Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sâu bệnh hại và sử dụng chất điều hoà sinh trưởng đối với hồng không hạt bảo lâm - tại lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.05 KB, 91 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM





HOÀNG VĂN ĐẢY





NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
SÂU BỆNH HẠI VÀ SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HOÀ SINH TRƯỞNG
ĐỐI VỚI HỒNG KHÔNG HẠT BẢO LÂM - TẠI LẠNG SƠN






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP







THÁI NGUYÊN- 2008
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




Lời cam đoan


Tôi xin cam đoan luận văn này do chính tôi thực hiện, dưới sự hướng
dẫn khoa học của PGS.TS. Đào Thanh Vân. Số liệu và kết quả nghiên cứu
trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học
vị nào.
Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc. Nếu
sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Lạng Sơn, tháng 8 năm 2008

HỌC VIÊN CAO HỌC


Hoàng Văn Đảy















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


Lời cảm ơn

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, khoa Sau đại học, khoa Nông học, các thầy cô giáo đã tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đào Thanh Vân
giảng viên bộ môn cây ăn quả, phó trưởng khoa Nông học trường Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình
thực hiện đề tài và bảo vệ luận văn.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Chi cục Bảo vệ thực vật
Lạng Sơn, Viện Bảo vệ thực vật, Bộ môn Kiểm nghiệm chất lượng rau quả -
Viện nghiên cứu rau quả, phòng phân tích đất - Viện quy hoạch & thiết kế
nông nghiệp, các phòng ban chuyên môn của huyện Cao Lộc - tỉnh Lạng Sơn,
Đảng uỷ, HĐND, UBND và các hộ gia đình xã Bảo Lâm đã tạo điều kiện và
nhiệt tình giúp đỡ tôi trong quá trình theo dõi thu thập số liệu cho luận văn.
Tôi xin tỏ lòng biết ơn chân thành tới bạn bè và gia đình đã giúp đỡ và
động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thiện luận văn này.
Lạng Sơn, Tháng 8 năm 2008

HỌC VIÊN CAO HỌC



Hoàng Văn Đảy








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM



HOÀNG VĂN ĐẢY



NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC,
SÂU BỆNH HẠI VÀ SỬ DỤNG CHẤT ĐIỀU HOÀ SINH TRƯỞNG
ĐỐI VỚI HỒNG KHÔNG HẠT BẢO LÂM - TẠI LẠNG SƠN



CHUYÊN NGÀNH: TRỒNG TRỌT
MÃ SỐ: 60.62.01



LUẬN VĂN
THẠC SĨ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS ĐÀO THANH VÂN



THÁI NGUYÊN- 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Cây hồng (Diospyros Kaki Lim) là một loại cây ăn quả lâu năm có nguồn
gốc á nhiệt đới đã được trồng lâu đời ở Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Ở
nước ta hồng được trồng nhiều ở phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra, ở phía Nam hồng
được trồng ở vùng Đà Lạt- Lâm Đồng nơi có độ cao từ 1000- 1500 m so với mặt
nước biển. Phạm Văn Côn [5]; Nguyễn Đức Lương, Trần Như Ý [19]; Mai Xuân
Lương [20]. Hiện nay ở nước ta có trồng rất nhiều giống hồng nổi tiếng như
hồng Nhân Hậu ( Hà Nam), hồng Hạc Trì ( Phú Thọ), hồng Thạch Thất ( Hà
Tây), hồng vuông Thạch Hà ( Hà Tĩnh)...Trong đó giống hồng không hạt Bảo
Lâm được trồng tại xã Bảo Lâm, tỉnh Lạng Sơn cũng là một giống hồng quý
được coi là giống cây ăn quả đặc sản của tỉnh Lạng Sơn. Sở nông nghiệp và phát
triển nông thôn Lạng Sơn [25], UBND tỉnh Lạng Sơn [42].
Quả hồng có giá trị dinh dưỡng khá cao. Kết quả phân tích hàm lượng các
chất dinh dưỡng trong một quả hồng tươi ( nặng 168g) của các nhà khoa học Mỹ

như sau: nước 139,4g (82,98%); chất béo 0,3g (0,18%); chất đạm 1,0g ( 0,59%);
bột đường 31,2g ( 18,57%); carories 118 mg; vitamin C 13 mg; vitamin B12
0,03 mg; vitamin A 3640 IU; vitamin B1 0,5 mg; folate 13 mg; niacin 0,2 mg;
natri 3 mg; canxi 13 mg; magie 15 mg; kẽm 0,18 mg; mangan 0 ,596 mg; kali
270mg; phospho 28 mg; sắt 0,26 mg; đồng 0,19 mg. Website [77].
Quả hồng khi chín có phẩm vị thơm ngon có thể sử dụng để ăn tươi, sấy
khô, làm mứt, làm bánh nướng.... hoặc sử dụng làm nguyên liệu cho công nghiệp
mỹ phẩm để sản xuất kem dưỡng da. Ngoài ra quả hồng và các bộ phận khác của
quả còn có rất nhiều giá trị dược lý khác như sử dụng ăn tươi có tác dụng chữa
bệnh táo bón, bệnh trĩ, giảm sốt, giảm căng thẳng, chữa say rượu, phòng ngừa
bệnh bướu cổ; quả hồng sấy khô được sử dụng để chữa bệnh viêm phế quản,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
bệnh ho khan, trừ giun sán, cầm máu, chữa long đờm...; cuống và đài hoa được
sử dụng để chữa ho và nấc rất tốt; dịch quả xanh được sử dụng để chữa bệnh cao
huyết áp. Vũ Công Hậu [15]; Đỗ Tất Lợi [18]; Trần Thế Tục [38]; Đào Thanh
Vân, Ngô Xuân Bình [44]; Duke J.A và công sự [56]. Theo Kotami và cộng sự
(2000) [63]; Yamada M [73]; Yonemori và cộng sự [74], [75] chất tanin và các
hợp chất có trong quả hồng có tác dụng kháng khuẩn, chống dị ứng và chữa bệnh
cao huyết áp rất tốt.
So với các cây ăn quả dài ngày khác cây hồng có rất nhiều ưu điểm như:
dễ trồng, chịu hạn tốt, chịu được đất xấu, ít sâu bệnh, sinh trưởng khoẻ, lá to tán
lá rộng tạo độ che phủ chống xói mòn tốt, năng suất cao và tương đối ổn định. Vì
vậy trồng hồng cho thu nhập cao hơn trồng các loại cây ăn quả khác trên cùng
địa bàn. Cây hồng Bảo Lâm ở độ tuổi 20-30 năm có diện tích tán lá khoảng 15-
20 m
2
. Chăm sóc tốt mỗi năm cho thu hoạch từ 70-80 kg quả tương ứng giá trị

1- 1,2 triệu đồng. Vì vậy giống hồng Bảo Lâm đã được tỉnh Lạng Sơn coi là một
cây trồng quan trọng trong chương trình xoá đói giảm nghèo và phủ xanh đất
trống đồi trọc ở Bảo Lâm và các vùng lân cận với mục tiêu đưa diện tích giống
hồng này lên 1800 - 2500 ha năm 2015 [42] tạo vùng hồng hàng hoá tập trung
chất lượng cao. Nhưng việc mở rộng diện tích trồng hồng còn gặp nhiều khó
khăn trong nhân giống, phòng trừ sâu bệnh hại, kỹ thuật trồng và chăm sóc, biện
pháp chống rụng quả cũng như các chỉ dẫn địa lý cho vùng trồng giống hồng
Bảo Lâm....các vấn đề vừa nêu chưa được nghiên cứu xem xét một cách đầy đủ
vì vậy cho đến nay vẫn chưa xây dựng được các quy trình trồng và chăm sóc
hồng để hướng dẫn và khuyến cáo cho người làm vườn. Thực tế đó đã dẫn đến
tình trạng các diện tích hồng được trồng ở Bảo Lâm hiện nay có năng suất thấp,
quả bé, giống bị thoái hoá.... không đáp ứng được nhu cầu của sản xuất trong nền
kinh tế thị trường.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Xuất phát từ tình hình thực tế trên nhằm từng bước xác định được các biện
pháp canh tác phù hợp, góp phần hoàn thiện quy trình trồng và chăm sóc đối với
giống hồng không hạt Bảo Lâm tại Lạng Sơn chúng tôi tiến hành thực hiện đề
tài:
" Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sâu bệnh hại và sử dụng chất điều hoà
sinh trưởng đối với hồng không hạt Bảo Lâm - tại Lạng Sơn."
2. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
Xác định một số đặc điểm sinh học, tình hình sâu bệnh hại và sử dụng chất
điều hoà sinh trưởng nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hồng không hạt Bảo
Lâm tại Lạng Sơn.
3. YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
- Điều tra hiện trạng sản xuất hồng Bảo Lâm tại xã Bảo Lâm, huyện Cao
Lộc, tỉnh Lạng Sơn.

- Nghiên cứu một số đặc điểm nông sinh học của giống hồng không hạt
Bảo Lâm.
- Nghiên cứu thành phần, mức độ phổ biến của các loài sâu bệnh hại trên
hồng Bảo Lâm.
- Nghiên cứu thử nghiệm phòng trừ bệnh thán thư hại hồng và sử dụng
chất điều hoà sinh trưởng đối với hồng Bảo Lâm.








Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
Phần I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
1.1.1. Cơ sở khoa học của việc điều tra hiện trạng sản xuất cây hồng Bảo
Lâm tại xã Bảo lâm, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn
Giống hồng không hạt Bảo Lâm là một giống cây ăn quả lâu năm đã được
người dân Bảo Lâm trồng từ rất lâu và được đặt tên theo địa danh của xã, hiện
nay giống hồng này được tỉnh Lạng Sơn coi là một giống hồng quý, là cây ăn
quả đặc sản của địa phương. Nhưng đến nay các nghiên cứu về giống hồng này
còn rất hạn chế, các biện pháp kỹ thuật canh tác, chăm sóc hầu như chưa được áp
dụng hoặc nếu có thì cũng không đồng bộ nên năng suất, chất lượng quả thấp .
Thông qua việc điều tra hiện trạng sản xuất hồng chúng ta sẽ biết được mức độ
áp dụng các biện pháp nhân giống, kỹ thuật canh tác, chăm bón, quản lý dịch

hại... Từ đó có những đề xuất về các nội dung cần xem xét, nghiên cứu nhằm
từng bước hoàn chỉnh quy trình kỹ thuật khuyến cáo cho người làm vườn tại Bảo
Lâm và các vùng lân cận.
1.1.2. Cơ sở khoa học của việc nghiên cứu quy luật ra cành hồng
Cây hồng ra hoa kết trái, sinh trưởng hàng năm phụ thuộc rất lớn vào các
yếu tố đất đai, khí hậu thời tiết, tuổi cây, giống...Trong một năm cây hồng
thường có 2-3 đợt lộc là lộc xuân, lộc hè, lộc thu. Phạm Văn Côn [6], [7]; Vũ
Công Hậu [14], [15]; Trần Như Ý [50], [51]. Các đợt lộc thường có liên quan
khá chặt chẽ với nhau, quá trình ra lộc của năm trước là tiền đề cho sự ra hoa kết
trái của năm sau. Nguyễn Thế Huấn [16]. Nghiên cứu quy luật ra cành để có các
biện pháp kỹ thuật cần thiết, hợp lý tác động và điều chỉnh quá trình ra lộc nhằm
hạn chế hoặc thậm chí loại bỏ hiện tượng ra quả cách năm, bồi dưỡng cành mẹ
của cành quả năm sau góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả sản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
xuất hồng. Vũ Công Hậu [13], [14].
1.1.3. Cơ sở khoa học của việc điều tra thành phần sâu bệnh hại hồng
Sâu bệnh hại cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến sinh
trưởng, phát triển, của cây, năng suất và chất lượng quả. Theo Đường Hồng Dật
(1984) [9]; Hà Quang Hùng [17]; Lê Lương Tề, Vũ Triệu Mân (1998) [29];
Nguyễn Công Thuật (1996) [32] thì sâu bệnh hại có thể làm giảm từ 20 -30%
năng suất, thậm chí mất trắng. Cây hồng cũng như các cây ăn quả lâu năm khác
đều có rất nhiều đối tượng sâu bệnh gây hại. Phạm Văn Côn [7]; Chu Vĩnh
Đông, Lộ Hoa Trung [12]; Vũ Công Hậu [15]; Trần Thế Tục [37], [39]; Nguyễn
Văn Tuất và cộng sự [40], [41]; Viện Bảo vệ thực vật [47]. Tuy nhiên các nghiên
cứu về sâu bệnh gây hại đối với cây hồng vẫn chưa đầy đủ, thực tế những năm
vừa qua do không kiểm soát được sâu bệnh đã dẫn đến nhiều vườn hồng ở Bảo
Lâm bị giảm năng suất, có nhiều cây bị chết...Nghiên cứu, điều tra thành phần

sâu bệnh hại cây hồng Bảo Lâm để có cơ sở áp dụng các biện pháp phòng trừ
thích hợp là rất cần thiết nhằm từng bước bổ sung hoàn chỉnh quy trình trồng và
thâm canh tăng năng suất cây hồng không hạt Bảo Lâm tại Lạng Sơn.
1.1.4. Cơ sở khoa học của việc phun chất điều hoà sinh trưởng
Ngày nay các chất điều hoà sinh trưởng đã và đang được sử dụng rộng rãi
trong sản xuất trồng trọt như là một phương tiện quan trọng điều chỉnh các quá
trình sinh trưởng, phát triển của cây trồng như: kích thích tăng trưởng sinh khối,
điều khiển sự ngủ nghỉ của hạt, củ, chồi, sự ra hoa kết quả, sự lão hoá của mô
cây, tạo quả không hạt, điều chỉnh sự chín của quả, kích thích ra rễ, tăng khả
năng chống chịu với điều kiện không thuận lợi của môi trường. Hoàng Minh Tấn
và cộng sự [27], [28].
Sau khi quá trình thụ phấn, thụ t inh kết thúc, hợp tử sẽ phát triển thành
phôi, phôi sinh trưởng là trung tâm sinh ra các chất kích thích sinh trưởng có bản

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
chất auxin và gibberellin, các chất này khuyếch tán vào bầu và kích thích sự lớn
lên của quả. Vì vậy nếu quá trình thụ tinh, thụ phấn không xảy ra thì hầu hết hoa
sẽ rụng. Hoàng Minh Tấn và cộng sự [26]; Lê Văn Tri [34], [35]; Vũ Văn Vụ và
cộng sự [49].
Sử dụng các phytohocmon (chất điều hoà sinh trưởng cây trồng) ngoại
sinh thay thế cho các phytohocmon nội sinh trước khi xảy ra quá trình thụ phấn,
thụ tinh thì quả sẽ được hình thành và lớn lên không có hạt. Việc sử dung các
phytohocmon nhằm làm tăng sự đậu quả và tạo quả không hạt đã được sử dụng
rộng rãi, đem lại hiệu quả cao trong sản xuất trên các cây trồng như: nho, bầu bí,
cà chua, táo... Nguyễn Quang Thạch và cộng sự [30]; Đào Thanh Vân [43], [45].
Trong thực tế năng suất hồng còn đạt thấp và không ổn định là do nhiều
nguyên nhân như: trình độ canh tác của người làm vườn, mức độ đầu tư thâm
canh, giống... Trong đó sự rụng quả là một nguyên nhân quan trọng. Hồng có tỷ

lệ đậu quả khá cao nhưng tỷ lệ rụng quả cũng lớn. Nguyễn Thế Huấn (2006)
[16]; Hoàng Thị Nam (2007) [21]; Lưu Vinh Quang (1995) [24], mức độ rụng
cũng tuỳ thuộc vào giống, khí hậu thời tiết và chế độ chăm sóc. Theo Lưu Vinh
Quang (1995) [24], thì nguyên nhân rụng quả hồng gồm: rụng quả sinh lý, rụng
quả do thiếu dinh dưỡng trong đất, rụng quả do thời tiết khí hậu, rụng quả do sâu
bệnh hại, rụng quả do tác động cơ giới như tập quán nhân giống bằng rễ của
người làm vườn... Trong đó rụng quả sinh lý là nguyên nhân chủ yếu. Rụng quả
sinh lý là do các nguyên nhân nội tại như:
- Quả không thụ tinh.
- Mất cân đối về dinh dưỡng do bón phân không cân đối, không đầy đủ,
hoặc thiếu hụt các nguyên tố vi lượng như: Bo, S, Mg, Zn...
- Tác động bất lợi của môi trường như nhiệt độ quá cao, hạn, úng.
- Mất cân đối về chất điều hoà sinh trưởng như hàm lượng IAA giảm sẽ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
làm tăng sự rụng quả... Vì vậy việc sử dụng một số chất điều hoà sinh trưởng
phun bổ sung nhằm làm giảm tỷ lệ rụng quả là cần thiết. Phun chất điều hoà sinh
trưởng không những thúc đẩy quá trình sinh trưởng phát triển của cây mà còn
làm chậm việc hình thành tầng rời, đảm bảo cho việc vận chuyển các chất
dinh dưỡng vào nuôi quả nên giảm được tỷ lệ quả bị rụng. Lê Văn Tri [33], [34].
1.2. MỘT SỐ NGHIÊN CỨU VỀ CÂY HỒNG
1.2.1. Những nghiên cứu về nguồn gốc, phân loại
1.2.1.1. Nguồn gốc
Cây hồng (Diospyros) thuộc bộ thị (Ebenales), họ thị (Ebenaceae), phân
lớp sổ (Dilleniaceae), lớp hai lá mầm (Dicotyledoneae), ngành thực vật hạt kín
(Angiospermae). Võ Văn Chi, Dương Đức Tiến [1]; Vũ Văn Chuyên [2].
Các nghiên cứu về nguồn gốc của cây hồng phương Đông cho rằng một số
nhóm hồng thuộc loài hồng dại ( Diospyros kaki) tồn tại trong những khu rừng

của Trung Quốc và đều đi đến thống nhất là cây hồng có nguồn gốc từ Trung
Quốc ( nguyên sản ở lưu vực sông Trường Giang), phân bố tự nhiên ở 33
0
- 37
0

vĩ Bắc. Tại Trung Quốc đã xuất hiện các tài liệu viết về cây hồng từ thế kỷ thứ 5,
thứ 6. Grubov [57]. Từ Trung Quốc hồng được đưa đến trồng ở Địa Trung Hải,
sau đó được đưa sang châu Âu năm 1789, sang Mỹ năm 1852, Liên Xô (cũ) năm
1889 và nhiều nước khác trên thế giới trong đó có Việt Nam . Phạm Văn Côn
[7]; Vũ Công Hậu [15]; Yung Kyung Choi và cộng sự [52]; Wilson [72].
1.2.1.2. Phân loại
Theo các nhà phân loại học Nhật Bản hiện nay trên thế giới có khoảng
800- 1000 loài hồng và được trồng phổ biến ở các nước có khí hậu ôn hoà thuộc
châu Á, bắc Mỹ, trong đó có 04 loài được trồng để lấy quả là: D.kaki Linn;
D.oleifera Cheng; D. virginiana Linn; D.lotus Linn. (dẫn theo Yung Kyung
Choi, Jung Hokim [52]).

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
Chi Diospyros gồm 400 loài chủ yếu phân bố ở vùng á nhiệt đới châu Á,
châu Phi và nam Mỹ. Môt số loài (trong đó có hồng phương Đông) phân bố rộng
trên các vùng ôn đới. Whitmore (1978) [71].
Cây hồng (Diospyros kaki Linn) được trồng rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, bang Califonia (Mỹ), Italia, Brazin, Úc, Newdilan, Israen. Hồng
được chia ra thành hai nhóm là hồng chát và hồng không chát trong đó nhóm
hồng không chát có khả năng thương mại lớn hơn. Nguyễn Văn Cương (1997)
[4]; Konishi và cộng sự (1994) [62]; Mowat và công sự (1994) [69].
Yung Kyung Choi, Jung Hokim (1972) [52] trích dẫn kết quả nghiên

cứu cho biết: Mori (1953) chia hồng thành 4 nhóm đó là:
- Nhóm 1: Nhóm PCNA ( Pollination Constant Non- Astringent) là nhóm
gồm những giống hồng không chát, không biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả
thường có những đốm tanin sẫm. Các giống thuộc nhóm này như: Fuju, Jiro,
Gosh, Suruga...
- Nhóm 2: Nhóm PVNA (Pollination Variant Non-Astringent) là nhóm
gồm những giống không chát và biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả có những đốm
tanin sẫm, khi không có hạt thì thịt quả có vị chát. Các giống thuộc nhóm này
như: Zenjimaru, Shogatsu, Mizushima, Anahya kume...
- Nhóm 3: Nhóm PCA (Pollination Constant Astringent) là nhóm gồm
những giống chát, không biến đổi với sự thụ phấn, thịt quả không có những đốm
tanin sẫm. Các giống thuộc nhóm này như: Y okomo, Yosumizo, Shakokashi,
Hagakushi, Hachiya...
- Nhóm 4: Nhóm PVA (Pollination Variant Astringent) là nhóm gồm
những giống chát và biến đổi với sự thụ phấn, quả có thể chát khi được thụ phấn
và có một vài đốm tanin sẫm xung quanh hạt. Các giống thuộc nhóm này như:
Azumi, Shirazu, Emon, Kosshuhya kume, Hiratanenashi.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
Theo Voronxov (1982) [48] thì trên thế giới hiện nay trồng phổ biến 03
loại hồng là:
- Hồng dại (Diospyros lotus L): Nhị bội thể 2n = 30, cây có thể cao 20-
30m, đường kính gốc thân có thể đạt 70 cm, thuộc loại cây có hoa đơn tính khác
gốc, quả bé (trọng lượng trung bình 15g/quả), rất chát.
- Hồng Virginiana (D.virginiana L): Tứ bội thể 4n = 60 hoặc lục bội thể
6n = 90, cây có thể cao 30-35 m, đường kính gốc thân có thể đạt 70-80cm, thuộc
loại cây có hoa đơn tính khác gốc, quả bé (trung bình 22g/quả), quả khi chín màu
đỏ thơm ngon không chát, chất lượng quả tốt hơn hồng phương Đông.

- Hồng phương Đông (D.kaki T): Lục bội thể 6n = 90, cây sinh trưởng
nhanh, rụng lá mùa đông, chiều cao cây đạt 12 - 15m, tán cây loà xoà, hoa có thể
đơn tính cùng gốc hay khác gốc, quả to ( trọng lượng có thể đạt 200g/quả ).
Theo Phạm Văn Côn [5] những kết quả điều tra về hồng từ những năm
1990 cho thấy ở Việt Nam có 03 loài hồng là:
- Hồng lông (Diospyros tokinensis L.) phân bố rải rác khắp nơi trên miền
Bắc, thân cây cao to, phân cành ngang, tạo nhiều tầng cành, tán hình tròn. Lá
thuôn dài, mặt trên màu xanh sẫm có lông màu xanh, mặt dưới màu xanh nhạt có
lông màu hơi vàng. Quả to tròn hoặc hơi dẹt, khi chín lông trên quả rụng đi quả
chuyển sang màu vàng hồng, quả có nhiều hạt (6-9 hạt), cây sinh trưởng khoẻ,
sản lượng cao nhưng chất lượng quả kém (quả có mùi hôi nên còn được gọi là
hồng hôi hay hồng trâu).
- Hồng cậy (Diospyros lotus L.) được trồng rải rác ở các tỉnh phía Bắc
như: Nam Định, Thái Bình, Ninh B ình... Thân cây cao to, tán lớn. Lá nhỏ hẹp
mặt trên màu xanh đậm nhẵn nhưng không bóng, mặt dưới màu xanh nhạt có ít
lông. Quả bé hình tròn dẹt, trọng lượng trung bình 10g/quả, hạt nhiều (6-7 hạt),
quả chín vàng, ăn ngọt.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
- Hồng trơn có lá nhẵn (Diospyros kaki L.) được trồng ở miền Bắc và
vùng Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng. Thân cây thường có màu nâu, góc độ phân cành
hẹp, tán hình tròn hoặc hình tháp. Lá hình bầu dục hoặc elíp, mặt trên lá có màu
xanh sẫm, mặt dưới lá có màu vàng nhạt. Quả chưa chín có màu xanh lục, nhẵn ,
trơn, khi chín có màu vàng đỏ, quả có thể không hạt hoặc ít hạt hơn so với hai
loài trên tuỳ theo giống, hạt nhỏ khó mọc mầm, cây sinh tưởng khoẻ, phẩm chất
quả ngon. Loài này được chia ra hai nhóm chính là hồng ngâm và hồng dấm:
+ Nhóm hồng ngâm: Chất chát (tanin) trong quả có khả năng hoà tan trong
nước, nên được khử chát bằng cách ngâm quả trong nước sạch để rút chất chát

(tanin) trong qua ra làm cho quả không còn vị chát, cũng có thể đem dấm cho
quả chín mềm mà không cần ngâm, khi đó tanin ở dạng tự do chuyển sang dạng
kết hợp thì quả sẽ có vị ngọt và không còn vị chát, nếu sử lý chát bằng dấm chín
thì quả sẽ ngọt hơn so với ngâm vì trong quá trình dấm thì một phần chất tanin
được chuyển thành đường.
+ Nhóm hồng dấm: Chất tanin trong quả thuộc dạng không hoà tan trong
nước. Nên được khử chát bằng cách dấm đất đèn hoặc đốt hương.... Sau khi
được dấm thì quả chín mềm và không còn chát.
1.2.2. Những nghiên cứu về phân bố và sản xuất hồng
1.2.2.1. Phân bố và sản xuất hồng trên thế giới
Các nghiên cứu đều cho rằng Trung Quốc là nước trồng hồng nhiều nhất
thế giới, hồng được trồng trên khắp đất nước Trung Quốc (trừ các tỉnh Hắc Long
Giang, Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng), các tác giả Trung Quốc cho rằng
vùng trồng hồng tốt nhất là từ vĩ tuyến 33
0
- 37
0
vĩ Bắc, ở đây có nhiều giống
hồng tốt, chất lượng cao, sinh trưởng, phát dục thuận lợi. Vũ Công Hậu [13],
[14], những nước có diện tích, sản lượng hồng lớn sau Trung Quốc là: Hàn
Quốc, Nhật Bản...(bảng 1.1)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Bảng 1.1. Diện tích, sản lượng hồng một số nước trên thế giới
Tên nước
Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004
Diện tích
(ha)

Sản lượng
(tấn)
Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Diện tích
(ha)
Sản lượng
(tấn)
Trung Quốc 540.003 1.775.338 603.108 1.833.357 653.200 1.825.000
Hàn Quốc 29.070 281.143 27.943 249.207 28.000 250.000
Nhật Bản 24.400 269.300 24.400 265.000 24.400 232.500
Brazin 6.350 65.500 6.400 66.000 6.700 67.000
Italia 2.891 54.170 2.900 55.000 2.900 55.000
Israen 4.400 39.800 4.400 39.400 4.400 40.000
Niudilan 385 1.200 385 1.200 390 1.300
Iran 100 1.000 100 1.000 100 1.000
Oxtraylia 75 650 75 650 75 650
Mehico 50 450 50 450 50 450
Tổng số 607.724 2.488.551 669.761 2.511.264 720.215 2.472.900
( Nguồn: FAO 2005)
Morton (1987) [70] cho rằng hồng được trồng đầu tiên ở Trung Quốc, sau
đó du nhập vào Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, đến cuối thế kỷ 19 hồng mới
được du nhập vào Mỹ, Ôxtraylia, Palestine, Italia, Pháp, Nga, Brazin, Mexico...
Trung Quốc là nước có diện tích hồng đang thu hoạch lớn nhất thế giới
(chiếm 90,7%) sau đó là Hàn Quốc, Nhật Bản. Đây cũng là ba quốc gia có những
nghiên cứu sâu về cây hồng trên tất cả các lĩnh vực.
Do những tính chất và đặc điểm sinh học khác nhau nên các loài thuộc chi
Diospyros cũng có các vùng phân bố khác nhau nhưng tập trung chủ yếu ở châu

Á và bắc Mỹ, sự phân bố của các loài còn phụ thuộc vào mục đích và nhu cầu sử
dụng của người trồng.
Loài Diospyros kaki L. Phân bố chủ yếu ở 4 nước: Nhật Bản, Trung Quốc,
Hàn Quốc và Việt Nam. Ở châu Á quả hồng được sử dụng chủ yếu để ăn tươi, tại
Trung Quốc, Nhật Bản quả hồng được sử dụng làm một trong những món tráng
miệng chính trong khẩu phần ăn hàng ngày. Các sản phẩm chế biến từ hồng
thường được tiêu thụ mạnh ở thị trường châu Âu, người châu Âu ở vùng Địa
Trung Hải đã quen với cây hồng và cho rằng quả hồng chín rất ngọt, hương vị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
đậm đà và có tập quán thường dùng thìa ăn hồng khi đã chín nhũn. Vũ Công Hậu
[15]; Trần Thế Tục [37].
1.2.2.2. Phân bố và sản xuất hồng ở Việt Nam
Bảng 1.2. Diện tích, sản lượng hồng ở Việt Nam
Năm Diện tích (ha) Năng suất (Tạ/ha) Sảnlượng (tấn)
1998 2.575,00 46,00 5.469
2000 4.713,00 46,20 9.750
2004 4.827,70 47,00 10.507
Nguồn: Viện nghiên cứu rau quả Trâu Quỳ, Hà Nội
Hồng là một loại cây ăn quả quan trọng đã được trồng từ rất lâu ở Việt
Nam vì quả hồng có phẩm vị ngon, trồng hồng có hiệu quả kinh tế cao hơn so
với trồng một số loại cây ăn quả khác như mơ, mận, đào...Những năm gần đây
cây hồng đang ngày càng được chú ý phát triển ở nhiều tỉnh trên cả nước, nhưng
tập trung chủ yếu ở vùng trung du, miền núi phía Bắc như Lạng Sơn, Bắc Giang,
Bảng 1.3. Diện tích hồng ở một số tỉnh năm 2006
Số TT Tên tỉnh Diện tích (ha) Tỷ lệ (%)
1 Thái Nguyên* 1.565,00 17,24
2 Bắc Giang 1.562,00 17,20

3 Lâm Đồng* 700,00 7,71
4 Lạng Sơn 2.200,30 24,23
5 Hoà Bình 615,00 6,77
6 Yên Bái 631,50 6,96
7 Bắc Cạn 173,00 1,91
8 Nghệ An* 221,00 2,43
9 Hà Tĩnh* 229,00 2,52
10 Hải Phòng* 117,00 1,29
11 Phú Thọ 59,00 0,65
12 Các tỉnh khác* 1.007,00 11,09
Ghi chú: - Nguồn Cục thống kê các tỉnh.
- Những tỉnh có đánh dấu (*) Số liệu năm 2004.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Thái Nguyên và tỉnh Lâm đồng thuộc vùng cao nguyên nam Trung bộ. Phạm
Văn Côn [7], Vũ Công Hậu [15], Yung Kyung Choi và cộng sự [5 2], (bảng 1.2
và 1.3).
Kết quả điều tra và nghiên cứu về cây hồng của nhiều tác giả. Phạm
Văn Côn [5]; Nguyễn Đức lương, Trần Như Ý [19]; Mai Xuân Lương [20], đều
thống nhất cho rằng ở Việt Nam có rất nhiều vùng trồng hồng, mỗi vùng
đều có những giống hồng ngon và nổi tiếng.
* Vùng Đà Lạt - Lâm Đồng
Đà Lạt là thành phố thuộc tỉnh Lâm Đồng nằm ở nam Tây Nguyên, có độ
cao trung bình 1.500m so với mặt nước biển, nên khí hậu Đà Lạt mang đậm nét
khí hậu á nhiệt đới, nhiệt độ thấp và tương đối ôn hoà.
- Nhiệt độ không khí trung bình hàng năm 17,5- 18,2
0
C. Biên độ nhiệt

ngày và đêm khoảng 9
0
C, các tháng trong mùa khô có biên độ nhiệt ngày đêm
lớn hơn mùa mưa.
- Mùa mưa thường bắt đầu từ giữa tháng 4 đầu tháng 5, kết thúc vào cuối
tháng 10 giữa tháng 11 và chiếm khoảng 80% tổng lượng mưa năm.
- Độ ẩm không khí trung bình 85%, các tháng 7,8,9 ẩm độ không khí
tương đối cao (90- 92%). Mùa khô độ ẩm không khí giảm xuống dưới 80%, độ
ẩm tương đối thấp nhất vào tháng 2, 3 ( 75-78%).
Hồng trồng ở Đà Lạt chủ yếu là các giống thuộc loài Diospyros kaki L.
Đây cũng là loài được trồng phổ biến ở Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên và
các tỉnh phía Bắc nước ta. Các giống hồng được trồng phổ biến gồm:
+ Hồng trứng lốc. Quả hình trứng, khi chín có màu hồng, bóng láng. Cây
có tán lớn, năng suất cao có thể đạt 5-6 tạ/cây/năm, có khả năng chống chịu tốt với
sâu bệnh, dễ trồng. Đây là một trong những giống hồng được ưa chuộng nhất hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
nay. Qu ả khi chín ăn rất ngọt, giòn, thích h ợp cho việc vận chuyển đi xa, thời gian thu
hoạch sớm từ tháng 6 - 8.
+ Hồng trứng muộn. Quả hình trứng, khi chín có màu hồng, bóng. Cây có
tán trung bình, năng suất cao có thể đạt 3 -4 tạ/cây/năm, chống chịu tốt, quả khó
rụng khi gió lớn, chất lượng quả không bằng hồng trứng lốc, nhưng vì chín muộn
(thu hoạch hàng năm vào tháng 10-11) nên giá bán cao.
+ Hồng Pome tròn. Quả tròn to, mã đẹp, năng suất tương đối cao, trung
bình đạt 1 tạ/cây/năm. Q uả chín có mầu đỏ son, phẩm chất tốt, rất được ưa
chuộng. Thu hoạch muộn vào tháng 9 - 10 hàng năm.
+ Hồng chén. Cây có tán lá trung bình, cành yếu nên thư ờng phải có biện
pháp chống đỡ khi quả lớn. Lá nhiều, thư ờng che khuất quả, năng suất trung

bình, quả lớn, hơi dẹt về phía cuống, phẩm chất tốt, được người tiêu dùng ưa
chuộng. Thu hoạch muộn vào tháng 9-10 hàng năm.
+ Hồng ăn liền. Cây có tán lá thấp bé, có thể trồng với mật độ dày. Quả
tròn dẹt không có hạt, khi chín mầu vàng đỏ, có thể ăn ngay khi quả ở trạng thái
cứng, thịt quả giòn, ngọt, trọng lượng trung bình 200-250g/quả.
+ Hồng Nhật : Cây có tán lá trung bình, nhanh ra quả . Chất lượng quả
trung bình, có nhiều nước, khó vận chuyển. Nhưng năng suất cao nên được đánh
giá là một trong số các giống có giá trị kinh tế cao. Có thể khắc phục nhược điểm
này bằng cách chế biến sấy khô để vận chuyển và tiêu thụ. Thu hoạch muộn vào
tháng 10-11 hàng năm.
Ngoài các giống kể trên, Đà Lạt còn có nhiều giống hồng khác nhưng diện
tích không đáng kể như: hồng quế hương, hồng gạch, hồng son, hồng hoả tiễn,
hồng giòn, hồng Lạng Sơn, hồng xà, hồng nước...
* Vùng Thạch Hà tỉnh Hà Tĩnh
Huyện Thạch Hà nằm về phía tây của thị xã Hà Tĩnh, có lượng mưa bình

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
quân năm là 2544mm, nhiệt độ trung bìn h năm 23,8
0
C, nhiệt độ cao nhất tuyệt
đối 36
0
C, nhiệt độ thấp nhất tuyệt đối 8
0
C, độ ẩm không khí trung bình năm
83,8%. Ở đây, hồng được trồng chủ yếu tại hai xã Thạch Đài và Thạch Lĩnh,
diện tích hồng chiếm tới 35,3% tổng diện tích cây ăn quả của hai xã. Giống được
trồng phổ biến là hồng vuông không hạt và hồng tròn.

+ Hồng vuông không hạt. Cây cao trung bình 9,5m, đường kính tán cây
9,2m, thân không to lắm (đư ờng kính gốc khoảng 27cm), tán hình dù. Lá to hơi
bầu dài 15cm, rộng 11cm, mặt trên xanh đậm và bóng, mặt dưới có màu xanh
nhạt và có lông màu vàng mọc dày theo gân lá. Quả hình vuông có khía sâu dọc
quả, chiều cao và đường kính quả khoảng 6,3cm, trọng lượng quả 160g, tỷ lệ
phần ăn được 93%, tỷ lệ chất khô 15%, tỷ lệ đường 9,5%, tỷ lệ axit 0,3%. Vỏ
quả hơi dày, bóng, dễ bóc, vỏ khi chín có màu đỏ vàng, ít xơ, thịt quả có mầu đỏ
hồng, được nhiều người ưa thích. Năng suất trung bình có thể đạt 400 -
500kg/cây.
+ Hồng tròn. Cây cao trung bình 10,5m, tán rộng 8,3m, hình cầu, đường
kính gốc thân 27cm. Lá hình bầu dục, dài 14cm, rộng 10,5cm, mặt trên xanh
bóng, mặt dưới có lông tơ màu vàng nhưng thưa hơn so với lá hồng vuông không
hạt. Quả hình tròn, đỉnh quả tròn, vỏ dày và bóng khi chín có màu vàng, thịt quả
có màu vàng nhạt, không có xơ, ăn ngọt. Trọng lượng trung bình quả 120g, chiều
cao và đường kính quả khoảng 6,0cm. Tỷ lệ chất khô 18,7%, đư ờng 11%, axit
0,2%, có 0,5 hạt/1quả. Năng suất 1 cây khoảng 250-300kg.
* Vùng Nam Đàn- tỉnh Nghệ An
Huyện Nam Đàn nằm sát thành phố Vinh có lượng mưa bình quân năm là
1.928mm. Hồng được trồng tập trung ở 2 xã Nam Xuân và Nam Anh, diện tích
hồng chiếm tới 33,7% tổng số diện tích cây ăn quả các loại của hai xã. Có rất
nhiều giống hồng được trồng ở vùng này như:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
+ Hồng cậy vuông. Cây cao trung bình 6,4m, tán rộng 7,5m, hình bán
nguyệt. Lá to hơi tròn, mặt trên bóng nhẵn, mặt dưới xanh nhạt có lông tơ màu
nâu tập trung ở gân lá. Quả hình vuông, đỉnh quả bằng hoặc hơi lõm. Khi chín vỏ
quả màu đỏ, vỏ mỏng giòn, có ít phấn ở gần cuống quả. Tai quả nhỏ, vểnh lên,
gốc quả lõm ít, thịt quả có màu đỏ. Chiều cao quả 3,3cm, đường kính quả 4,1cm.

Trọng lượng quả 50g, số hạt bình quân 0,4 hạt/quả. Tỷ lệ thịt quả 71,5%. Năng
suất trung bình một cây khoảng 80kg quả.
+ Hồng nứa. Cây cao trung bình 8,2m tán rộn g khoảng 9m, hình cầu. Lá
to màu xanh nhạt, đầu lá tròn. Mặt dưới lá có lông tơ màu vàng mọc theo gân lá.
Quả hình trụ dài, đỉnh quả bằng, khi chín có màu đỏ, vỏ quả không bóng. Phần gốc
quả có rãnh dọc. Thịt quả mầu vàng, ít xơ. Trọng lượng quả bình quân 90g. Chiều
cao quả 5,2cm, đường kính quả 4,8cm, số hạt bình quân 1,5 hạt/quả, tỉ lệ thịt quả
88,1%. Năng su ất trung bình một cây khoảng 100kg quả.
+ Hồng tiên. Cây cao trung bình 6m, tán rộng 6m, hình tháp. Lá to nhẵn,
mặt trên lá bóng hơi vàng, mặt dưới lá màu xanh trắng có lông tơ mầu vàng xung
quanh gân lá. Quả to, đỉnh quả lõm, khi chín có màu đỏ. Vỏ quả dày, trơn, không
có vân, có ít phấn ở đỉnh quả. Gốc và tai quả lõm sâu. Trọng l ượng quả bình
quân 85g, quả có hình hơi tròn, chiều cao 5,0cm, đường kính 4,7cm. Bình quân
có 0,5 hạt/quả, tỷ lệ thịt quả 89%. Năng suất trung bình một cây khoảng 65kg.
+ Hồng tròn dài. Cây cao khoảng 7m, tán rộng 6,7m hình đống rơm. Lá
to, đầu nhọn, mặt trên lá xanh bóng, mặt dưới có lông tơ màu vàng, mọc thưa.
Quả mọc thành chùm từ 1-3 quả, khi chín có màu đỏ, không hạt. Quả hình tròn
dài, chóp quả bằng, vỏ quả dày, trơn, hơi có khía, gốc quả lõm, tai quả cong lên,
thịt quả màu đỏ. Trọng lượng quả trung bình 80g. Quả có hình hơi tròn chiều cao
4,9 cm, đường kính 4,7 cm. Tỷ lệ thịt quả 90%, tỷ lệ đường 10,5%, tỷ lệ axit
0,2%. Năng suất trung bình một cây khoảng 142kg.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
+ Hồng gáo. Cây cao trung bình 6,2m, tán rộng 5,8 - 6,4m, lá to dài, có
màu xanh nâu không nhẵn. Quả dạng tim, vai quả to, d ưới thắt lại, trôn quả
nhọn, tai ôm vào quả, vỏ quả màu vàng bóng. Trọng lượng quả trung bình 63,6g,
có khoảng 2,5 hạt/quả.
+ Hồng chuột. Cây cao trung bình 6,0m, tán rộng 6,2-6,5m, phiến lá nhỏ

hình bầu dục. Quả tròn dài, đáy quả thắt lại, rốn quả tròn, tai quả cong lên, vỏ
quả màu vàng bóng. Trọng lượng quả trung bình 70,6g, có khoảng 5,1 hạt/quả.
* Vùng Lý Nhân tỉnh Hà Nam
Nằm ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, có lượng mưa trung bình năm 1751 mm,
nhiệt độ trung bình 23,7
o
C, ẩm độ trung bình 85%, tổng số giờ nắng trong năm
đạt 1437 giờ. Vùng này có hai giống hồng quý là:
+ Hồng Nhân Hậu. Được trồng chủ yếu ở xã Hoà hậu, thân cây màu xám,
cành bánh tẻ màu nâu, tán cây hình bán nguyệt, độ cao phân cành trên 1m. Lá
lớn, hình bầu dục, mầu xanh đậm, mặt trên bóng láng, mặt dưới có lông tơ màu
nâu vàng, chiều dài lá 15,8cm, chiều rộng lá 10,4 cm. Quả hình trái tim, khi chín
có màu đỏ thắm, thu hoạch vào trung tuần tháng 8 âm lịch. Vỏ quả mỏng, thịt
quả dẻo, ít hạt. Trọng lượng quả trung bình 150- 250g.
+ Hồng Văn Lý: Được trồng chủ yếu ở xã Văn Lý, thân cây màu xám,
cành bánh tẻ màu xám sáng. Tán cây thường có hình dù, độ cao phân cành 60-70
cm. Lá lớn trung bình, hình bầu dục, mặt trên hơi ráp. Lá có chiều dài 14,4 cm,
chiều rộng 7,5 cm. Quả hình trụ, trôn quả tròn, khi chín có màu đỏ vàng, không
hạt. Trọng lượng quả trung bình 70-90 g. Chín vào giáp tết âm lịch.
* Vùng Thạch Thất tỉnh Hà Tây
Huyện Thạch Thất nằm ở phía đông bắc tỉnh Hà Tây có nhiệt độ trung
bình năm 23,3
0
C, Lượng mưa trung bình năm1.554 - 1.780 mm. Vùng này chỉ
trồng một giống hồng duy nhất có nguồn gốc từ Yên Thôn nên người ta gọi là

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
hồng Yên Thôn hay hồng Thạch Thất, do đặc tính sinh trưởng khoẻ, thích nghi

rộng, năng suất cao nên được nhiều người ưa chuộng.
Đặc điểm: Thân cây màu xám, cành bánh tẻ màu nâu, tán cây hình tròn
hoặc ô van, độ cao phân cành khoảng 65 cm. Lá lớn hình bầu dục, màu xanh
đậm. Mặt trên lá bóng, phản quang, mặt dưới có lông tơ màu nâu vàng. Chiều
dài lá 16 cm, chiều rộng lá 9,3 cm. Quả hình trụ, trôn quả hơi lồi, khi chín có
màu đỏ vàn g, thường chín vào tháng 11 - 12, thịt quả nát, nhiều nước. Trọng
lượng trung bình quả 150- 250g, có 2-3 hạt/quả.
* Vùng Vĩnh Phú
Là vùng trung du, có địa hình và khí hậu tương đối phức tạp. Vùng này có
nhiều giống hồng quý như:
+ Hồng Hạc Trì . Cây cao trên 9m, tán rộng trên 7m, sinh trưởng khoẻ. Lá
hình elíp rộng, mặt trên có màu xanh hơi vàng, không bóng, mặt dưới màu xanh
trắng, có lông màu vàng. Quả hình trụ, trôn quả hơi tù, có 4 cạnh rõ rệt. Trọng
lượng quả bình quân 100- 150g, không hạt, khi chín vỏ quả có màu vàng đỏ, thịt
quả màu vàng, ăn giòn, có cát, thu hoạch vào tháng 9, thuộc giống hồng ngâm.
+ Hồng Tiến. Cây cao trên 10m, tán rộng trên 8m. Lá to hình bầu dục, mặt
trên màu xanh đậm, không bóng, mặt dưới màu trắng xanh có nhiều lông tơ. Quả
hình trụ vuông. Trọng lượng quả trung bình 120- 160g, không hạt hoặc có 1-2
hạt bé dẹt. Chín vào tháng 10, khi chín quả có mầu đỏ hồng, thịt quả màu đỏ. Vỏ
quả nhẵn, thuộc nhóm hồng dấm, nhưng quả chín trên cây ăn cũng không chát.
+ Hồng Thạch. Cây cao trên 10 m, tán rộng trên 8m. Lá to hình bầu dục,
mặt trên màu xanh thẫm, không bóng, mặt dưới màu trắng xanh có lông màu
vàng. Quả hình trụ tròn, rốn quả lồi. Trọng lượng quả trung bình 150- 200g, có
1-3 hạt. Chín vào đầu tháng 9, khi chín vỏ quả màu đỏ vàng, thịt màu đỏ hồng,
thuộc nhóm hồng dấm.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
+ Hồng ngâm quả hình trứng. Cây cao trên 9m, tán rộng trên 6m (tán

hẹp). Lá thuôn dài, mặt trên màu xanh đậm, bóng, mặt dưới xanh trắng có lông
thưa. Quả hình trứng, trọng lượng quả trung bình 100-150g có 1-3 hạt, hạt dài và
dày. Chín vào tháng 9. Khi chín vỏ màu vàng nhạt, thịt quả màu vàng, thuộc
nhóm hồng ngâm.
+ Hồng ngâm hình quả trụ dài. Cây cao khoảng 7m, tán rộng 4m (tán hẹp).
Lá thuôn dài, mặt trên xanh bóng, mặt dưới màu trắng, xanh có lông tơ thưa màu
vàng. Quả hình trụ dài, trọng lượng quả trung bình 100-150g, chín vào tháng 9.
Khi chín quả có màu vàng không đều, phía tai quả xanh, phía trôn quả màu vàng,
quả có thể không hạt hoặc có 1-2 hạt.
* Vùng Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn
Huyện Cao Lộc nằm ở phía Bắc tỉnh Lạng Sơn. Nhiệt độ trung bình
năm 21,2
0
C. Biên độ nhiệt bình quân ngày đêm là: 7,8
0
C. Mùa đông nhiệt độ
trung bình xuống thấp 12-15
0
C, có năm xuống dưới 0
0
C nhưng chỉ trong thời
gian ngắn. Tổng tích ôn năm 7738
0
C.
Lượng mưa trung bình hàng năm 1.392mm, nhưng phân bố không đều,
mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5, kết thúc vào tháng 9 và chiếm khoảng 75%
tổng lượng mưa cả năm.
Ẩm độ không khí bình quân năm là 82%, nhưng các tháng mùa khô (từ
tháng 10 năm trước đến tháng 1 năm sau) có lúc ẩm độ không khí xuống đến
50%. Lượng bốc hơi bình quân năm 1070,8mm.

Ở vùng này có giống hồng ngâm không hạt Bảo Lâm nổi tiếng đã được
trồng từ rất lâu. Cây cao, to. Lá bé hơn các giống khác. Quả hình tròn dài trọng
lượng trung bình có thể đạt 60 -70g. Khi chín vỏ quả màu vàng đất, thường chín
vào rằm tháng 8 âm lịch, thuộc giống hồng ngâm, ăn giòn, ngọt, thơm.
1.2.3. Những nghiên cứu về đặc điểm sinh vật học của cây hồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
1.2.3.1. Rễ và hệ rễ
Rễ hồng thuộc dạng rễ cọc. Rễ hồng yếu, thường khó phục hồi nếu bị sát
thương cơ giới . Phạm Văn Côn [7]. Nhiệt độ thích hợp cho bộ rễ hoạt động là
12- 25
0
C. Trong mùa lá rụng, rễ hồng hầu như không hoạt động, hấp thu dinh
dưỡng rất chậm, từ vụ xuân rễ hồng mới bắt đầu hoạt động. Hoạt động mạnh
nhất vào 2 thời kỳ cuối tháng 6-7 và giữa tháng 9 đầu tháng 10. Rễ hồng chứa
nhiều tanin, cường độ hô hấp yếu, nhu cầu về hàm lượng ôxy trong đất thấp, vì
vậy cây hồng có thể chịu úng tốt. Phạm Văn Côn [6], [7]; Vũ Công Hậu [14],
[15]; Trần Thế Tục [37], [49]; Trần Như Ý và cộng sự [51].
Sự phân bố của rễ hồng theo chiều sâu, thay đổi phụ thuộc vào loại đất và
giống. Kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Côn tại trường Đại học Nông nghiệp I
cho thấy giống hồng Thạch Thất có rễ tập trung ở tầng 20 - 30cm, giống hồng
Hạc Trì có rễ tập trung ở tầng 30 - 40 cm. Việc xác định được tầng rễ tập trung
là yếu tố quan trọng để quyết định biện pháp bón phân hợp lý thúc đẩy sinh
trưởng, phát triển của cây. Phạm Văn Côn [6], [7]; Vũ Công Hậu [14], [15]; Trần
Thế Tục [37], [39].
1.2.3.2. Thân, cành
Hồng là cây thân gỗ, sinh trưởng nhiều năm, tán cây có dạng hình tròn
mâm xôi hoặc hình tháp, tốc độ sinh trưởng chậm, thông thường cây hồng 30

tuổi đường kính thân chỉ đạt 25- 30cm, chiều cao cây chỉ đạt 5 - 6m. Trần Như Ý
và cộng sự [50], [51].
Hồng là cây thay lá hàng năm về mùa đông, có thời gian ngủ nghỉ rõ rệt.
Trong các loại cây thay lá, hồng ưa nhiệt độ tương đối cao, vì vậy rụng lá sớm và
nảy mầm muộn. Ở miền Bắc hồng thường rụng lá vào cuối tháng 10, đến giữa
hoặc cuối tháng 2 mới ra lộc, thời gian ngủ nghỉ khoảng 2-3 tháng. Vũ Công Hậu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
[13], [14], [15].
Thời gian ra lộc của hồng phụ thuộc vào nhiệt độ. Nơi nào, năm nào có
nhiệt độ cao hồng sẽ ra lộc sớm hơn, tập trung hơn và ngược lại. Trong một năm
hồng ra 3 - 4 đợt lộc tuỳ thuộc vào tuổi và khả năng sinh trưởng của cây. Cây già
chỉ ra một đợt lộc chủ yếu là lộc xuân, cây non một năm có thể ra 3 - 4 đợt lộc.
Nhưng các đợt lộc thứ 3, thứ 4 thường yếu biểu hiện ở cành ngắn, số lượng ít.
Phạm Văn Côn [7]; Vũ Công Hậu [14], [15]; Trần Như Ý và cộng sự (2000)
[51]. Cây hồng có các đợt cành chính sau:
- Cành xuân. Nảy đồng loạt vào trung tuần tháng 2 đến tháng 3, trên cành
lúc này có cả mầm hoa và mầm dinh dưỡng.
- Cành hè. Nảy vào tháng 6, tháng 7.
- Cành thu. Nảy vào tháng 8, tháng 9. Đây là đợt cành mẹ của cành mang
quả năm sau vì vậy trong sản xuất cần chú ý chăm sóc và bồi dưỡng.
Đối với những cây đã ra hoa kết quả thì trong đợt cành xuân thường có 3
loại cành: cành sinh trưởng, cành mang hoa đực và cành mang hoa cái. Phạm
Văn Côn [5], [6], [7].
+ Cành sinh trưởng. Là những cành không mang hoa, không có quả, chỉ có
lá làm nhiệm vụ quang hợp và tích luỹ dinh dưỡng nuôi quả.
+ Cành mang hoa đực. Loại cành này thường nhỏ, mọc từ gốc cành năm
trước, sinh trưởng yếu nên cành ngắn, cành mang hoa đực chủ yếu làm nhiệm vụ

cung cấp phấn cho hoa cái nhờ côn trùng.
+ Cành mang hoa cái hoặc hoa lưỡng tính. Là những cành mang quả, phần
lớn là những cành ở phần trên gần ngọn của cành sinh trưởng năm trước chưa ra
quả hoặc mọc từ chồi nách thứ 1-2 của cành mẹ.
1.2.3.3. Lá
Lá hồng thuộc loại lá nguyên, to bản, có hình bầu dục hoặc ô van. Lá xuất

×