Tính chất thiếu máu
Số BN
Tỷ lệ (%)
Thiếu máu nhược sắc
42
35,3
Thiếu máu đẳng sắc
74
62,2
Thiếu máu ưu sắc
3
2,5
Trong số BN thiếu máu thiếu máu nhược sắc chiếm tới 35,3%, tỷ lệ
bệnh nhân thiếu máu ưu sắc là 2,5%.
Chiếm cao nhất là BN thiếu máu đẳng sắc 62,2%.
3.2.2. Nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết tương ở đối tượng nghiên
cứu
Bảng 3.4. So sánh nồng độ sắt, ferritin và TIBC huyết tương
nhóm bệnh nhân và nhóm chứng
Nhóm chứng
Nhóm bệnh
Chỉ số
p
(n = 66)
(n = 124)
Sắt*
Trung
15,81
10,7
< 0,001
(µmol/l)
vị
(11,56 – 19,26)
(6,62 – 15,25)
Min
7,3
2,1
Max
31,4
41,6
Ferritin* Trung
198,45
403,73
< 0,001
(ng/ml)
vị
(68,05 – 255,22) (211,36 548,42)
Min
16,5
31
Max
383,4
1070,1
TIBC*
Trung
67,58 ± 11,58
50,64 ± 19,79
< 0,001
(µmol/l)
bình
Min
46,12
17,5
Max
90,63
98,21
* Khoảng giá trị bình thường theo nhóm chứng: Sắt (Percentiles 2,5%
97,5%): 7,31 – 29,8 µmol/l; Ferritin (Percentiles 2,5% 97,5%):
16,77 – 375,16 ng/ml; TIBC: Mean ± 1,96xSD: 44,89 – 90,27 µmol/l
Nồng độ sắt và TIBC huyết tương nhóm bệnh thấp hơn nhóm
chứng có ý nghĩa thống kê, p < 0,001.
9
Ngược lại, nồng độ ferritin huyết tương nhóm bệnh cao hơn nhóm
chứng có ý nghĩa, p < 0,001.
Bảng 3.5. Tỷ lệ bệnh nhân theo tăng; giảm nồng độ sắt, ferritin
và TIBC huyết tương nhóm bệnh so nhóm chứng (n = 124)
Chỉ tiêu
Số lượng BN
Tỷ lệ %
Giảm
36
29
Sắt (µmol/l)
Bình thường
84
67,7
Tăng
4
3,2
Giảm
0
0
Ferritin (ng/mL)
Bình thường
56
45,2
Tăng
68
54,8
Giảm
59
47,6
TIBC (µmol/L)
Bình thường
63
50,8
Tăng
2
1,6
Nồng độ sắt huyết tương nhóm bệnh nhân bình thường chiếm đa số
67,7%, có tới 29% bệnh nhân có nồng độ sắt huyết tương giảm, 3,2%
tăng hơn so nhóm chứng.
Trong khi đó có tới 54,8% bệnh nhân tăng nồng độ ferritin so nhóm
chứng.
Tỷ lệ bệnh nhân giảm TIBC là 47,6%, chỉ có 1,6% bệnh nhân tăng TIBC.
3.2.3. Đánh giá tình trạng dự trữ sắt huyết tương theo KDIGO ở
nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Bảng 3.6. Đặc điểm độ bão hồ transferin nhóm bệnh nhân
nghiên cứu (n = 124)
Đặc
điểm
Chung (n = 124)
Nam (n = 90)
Nữ (n = 34)
Số BN
Tỷ lệ
%
Số
BN
Tỷ lệ
%
Số
BN
Tỷ lệ
%
Thấp
38
30,6
26
28,9
12
35,3
Bình
thường
76
61,3
55
61,1
21
61,8
Cao
10
8,1
9
10
1
2,9
P
> 0,05
10
Giá trị
22,31
22,3
22,02
trung vị
> 0,05
(17,77 – 33,5)
(18,5 – 34,47) (13,29 – 26,68)
(%)
Tỷ lệ bệnh nhân có TSAT mức thấp < 20% là 30,6%, mức cao >
50% chỉ là 8,1%, cịn lại mức trung bình chiếm đại đa số 61,3%.
Khơng có sự khác biệt về tỷ lệ các mức TSAT giữa nam và nữ.
Giá trị trung bình của TSAT là 22,31%.
Bảng 3.7. Tình trạng dự trữ sắt huyết tương ở nhóm bệnh nhân
nghiên cứu theo theo KDIGO (n = 124)
Tình trạng dự trữ sắt huyết
tương*
Số lượng BN
Tỷ lệ (%)
Thiếu sắt
46
37,1
Đủ sắt
30
24,2
Thừa sắt
48
38,7
*Thiếu sắt: Ferritin < 100 và/hoặc TSAT < 20%; Thừa sắt:
Ferritin > 500 và/hoặc TSAT > 50%
Dựa theo khuyến cáo của KDIGO 2007 cho bệnh nhân bệnh thận
mạn chưa lọc máu, tỷ lệ bệnh nhân thiếu sắt dự trữ trong nghiên cứu
là 37,1%, tuy nhiên cũng có tới 38,7% bệnh nhân thừa sắt.
3.3. Mối liên quan giữa sắt, ferritin, TIBC và tình trạng dự trữ
sắt với một số đặc điểm bệnh nhân bệnh thận mạn
3.3.1. Liên quan với giai đoạn bệnh thận mạn
Bảng 3.8. So sánh giá trị trung bình nồng độ sắt, ferritin và TIBC
huyết tương với giai đoạn bệnh thận mạn tính (n = 124)
TIBC
Giai đoạn
Ferritin
Sắt (µmol/L)
(µmol/L)
bệnh thận
(ng/mL)
Trung vị
mạn tính
Trung vị
X ± SD
10,16 (7 –
252,6 (177,89
3+4 (n = 25)
68,44 ± 16,36
14,58)
– 437)
10,7 (6,6 –
435,5 (250,49
5 (n = 99)
46,15 ± 18,02
15,6)
– 557,68)
11
p
> 0,05
< 0,001
< 0,05
Nồng độ sắt huyết tương khơng liên quan đến giai đoạn bệnh thận
mạn tính có ý nghĩa thống kê, p > 0,05.
Tuy nhiên, nồng độ ferritin huyết tương ở nhóm bệnh nhân bệnh thận
mạn tính giai đoạn 5 cao hơn nhóm bệnh nhân giai đoạn 3+4 có ý nghĩa,
p < 0,05.
Ngược lại nồng độ TIBC nhóm bệnh nhân bệnh thận mạn tính giai
đoạn 5 thấp hơn nhóm bệnh nhân giai đoạn 3+4 có ý nghĩa, p < 0,001.
Bảng 3.9. Tỷ lệ bệnh nhân theo tăng; giảm nồng độ sắt, ferritin
và TIBC huyết tương theo giai đoạn bệnh thận mạn
Giai đoạn 3 Giai đoạn
Chỉ tiêu
p
+ 4 (n = 25)
5 (n = 99)
Giảm (n,%)
7 (28)
29 (29,3)
Sắt (mmol/l) Bình thường
18 (72)
66 (66,7)
> 0,05
Tăng
0 (0)
4 (4)
Giảm
0 (0)
0 (0)
Ferritin
Bình thường
17 (68)
39 (39,4)
< 0,05
(ng/mL)
Tăng
8 (32)
60 (60,6)
Giảm
3 (12)
56 (56,6)
TIBC
Bình thường
22 (88)
42 (41,4)
< 0,001
(µmol/L)
Tăng
0 (0)
2 (2)
Chưa thấy sự khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân có tăng hoặc giảm sắt
huyết tương ở nhóm bệnh nhân BTMT giai đoạn 5 so với nhóm bệnh
nhân BTMT giai đoạn 3+4.
Ngược lại, tỷ lệ tăng ferritin huyết tương ở bệnh nhân BTMT giai
đoạn 5 cao hơn nhóm bệnh nhân BTMT giai đoạn 3+4 có ý nghĩa, p <
0,05.
Tỷ lệ giảm TIBC huyết tương ở bệnh nhân bệnh thận mạn giai
đoạn 5 cao hơn bệnh nhân BTMT giai đoạn 3+4 có ý nghĩa, p < 0,001.
Bảng 3.10. Liên quan tình trạng dự trữ sắt huyết tương với giai
đoạn bệnh thận mạn tính ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu (n =
12
124)
Giai đoạn
bệnh thận
mạn tính
Thiếu sắt
Đủ sắt
Thừa sắt
(n,%)
(n,%)
(n,%)
3 +4 (n = 25)
15 (60)
5 (20)
5 (20)
5 (n = 99)
31 (31,3)
25 (25,3)
43 (43,4)
p
< 0,05
Tỷ lệ bệnh nhân thiếu sắt ở nhóm BTMT giai đoạn 3+4 cao hơn
nhóm bệnh nhân giai đoạn 5, ngược lại thừa sắt giai đoạn 5 lại cao
hơn giai đoạn 3+4 có ý nghĩa thống kê, p < 0,05.
3.3.2. Liên quan với thiếu máu
Bảng 3.11. Tương quan giữa sắt, ferritin và TIBC huyết tương
với hemoglobin máu ngoại vi (n = 124)
Hemoglobin (g/l)
Chỉ số đánh giá
Phương trình tương quan
tương quan
r
p
Sắt (µmol/L)
0,037
> 0,05
Ferritin (ng/ml)
0,134
> 0,05
TIBC= 0,168*Hemoglobin +
TIBC (µmol/L)
0,208
< 0,05
32,474
Nồng độ sắt, TIBC huyết tương tương quan thuận và ferritin tương
quan nghịch với nồng độ hemoglobin máu có ý nghĩa thống kê, mức
độ tương quan yếu, p < 0,05.
3.3.3. Liên quan với CRP và albumin máu
Bảng 3.12. Liên quan nồng độ sắt, ferritin và TIBC huyết tương
với nồng độ albumin máu ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu (n =
120)
Tình trạng
albumin máu
Sắt (µmol/L)
Giảm (<35g/l)
(n = 57)
8,1
(4,85 – 11,9)
(Trung vị)
Ferritin
(ng/mL)
TIBC (µmol/L)
(Trung vị)
( X ± SD)
428,23
47,05 ± 20,63
(187,5 –
13
563,09)
Bình thường
(n = 63)
11,9
(9,1 – 17,7)
380,39
(236,76 –
488,28)
54,12 ± 18,88
p
< 0,001
> 0,05
> 0,05
Nồng độ sắt huyết tương nhóm bệnh nhân giảm albumin máu thấp hơn
nhóm bệnh nhân có albumin máu bình thường có ý nghĩa, p < 0,01.
Khơng thấy sự khác biệt nồng độ ferritin và TIBC huyết tương với
tình trạng giảm albumin máu, p > 0,05.
Bảng 3.13. Liên quan nồng độ sắt, ferritin và TIBC huyết tương
với CRP ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu (n = 112)
Tình trạng
CRP máu
Sắt (µmol/L)
Ferritin (ng/mL)
TIBC (µmol/L)
(Trung vị)
(Trung vị)
( X ± SD)
Tăng > 5 mg/l
(n = 48)
6,87
431,25
(4,35 – 12,34)
(231,5 – 567,73)
Khơng tăng
11,9
385,2
(n = 64)
(8,8 – 18,6)
(193,1 – 544,61)
46,52 ± 19,73
54,89 ± 19,45
p
< 0,001
> 0,05
< 0,05
Nhóm bệnh nhân có nồng độ hsCRP máu tăng, nồng độ sắt, TIBC
thấp hơn nhóm khơng tăng hsCRP, tuy nhiên khác biệt có ý nghĩa
thống kê, p < 0,05.
Ngược lại, nồng độ ferritin huyết tương nhóm bệnh nhân tăng hsCRP
cao hơn tuy nhiên chưa có ý nghĩa với nhóm khơng tăng hsCRP, p > 0,05.
3.3.4. Giá trị của TIBC trong đánh giá dự trữ sắt ở bệnh nhân nghiên
cứu
14
Diện tích dưới đường cong AUC = 0,755; p < 0,001
Điểm cutoff = 48,03
Độ nhạy Sp = 73,9%
Độ đặc hiệu Se = 69,2%
Biểu đồ 3.1. Đường cong ROC chẩn đốn thiếu dự trữ sắt của
TIBC huyết tương
Nhận xét: Tại điểm cắt nồng độ TIBC huyết tương tại 48,03
µmol/L, có giá trị chẩn đốn thiếu sắt dự trữ, nồng độ TIBC càng tăng
càng có giá trị chẩn đốn thiếu sắt dự trữ trong huyết tương, p <
0,001, diện tích dưới đường cong = 0,755.
3.3.5. Phân tích hồi qui đa biến liên quan tình trạng giảm TIBC
huyết tương và thiếu dự trữ sắt
Bảng 3.14. Hồi quy đa biến logistic các yếu tố nguy cơ giảm
TIBC huyết tương (n = 124)
Yếu tố
Odds ratio
Khoảng tin cậy
p
(OR)
95%
Tuổi ≥ 60
1,387
0,538 – 3,576
> 0,05
15
Giới nữ
0,595
0,217 – 1,630
> 0,05
Albumin < 35
g/l
1,411
0,522 – 3,814
> 0,05
Tăng CRP > 5
1,718
0,65 – 4,539
> 0,05
BMI < 18,5
0,439
0,116 – 1,654
> 0,05
Phát hiện lần
đầu
0,831
0,318 – 2,173
> 0,05
MLCT < 15
ml/phút
19,363
3,884 – 96,53
< 0,001
Ferritin < 100
ng/ml
1,287
0,284 – 5,826
> 0,05
Mơ hình hồi qui logistic đa biến: Log(
) = 2,625 + 0,327* Tuổi
trên 60 0,519* Giới nữ + 0,344* Giảm Albumin + 0,541* Tăng CRP
0,823* BMI nhỏ hơn 18,5 0,185* Chẩn đốn lần đầu + 2,963*
Mức lọc cầu thận nhỏ hơn 15ml/phút + 0,253* Ferritin nhỏ hơn
100ng/ml..
Có 1 yếu tố là MLCT < 15 ml/phút là yếu tố nguy cơ độc lập tình
trạng giảm TIBC huyết tương ở bệnh nhân BTMT giai đoạn 3 đến 5
chưa điều trị thay thế thận, p < 0,001.
Bảng 3.15. Hồi quy logistic các yếu tố nguy cơ giảm dự trữ sắt
huyết tương (n = 124)
Yếu tố
Odds ratio
Khoảng tin cậy
p
(OR)
95%
Tuổi ≥ 60
0,961
0,342 – 2,702
> 0,05
Giới nữ
2,036
0,676 – 6,129
> 0,05
Albumin < 35
0,489
0,155 – 1,54
> 0,05
16
g/l
Tăng CRP > 5
2,579
0,805 – 8,267
> 0,05
BMI < 18,5
0,578
0,126 – 2,655
> 0,05
Phát hiện lần
đầu
12,177
3,407 – 43,516
< 0,001
MLCT < 15
ml/phút
0,353
0,093 – 1,336
> 0,05
TIBC > 48,03
µmol/L
9,612
2,974 – 31,073
< 0,001
Mơ hình hồi qui logistic đa biến: Log(
) = 2,568 0,04* Tuổi trên
60 + 0,711* Giới nữ 0,715* Giảm Albumin + 0,948* Tăng CRP
0,547* BMI nhỏ hơn 18,5 + 2,5* Chẩn đốn lần đầu 1,041* Mức
lọc cầu thận nhỏ hơn 15ml/phút + 2,263* TIBC lớn hơn 48,03.
Có 2 yếu tố là bệnh thận chẩn đốn lần đầu và tăng nồng độ TIBC
huyết tương > 48,03 µmol/L là yếu tố tiên lượng độc lập cho tình
trạng giảm dự trữ sắt huyết tương, p < 0,001.
Chương 4: BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm chung bệnh nhân nghiên cứu
Nhóm bệnh nhân nghiên cứu của chúng tơi có đặc điểm nam
chiếm chủ yếu, ngun nhân gây BTMT do viêm cầu thận chiếm gần
½ số bệnh nhân. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với
nghiên cứu của các tác giả khác.
Bệnh nhân BTMT giai đoạn 5 chiếm chủ yếu, bởi các bệnh nhân
vào điều trị nội trú là những bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng khó
chịu như thiếu máu, buồn nơn, đau đầu…những biểu hiện của hội
chứng tăng ure huyết kéo dài.
17
Tỷ lệ bệnh nhân THA chiếm cao, điều này phù hợp với đặc
điểm bệnh lý bệnh thận mạn tính có suy thận.
4.2. Đặc điểm thiếu máu, nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết
tương và tình trạng dự trữ sắt của nhóm bệnh nhân
4.2.1. Đặc điểm thiếu máu nhóm bệnh nhân nghiên cứu
Thiếu máu là biểu hiện thường gặp ở bệnh nhân BTMT, ngay cả
khi bệnh nhân chưa có suy thận. Tỷ lệ thiếu máu trong nghiên cứu
của chúng tơi là 88,6% với nồng độ hemoglobin trung bình là 97,14
g/l. Khi so sánh với các tác giả trong và ngồi nước chúng tơi nhận
thấy tỷ lệ và mức độ thiếu máu khác biệt trong các nghiên cứu.
Bảng 4.1. So sánh tỷ lệ thiếu máu giữa các nghiên cứu
Tỷ lệ
Hemoglobin
Tác giả
Đối tượng
thiếu máu
trung bình
1011 BN BTMT giai
Mercadal L. và
đoạn 15, MLCT
53,1%
126 g/l
cộng sự 2014
trung bình 35,9
ml/phút
Li Y. và cộng
2420 BN BTMT giai
51,5 %
126,33 g/l
sự 2016
đoạn 15
Ryu S.R. và
2198 BN BTMT giai
44,9 %
126,5 g/l
cộng sự 2017
đoạn 15
615 BN BTMT có
Salman M. và
MLCT trung bình 27,8 75,8 %
109 g/l
cộng sự 2016
ml/phút
124 BN BTMT giai
Chúng tơi 2018
đoạn 35, MLCT
96,0%
91,13 g/l
trung bình 8,3 ml/phút
Với những đối tượng bệnh nhân là BTMT giai đoạn 15, tỷ lệ
thiếu máu cũng như nồng độ hemoglobin máu trung bình cho kết quả
tương tự nhau, MLCT càng giảm thì tỷ lệ thiếu máu càng tăng và
18
nồng độ hemoglobin càng thấp. Nhóm đối tượng nghiên cứu của
chúng tơi có MLCT thấp nhất nên tỷ lệ thiếu máu cao nhất và nồng
độ hemoglobin thấp nhất là điều dễ hiểu.
Phân tích sâu hơn tính chất và đặc điểm thiếu máu chúng tơi nhận
thấy trong 119 BN thiếu máu tỷ lệ BN có thiếu máu HC nhỏ chiếm
10,1%, thiếu máu nhược sắc chiếm 35,3%. Thiếu máu ở bệnh nhân
BTMT thường có đặc điểm là thiếu máu đẳng sắc, hình thái HC bình
thường, tuy nhiên khi MLCT giảm nhiều đặc biệt BTMT giai đoạn
cuối thiếu máu có xu hướng nhược sắc và HC nhỏ lại. Như vậy kết
quả nghiên cứu của chúng tơi phù hợp với y văn đã nêu.
4.2.2. Nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết tương ở bệnh nhân nghiên
cứu
Trong nghiên cứu này, do chưa có chỉ số nồng độ TIBC cho người
Việt nam, nên chúng tơi sử dụng nhóm chứng là những người bình
thường để xác định điểm cắt giới hạn và xác định tỷ lệ bệnh nhân có
tăng hoặc giảm các chỉ số này. Phân bố nồng độ sắt, ferritin khơng
theo chuẩn nên chúng tơi xác định điểm tứ phân vị để so lại, chỉ có
TIBC theo chuẩn do vậy khoảng giá trị bình thường theo nhóm chứng
( X ± 2SD) của sắt là 7,31 – 29,8 µmol/l; của ferritin là 16,77 – 375,16
ng/ml; của TIBC là 44,89 – 90,27 µmol/l. Kết quả cho thấy nồng độ
sắt, TIBC nhóm bệnh thấp hơn nhóm chứng, ngược lại nồng độ
ferritin nhóm bệnh lại cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê với p
< 0,001. Kết quả của chúng tơi phù hợp với kết quả nghiên cứu của
các các giả trong và ngồi nước.
19
Bảng 4.2. So sánh nồng độ sắt, ferritin và TIBC huyết tương
giữa các nghiên cứu
Ferritin
TIBC
Tác giả, đối tượng
Sắt (µmol/l)
(ng/ml)
(µmol/l)
12,4
Chứng: 36
77,8
(66,65
88,66
khoẻ mạnh
(418,1 μg/dl)
Gupta S.
µg/dl)
và cộng
102 BN
18,8
sự 2009
55,28
BTMT giai
(101,5
513,82
(297,2 μg/dl)
đoạn 5 – TNT
µg/dl)
Mercadal
199 BN
L. và cộng
BTMT giai
14,06
110
56,5
sự 2015
đoạn 15
Goyal H.
100 BN
11,16
62,78
và cộng
BTMT giai
157,7
(60 µg/dl)
(337,5 μg/dl)
sự 2017
đoạn 35
Chứng: 66
15,81
198,45
67,58
người bình
thường
Chúng tơi
2018
124 BN
10,7
403,73
50,64
BTMT giai
đoạn 35
Như vậy, với cùng một phương pháp định lượng và đơn vị tính
kết quả nghiên cứu của chúng tơi cũng như các tác giả khác đều cho
thấy, nồng độ sắt ở bệnh nhân BTMT chưa lọc máu có xu hướng
thấp hơn nhóm chứng, trong khi nồng độ ferritin huyết tương có xu
hướng cao hơn và nồng độ TIBC thấp hơn nhóm chứng. Dựa vào kết
quả nhóm chứng chúng tơi tính tỷ lệ tăng, giảm các chỉ số, kết quả
cho thấy có 29% bệnh nhân có giảm và 3,2% bệnh nhân có tăng nồng
độ sắt huyết tương, khơng có BN nào giảm ferritin so nhóm chứng
tuy nhiên có tới 54,8% bệnh nhân tăng, có 47,6% bệnh nhân giảm và
chỉ có 1,6% bệnh nhân tăng TIBC so với nhóm chứng.
20
4.2.3. Đặc điểm độ bão hồ transferrin và tình trạng dự trữ sắt
huyết tương ở nhóm bệnh nhân nghiên cứu
* Đặc điểm độ bão hố transferrin ở đối tượng nghiên cứu
Đánh giá độ bão hồ transferrin nhóm bệnh nhân chúng tơi nhận
thấy có 30,6% bệnh nhân có TSAT < 20% và cũng có 8,1% bệnh nhân
có TSAT > 50%, chỉ có 61,3% bệnh nhân có chỉ số TSAT trong giới
hạn bình thường. Giá trị trung bình của TSAT là 22,31 %. Khi so sánh
với kết quả của một số tác giả trong và ngồi nước chúng tơi nhận
thấy có điểm tương đồng. Nghiên cứu của Phan Thế Cường năm
2015, trên 105 bệnh nhân BMTM giai đoạn cuối có chỉ định điều trị
thay thế thận suy thì TSAT trung bình là 21,8%, có 52,4% bệnh nhân
có TSAT thấp và 1,9% TSAT cao > 50%. Nghiên cứu của Waziri B.
và cộng sự năm 2016 giá trị trung bình của TSAT ở 67 BN BTMT giai
đoạn 35 là 24,45%. Nghiên cứu của Li Y. và cộng sự năm 2016 trên
1338 BN BTMT giai đoạn 35 có giá trị TSAT trung bình là 23,62%.
Như vậy, các kết quả của các tác giả nước ngồi có cùng đối tượng
nghiên cứu đều giống như của chúng tơi. Kết quả Phan Thế Cường
có tỷ lệ TSAT < 20% cao hơn và giá trị trung bình thấp hơn là bởi đối
tượng nghiên cứu của tác giả này 100% là bệnh nhân BTMT giai
đoạn cuối, cịn của chúng tơi chỉ có 79,8% bệnh nhân BTMT giai
đoạn 5.
* Tình trạng dự trữ sắt ở bệnh nhân nghiên cứu
Dựa theo khuyến cáo của KDIGO 2012 cho bệnh nhân bệnh thận
mạn chưa lọc máu, tỷ lệ bệnh nhân thiếu sắt trong nghiên cứu là
37,1%, tuy nhiên cũng có tới 38,7% bệnh nhân thừa sắt. Nếu chỉ dựa
vào tình trạng ferritin thì tỷ lệ thiếu sắt chỉ có 8,9%, như vậy có tới
28,2% số bệnh nhân là đánh giá thiếu sắt chưa đúng và bỏ sót mất
4,0% bệnh nhân chẩn đốn thừa sắt. Nếu bệnh nhân thừa sắt cứ tiếp
tục bồi phụ sắt như vậy bệnh nhân sẽ q tải và ngộ độc sắt, ngược
21
lại 28,2% bệnh nhân khơng bù đủ gây hiệu quả điều trị thiếu máu
kém. Việc tính tốn tình trạng sắt cho bệnh nhân BTMT vơ cùng quan
trọng bởi bên cạnh việc cung cấp EPO, việc bồi phụ sắt cho đúng và
đủ là u cầu trong thực hành lâm sàng.
Bảng 4.3. So sánh tình trạng sắt huyết tương theo KDIGO 2012 giữa
các nghiên cứu
Tỷ lệ BN có
ferritin < 100
Tác giả
Đối tượng
ng/ml và hoặc
TSAT < 20%
Trivedi H.S. và
31 BN BTMT có MLCT
61,3%
cộng sự 2003
trung bình 22,9 ml/phút
Ryu S.R. và cộng 2198 BN BTMT giai đoạn
54,4 %
sự 2017
15
Fishbane S. và
26142 BN BTMT có 6,6%
63,5 %
cộng sự 2012
CKD giai đoạn 35
124 BN BTMT giai đoạn
Chúng tơi 2018
35, MLCT trung bình 8,3
37,1%
ml/phút
Cùng trên đối tượng bệnh nhân bệnh thận mạn tính có và chưa
có suy thận, chúng tơi nhận thấy tỷ lệ bệnh nhân có thiếu sắt tuyệt
đối theo tiêu chuẩn KDIGO ở các nghiên cứu là khác nhau. Kết quả
của chúng tơi với tỷ lệ thiếu sắt thấp hơn, so với kết quả nghiên cứu
của các tác giả khác, mặc dù đối tượng nghiên cứu của chúng tơi có
MLCT trung bình là thấp nhất. Lý giải điều này chúng tơi cho rằng,
mẫu nghiên cứu của chúng tơi khác với mẫu nghiên cứu của các tác
giả khác, có thể liên quan đến chủng tộc.
4.3. Mối liên quan giữa sắt, ferritin, TIBC và tình trạng dự trữ
sắt với một số đặc điểm bệnh nhân nghiên cứu
4.3.1. Liên quan với giai đoạn bệnh thận
22
Nồng độ sắt, ferritin và TIBC có liên quan đến giai đoạn
BTMT: Nhóm bệnh nhân BTMT giai đoạn 3+4 có nồng độ trung
bình của sắt huyết tương cao h ơn, n ồng độ trung bình ferritin thấp
hơn và nồng độ trung bình TIBC thấp hơn nhóm bệnh nhân BTMT
giai đoạn 5, tuy nhiên chỉ thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p < 0,05 của ferritin và TIBC. Về tỷ lệ giảm sắt, theo các giai
đoạn bệnh thận mạn tính khơng có sự khác biệt. Chúng tôi chỉ
thấy sự khác biệt về tỷ lệ tăng ferritine và giảm TIBC theo các giai
đoạn BTMT, p < 0,001. N ồng độ ferritin huyết tương khơng có
tươ ng quan với nồng độ creatinine, chỉ có xu hướ ng tươ ng quan
thuận, TIBC tương quan ngh ịch m ức độ yếu với nồng độ
creatinine, với h ệ s ố tương quan là r = 0,39, p < 0,01. T ỷ l ệ bệnh
nhân thiếu sắt tăng theo mức độ nặng của bệnh thận mạn tính.
Kết quả nghiên cứu của Lukaszyk E. và cộng sự năm 2017 trên
84 bệnh nhân BTMT trong đó có 28 bệnh nhân suy thận có MLCT từ
30 – 59 ml/phút và 56 bệnh nhân có MLCT từ 60 ml/phút trở lên. Kết
quả cho thấy giống như của chúng tơi, khơng có tương quan MLCT
với sắt, tuy nhiên MLCT tương quan nghịch với ferritin huyết tương.
Nghiên cứu của Alam F. và cộng sự năm 2015 trên 126 bệnh nhân
BTMT chia 3 phân nhóm trong đó 42 bệnh nhân có MLCT trung bình
là 79 ml/phút, 42 bệnh nhân có MLCT trung bình là 45 và 42 bệnh
nhân có MLCT trung bình là 20,22. Nồng độ sắt huyết tương giảm
dần từ nhóm BN có MLCT cao hơn xuống nhóm MLCT thấp hơn,
ngược lại ferritin trung bình thì tăng dần, p < 0,001. Nghiên cứu của
Waziri B. và cộng sự năm 2016 trên 67 BN BTMT giai đoạn 35 và
của Mercadal L. và cộng sự năm 2015 trên 199 BN BTMT giai đoạn
15, thì TIBC giảm theo mức lọc cầu thận.
4.3.2. Liên quan với đặc điểm thiếu máu
23
Tình trạng dự trữ sắt có liên quan đến đặc điểm thiếu máu của
bệnh nhân BTMT giai đoạn 35 hay khơng chúng tơi thực hiện đánh
giá trên nhóm có thiếu máu và khơng thiếu máu. Khi tiến hành lập
mối tương quan giữa nồng độ sắt, ferritine, TIBC huyết tương với
một số chỉ số huyết học máu ngoại vi như số lượng HST và Hct
chúng tơi nhận thấy chỉ có mối tương quan thuận lỏng lẻo giữa TIBC
với hai chỉ số trên với, p < 0,05. Chúng tơi khơng tìm thấy mối tương
quan giữa sắt, ferritin với HST và HCT.
4.3.3. Liên quan với CRP và albumin máu
Khi so sánh nồng độ trung bình sắt, ferritin và TIBC huyết tương
ở nhóm giảm albumin và nhóm khơng giảm albumin, chúng tơi nhận
thấy nhóm giảm albumin có nồng độ sắt, TIBC thấp hơn, ferritin cao
hơn nhóm khơng giảm albumin, chỉ có sắt có sự khác biệt có ý nghĩa,
p < 0,01. Để phân tích sâu hơn, chúng tơi thực hiện xác định mối
tương quan giữa sắt, ferritin và TIBC với nồng độ albumin, kết quả
cho thấy chỉ có sắt có mối tương quan thuận mức độ yếu có ý nghĩa,
p < 0,05. Kết quả nghiên cứu của Sezer M.T. và cộng sự 2007 cũng
cho thấy nồng độ albumin máu thấp là yếu tố nguy cơ sản sinh các
chất oxy hố do thừa sắt gây ra. Suy dinh dưỡng và viêm có mối liên
quan mật thiết với nhau, ở những bệnh nhân viêm thường gây giảm
albumin và ngược lại.
Trong nghiên cứu này, chúng tơi xác định mối liên quan giữa sắt
và nồng độ hsCRP huyết thanh. Kết quả cho thấy, nhóm bệnh nhân
có nồng độ hsCRP huyết thanh tăng có nồng độ trung bình của sắt,
TIBC huyết tương thấp hơn, nhưng nồng độ ferritin lại cao hơn
nhóm bệnh nhân có nồng độ hsCRP khơng tăng, tuy nhiên chỉ thấy
khác biệt với sắt và TIBC, p < 0,001. Khi tìm mối tương quan giữa
nồng độ các chất chỉ có mối tương quan nghịch mức độ vừa giữa
nồng độ sắt và hsCRP huyết thanh, r = 0,229, p < 0,05. Małyszko J.
và cộng sự năm 2012 đã đánh giá các yếu tố liên quan đến giảm sắt ở
98 bệnh nhân BTMT giai đoạn cuối có lọc máu. Kết quả cho thấy
24
nồng độ albumin trung bình ở nhóm bệnh nhân có giảm sắt huyết
tương là 37,5 g/l thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm khơng
giảm sắt huyết tương là 40,6 g/l, p < 0,05. Ngược lại, nồng độ hs
CRP trung bình ở nhóm bệnh nhân giảm sắt là 7,11 mg/l cao hơn có ý
nghĩa so với nhóm khơng giảm chức năng sắt là 5,32 mg/l, p < 0,01.
4.3.4. Giá trị của TIBC trong đánh giá thiếu sắt dự trữ
Một câu hỏi được đặt ra: yếu tố nào có thể đánh giá tình trạng
thiếu sắt dự trữ khi chúng ta khơng tính được TSAT? Như chúng ta đã
biết sắt tự do trong huyết tương ít có ý nghĩa, do vậy khuyến cáo của
Hội thận học đưa ra cần dựa vào ferritin và TSAT để đánh giá tình
trạng sắt. Chúng tơi đã sử dụng TIBC là chỉ số mới định lượng và
nhận thấy TIBC có giá trị chẩn đốn thiếu sắt tại điểm cắt 48,03
µmol/L. Thực tế lâm sàng cho thấy, mặc dù được khuyến cáo sử
dụng nồng độ ferritin và TSAT để đánh giá dự trữ sắt, tuy nhiên các
nhà thận học thường chỉ dựa vào ferritin huyết tương để đánh giá tình
trạng dự trữ sắt của bệnh nhân BTMT, từ đó có phác đồ bổ sung sắt
cụ thể cho từng bệnh nhân. Như vậy, TIBC có thể được sử dụng như
một cơng cụ để đánh giá dự trữ sắt cho bệnh nhân BTMT.
4.3.5. Phân tích hồi qui đa biến nguy cơ giảm TIBC và giảm dự trữ
sắt
Mặc dù khi phân tích đơn biến có nhiều yếu tố liên quan đến tình
trạng giảm nồng độ sắt, tăng ferritin và giảm TIBC, tuy nhiên khi phân
tích đa biến chúng tơi nhận thấy có những điểm cần chú ý cho các nhà lâm
sàng. Phân tích hồi qui đa biến các yếu tố liên quan giảm TIBC huyết
tương, chúng tơi nhận thấy có duy nhất yếu tố nguy cơ độc lập đó là
MLCT giảm < 15 ml/phút, p < 0,05. Thơng thường, sắt được hấp thụ
từ thức ăn và vận chuyển khắp cơ thể bởi transferrin, transferrin
được sản xuất bởi gan. Khoảng 70% sắt được vận chuyển đến tủy
xương và kết hợp với hemoglobin trong các tế bào HC. Phần cịn lại
được lưu trữ trong các mơ như ferritin hoặc hemosiderin. Số lượng
25
transferrin trong máu phụ thuộc vào chức năng gan và tình trạng dinh
dưỡng của cá thể. TIBC là phép đo tổng lượng sắt có khả năng gắn
kết với các protein trong máu, bao gồm transferrin và các protein khác
(trong đó transferrin là protein chính gắn kết sắt, các xét nghiệm TIBC
là một xét nghiệm có giá trị tốt). Bởi bản chất cũng là protein do vậy,
TIBC thay đổi ở nhóm người lớn tuổi. Ở bệnh nhân bệnh thận mạn
tính, tình trạng suy dinh dưỡng tăng theo tình trạng giảm MLCT và tăng
tình trạng viêm.
Trong phân tích hồi qui đa biến các yếu tố liên quan đến thiếu sắt
dự trữ chúng tơi nhận thấy chỉ BTMT phát hiện lần đầu và TIBC >
48,03 µmol/L là những yếu tố nguy cơ độc lập cho tình trạng thiếu
dự trữ sắt huyết tương, p < 0,01. Thiếu máu ở bệnh nhân BTMT
được xác định là thiếu máu đẳng sắc, tuy nhiên MLCT càng giảm tình
trạng thiếu sắt huyết tương càng tăng, mặc dù nồng độ ferritin tăng.
Tình trạng này phản ánh dự trữ sắt tăng bởi việc thiếu tình trạng sử
dụng sắt, dần đến thiếu hụt sắt. Như vậy, những bệnh nhân BTMT
có suy thận chưa được phát hiện trước đó, khả năng thiếu sắt rất cao.
Đây là một kết quả có ý nghĩa lâm sàng trong chẩn đốn tình trạng dự
trữ sắt huyết tương và nên bổ sung sắt cho bệnh nhân khi bệnh nhân
được chẩn đốn BTMT có MLCT thấp ngay từ lần phát hiện đầu
tiên, chưa cần định lượng sắt.
HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
Mặc dù nghiên cứu đã đạt được các mục tiêu đề ra, tuy nhiên đề
tài cịn hạn chế nhóm bệnh tỷ lệ bệnh nhân BTMT giai đoạn 3 và 4
số lượng ít, nên chưa thực sự thấy rõ thay đổi nồng độ sắt, ferritin,
TIBC huyết tương và dự trữ sắt ở nhóm bệnh nhân này.
KẾT LUẬN
Nghiên cứu nồng độ sắt, ferritin, TIBC huyết tương ở 124 bệnh nhân