Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

ON THI TOT NGHIEP MON NGU VAN NAM 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.78 KB, 82 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>PHẦN 1: Baøi 1. Đọc văn :. KHAÙI QUAÙT VAÊN HOÏC VIEÄT NAM. Những đặc điểm cơ bản của VHVN từ 1945 đến 1975: a) Nền văn học chủ yếu vận động theo h ớng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nớc: V¨n nghÖ trë thµnh vò khÝ s¾c bÐn phôc vô kÞp thêi cho sù nghiÖp “v¨n ho¸ nghÖ thuËt còng lµ mét mÆt trËn” –Hoà Chí Minh, c¸ch m¹ng g¾n bã s©u s¾c vµ ¨n nhÞp víi từng chặng đờng của lịch sử dân tộc… Tổ quốc đã trở thành một nguồn cảm hứng trở thành đề tài lớn của văn học. Bên cạnh đó đề tài chủ nghĩa xã hội cũng là một đề tài lớn cña v¨n häc … b) Nền văn học hớng về đại chúng: +Nhân dân là những con ngời làm chủ là đối tợng phản ánh, là đối tợng thởng thức… Tính nhân dân trở thành cảm hứng chủ đạo, trở thành đề tài cho các tác phẩm... +Phản ánh về cuộc sống, khát vọng, khả năng và con đờng tất yếu đi đến với cách m¹ng… nÒn v¨n häc mang tÝnh nh©n d©n s©u s¾c. c) NÒn v¨n häc chñ yÕu mang khuynh híng sö thi vµ c¶m høng l·ng m¹n: +Văn học đã tái hiện những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc (chống Pháp, chống Mĩ, xây dựng chủ nghĩa xã hội), những nhân vật đại diện tiêu biểu cho lí tởng dân tộc, gắn bó số phận với cả cộng đồng dân tộc ngôn ngữ trang trọng, tráng lệ hào hùng. +NÒn v¨n häc trµn ®Çy c¶m høng l·ng m¹n, tin vµo t¬ng lai tÊt th¾ng cña c¸ch m¹ng, nâng đỡ con ngời Việt Nam vợt lên mọi thử thách đẻ hớng tới ngày chiến thắng… II/ Khái quát văn học Việt Nam từ 1975 đến hết TK XX. 1. Hoµn c¶nh lÞch sö, x· héi vµ v¨n ho¸. - Đất nớc thống nhất và mở ra một giai đoạn mới, đời sống, t tởng, nhu cầu có sự thay đổi. Tuy nhiên ta lại gặp khó khăn lớn về kinh tế và nhất là sự sụp đổ của các nớc Đông âu có ảnh hởng không lớn đến đời sống xã hội. -Đại hội Đảng lần thứ VI đã quyết định đổi mới… chuyển nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tÕ thÞ trêng, sù tiÕp xóc víi nhiÒu nÒn v¨n ho¸ trªn thÕ giíi… V¨n häc còng ph¸t triÓn phï hîp vèi quy luËt ph¸t triÓn cña x· héi. 2. Nh÷ng chuyÓn biÕn vµ mét sè thµnh qu¶ bíc ®Çu - Thơ ca: Thơ ca vẫn có sự phát triển. Những tác giả đã thành công trong kháng chiến chèng MÜ vÉn tiÕp tôc s¸ng t¸c nh Xu©n Quúnh, NguyÔn Duy, H÷u ThØnh, Thanh Nhµn… Chế Lan Viên vẫn âm thầm đỏi mới thơ ca và đợc đánh dấu bằng tập Di cảo thơ. Bên cạnh đó sau năm 1975 có sự nở rộ của thể loại Trờng ca. Ngoài những nhà thơ từ thế hệ chống Mỹ đã có sự xuất hiện nhiều nhà thơ thế hệ sau chống mĩ: Nguyễn Thị Hồng Ngát, §oµn ThÞ Lam LuyÕn, Tr¬ng Nam H¬ng.. - Văn xuôi: Từ sau năm 1975 văn xuôi có nhiều khởi sắc có ý thức đổi mới cách viết về chiÕn tranh. Tõ sau nh÷ng n¨m 80 v¨n häc trë nªn s«i næi h¬n víi nh÷ng t¸c phÈm tiªu biÓu §øng tríc biÓn, Cï lao Chµm - NguyÔn M¹nh TuÊn; Cha vµ con vµ…, GÆp gì cuèi n¨m - NguyÔn Kh¶i; Mïa l¸ rông trong vên - Ma V¨n Kh¸ng; Thêi xa v¾ng - Lª lùu…Tõ sau đại hội VI của Đảng văn học đã thực sự đổi mới nhất là đổi mới t duy tạo nên những t¸c phÈm cã gi¸ trÞ : BÕn kh«ng chång – D¬ng Híng; Nçi buån chiÕn tranh _ B¶o Ninh; c¸c tiÓu thuyÕt cña NguyÔn Huy ThiÖp… - Kịch nói: từ sau chiến tranh kịch nói có sự phát triển mạnh mẽ đặc biệt các vở kịch của Lu Quang Vò, Xu©n Tr×nh… - LÝ luËn phª b×nh: Ngoµi nh÷ng tªn tuæi tõ tríc cã sù xuÊt hiÖn mét sè c¸c nhµ phª b×nh trẻ. Đã có ý thức trong đổi mới phơng pháp tiếp cận đối tợng văn học… NhËn xÐt: Tõ n¨m 1975 vµ nhÊt lµ tõ n¨m 1986 nÒn v¨n häc ViÖt Nam chuyÓn sang mét giai đoạn mới (Từ 1975 đến 1985 và từ 1986 đến nay). Văn học vận động theo khuynh hớng dân chủ hoá, mang tính nhân bản, nhân văn sâu sắc, đa dạng về chủ đề, đề tài, thủ pháp nghệ thuật, đề cao cá tính sáng tạo của nhà văn, đổi mới cách nhìn nhận đánh giá, tiếp cận con ngời, con ngời đặt trong những mối quan hệ phức tạp, thể hiện con ngời ở nhiều phơng diện kể cả phơng diện tâm linh, văn học giai đoạn này chủ yếu hớng nội hớng tới con ngời số phận đời thờng….

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Tuy nhiên nền kinh tế thị trờng cũng đã tác động tiêu cục đến văn học không ít kẻ đã chạy theo thị hiếu tầm thờng biến những sáng tác trở thành thứ hàng hoá để câu khách… III - GHI NHỚ 2. Gợi ý giải bài tập. Câu nói của Nguyễn Đình Thi đề cập tới mối quan hệ giữa văn nghệ và kháng chiến. Một mặt, văn nghệ phụng sự kháng chiến - đó là mục đích của nền văn nghệ mới trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh. Mặt khác, chính hiện thực cách mạng và kháng chiến đã đem đến cho văn nghệ một sức sống mới, tạo nên nguồn cảm hứng sáng tạo mới cho văn nghệ Bài làm tham khảo: A/ Đề bài :Có ý kiến cho rằng “Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 là nền văn học chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn 1/ Nền văn học chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi a/ Thế nào là một tác phẩm được sáng tác theo khuynh hướng sử thi */ Tác phẩm được sáng tác theo khuynh hướng sử thi là tác phẩm: _ Đề tài có ý nghĩa lịch sử và có tính chất toàn dân, liên quan đế những vấn đề sống còn của cả cộng động dân tộc. _ Nhân vật được ca ngợi là những người anh hùng sống chết vì Tổ quốc, vì Cách mạng _ Mối quạn hệ giữa cá nhân và cộng đồng : Số phân cá nhân, chuyện đời tư thường ít được đặt ra. Nếu có nói đến chẳng qua cũng để nhấn mạnh thêm trách nhiệm và tình cảm của người anh hùng đối với cộng đồng (hi sinh quyền lợi, hạnh phúc cá nhân vì lợi ích chung ) _ Lời văn sử thi thường trang trọng và đẹp một cách tráng lệ hào hùng b/ Tại sao nền văn học giai đoạn này lại chủ yếu sáng tác theo khuynh hướng sử thi? _ Ra đời và phát triển trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại, văn học giai đoạn này phải đáp ứng yêu cầu của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc vô cùng ác liệt và kéo dài suốt 30 năm _ Trước những thử thách to lớn của cuộc chiến tranh, mỗi con người đều phải vươn lên nhưng anh hùng và đều phải có ý thức nhân danh cộng đồng mà suy nghĩ và hành động c/ Những tác giả, tác phẩm tiêu biểu : _ Thơ : Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận, Chính Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân… _ Văn xuôi : Nguyễn Đình Thi (Xung kích, Vỡ bờ); Tô Hoài (Tây Bắc); Nguyên Ngọc (Đất nước đứng lên, Rừng xà nu); Nguyễn Thi (Người mẹ cầm súng, Những đứa con trong gia đình ); Nguyễn Khải (Họ sống và chiến đấu…) … d/ Biểu hiện của khuynh hướng sử thi */ Đều phản anh và cổ vũ cho cuộc đấu tranh vì Độc lập tự do của Tổ quốc */ Những tình cảm được thể hiện chủ yếu là tình cảm đối với đất nước với nhân dân với Đảng với lãnh tụ, là tình đồng chí, tình quân dân */ Nhân vật chủ yếu đều là những con người ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu anh hùng. Họ có thể là lãnh tụ, chiến sĩ cách mạng, là anh bộ đội, anh giải phóng quân, cô du kích là mẹ như Mẹ Tơm, Mẹ Suốt; là chị như chị Trần Thị Lý , chị Út Tịch, chị Sứ; …hoặc là các em thiếu nhi như em Lượm, em Hòa (Tố Hữu ); em Lũy (Xung kích );em Bé (Mẹ vắng nhà )… –>Tất cả đề là những anh hùng sẵn sàng hi sinh vì Tố quốc vì Cách mạng */ Những con người ấy được thể hiện trong văn học không phải chỉ với tư cách cá nhân mà họ còn đại diện cho cộng đồng _ Cho nên Nguyên Ngọc đặt tên cho tác phẩm của mình khi viết về anh Đinh Núp là “Đất nước đứng lên”; Tố Hữu gọi chị Trần Thị Lý là “Người con gái Việt Nam, với lời thơ thật trang trọng hình ảnh thơ thật chói lọi : Em là ai cô gái hay nàng tiên Em có tuổi hay không có tuổi.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Mái tóc em là mây hay là suối Đôi mắt em nhìn hay chớp lửa đêm dông Thịt da em là sứt hay là đồng _ Lê Anh Xuân viết về anh giải phong quân hi sinh trên đường băng Tân Sơn Nhất cũng không thể hiện anh như một con người cá nhân “Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ – Anh chẳng để lại gì cho riêng anh trước lúc lên đường – Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ”. Anh – hình ảnh tiêu biểu cho chiến sĩ giải phóng quân nói chung. Và bằng những từ ngữ trang trong tráng lệ, Lê Anh Xuân đã dựng lên bức tượng đài kĩ vĩ của dân tộc Việt Nam thời đại chống Mĩ và thắng Mĩ */ Khuynh hướng sử thi không chỉ thể hiện ở một số tác phẩm thơ văn nào đấy mà nó được thể hiện hầu hết ở các thể loại Từ truyện kí, kịch bản sân khấu đến thơ trữ tình; không phải chỉ ở những cuốn tiểu thuyết lớn hay những thiên trường ca mà cả những truyện ngắn, truyện vừa, bút kí, thậm chí cả những vần thơ tứ tuyệt : Chống gậy lên non xem trận địa Vạn trùng núi đỡ vạn trùng mây Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy */ Giọng điệu cơ bản của sử thi : là ca ngợi, khẳng định, cổ vũ, tự hào: Ôi ! Tổ quốc giang sơn hùng vĩ Đất anh hùng của thế khỉ 20 (Tố Hữu ) Hay : Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năn Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng (Chế Lan Viên ) Văn học sử thi 1945 – 1975 là một hiện tượng độc đáo có tính chất lịch sử. Nó nối tiếp dòng văn học yêu nước từ bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và nhất là thơ văn cách mang dầu thế kỉ. Có thể nói mỗi khi có cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, giải phóng nhân dân, đất nước thì văn học sử thi lại xuất hiện như một biểu hiện thẩm mĩ của ý thức dân tộc và cộng đồng 2/ Nền văn học được sáng tác theo cảm hứng lãng mạn a/ Thế nào là cảm hứng lãng mạn trong văn học 45 – 75 _ Cảm hứng lãng mạn khẳng định cái tôi đầy tình cảm, cảm xúc và hướng về lí tưởng, về tương lai _ Cảm hứng lãng mạn trong văn học 1945 – 1975 là cảm hứng lãng mạn tích cực, cảm hứng lãng mạn cách mạng. Nó giúp con người ta vượt lên trên cuộc sống gian khổ và ác liệt mà hướng về tương lai chiến thắng, về cuộc sống hạnh phúc và xây dựng chủ nghĩa xã hội sau chiến tranh b/ Tại sao văn học giai đoạn này lại sáng tác theo cảm hứng lãng mạn ? _ Đứng trước giai đoạn khó khăn nhất của lịch sử, sự tồn vong của dân tộc, sự ác liệt đến tàn khốc của chiến tranh, không cho phép con người ở giai đọan lịch sử này sống bằng lợi ích cá nhân, bằng thực tại thiếu thốn thốn và gian khổ. Mà họ chỉ có thể sống bằng lịch sử, bằng lí tưởng bằng tương lai huy hoàng của Độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội c/ Biểu hiện… _ Các tác phẩm văn xuôi: Cảm hứng lãng mạn được thể hiện ở hướng vận động của cốt truyện, của số phận nhân vật của dòng suy tưởng, người cầm bút đi từ bóng tối ra ánh sáng, từ gian khổ đến niềm vui, từ hiện tại khó khăn đến tương lai đầy hứa hẹn. (Rừng xà nu, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt đều có kết thúc tốt đẹp) _ Thơ ca : + Cảm hứng lãng mạn thường tắm lên cảnh vật và lòng người màu sắc của ngày mai tươi sáng : Đã nghe gió ngày mai thổi lại Đã nghe hồn thời đại bay cao (Bài ca xuân 61) –> tin tưởng vào tương lai, lạc quan yêu đời.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> + Từ thực tế được nhân lên với kích thước của lí tưởng (dẫn chứng ) + Viết về anh bộ đội trong kháng chiến chống Pháp, cô du kích, anh giải phóng quân trong kháng chiến chống Mĩ, tác tác giả đều miêu ta trong ánh hào quang thần kì của lãng mạn thần thoại (dẫn chứng ). Hoà Chí Minh. Baøi 2. Câu 1: Trình bày ngắn gọn quan điểm sáng tác của Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh xem văn nghệ là hoạt động tinh thần phong phú phục vụ hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến đối tượng thưởng thức: Văn chương trong thời đại cách mạng phải coi quảng đại quần chúng là đối tượng phục vụ . Tác phẩm văn chương phải có tính chân thật. Trong sáng ,hấp dẫn, ca ngợi cái tốt,phê phán cái xấu, thể hiện tinh thần dân tộc, nhân dân. Câu 2: Trình bày ngắn gọn sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân dân ta một sự nghiệp văn chương vô cùng lớn lao về tầm vóc, phong phú đa dạng về thể loại, đặc sắc về phong cách, viết bằng tiếng : Pháp , Hán , Việt . Văn chính luận : Viết từ những năm đầu thế kỉ XX, với bút danh Nguyễn Aùi Quốc – Mục đích Đấu tranh chính trị tiến công trực diện kẻ thù –Khẳng định ý chí chiến đấu, tinh thần độc lập dân tộc – tác phẩm tiêu biểu : Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến… Truyện – kí : Viết khoảng 1922 – 1925 , bằng tiếng Pháp - Vạch trần bản chất đen tối của thực dân Pháp, ca ngợi lòng yêu nước, tinh thần cách mạng của dân tộc – truyện ngắn Nguyễn Aí Quốc cô động, cốt truyện sáng tạo, ý tưởng thâm thúy, giàu chất trí tuệ - Tác phẩm tiêu biểu : Paris , Lời than vản của bà Trưng Trắc, Vi Hành, …. Thơ ca: Là lĩnh vực nổi bật trong sự nghiệp văn chương của Hồ Chí Minh . Thơ Người thể hiện một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, tài hoa , một tấm gương nghị lực phi thường, nhân cách cao đẹp của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại – Có trên 250 bài có giá trị : Thơ Hồ Chí Minh (86 bài) bằng tiếng Việt , Thơ chữ Hán (36 bài) là những bài cổ thi thâm thúy , Nhật kí trong tù (133 bài) . Câu 3 : Trình bày ngắn gọn phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh phong phú, đa dạng, độc đáo, hấp dẫn, kết hợp nhuần nhuyễn giữa chính trị và văn học, rtư tưởng nghệ thuật, truyền thống và hiện đại : Văn chính luận : Bộc lộ tư duy sắc sảo ,giàu tri thức văn hóa,gắn lí luận với thực tiễn,giàu tính luận chiến, vận dụng hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện . Truyện – kí : Bút pháp chủ động sáng tạo, có khi là lối kể chuyện chân thật, tạo không khí gần gũi, có khi là giọng điệu sắc sảo, châm biếm thâm thúy và tinh tế, giàu chất trí tuệ và chất hiện đại. Thơ ca : Nhiều bài cổ thi hàm súc uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật – thơ hiện đại vận dụng nhiều thể loại và phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.. TUYÊN NGÔN ĐỘC. (Hoà Chí Minh). I. Hoàn cảnh lịch sử.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> -19/8/1945 chính quyền ở thủ đô Hà Nội đã về tay nhân dân ta. 23/8/1945, tại Huế trước hàng vạn đồng bào ta, vua Bảo Đại thoái vị. 25/8/1945, gần một triệu đồng bào Sài Gòn - Chợ Lớn quật khởi đứng lên giành chính quyền. Chỉ không đầy mười ngày, Tổng khởi nghĩa và Cách mạng tháng Tám đã thành công rực rỡ. Cuối tháng 8/1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, lãnh tụ Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Và ngày 2/9/1945; tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Người thay mặt Chính phủ Lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đọc bản Tuyên ngôn Độc lập trước hàng chục vạn đồng bào ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới Độc lập, Tự do. II.Bố cục 1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập (Từ đầu đến “không ai chối cãi được”) 2. Bản cáo trạng tội ác của thực dân Pháp và quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta (“Thế mà hơn 80 năm nay… Dân tộc đó phải được độc lập!”) 3. Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên bố với thế giới (Phần còn lại). Những điều cần biết 1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Hồ Chủ tịch đã trích dẫn hai câu nổi tiếng trong hai bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do của các dân tộc trên thế giới. Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ. Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta, mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc, Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng. 2. a. Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp. - Vạch trần bộ mặt xảo quyệt của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta”. - Năm tội ác về chính trị: 1- tước đoạt tự do dân chủ, 2- luật pháp dã man, chia để trị, 3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta, 4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân, 5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện. - Năm tội ác lớn về kinh tế: 1- bóc lột tước đoạt, 2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng, 3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta, 4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta, 5- gây ra thảm họa làm cho hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945. - Trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”. - Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”. b. Quá trình đấu tranh giành độc lập của nhân dân ta.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> - Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh. - Nhân dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân và chế độ quân chủ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hoà. Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. - Chế độ thực dân Pháp trên đất nước ta vĩnh viễn chấm dứt và xoá bỏ. - Trên nguyên tắc dân tộc bình đẳng mà tin rằng các nước Đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do. Dân tộc đó phải được độc lập. Phần thứ hai là những bằng chứng lịch sử không ai chối cãi được, đó là cơ sở thực tế và lịch sử của bản Tuyên ngôn độc lập được Hồ Chí Minh lập luận một cách chặt chẽ với những lí lẽ đanh thép, hùng hồn. 3. Lời tuyên bố với thế giới - Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập (từ khát vọng đến sự thật lịch sử hiển nhiên) - Nhân dân đã quyết tâm giữ vững quyền tự do, độc lập ấy (được làm nên bằng xương máu và lòng yêu nước). Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử vô giá của dân tộc ta, thể hiện phong cách chính luận của Hồ Chí Minh Gợi ý giải bài tập. Ngoài gía trị lịch sử lớn lao, bản Tuyên ngôn Độc lập còn chứa dựng một tình cảm yêu nước, thương dân nồng nàn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tình cảm đó được bộc lộ qua các phương diện: lập luận, lí lẽ bằng chứng và ngôn ngữ. - Về lập luận: Mọi cố gắng trong lập luận của tác giả bản Tuyên ngôn Độc lập chủ yếu dựa trên lập trường quyền lợi tối cao của một dân tộc nói chung và của dân tộc ta nói riêng. - Về lí lẽ: Sức mạnh của lí lẽ được sử dụng trong bản tuyên ngôn xuất phát từ tình yêu công lí, thái đồ tôn trọng sự thật, và trên hết, dựa vào lẽ phải và chính nghĩa của dân tộc ta. - Về bằng chứng: Những bằng chứng xác thực, hùng hồn, không thể chối cãi cho thấy một sự quan tâm sâu sắc đến vận mệnh của dân tộc ta, hạnh phúc của nhân dân ta. - Về ngôn ngữ: Cách sử dụng từ ngữ chan chứa tình cảm ngay từ câu đầu tiên của bản tuyên ngôn: “Hỡi đồng bào cả nước” (đồng bào - những người chung một bọc, anh em ruột thịt), và nhiều đoạn văn khác, luôn có cách xưng hô bộc lộ tình cảm tha thiết, gần gũi: đất nước ta, nhân dân ta, nước nhà của ta, dân tộc ta, những người yêu nước thương nòi của ta, nòi giống ta, các nhà tư sản ta, công nhân ta,... . Baøi 3 I.TÌM HIỂU CHUNG: 1. Tác giả: Phạm Văn Đồng (1906-2001). - Quê: Đức Tân, Mộ Đức, Quảng Ngãi. * Hoàn cảnh: -Bài viết đăng trên tạp chí văn học số 7-1963, nhân kỉ niệm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu. (3 -7 -1888). - Năm 1963, tình hình ở miền Nam có nhiều biến động lớn. Phong trào thi đua Ấp Bắc giết giặc lập công được phát động ở khắp nơi. - Mĩ-Ngụy thay đổi chiến thuật, chiến lược chuyển từ chiến tranh đặc biệt sang chiến tranh cục bộ. - Những nhà sư tự thiêu: Hòa thượng Thích Quảng Đức (Sài-Gòn 11/6/1963), Tu sĩ Thích Thanh Huệ tại trường Bồ Đề. NGUYEÃN ÑÌNH.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> ( Huế 13/8/1963) . * Mục đích: -Kỉ niệm ngày mất của nhà văn tiêu biểu, người chiến sĩ yêu nước trên mặt trận văn hóa tư tưởng. - Tác giả bài viết này có ý định hướng và điều chỉnh cách nhìn và chiếm lĩnh tác gia Nguyễn Đình Chiểu. Đánh giá đúng vẻ đẹp trong thơ văn của nhà thơ đất Đồng Nai. Đồng thời khôi phục giá trị đích thực của tác phẩm “Lục Vân Tiên”. - Thể hiện mối quan hệ giữa văn học và đời sống, giữa người nghệ sĩ chân chính và hiện thực cuộc đời. - Đặc biệt nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước thương nòi của dân tộc. II.ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN: 1.Phần mở bài: *Tác giả đưa ra cách nhìn mới mẻ về Nguyễn Đình Chiểu: + So sánh liên tưởng văn chương Nguyễn Đình Chiểu như “Vì sao có ánh sáng khác thường. Nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy, và càng nhìn càng thấy sáng”.Đây là cái nhìn khoa học và có ý nghĩa như một định hướng tìm hiểu về văn chương Nguyễn Đình Chiểu. + Nhận định “ Văn chương thầy Đồ Chiểu không phải là thứ văn chương hoa mĩ, óng chuốt, cũng không phải là vẻ đẹp của cây lúa xanh uốn mình trong làn gió nhẹ, mà là vẻ đẹp của đống thóc mẩy vàng”. Đó là thứ văn chương đích thực. Cho nên đứng về một vài điểm hình thức câu thơ chưa thật trau chuốt, thật mượt mà đánh giá thấp thơ văn Nguyễn Đình Chiểu”. + Mặt khác “ có người chỉ biết Nguyễn Đình Chiểu là tác giả của cuốn “Lục Vân tiên” và hiểu về “Lục Vân Tiên” cũng khá thiên lệch về nội dung và văn, còn rất ít biết về thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu, khúc ca hùng tráng của phong trào yêu nước chống bọn xâm lược Pháp lúc chúng đến bờ cõi nước ta cách đây một trăm năm” + Câu mở đầu “Ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu một nhà thơ lớn của nước ta, đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa trong bầu trời văn nghệ dân tộc, nhất là trong lúc này”. Đây là luận điểm của phần đặt vấn đề. => Phạm Văn Đồng vừa đặt vấn đề bằng cách chỉ ra định hướng tìm hiểu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu vừa phê phán một số người chưa hiểu Nguyễn Đình Chiểu, vừa khẳng định giá trị thơ văn yêu nước của nhà thơ chân chính Nguyễn Đình Chiểu. Đây là cách vào đề vừa phong phú, sâu sắc vừa thể hiện phương pháp khoa học của Phạm Văn Đồng. 2.Phần thân bài: a.Nội dung: Một là vài nét về con người của Nguyễn Đình Chiểu và quan niệm sáng tác. * Luận điểm là: “Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ yêu nước mà tác phẩm là những trang bất hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta chống bọn thưc dân xâm lược phương Tây ngay buổi đầu chúng đặt chân lên đất nước chúng ta”. Để làm sáng tỏ luận điểm này tác giả đưa ra những luận cứ: -Sinh ra trên đất Đồng Nai hào phóng. - Triều đình nhà Nguyễn cam tâm bán nước, khắp nơi nổi dậy hưởng ứng chiếu Cần Vương. - Bị mù cả hai mắt, Nguyễn Đình Chiểu viết thơ văn phục vụ cuộc chiến đấu của đồng bào Nam bộ ngay từ những ngày đầu. - Thơ văn còn ghi lại tâm hồn trong sáng và cao quý của Nguyễn Đình Chiểu. - Thơ văn ghi lại thời kì lịch sử khổ nhục nhưng vĩ đại. - Cuộc đời và hoạt động của Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương anh dũng. - Đất nước và cảnh ngộ riêng càng long đong thì khí tiết càng cao..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là của một chiến sĩ luôn hi sinh phấn dđấu vì nghĩa lớn. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là thơ văn chiến đấu, đánh thẳng vào giặc xâm lược và tôi tớ của chúng. - Với Nguyễn Đình Chiểu cầm bút viết văn là một thiên chức. Ông khinh miệt những kẻ lợi dụng thơ văn để làm việc phi nghĩa: “Thấy nay cũng nhóm văn chương Vóc dê da cọp khôn lường thực hư”. =>Luận điểm đưa ra có tính khái quát bao trùm. Luận cứ bao gồm lí lẽ và dẫn chứng cũng rất cụ thể, tiêu biểu, có sức cảm hóa. * Luận điểm hai : “ Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình chiểu làm sống lại trong tâm trí của chúng ta phong trào kháng pháp oanh liệt và bền bỉ của nhân dân Nam bộ từ năm 1860 về sau, suốt hai mươi năm trời”. + Tái hiện lại một thời đau thương và khổ nhục nhưng vô cùng anh dũng của dân tộc. + Phần lớn thơ văn Đồ Chiểu là những bài văn tế ca ngợi những anh hùng tận trung với nước và than khóc những ngưới liệt sĩ đã trọn nghĩa với dân. Đặc biệt người nghĩa sĩ nông dân chỉ biết cuốc cày đã trở thành anh hùng cứu nước. =>Văn viết rõ ràng, lí lẽ đưa ra có dẫn chứng đầy đủ. Đó là cách lập luận chặt chẽ, làm cho người đọc người nghe lĩnh hội được vẻ đẹp đáng trân trọng, kính phục con người và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu. Bởi lẽ Nguyễn Đình Chiểu là nhà Nho yêu nước tiêu biểu, tấm gương sáng ngời về lòng yêu nước, trọng đạo lí. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu là vũ khí chống bọn xâm lược và là bài ca chính nghĩa, ca ngợi đạo đức ở đời. Tất cả kết hợp với tình cảm nồng hậu của Phạm Văn Đồng đối với Nguyễn Đình Chiểu để bài viết giàu tính thuyết phục. *Luận điểm ba: “ Lục Vân Tiên” là tác phẩm lớn của Nguyễn Đình Chiểu rất phổ biến trong dân gian nhất là ở miền Nam. + “Lục Vân Tiên” ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những người trung nghĩa: Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Vương Tử Trực, Hớn Minh, Tiểu Đồng là những người đáng kính, đáng yêu, trọng nghĩa khinh tài, mặc dầu khổ cực, gian nguy, quyết phấn đấu vì nghĩa lớn. Họ đấu tranh chống mọi giả dối bất công và họ đã chiến thắng. + Về văn chương của “Lục Vân Tiên”, đây là “một chuyện kể”, “chuyện nói”, lời văn “nôm na”, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ truyền bá rộng rãi trong dân gian. + Tác giả bác bỏ ý kiến chưa hiểu đúng về truyện “Lục Vân Tiên” do hoàn cảnh thực tế ( bị mù, nhờ người viết) nên có tình trạng “Tam sao thất bản”. 3.Phần kết bài: * Luận điểm là: “ Đời sống và sự nghiệp Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn học nghệ thuật, sứ mạng người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng”. Thực chất là rút ra bài học sâu sắc: + Đốt nén hương lòng tưởng nhớ người con quang vinh của dân tộc. + Mối quan hệ giữa văn học và đời sống. + Vai trò của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. III. Toång keát: - B»ng c¸ch nh×n, c¸ch nghÜ s©u réng, míi mÎ vµ nhiÖt t×nh cña m×nh Ph¹m V¨n §ång đã làm sáng tỏ mối liên hệ khăng khít của những tác phẩm thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu với hoàn cảnh của Tổ quốc lúc bấy giờ và với thời đại hiện nay. Đồng thời tác giả hết lòng ca ngợi Nguyễn Đình Chiểu, một ngời trọn đời dùng cây bút làm vũ khí chiến đấu cho dân cho đất nớc. - Bài văn có sức lôi cuốn mạnh mẽ do cách nghị luận vừa xác đáng, chặt chẽ vừa xúc động, thiết tha với nhiều hình ảnh ngôn từ đặc sắc. Baøi 4. THOÂNG ÑIEÄP.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> ( Coâ-phi A-nan) I.TÌM HIỂU CHUNG: 1.Tác giả: - Cô-phi An-nan sinh ngày 8-4-1938 tại Ga-na, một nước cộng hòa thuộc châu Phi. Ông là người thứ bảy và là người châu Phi da đen đầu tiên được bầu làm Tổng thư kí Liên hợp quốc. Ông đảm nhiệm chức vụ này hai nhiệm kì, từ tháng 1-1997 đến tháng 1-2007. - Năm 2001, tổ chức Liên hợp quốc và cá nhân Tổng thư kí Cô-phi An-nan được trao giải thưởng Nô-ben Hòa bình 2. Văn bản: Nhân Ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003, Tổng thư kí Liên hợp quốc Cô-phi An-nan đã gửi bức thông điệp đến toàn thế giới, nhằm kêu gọi mọi quốc gia, tổ chức và mọi người hãy nỗ lực ngăn chặn phòng chống đại dịch này trên toàn cầu. II. Đọc – hiểu văn bản a) Mở đầu: - Nhắc lại việc cam kết của các quốc gia trên thế giới để đánh bại căn bệnh HIV/AIDS vào năm 2001 và Tuyên bố về cam kết phòng chống HIV/AIDS của quốc gia đó. b) Nhìn lại tình hình thực hiện phòng chống AIDS - Đã có một số dấu hiệu của chúng ta về nguồn lực, ngân sách, chiến lược quốc gia phòng chống AIDS - Song hành động của chúng ta vẫn quá ít so với yêu cầu thực tế, dịch HIV/AIDS vẫn hoành hành gây tử vong trên toàn thế giới và có rất nhiều dấu hiệu suy giảm. Trong năm qua, mỗi phút có khoảng 10 người bị nhiễm HIV, và đại dịch này đang lan rộng nhanh nhất ở chính những khu vực mà trước đây hầu như vẫn còn an toàn- đặc biệt là Đông Âu và toàn bộ Châu Á, từ dãy núi U-ran đến Thái Bình Dương. - Không hoàn thành được một số mục tiêu đề ra trong Tuyên bố về Cam kết phòng chống HIV/AIDS và tiến độ như hiện nay, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ mục tiêu nào vào năm 2005. c) Nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hàng đầu trong việc phòng chống AIDS - Phải nỗ lực thực hiện cam kết của mình bằng những nguồn lực và hành động cần thiết. - Phải đưa vấn đề AIDS lên vị trí hàng đầu trong chương trình nghị sự về chính trị và hành động. - Phải công khai lên tiếng về AIDS. - Không được kì thị và phân biệt đối xử đối với những người sống chung với HIV/AIDS. - Đừng để một ai có ảo tưởng rằng chúng ta có thể bảo vệ được chính mình bằng cách dựng lên các bức tường rào ngăn cách giữa “chúng ta” và “họ”. - Trong thế giới AIDS khốc liệt này không có khái niệm “chúng ta” và “họ”. Trong thế giới đó, im lặng đồng nghĩa với cái chết. Có nghĩa là phải hành động để chống lại đại dịch AIDS đang đe dọa mọi người trên hành tinh này, không trừ một ai. d) Kết thúc: Lời kêu gọi phòng chống AIDS - Tôi kêu gọi các bạn hãy cùng với tôi lên tiếng thật to và hãy dõng dạc về HIV/AIDS. - Hãy cùng tôi giật đổ các thành lũy của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử đang vây quanh bệnh dịch này. - Hãy sát cánh cùng tôi, bởi lẽ cuộc chiến chóng lại HIV/AIDS bắt đầu từ chính các bạn.  Chúng ta hãy tránh xa AIDS! III. Tổng kết - Nội dung: + Bản thông điệp khẳng định phòng chống HIV/AIDS phải là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại, và những cố gắng của con người về mặt này vẫn còn chưa đủ..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> + Tác giả tha thiết kêu gọi các quốc gia và toàn thể nhân dân thế giới hãy coi việc đẩy lùi đại dịch đó là công việc chính của mình, hãy sát cánh bên nhau để cùnh “đánh đổ các thành lũy của sự im lặng, kì thị và phân biệt đối xử” với những người bị HIV/AIDS. - Nghệ thuật: + Văn phong chính luận rõ ràng, trong sáng, dễ hiểu, với một lập luận lôgíc, chặt chẽ. + Cùng với tâm huyết và trách nhiệm của người viết đã làm nên sức thuyết phục cao cho bức thông điệp lịch sử này. . Gợi ý giải bài tập. a) HS cần phải: Phát hiện được những tệ nạn xã hội, vào thời điểm ấy, đang diễn ra và gây nhiều tác hại nghiêm trọng trong nhà trường và trong đời sống. - Tìm hiểu để có những hiểu biết cụ thể và đúng đắn về tệ nạn xã hội đó về các mặt: biểu hiện, nguyên nhân, mức độ nguy hiểm, cách phòng chống, ... Có đầy đủ kiến thức, nhiệt tình và quyết tâm để có thể tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh chống tệ nạn đó. Có khà năng vận dựng những kĩ năng về sử dụng ngôn ngữ, về lập luận và diễn đạt,... để hoàn thành tốt bài làm. b) HS nên đọc lại thật kĩ bản thông điệp của Cô-phi An-nan để có thể tham khảo, học tập và vận dụng trong bài viết của mình (chẳng hạn như về các mặt: bố cục lập luận, cách biểu hiện những suy nghĩ, tình cảm, cách hành văn,...). Baøi 5. TAÂY TIEÁN (Quang Duõng). I. TÌM HIỂU CHUNG: 1. Taùc giaû : - Quang Dũng sinh năm 1921 – 1988 tên thật Bùi Đình Diệm (Dậu) người làng Phượng Trì, huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây. -Làm thơ, viết văn, vẽ tranh …Tham gia chiến đấu từ cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám, từng là đại đội trưởng của đoàn quân Tây Tiến đến cuối năm 1948 -Tác phẩm chính :Rừng biển quê hương , Mây đầu ô , Mùa hoa gạo. 2.Hoàn cảnh sáng tác : Cuoái 1948, Quang Duõng chuyeån sang ñôn vò khaùc, taïi laøng Phuø Löu Chanh (Haø Ñoâng cũ), bồi hồi nhớ đơn vị cũ, Quang Dũng sáng tác “Nhớ Tây Tiến”. 3. Tìm hiểu bài thơ Đoạn 1 (Từ câu 1 đến câu 14) Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ - thơ mộng Quang Dũng là một nghệ sĩ tài hoa nhiều mặt: viết văn xuôi, làm thơ và cả hội họa. Thơ ông viết ít nhưng lưu được ấn tượng sâu trong lòng người đọc vì vẻ đẹp lãng mạn, tài hoa. Viết về đề tài người lính Quang Dũng khá thành công ở bài thơ “Tây Tiến” “Tây Tiến” thể hiện lối cảm nghĩ riêng đó chính là tấm lòng Quang Dũng đối với một thời lịch sử đã qua. Cả bài thơ là một nỗi nhớ dài: Nhớ những miền đất mà tác giả đã từng qua, nhớ những đồng đội thân yêu, nhớ những kỷ niệm ấm áp tình quân dân kháng chiến. Tất cả những điều ấy được thể hiện bằng cái nhìn đầy lãng mạn của người lính. Đoạn thơ đầu gồm 14 câu như những thước phim quay chậm tái hiện địa bàn chiến đấu của người lính Tây Tiến. Đó là thiên nhiên Tây Tiến, là những người lính Tây Tiến cùng những kỷ niệm ấm tình quân dân. Mở đầu đoạn thơ Quang Dũng nhớ ngay đến dòng sông Mã. Dòng sông ấy hiện lên trong bài thơ nh một nhân vật, chứng kiến mọi gian khổ, nỗi buồn, niềm vui, mọi chiến công và mọi hy sinh của đoàn binh Tây Tiến. Sông Mã gắn liền với miền đất đã từng qua,.

<span class='text_page_counter'>(11)</span> những kỷ niệm từng trải của đoàn quân Tây Tiến. Nhắc tới sông Mã cũng là nhắc tới núi rừng thiên nhiên Tây Bắc. Nhà thơ nhớ về những miền đất trong nỗi nhớ “chơi vơi”. “Chơi vơi” là nỗi nhớ không có hình, không có lượng, không ai cân đong đo đếm được nó lửng lơ mà đầy ắp ám ảnh tâm trí con người, khiến con người như sống trong cõi mộng. Chữ “chơi vơi” hiệp vần với chữ “ơi” ở câu thơ trên khiến cho lời thơ thêm vang vọng. Trong nỗi nhớ “chơi vơi” ấy hiện lên cả một không gian xa xôi hiểm trở. Tính chất “xa xôi” thể hiện rõ ở một số địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu. Nghe tên đất đã lạ vì đó là những vùng sâu, vùng xa của các dân tộc ít người từ Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình. Những địa danh này đi vào nỗi nhớ của nhà thơ bởi vậy nhớ về Tây Tiến thì cũng chính là nhớ về những vùng đất heo hút, hiểm trở đầu tiên. Điều này cũng dễ hiểu. Bởi những người lính Tây Tiến vừa mới ra đi kháng chiến từ một mái trường, một góc phố nào đó của thủ đô Hà Nội thì ấn tượng sâu đậm nhất về Tây Tiến trong họ lẽ đương nhiên là những gian khổ, những địa danh nêu trên càng trở nên xa hơn khi nó gắn liền với hình ảnh “sương lấp”, “đoàn quân mỏi” hiện về “trong đêm hơi”. Câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” với điệp từ “dốc” gối lên nhau cộng với tính từ “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” làm sống dậy con đường hành quân hiểm trở, gập ghềnh, dài vô tận. Âm điệu câu thơ như cũng khúc khuỷu như bị cắt đoạn như đường núi khúc khuỷu, có đoạn lên cao chót vót có đoạn xuống thăm thẳm. Con đường mà người lính Tây Tiến phải trải qua cao tới mức bóng người in trên những cồn mây, đến mức “súng ngửi trời” Đây là cách nói thậm xưng thể hiện sự độc đáo của Quang Dũng. Nếu chỉ thấy súng chạm trời thì ta mới chỉ thấy được cái thế cao của dốc còn hình ảnh “Súng ngửi trời” hàm chứa một ý nghĩa khác. Đó là vẻ tinh nghịch, chất lính ngang tàng như thách thức cùng gian khổ của người lính Tây Tiến. Điều này khiến cho hình ảnh người lính Tây Tiến được nâng cao rõ nét trong một không gian rộng lớn vời vợi, và đây cũng chính là chất lãng mạn bay bổng của tâm hồn người lính Tây Tiến, của Quang Dũng. Câu thơ còn gợi cho ta cảm giác về độ cao, độ sâu không cùng của dốc. Ta bắt gặp ý thơ này ở câu thơ: “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Cả hai câu đều ngắt nhịp 4/4. Thực ra ý của câu sau điệp lại ý của câu trước nhưng lối điệp vô cùng sáng tạo, khiến cho người đọc khó phát hiện ra. ý thơ gấp khúc giữa hai chiều cao thăm thẳm, sâu vòi vọi, dốc tiếp dốc, vực tiếp vực nhấn mạnh địa bàn hoạt động của những người lính vô cùng khó khăn, hiểm trở, vượt qua những khó khăn, hiểm trở đó đã là một kỳ tích của những người lính. Tổng hợp những chi tiết đã phân tích ở trên ta có được một phần chính về bức tranh của thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang dại, hiểm trở mà đầy sức hút. Những câu thơ phần lớn là thanh trắc càng gợi cái trúc trắc, trục trặc, tạo cảm giác cho độc giả về hơi thở nặng nhọc, mệt mỏi của người lính trên đường hành quân. Giữa những âm tiết toàn thanh trắc ấy chen vào câu thơ gần cuối đoạn thơ dài man mác toàn thanh bằng: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Đây chính là hình ảnh thơ mộng mà hoang dã về thiên nhiên Tây Tiến. Thiết nghĩ nếu câu thơ này vì lí do nào đó mà không có thì sức hấp dẫn của đoạn thơ sẽ giảm đi rất nhiều bởi lẽ chính câu thơ tạo nên nét thứ hai cho bức tranh về thiên nhiên Tây bắc. Thiên nhiên Tây bắc hùng vĩ, hoang sơ, hiểm trở nhưng đầy thơ mộng. Chất tài hoa của Quang Dũng được thể hiện khá trọn vẹn ở chỗ nhà thơ nhắc đến mưa rừng mà tạo cảm giác đứng trước biển lại người lên vẻ đẹp của người lính chân đứng trên dốc cao đầu gội trong mưa lớn. Cứ một nét bút gân guốc lại xen vào một nét bút mềm mại, trữ tình tạo cho bức tranh về thiên nhiên Tây Tiến cân đối hài hòa. Nhắc lại những thử thách khắc nghiệt cũng là để nói đến sức chịu đựng bền bỉ của con người. Từ đây Quang Dũng vụt nhớ đến hình ảnh những đồng đội, dù can trường trong dãi dầu nhưng có khi gian khổ đã vượt quá sức chịu đựng khiến cho người lính đã gục ngã, nhưng gục ngã trên tư thế hành quân. “Anh bạn dãi dầu không bước nữa Gục trên súng mũ bỏ quên đời”.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Nói đến cái chết mà lời thơ cứ nhẹ như không. Dường như người lính Tây Tiến chỉ bỏ quên đời một lát rồi lại bừng tỉnh và bước tiếp. Nói về cái chết mà lời thơ không bi lụy. Đó cũng là một nét trong phong cách biểu hiện của nhà thơ Quang Dũng. Những ngày chiến đấu bảo vệ biên giới, để giúp bạn giữa núi rừng Tây Bắc thật lắm gian nan khó nhọc. Những gian nan khó nhọc còn hằn sâu trong trí nhớ. Quang Dũng không khoa trương tính cách anh hùng dũng cảm, cũng không nói đến cảnh bách chiến bách thắng. Nhưng sống và chiến đấu trong một địa bàn hiểm trở dữ dội, hoang dã đã là anh hùng rồi. Vùng đất xa xôi hiểm trở với những nét dữ dội hoang dã: Chiều chiều oai linh thác gầm thét Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người Cảnh hiểm trở cheo leo nhưng đâu có tĩnh lặng thanh bình... Với những từ “oai linh”, “gầm thét” thác nước như một sức mạnh thiêng liêng, đầy quyền uy, đầy đe dọa, và những con hổ đi lang thang hoành hành ngang dọc coi mình là chúa tể của núi rừng làm cho cảnh rừng núi thêm rùng rợn ghê sợ. Đang nói đến cái rùng rợn bí hiểm của rừng già nhà thơ bỗng nhớ lại một kỷ niệm ấm áp tình quân dân. Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói Mai Châu mùa em thơm nếp xôi. Trong gian khổ thiếu thốn người ta càng nâng niu càng quí trọng nghĩa tình. Hình ảnh những nồi cơm lên khói, những mùa màng thơm nếp xôi và đặc biệt là “em” biểu tượng cho người dân Tây Bắc hiện về trong cảm xúc nhà thơ vừa tự nhiên vừa tinh tế. Sự xuất hiện của những hình ảnh này khiến cho đoạn kết của khổ thơ có sức bay bổng. Đoạn thơ ấm lại trong tình quân dân mặn nồng. Hai câu cuối gieo vào tâm hồn độc giả một cảm xúc ấm nóng. Cái ấm nóng của tình người. Đây chính là chất lãng mạn bay bổng của đoạn thơ và nó như một nét vẽ tươi sáng của bức tranh. Đoạn thơ là sự phối kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp hiện thực và lãng mạn. Cả đoạn thơ như một bức tranh thủy mặc cổ điển được phác thảo theo lối tạo hình phương đông. Quang Dũng là một hoạ sĩ. Ông có tài chấm phá trong việc phác thảo cảnh vật. Quang Dũng đã xây một đài kỷ niệm trong thơ cho thiên nhiên Tây Bắc và người lính Tây Tiến. Đoạn 2. Con người Tây Bắc duyên dáng và tài hoa Cả đoạn thơ là bức tranh thiên nhiên diễm lệ có sức hòa hợp diệu kỳ giữa thiên nhiên và con người. Cảnh trí miền Tây ở khổ thơ dường như được tạo hình theo thi pháp truyền thống: “Thi trung hữu hoạ, thi trung hữu nhạc”. Một miền Tây thơ mộng thi vị giàu sức cuốn hút. Đoạn thơ thứ 2 này được xem là đoạn thơ tiêu biểu cho bút pháp nghệ thuật của Quang Dũng. Câu mở đầu đoạn tạo cảm giác đột ngột bừng sáng: Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa “Bừng lên” vừa đột ngột, bất ngờ vừa thú vị. Cả cảnh vật và lòng người đều bừng sáng lên. Chất hào hoa trong bút pháp thể hiện của Quang Dũng đã bộc lộ ngay từ câu thơ đầu. Hai cụm từ “bừng lên” “hội đuốc hoa” thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng từ ngữ của Quang Dũng. Hai cụm từ này vừa có tính tả thực vừa đậm chất lãng mạn. “Bừng lên” vừa có nghĩa bừng sáng lung linh vừa như bừng tỉnh. “Hội đuốc hoa” đây là cảnh thực. Đêm liên hoan văn nghệ diễn ra dưới những cánh rừng, người đến dự đều cầm trên tay ngọn đuốc, gió thổi làm những ngọn đuốc lung linh phát ra những tia lửa. Cảnh tượng này trong đêm quả thật nhìn như hoa đuốc. Cảm nhận của Quang Dũng vừa tinh tế vừa lãng mạn, câu thơ gợi sức liên tưởng, tưởng tượng cho người đọc. Trên cái nền không gian ấy “em” xuất hiện.”Em” xuất hiện lập tức trở thành trung điểm của mọi điểm nhìn. Kìa em xiêm áo tự bao giờ “Kìa em” lời chào đón đầy ngạc nhiên sung sướng đến ngỡ ngàng. Lời chào đón mang tính phát hiện. Em lạ mà quen, quen mà lạ. Quang Dũng phát hiện ra vẻ đẹp rực rỡ của cô gái bằng cả niềm yêu, niềm say đến cảm phục. Yêu say từ vóc dáng đến trang phục..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Chính trang phục truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa của các thiếu nữ Tây Bắc càng tôn vinh lên vẻ đẹp của họ Quang Dũng không khỏi không thán phục đến ngạc nhiên trước vẻ đẹp ấy. Em trở thành hạt nhân của bức tranh với vẻ đẹp xứ lạ phương xa. Câu thơ thứ ba xuất hiện lập tức khổ thơ như tràn đầy âm nhạc. Khèn lên man điệu nàng e ấp. Những âm thanh phát ra từ nhạc cụ của đồng bào Tây Bắc đối với người lính Tây Tiến vừa lạ vừa có vẻ hoang dại mang tính sơ khai mà đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Chính cái lạ ấy làm đắm say tâm hồn những chàng trai Tây Tiến gốc Hà Nội hào hoa. Từ “man điệu” mà Quang Dũng sử dụng ở đây cũng rất tài hoa. Ngời đọc như được chứng kiến những vũ khúc hoang sơ của văn hóa Âu Lạc. Vũ khúc ấy hòa với vũ điệu Em duyên dáng, e ấp, tình tứ. Ta chú ý tác giả sử dụng từ : Ban đầu là “em” tiếp đến là “nàng” rồi sau lại là “em”. Từ cách sử dụng ấy ta cảm nhận được em như một nàng tiên kiều diễm và ta như lạc vào cõi thần tiên với không khí mê say đến ngây ngất. Chính trong không khí của âm nhạc, vũ điệu ấy đã chắp cánh cho tâm hồn những người lính Tây Tiến thực sự ngất ngây trước người và cảnh. Sẽ rất thiếu sót nếu như chúng ta dừng lại ở đây. Bởi lẽ bốn câu sau của đoạn thơ mới thực sự thi vị. Cả bốn câu là cảnh sắc Tây Bắc gợi cảm giác mênh mang, huyền ảo: Người đi Châu Mộc chiều sương ấy Có thấy hồn lau nẻo bến bờ Có nhớ dáng người trên độc mộc Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa. Một không gian bảng lảng khói sương như trong cõi mộng cứ thế hiện ra. Cái thực của khí trời Tây Bắc, cái mộng của không khí bảng lảng sương khói hiện lên như một miền cổ tích. Ta nhớ rằng Quang Dũng là một họa sĩ bởi vậy đoạn thơ đậm màu sắc hội họa. Nét bút phác thảo của Quang Dũng thật là tài hoa. Chỉ một vài nét chấm phá vậy mà cái hồn của cảnh vật và con người hiện lên thật sinh động đầy sức cuốn hút. Không gian dòng sông buổi chiều giăng mắc một màu sương, sông nước bến bờ hoang dại như một bờ tiền sử. “Hồn lau” những cây lau không còn vô tri vô giác mà có linh hồn. Phải là một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, tài hoa và lãng mạn mới cảm nhận được hồn lau đang dăng mắc dọc nẻo bến bờ. Không gian nên thơ ấy làm nền cho người thơ xuất hiện: Có nhớ dáng ngời trên độc mộc Câu thơ không tả mà gợi, gợi cái dáng mềm mại uyển chuyển của cô gái trên chiếc thuyền độc mộc. Cảnh rất thơ và người cũng rất tình. Bởi vậy tác giả như ngây ngất đắm say trước cảnh và người. ở đây cảnh như làm duyên với người. Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa Duyên dáng đến độ và tình tứ cũng hết lời: Bông hoa rừng cũng đong đưa làm duyên với người. Cảnh và người hòa quyện đồng điệu, tình tứ đến mê say trong cái nhìn lãng mạn của Quang Dũng. Ta có cảm nhận đây là thế giới của cõi mộng, cõi mơ, cõi thơ và cõi nhạc. Thơ và nhạc là hai yếu tố tạo nên bức tranh Tây Bắc nên thơ, mĩ lệ. Ai nói rằng Tây Bắc là xứ rừng thiêng nước độc xin hãy một lần để cho tâm hồn mình lắng lại để chất thơ Tây Bắc ngấm vào hồn. Đoạn thơ bộc lộ chất tài hoa, chất lãng mạn của Quang Dũng đến tuyệt vời. Cảm ơn nhà thơ đã cho ta một chuyến hành trình về với Tây Bắc thơ mộng để khám phá Tây Bắc và yêu Tây Bắc. Đoạn 3: Người lính Tây Tiến hào hùng và hào hoa Quang Dũng đã dựng bức tượng đài về người lính vô danh trong khổ thơ thứ ba của bài thơ Tây Tiến. Ta có thể xem khổ thơ thứ ba này là những nét bút cuối cùng hoàn thiện bức tượng đài về chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, hào hoa. Chân dung người lính hiện lên ở khổ thơ thứ 3 có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vẻ đẹp tâm hồn, lý tưởng chiến đấu và phẩm chất hy sinh anh dũng. Có thể nói cả bài thơ là một tượng đài đầy màu sắc bi tráng về một đoàn quân trên một nền cảnh khác thường..

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Chân dung đoàn binh Tây Tiến được chạm khắc bằng nét bút vừa hiện thực vừa lãng mạn. Các chi tiết như lấy từ đời sống hiện thực và khúc xạ qua tâm hồn thơ Quang Dũng để rồi sau đó hiện lên trên trang thơ đầy sức hấp dẫn. Dọc theo hành trình, vẻ đẹp hào hùng kiêu dũng cứ lấp lánh dần lên, đến khi người lính Tây Tiến đối mặt với dịch bệnh, đối mặt với cái chết thì nó thật chói người, nét nào cũng sắc sảo lạ lùng và đầy lãng mạn: Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc Quân xanh màu lá dữ oai hùm. Chữ dùng của Quang Dũng ở đây thật lạ. Nếu mở đầu đoạn thơ tác giả dùng từ “Đoàn quân” thì ở đây tác giả dùng “Đoàn binh”. Cũng đoàn quân ấy thôi nhưng khi dùng “Đoàn binh” thì gợi hình ảnh đoàn chiến binh có vũ khí, có khí thế xung trận át đi vẻ ốm yếu của bệnh tật. Ba chữ “không mọc tóc” là đảo thế bị động thành chủ động. Không còn đoàn quân bị sốt rét rừng lâm tiều tuỵ đi rụng hết cả tóc. Giọng điệu của câu thơ cứ y như là họ cố tình không mọc tóc vậy. Nghe ngang tàng kiêu bạc và thấy rõ sự bốc tếu rất lính tráng. Các chi tiết “không mọc tóc, quân xanh màu lá” diễn tả cái gian khổ khác thường của cuộc đời người lính trên một địa bàn hoạt động đặc biệt. Di chứng của những trận sốt rét rừng triền miên là “tóc không mọc” da xanh tái. Nhưng đối lập với ngoại hình tiều tụy ấy là sức mạnh phi thường tự bên trong phát ra từ tư thế “dữ oai hùm”. Với nghệ thuật tương phản chỉ 2 dòng thơ Quang Dũng làm nổi bật vẻ khác thường của đoàn quân Tây Tiến. Họ hiện lên như hình ảnh tráng sĩ trượng phu một thuở qua hai câu tiếp: Mắt trừng gửi mộng qua biên giới Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm “Mắt trừng” biểu thị sự dồn nén căm uất đến cao độ như có khả năng thiêu đốt quân thù qua ánh sáng của đôi mắt. Hình ảnh thơ làm nổi bật ý chí của đoàn binh Tây Tiến. ở đây người lính Tây Tiến được đề cập đến với tất cả thực trạng mệt mỏi, vất vả qua các từ “không mọc tóc”, “quân xanh màu lá”. Chính từ thực trạng này mà chân dung người lính sinh động chân thực. Thế nhưng vượt lên trên khó khăn thiếu thốn, tâm hồn người lính vẫn cất cánh “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”. Câu thơ ánh lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính Tây Tiến. Ban ngày “Mắt trừng gửi mộng” giấc mộng chinh phu hướng về phía trận mạc nhưng khi bom đạn yên rồi giấc mộng ấy lại hướng về phía sau cũng là hướng về phía trớc, phía tương lai hẹn ước. Một ngày về trong chiến thắng để nối lại giấc mơ xưa. ý chí thì mãnh liệt, tình cảm thì say đắm. Hai nét đẹp hài hòa trong tính cách của những chàng trai Tây Tiến. Quang Dũng đã dùng hình ảnh đối lập: một bên là nấm mồ, một bên là ý chí của những người chiến binh: Rải rác biên cương mồ viễn xứ Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh áo bào thay chiếu anh về đất Sông Mã gần lên khúc độc hành. “Mồ viễn xứ” là những nấm mồ ở những nơi xa vắng hoang lạnh. Những nấm mồ rải rác trên đường hành quân, nhng không thể cản được ý chí quyết ra đi của người lính. Câu thơ sau chính là câu trả lời dứt khoát của những con người đứng cao hơn cái chết: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh. Chính tình yêu quê hương đất nước sâu nặng đã giúp người lính coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Khi cần họ sẵn sàng hy sinh cho nghĩa lớn một cách thanh thản bình yên như giấc ngủ quên. Câu thơ vang lên như một lời thề đúng là cái chết của bậc trượng phu “áo bào thay chiếu anh về đất” Nếu như người tráng sĩ phong kiến thuở trước coi da ngựa bọc thây là lí tưởng thì anh bộ đội cụ Hồ ngày nay chiến đấu hi sinh vì Tổ quốc một cách tự nhiên thầm lặng. Hình ảnh “áo bào” làm tăng không khí cổ kính trang trọng cho cái chết của người lính. Hai chữ “áo bào” lấy từ văn học cổ tái tạo vẻ đẹp của một tráng sĩ và nó làm mờ đi thực tại.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> thiếu thốn gian khổ ở chiến trường. Nó cũng gợi được hào khí của chí trai “thời loạn sẵn sàng chết giữa sa trường lấy da ngựa bọc thây. Chữ “về” nói được thái độ nhẹ nhõm, ngạo nghễ của người tráng sĩ đi vào cái chết “Anh về đất” là hình ảnh đầy sức mạnh ngợi ca. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ thiêng liêng, người lính Tây Tiến trở về trong niềm chở che của đất mẹ quê hương, của đồng đội. Trở về với nơi đã sinh dưỡng ra mình. Trước những cái chết cao cả ở địa bàn xa xôi hẻo lánh sông Mã là nhân vật chứng kiến và tiễn đưa. Mở đầu bài thơ ta gặp ngay hình ảnh sông Mã, con sông ấy gắn liền với lịch sử đoàn quân Tây Tiến. Sông Mã chứng kiến mọi gian khổ, mọi chiến công và giờ đây lại chứng kiến sự hy sinh của người lính. Đoạn thơ kết thúc bằng khúc ca bi tráng của sông Mã. “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” Dòng sông Mã là chứng nhân của một thời kỳ hào hùng, chứng kiến cái chết của người tráng sĩ, nó gầm lên khúc độc hành bi phẫn, làm rung động cả một chốn hoang sơ. Câu thơ có cái không khí chiến trận của bản anh hùng ca thời cổ. Câu thơ đề cập đến mất mát đau thương mà vẫn hùng tráng. Bốn câu kết: Bốn câu thơ kết thúc được viết như những dòng chữ ghi vào mộ chí. Những dòng sông ấy cũng chính là lời thề của các chiến sĩ vệ quốc quân. “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy” “Mùa xuân” có thể được dùng nhiều nghĩa: thời điểm thành lập đoàn quân Tây Tiến (mùa xuân 1947), mùa xuân của đất nước, mùa xuân (tuổi thanh xuân) của đời các chiến sĩ. Hình ảnh “Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”, “chẳng về xuôi” bỏ mình trên đường hành quân “Hồn về Sầm Nứa”: chí nguyện của các chiến sĩ là sang nước bạn hợp đồng tác chiến với quân tình nguyện Lào chống thực dân Pháp, thực hiện lý tưởng đến cùng. Bởi vậy dù đã ngã xuống trên đường hành quân hồn (tinh thần của các anh) vẫn đi cùng với đồng đội, vẫn sống trong lòng đồng đội: Vang vọng âm hửơng văn tế của Nguyễn Đình Chiểu: “Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc”. Baøi 6:. Tố Hữu. Trình bày sự nghiệp văn chương (con đường thơ ) của Tố Hữu. Các chặng đường thơ Tố Hữu gắn bó song hành với các giai đoạn cách mạng, phản ánh những chặng đường cách mạng, đồng thời thể hiện sự vận động tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ :  TỪ ẤY : ( 1937 – 1946 ) : Là tập thơ đầu tay, là tiếng hát say mê lí tưởng của người thanh niên cách mạng, gồm 3 phần : Máu lửa, Xiềng Xích, Giải Phóng . “Từ Aáy” (Từ ấy , Đi đi em, Tiếng hát đi đày, liên hiệp lại ,…).  VIỆT BẮC : ( 1947 – 1954 ) : Là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, phản ánh những chặng đường gian lao anh dũng và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp ( Việt bắc ,Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Ta đi tới ,… ).  GIÓ LỘNG ( 1955 – 1961 ) : Tiếng hát ca ngợi cuộc sống mới XHCN và tiếng thét căm thù đòi giải phóng miền Nam. ( 30 năm đời ta có Đảng, Bài ca xuân 61,….)  RA TRẬN : (1962 – 1971 ) : Tiếng kêu gọi hào hùng và thiết tha ca ngợi cuộc chiến đấu ở hai miền Nam –Bắc . ( Kính gửi cụ Nguyễn Du, Hãy nhớ lấy lời tôi, …).  MÁU VÀ HOA ( 1972 – 1977 ) :Tiếp tục ca ngợi, cổ vũ cuộc chiến đấu chống Mĩ, khẳng định ý nghĩa thời đại của cuộc chiến đấu này. Khẳng định phẩm chất con người Việt Nam trước lịch sử . Tập thơ còn là khúc khải hoàn, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước . ( Máu và hoa, Vui thế… hôm nay,…) .  Ngoài ra còn hai tập thơ : Một tiếng đờn ( 1992 ) , Ta với ta ( 1999) . Trình bày phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu . Thơ Tố Hữu là Thơ trữ tình chính trị: Lí tưởng cách mạng, các vấn đề chính trị, các sự kiện lớn của đất nước là nguồn cảm hứng nghệ thuật chính của thơ Tố Hữu ..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Thơ Tố Hữu gắn liền với khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn: Từ cuối tập Việt Bắc về sau . cái tôi trữ tình, nhân vật trữ tình là những con người đại diện giai cấp , cho dân tộc, cho cách mạng, mang tầm vóc thời đại , cảm hứng thơ Tố Hữu là cảm hứng về lịch sử dân tộc. Thơ Tố Hữu có giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết của quê hương xứ Huế: Thơ Tố Hữu là sự giao hòa giữa người với cảnh vật , giọng thơ tâm tình ngọt ngào đậm đà “chất Huế”. Thơ Tố Hữu đậm đà bản sắc dân tộc: phản ánh đậm nét hình ảnh con người Việt Nam, tổ quốc VN trong thời đại CM, đưa tư tưởng tình cảm CM hòa nhập và tiếp nối truyền thống đạo lí dân tộc . Sử dụng thành công nhiều thể thơ nhất là thơ lục –bát , thơ 7 tiếng, phát huy tính nhạc phong phú của TV.. VIEÄT BAÉC (Tố Hữu ) 1. Hoàn cảnh sáng tác : - Việt Bắc là quê hương cách mạng, là căn cứ địa vững chắc của cuộc kháng chiến, nơi đã che chở đùm bọc cho Đảng, Chính Phủ, bộ đội trong suốt những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ. - Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí kết, hòa bình trở lại, miền Bắc nước ta được giải phóng. - Tháng 10 năm 1954, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. - Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Nhân sự kiện trọng đại này, Tố Hữu viết bài thơ Việt Bắc. - Bài thơ được trích trong tập Việt Bắc (1947 - 1954) 2. Lời Việt Bắc đối với người cán bộ cách mạng Mở đầu là một câu hỏi ngọt ngào bâng khuâng: Mình về mình …nhìn sông nhớ nguồn Tố Hữu đã khơi rất sâu vào nguồn mạch đạo lý ân nghĩa thủy chung của dân tộc để thể hiện tình cảm cách mạng. Mười lăm năm ấy là trở về với cội nguồn những năm tiền khởi nghĩa sâu nặng biết bao ân tình. 4 câu thơ điệp lại 4 chữ mình, 4 chữ nhớ, 1 chữ ta hòa quyện 1 câu hỏi về thời gian (10 năm...) một câu hỏi về không gian (nhìn cây...). Khổ thơ ngắn nhưng đã dồn góp lại cả một thời cách mạng. Tấm lòng người ở đã tỏ lộ giãi bày trong không gian, theo thời gian. Tiếng ai tha thiết …nói gì hôm nay... Quyến luyến không nỡ rời, xúc động nghẹn ngào nói không nên lời, tình cảm cồn cào bối rối ấy làm thay đổi cả nhịp thơ. Tiết tấu 2/2 của nhịp lục bát bỗng xao động trong nhịp 3/3/2 diễn tả thật đắt tấm lòng người đi với người ở lại. Dấu chấm lửng như khoảng trống khó lấp đầy, sự im lặng hàm chứa bao xao xuyến không lời. Mình đi có nhớ những ngày ….. Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa. Có câu hỏi cụ thể : nhớ Tân Trào, Hồng Thái, trám bùi, măng mai; có câu hỏi trừu tượng: chiến khu, mối thù, lòng son...;phép tiểu đối 4/4 (hắt hiu lau xám > < đậm đà lòng son). Tất cả, đã giúp Tố Hữu diễn tả thật đắt nỗi xao xuyến nhớ thương của người ở với người đi. Đặc biệt câu thơ lục bát cuối khổ: Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào Hồng Thái, mái đình, cây đa.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Ba chữ mình trong câu thơ 6 chữ đồng nhất tâm sự người đi, người ở đã tạo ra sự hô ứng đồng vọng giữa người hỏi, người đáp, hòa thành bản hợp ca ngân vang những hòa âm tâm hồn. 12 câu cấu tạo thành 6 câu hỏi, mỗi câu thơ đều khắc khoải tâm tình da diết, khắc khảm vào lòng người đi những kỉ niệm từ ngày đầu cách mạng. Mái đình Hồng Thái, Cây đa Tân Trào được chuyển vế thành Tân Trào, Hồng Thái mái đình, cây đa mang đến cho ta một liên tưởng: Việt Bắc đã thật sự trở thành quê hương thứ hai của người cán bộ miền xuôi. Bởi hình ảnh mái đình, cây đa ở đâu và khi nào cũng khơi gợi trong tâm hồn người Việt hình ảnh quê hương. 3. Lời người cán bộ cách mạng Ta với mình, mình với ta … Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu Cách nói mình –ta của ca dao dân ca, điệp từ mình cùng với biện pháp nghệ thuật so sánh nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu khẳng định lòng thủy chung son sắt với cách mạng, với quê hương kháng chiến của người cán bộ vê xuôi. Nhớ gì như nhớ người yêu … Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy - Hình ảnh so sánh như nhớ người yêu thể hiện sự gắn bó tha thiết trong tình cảm. - Hình ảnh gợi cảm đầy thi vị :bản khói cùng sương, bếp lửa, trăng lên đầu núi… gợi nhớ những nét mang đậm hồn người. Ta đi ta nhớ những ngày …Chày đêm nện cối đều đều suối xa - Hình ảnh đắng cay ngọt bùi, thương nhau chia củ sắn lùi, bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng là hình ảnh đậm đà giai cấp. (Người Việt Bắc trong nỗi nhớ người về thật đáng yêu, đáng quý, nặng tình nặng nghĩa, biết chia sẽ ngọt bùi. * Bức tranh tứ bình: Ta về mình có nhớ ta …. Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung a. Đoạn này được xem là đặc sắc nhất Việt Bắc. 10 câu lục bát thu gọn cả sắc màu 4 mùa, cả âm thanh cuộc sống, cả thiên nhiên con người Việt Bắc. Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Tố Hữu lựa chọn thật đắt hình ảnh đối xứng : hoa - người. Hoa là vẻ đẹp tinh tuý nhất của thiên nhiên, kết tinh từ hương đất sắc trời, tương xứng với con người là hoa của đất. Bởi vậy đoạn thơ được cấu tạo: câu lục nói đến thiên nhiên, câu bát nói tới con người. Nói đến hoa hiển hiện hình người, nói đến người lại lấp lóa bóng hoa. Vẻ đẹp của thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau tỏa sáng bức tranh thơ. Bốn cặp lục bát tạo thành bộ tứ bình đặc sắc. b. Trước hết đó là nỗi nhớ mùa đông Việt Bắc - cái mùa đông thuở gặp gỡ ban đầu, đến hôm nay vẫn sáng bừng trong kí ức. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Câu thơ truyền thẳng đến người đọc cảm nhận về một màu xanh lặng lẽ, trầm tĩnh của rừng già. Cái màu xanh ngằn ngặt đầy sức sống ngay giữa mùa đông tháng giá. Cái màu xanh chứa chất bao sức mạnh bí ẩn “Nơi thiêng liêng rừng núi hóa anh hùng”. Màu xanh núi rừng Việt Bắc: Rừng giăng thành lũy thép dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Trên cái nền xanh ấy nở bừng bông hoa chuối đỏ tơi, thắp sáng cả cánh rừng đại ngàn làm ấm cả không gian, ấm cả lòng người. Hai chữ “đỏ tươi” không chỉ là từ ngữ chỉ sắc màu, mà chứa đựng cả một sự bừng thức, một khám phá ngỡ ngàng, một rung động rất thi nhân..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Có thể thấy cái màu đỏ trong câu thơ Tố Hữu như điểm sáng hội tụ sức mạnh tiềm tàng chốn rừng xanh đại ngàn, lấp lóa một niềm tin rất thật, rất đẹp. Trên cái phông nền hùng vĩ và thơ mộng ấy, hình ảnh con người xuất hiện thật vững trãi, tự tin. Đó là vẻ đẹp của con người làm chủ núi rừng, đứng trên đỉnh trời cùng tỏa sáng với thiên nhiên, “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. c. Cùng với sự chuyển mùa (mùa đông sang mùa xuân) là sự chuyển màu trong bức tranh thơ: Màu xanh trầm tĩnh của rừng già chuyển sang màu trắng tinh khôi của hoa mơ khi mùa xuân đến. Cả không gian sáng bừng lên sắc trắng của rừng mơ lúc sang xuân. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Trắng cả không gian “trắng rừng”, trắng cả thời gian “ngày xuân”. Hình ảnh này khá quen thuộc trong thơ Tố Hữu, hình ảnh rừng mơ sắc trắng cũng đi vào trờng ca Theo chân Bác gợi tả mùa xuân rất đặc trưng của Việt Bắc: Ôi sáng xuân nay xuân 41 Trắng rừng biên giới nở hoa mơ Cái sắc trắng tinh khôi bừng nở mỗi độ xuân về làm ngơ ngẩn người ở, thẫn thờ kẻ đi. Người đi không thể không nhớ sắc trắng hoa mơ nơi xuân rừng Việt Bắc, và lại càng không thể không nhớ đến con người Việt Bắc, cần cù uyển chuyển trong vũ điệu nhịp nhàng của công việc lao động thầm lặng mà cần mẫn tài hoa: Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Hai chữ “chuốt từng” gợi lên dáng vẻ cẩn trọng tài hoa, dường như bao yêu thương đợi chờ mong ngóng đã gửi vào từng sợi nhớ, sợi thương kết nên vành nón. Cảnh thì mơ mộng, tình thì đợm nồng. Hai câu thơ lưu giữ lại cả khí xuân, sắc xuân, tình xuân vậy. Tài tình như thế thật hiếm thấy. d. Bức tranh thơ thứ 3 chuyển qua rừng phách - một loại cây rất thường gặp ở Việt Bắc hơn bất cứ nơi đâu. Chọn phách cho cảnh hè là sự lựa chọn đặc sắc, bởi trong rừng phách nghe tiếng ve ran, ngắm sắc phấn vàng giữa những hàng cây cao vút, ta như cảm thấy sự hiện diện rõ rệt của mùa hè. Thơ viết mùa hè hay xưa nay hiếm, nên ta càng thêm quí câu thơ của Tố Hữu: Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Ở đây có sự chuyển đổi cảm giác rất thú vị: Tiếng ve kêu - ấn tượng của thính giác đã đem lại ấn tượng thị giác thật mạnh. Sự chuyển mùa được biểu hiện qua sự chuyển màu trên thảo mộc cỏ cây: Những ngày cuối xuân, cả rừng phách còn là màu xanh, những nụ hoa còn náu kín trong kẽ lá, khi tiếng ve đầu tiên của mùa hè cất lên, những nụ hoa nhất tề đồng loạt trổ bông, đồng loạt tung phấn, cả rừng phách lai láng sắc vàng. Chữ đổ được dùng thật chính xác, tinh tế. Nó vừa gợi sự biến chuyển mau lẹ của sắc màu, vừa diễn tả tài tình từng đợt mưa hoa rừng phách khi có ngọn gió thoảng qua, vừa thể hiện chính xác khoảng khắc hè sang. Tác giả sử dụng nghệ thuật âm thanh để gọi dậy màu sắc, dùng không gian để miêu tả thời gian. Bởi vậy cảnh thực mà vô cùng huyền ảo. Trên nền cảnh ấy, hình ảnh cô em gái hiện lên xiết bao thơ mộng, lãng mạn: “Cô em gái hái măng một mình” nghe ngọt ngào thân thơng trìu mến. Nhớ về em, là nhớ cả một không gian đầy hương sắc. Người em gái trong công việc lao động hàng ngày giản dị: hái măng. Vẻ đẹp lãng mạn thơ mộng ấy còn được tô đậm ở hai chữ “một mình” nghe cứ xao xuyến lạ, như bộc lộ thầm kín niềm mến thương của tác giả. Nhớ về em, nhớ về một mùa hoa... e. Khép lại bộ tứ bình là cảnh mùa thu. Đây là cảnh đêm thật phù hợp với khúc hát giao duyên trong thời điểm chia tay giã bạn. Hình ảnh ánh trăng dọi qua kẽ lá dệt lên mặt đất một thảm hoa trăng lung linh huyền ảo. Dưới ánh trăng thu, tiếng hát ân tình càng làm cho cảnh thêm ấm áp tình người. Đại từ phiếm chỉ “ai” đã gộp chung người hát đối đáp với mình làm một, tạo một hòa âm tâm hồn đầy bâng khuâng lu luyến giữa kẻ ở, ngời đi, giữa con người và thiên nhiên. g. Mỗi câu lục bát làm thành một bức tranh trong bộ tứ bình. Mỗi bức tranh có vẻ đẹp riêng hòa kết bên nhau tạo vẻ đẹp chung. Đó là sự hài hòa giữa âm thanh, màu sắc....

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Tiếng ve của mùa hè, tiếng hát của đêm thu, màu xanh của rừng già, sắc đỏ của hoa chuối, trắng tinh khôi của rừng mơ, vàng ửng của hoa phách... Trên cái nền thiên nhiên ấy, hình ảnh con người hiện lên thật bình dị, thơ mộng trong công việc lao động hàng ngày. 4. Nhớ Việt Bắc kháng chiến, Việt Bắc anh hùng : - Nhịp thơ sôi nổi náo nức gợi lên khung cảnh những ngày kháng chiến chống Pháp thật hào hùng nó được vẽ bằng bút pháp tráng ca. - Hình ảnh Việt Bắc sôi động trong những ngày chuẩn bị kháng chiến để đi đến thắng lợi cuối cùng. - Đoạn cuối: khẳng định vị trí quan trọng của VB lòng tin của toàn dân đối với BH ,khẳng định tình cảm thủy chung đối với quê hương cách mạng. - Điệp từ nhớ: với những sắc thái khác nhau theo cấp độ tăng dần thể hiện tình cảm lưu luyến, nỗi nhớ da diết theo đó cũng được nâng cao. 5. Kết luận: Tiếng thơ trữ tình chính trị của Tố Hữu đã mượn đợc hình thức cấu tứ giã bạn, kết cấu theo lối đối đáp giao duyên và thể loại lục bát đậm đà tính dân tộc. Nhờ vậy Tố Hữu đã thơ hoá sự kiện chính trị một cách hiệu quả không ngờ. Những câu thơ cân xứng trầm bổng, ngọt ngào vừa thể hiện được tình cảm đối với cách mạng, vừa nói được vấn đề rất to lớn của thời đại, vừa chạm được vào chỗ sâu thẳm trong tâm hồn dân tộc: truyền thống ân nghĩa, thủy chung. Việt Bắc đã đạt tới tính dân tộc, tính đại chúng. Đó là sức sống trường tồn của bài thơ. Gợi ý giải bài tập. Bài tập 1 HS hoàn toàn tự do chọn một bài thơ của Tố Hữu mà bản thân yêu thích nhất. Nên chọn những bài đã học trong chương trình phổ thông, ví dụ: Khi con tu hú, Việt Bắc,... sau đó phân tích một đoạn tiêu biểu (theo hướng gợi dẫn đã học). Bài tập 2* Lời nhận xét của Xuân Diệu là sự đánh giá rất cao tâm hồn và tài năng của Tố Hữu. Thơ chính trị thường khô khan, rất đề biến thành lời kêu gọi, hô hào. Nhưng những vấn đề ấy lại được Tố Hữu viết như lời tâm sự chan chứa niềm tin yêu với đồng bào, đồng chí, tác động mạnh mẽ tới cảm nghĩ của người đọc, người nghe. Bài làm tham khảo:. Bộ tứ bình dệt bằng ánh sáng của hoài niệm: Việt Bắc là một trong những bài thơ hay nhất của Tố Hữu. Lời thơ như khúc hát ân tình tha thiết về Việt Bắc, quê hương của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ở đó, bên cạnh cách những bức tranh hùng tráng, đậm chất sử thi về cuộc sống đời thường gần gũi, thân thiết được bao bọc bởi thiên nhiên vô cùng tươi đẹp: Ta về, mình có nhớ ta Ta vê, ta nhớ những hoa cùng người. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. Đây là bức tranh được dệt bằng ngôn từ nghệ thuật toàn bích, có sự hoà quyện giữa cảnh và người, giữa cuộc đời thực với tấm lòng của nhà thơ cách mạng. Mười câu thơ trên nằm trong trường đoạn gồm 62 câu thơ diễn tả tâm tình của người.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> cán bộ sắp sửa rời Việt Bắc, nơi mình đã 15 năm gắn bó với bao tình cảm máu thịt. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu hỏi: Ta về, mình có nhớ ta Nhưng thực ra, hỏi chỉ để mà hỏi, hỏi để tạo thêm cái cớ để giải bày nỗi lòng của mình: Ta về, ta nhớ những hoa cùng người. Câu thơ có nhịp điệu êm ái nhờ những điệp từ tạo và các thanh bằng (6/8) như một lời ru, một câu hát không chỉ diễn tả tâm trạng tha thiết của nhân vật trữ tình. Đây còn là lời ngợi ca về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Trong ngôn ngữ Việt, hoa còn có ý nghĩa biểu trưng về thiên nhiên, về những gì tươi đẹp. Đặt hoa bên cạnh người là sự tôn vinh về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Vả lại, hoa và người hoà quyện, gắn bó với nhau. Nói tới thiên nhiên không thể nói đến con người và ngược lại, những con người ấy đã ở trong một thiên nhiên đẹp, gần gũi. Bốn câu thơ lục bát còn lại là một bức tranh liên hoàn về con người và thiên nhiên Việt Bắc. Nhiều người gọi đây là bộ tứ bình (xuân, hạ, thu, đông). Nhà thơ kế thừa nghệ thuật hội hoạ cổ truyền của dân tộc trong khi miêu tả thiên nhiên. Mỗi một câu thơ khắc hoạ một bức tranh cụ thể nhưng cũng có thể ghép lại thành một bộ liên hoàn: Bức tranh thứ nhất: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Câu thơ mở ra một không gian rộng lớn. Trên cái nền xanh bạt ngàn của rừng, nổi bật lên hình ảnh những bông hoa chuối đỏ tươi. Nghệ thuật điểm xuyết trong thơ cổ ( Cỏ non xanh rợn chân trời – cành lê trắng điểm một vài bông hoa; Nguyễn Du ) tỏ ra rất hữu hiệu. Giữa bạt ngàn xanh của núi rừng Việt Bắc, màu đỏ của hoa chuối bỗng gợi lên sự ấm áp, có sức lan toả. Vì thế, thiên nhiên hùng vĩ ấy không xa lạ; trái lại, gần gũi, thân thiết với con người: Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Cũng là cách điểm xuyết những hình ảnh điểm nổi rõ hơn cảnh. Hơn nữa, cách điểm xuyết ấy rất độc đáo: càng chọn điểm nhỏ nhất thì sức gợi càng lớn hơn. Vì thế, câu thơ có sự nhấp nháy (nắng ánh) của hình ảnh và cảnh vật vốn tĩnh lặng, thậm chí tịch mịch, bỗng có sức sống, sự chuyển động. Thơ ca là một nghê thuật của thời gian. Với những nghệ sĩ tài hoa đó, việc tạo dựng nên những lớp thời gian chồng lấp và không gian không bất động, bất biến mà ngang sức sống nhờ sự tái sinh của những lớp ngôn từ. Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi, Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng là một câu thơ như thế. Bức tranh thứ hai Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Khác bức tranh thứ nhất, bức tranh thơ thứ hai mở đầu có sự định vị về thời gian (Ngày xuân). Nhưng tự thân thời gian ấy cũng đã mở ra không gian: Ngày xuân mở nở trắng rừng Cách điệp âm (mơ/nở; trắng/rừng) cùng với hình ảnh của hoa mơ (màu trắng) tạo ra một không gian vừa rộng lớn, vừa có sự rộn ràng, náo nức của thiên nhiên. Nếu ở bức tranh thơ thứ nhất, nghệ thuật miêu tả của tác giả ở điểm xuyết, tìm hình ảnh gợi, sắc màu sáng (hoa đỏ, nắng ánh) để diễn tả sự chuyển động của cảnh vật thì ở đây, nhà thơ lại hướng cái nhìn vào sự bao quát điệp trùng để tìm cái rạo rực (tiềm ẩn) của thiên nhiên. Trên cái nền không gian rộng lớn và náo nức ấy, nhà thơ hướng mắt nhìn về một hoạt độnh có vẻ tỉ mỉ: …Người đan nón chuốt từng sợi giang. Nhiều người nói câu thơ ca ngợi “dáng điệu cần mẫn, cẩn trọng và tài hoa” trong “công việc thầm lặng” của người Việt Bắc (1). Có người nói “dưới ánh sáng của rừng mơ.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> mùa xuân, hình ảnh co gái Việt Bắc hiện lên thanh mảnh, dịu dàng” (2). Câu thơ có hình ảnh ấy. Con người Việt Bắc trong hoài niệm của Tố Hữu là như thế. Nhưng đó là hình ảnh thực. Trong chuỗi hoài niệm của tác giả, hình ảnh kia chỉ là một điểm gợi nhớ. Câu thơ gợi lên cách cảm, cách nhìn của tác giả hơn là tả thực. Đó là hình ảnh đặc trưng của sinh hoạt đời thường ở Việt Bắc. Với nhiều người, nó có thể nhỏ nhặt, không đáng nhớ. Với một nhà thơ ân tình như Tố Hữu, đó lại là hình ảnh khắc ghi trong tâm khảm. Bức tranh thứ ba Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. Câu thơ mở đầu bằng âm thanh ( ve kêu ), nhưng cũng là cách định vị bằng thời gian (mùa hè). Dòng thơ vừa có âm thanh rộn ràng, vừa có màu sắc đặc trưng của rừng Việt Bắc. Âm thanh và màu sắc ấy tạo nên cảnh tưng bừng của thiên nhiên. Nếu nói thiên nhiên cũng có đời sống riêng của nó thi đây quả thực là ngày hội của cảnh vật. Vì vậy, trong “ngày hội” ấy hình ảnh cô em gái hái măng một mình không lẻ loi mà góp phần tạo nên bức tranh thơ hoàn chỉnh: Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. Như đã nói, hoa và người Việt Bắc trong thơ Tố Hữu hoà quỵên, cùng tôn vinh lẫn nhau. Trong hoài niệm này, tác giả dùng bút lực của mình để ca ngợi, tôn vinh sự hài hoà đó. Và chính sự hài hoà đó đã tạo nên chất thơ. Vì thế, không nên suy diễn, giàu chất tượng trưng với những nét sinh hoạt, lao động của cuộc sống thực. Bức tranh thứ tư Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. Câu thơ có kiểu mở đầu bằng sự định vị cả không gian lẫn thời gian (rừng thu). Đến đây, ta chú ý các kiểu định vị ở những câu thơ trên: Rừng xanh => không gian Ngày xuân => thời gian Ve kêu => âm thanh ( thời gian ) Ứng với mỗi câu thơ và cách định vị trên là một mùa của thiên nhiên (mùa đông, mùa xuân, mùa hạ). Câu thơ này cũng là bức tranh về một mùa của thiên nhiên (mùa thu). Nhưng có lẽ vì đó là bức tranh cuối của bộ tứ bình và là tiếng hát cuối của một trường đoạn hoài niệm nên hình ảnh tất thảy đều trở nên tượng trưng, âm hưởng cũng bao quát hơn: Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung. Không gian mênh mông chẳng khác gì cảnh thu huyền ảo của thơ mới: Nai cao gót lẫn trong mù Xuống rừng nẻo thuộc nghìn thu mới về (Huy Cận) Trời thu nhuộm ánh tà dương Gió thu trong quãng canh trường nỉ non Trăng thu soi bóng cô thôn, Hỏi người lữ thứ mộng hồn về đâu? (Hằng Phương) Rừng thu Việt Bắc trong thơ Tố Hữu mênh mông nhưng không lạnh lẽo. “Trăng rọi hoà bình” vừa mang ý nghĩa ánh trăng của cuộc đời ân tình ấy, lại vừa mang ý nghĩa cuộc sống có sự soi rọi ấm áp của niềm tin, tự do. Và, trong cuộc sống ấm áp ấy, có biết bao nhiêu nghĩa tình sâu nặng. Thơ Tố Hữu là khúc hát của tự do, của ân tình cách mạng. Bản thân cuộc đời ân tình ấy, đối với nhà thơ, luôn là bài ca sâu nặng. Vì thế, nhà thơ không chỉ cảm, nghĩ về cuộc đời mà cất tiếng ca ngợi. Tiếng hát ân tình thuỷ chung trong bài thơ Việt Bắc là tiếng hát.

<span class='text_page_counter'>(22)</span> như thế. Bộ tứ bình bằng thơ về cảnh và người Việt Bắc được dệt dưới ánh sáng của hoài niệm da diết. Thông thường, nguời ta chỉ nhớ những gì mang ấn tượng nhất của quá khứ và thời gian càng lùi xa thì ấn tượng ấy càng trở nên tươi đẹp, huyền ảo hơn. Hàng loạt điệp từ nhớ ( 5 từ ) trong một khổ thơ như là sự nối dài của lòng hoài niệm không dứt. Việt Bắc là bài thơ hay của Tố Hữu. Ở đó, nhà thơ thể hiện sự tài hoa của mình trên nhiều phương diện của nghệ thuật sáng tạo thi ca. Sự tài hoa ấy được dẫn dắt của một điệu tâm hồn đầy tình nghĩa của nhà thơ. Đoạn thơ trên là một trong những đoạn thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc bởi kết tinh một nghệ thuật thơ ca vừa giàu tính dân tộc, vừa mang tính hiện đại trong một điệu tâm hồn say đắm. Bài làm tham khảo: Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu: Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Bài làm “Ôi! Nỗi nhớ,có bao giờ thế!”.Nỗi nhớ đi qua thời gian,vượt qua không gian.Nỗi nhớ thấm sâu lòng người…Và nỗi nhớ ấy cứ ray rứt,da diết trong tâm hồn người chiến sĩ cách mạng miền xuôi khi xa rồi Việt Bắc thân yêu-nơi đã từng nuôi nấng mình trong những ngày kháng chiến gian lao…. Ta về, mình có nhớ ta Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng. Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung. Trong cùng một đoạn thơ ngắn nhưng từ “ nhớ” đã được lặp lại năm lần.Nỗi nhớ xuyên suốt từ câu đầu đến câu cuối đoạn.Hai dòng đầu là lời khơi gợi, “nhắc khéo”:mình có nhớ ta không?Riêng ta,ta vẫn nhớ!Cách xưng hô gợi vẻ thân mật,tình cảm đậm đà tha thiết.Ta với mình tuy hai mà một,tuy một mà hai. Người ra đi nhớ những gì?Việt Bắc có gì để mà nhớ,để mà thương?Câu thơ đã trình bày rất rõ? Ta về, ta nhớ những hoa cùng người Núi rừng, phong cảnh Việt Bắc được ví như “ hoa”.Nó tươi thắm,rực rỡ và “thơm mát”.Trong bức tranh thiên nhiên ấy,hình ảnh con người hiện lên,giản dị,chân chất,mộc mạc mà cao đẹp vô cùng!Con người và thiên nhiên lồng vào nhau,gắn kết với nhau tạo nên cái phong thái riêng của Việt Bắc. Bốn mùa đất nước đi qua trong những câu thơ ngắn gọn bằng các hình ảnh,chi tiết.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> chắc lọc,đặc trưng.Mỗi mùa mang một hương vị độc đáo riêng. Mùa đông,rừng biếc xanh, điểm lên những bông hoa chuối “đỏ tươi” và ánh nắng vàng rực rỡ.Xuân đến, cả khu rừng bừng sáng bởi màu trắng của hoa mơ.Hè sang, có ve kêu và có “ rừng phách đổ vàng”.Và khi thu về,thiên nhiên được thắp sáng bởi màu vàng dìu dìu của ánh trăng.Đoạn thơ tràn ngập những màu sắc chói lọi, rực rỡ: xanh, đỏ, vàng, trắng…Những màu sắc ấy đập mạnh vào giác quan của người đọc.Tiếp xúc với những câu thơ của Tố Hữu,ta như được chiêm ngưỡng một bức tranh sinh động.Trong đó,những gam màu được sử dụng một cách hài hoà tự nhiên càng tôn thêm vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc. Thời gian vận hành nhịp nhàng trong những dòng thơ.Nó bước những bước rắn rỏi,vững chắc khiến ta chẳng thể thấy phút giao mùa.Thiên nhiên Việt Bắc còn được mô tả theo chiều dọc thời gian.Buổi sáng hoa “mơ nở trắng rừng”,trưa nắng vàng rực rỡ và khi đêm về,trăng dọi bàng bạc khắp nơi…Núi rừng Việt Bắc như một sinh thể đang biến đổi trong từng khoảnh khắc…. Và cái phong cảnh tuyệt vời,đáng yêu ấy càng trở nên hài hoà,nắng ấm,sinh động hẳn lên khi xuất hiện hình ảnh của con người.con người đang lồng vào thiên nhiên,như một đoá hoa đẹp nhất,có hương thơm ngào ngạt nhất.Mỗi câu thơ tả cảnh đi cặp với một câu thơ tả người.Cảnh và người đan xen vào nhau một cách hài hoà.Đây là những con người lao đông,gắn bó,hăng say với công việc.Kẻ “dao gài thắt lưng”,người “ đan nón”, “cô em gái hái măng một mình” và tiếng hát ân tình của ai đó vang lên giữa đêm rừng núi xôn xao…Hình ảnh con người là nét đẹp của thiên nhiên thêm rực rỡ.Chính họ đã thắp sáng thiên nhiên,làm cho thiên nhiên thêm rực rỡ.Chính họ đã gợi nên nỗi nhớ da diết cho người ra đi.Đọc đoạn thơ,ta có cảm nhận những vẻ đẹp bình dị mà trong sáng của tâm hồn người Việt Bắc.ở đó họ đối xử với nhau bằng tình nghĩa mặn mà,chân thật,bằng sự thuỷ chung “trước sau như một”.Họ đã nuôi chiến sĩ,nuôi cách mạng,nuôi cuộc kháng chiến của dân tộc….Những con người Việt Bắc tuy bình dị nhưng thật anh hùng. Khơi gợi hình ảnh thiên nhiên và con người nơi đây,Tố Hữu đã thể hiện một tình cảm tha thiết,ân tình sâu nặng và nỗi nhớ thương sâu sắc.Ta với mình,mình với ta đã từng: Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa,chăn sui đắp cùng. Đã từng san sẻ những ngọt bùi,gian nan vất vả như thế!Ta,mình làm sao có thể quên nhau được.Tình cảm mến thương ấy đã ăn sâu vào tâm hồn kẻ ở,người đi.Vì thế,khi ra đi,nhớ là nỗi niềm khắc đậm sâu trong tâm khảm,tình cảm của tác giả. Giọng thơ lục bát nhẹ nhàng mà sâu lắng.Cả khổ thơ ôm chứa niềm lạc quan,vui sống và tin tưởng vào cuộc sống.Nó mang âm điệu trữ tình,thể hiện tình yêu thiên nhiên, con người tha thiết và tấm lòng yêu nước thiết tha của Tố Hữu.Cuối đoạn thơ vang lên tiếng hát ngọt ngào khơi gợi bao kỉ niệm.Kỉ niệm ấy theo mãi dấu chân người đi và quấn quýt bên lòng kẻ ở lại…. Những câu thơ của Tố Hữu có tính khái quát cao so với toàn bài.Lời thơ giản dị mà trong sáng thể hiện niềm rung động thật sự trước vẻ đẹp của núi rừng và con người Việt Bắc.Nỗi nhớ trong thơ của Tố Hữu đã đi vào tâm hồn người đọc,như khúc dân ca ngọt ngào để lại trong lòng ta những tình cảm sâu lắng,dịu dàng…... Baøi 7. ĐẤT NƯỚC Trích “ Mặt đường khát vọng”. (Nguyeãn Khoa Ñieàm).

<span class='text_page_counter'>(24)</span> 2.Xuất xứ : Trích gần trọn chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Mục đích sáng tác : thức tỉnh tuổi trẻ ở thành thị miền Nam đứng về phía nhân dân, xuống đường đấu tranh chống giặc Mĩ xâm lược. 3.Chủ đề : Bài thơ là sự cảm nhận của tác giả về đất nước – một đất nước của ca dao, cổ tích, một đất nước với truyền thống lao động cần cù, đấu tranh anh dũng – đất nước của nhân dân. 4. Nhan đề : Đất nước  đề tài quen thuộc mang tính truyền thống . * Nét riêng :+ Đất nước Nguyễn Khoa Điềm được cảm nhận, phát hiện trong một cái nhìn tổng hợp toàn vẹn cả quá khứ và hiện tại  tương lai  đất nước của nhân dân . + Sử dụng phong phú các yếu tố văn hoá, văn học dân gian sáng tạo thích hợp . II. ĐỌC – HIỂU: I.Giới thiệu chung Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ chống Mỹ. Cũng như một số nhà thơ hàng đầu của thời kỳ này, Nguyễn Khoa Điềm tâm huyết với chủ đề lớn của thơ ca đương thời là “Đất nước”. Trường ca “Mặt đường khát vọng”, là thành công không chỉ riêng Nguyễn Khoa Điềm mà của cả nền thơ ca kháng chiến chống Mĩ trong việc chiếm lĩnh đề tài Tổ quốc. Ra đời 1974 trên chiến trờng Bình Trị Thiên khói lửa, Trường ca Mặt đường khát vọng đã thành công nhiệm vụ thức tỉnh tinh thần dân tộc của tuổi trẻ đô thị miền Nam, giúp thanh niên vùng địch tạm chiếm nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, hướng về nhân dân đất nước, ý thức được sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc. Đoạn trích “Đất nước” chiếm gần trọn vẹn chương V của bản trường ca. Đây là chương hay nhất tập trung những suy nghĩ cảm nhận mới mẻ về đất nước, đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi của tác phẩm: Đất nước là của nhân dân. II.Phân tích 1. Đề tài và cấu tứ Đất nước là chủ đề được quan tâm hàng đầu của nền Văn học Việt Nam - nền văn học của một dân tộc 4000 năm dựng nước cũng là 4000 năm giữ nước. Tư tưởng Đất nước của nhân dân thực ra đã manh nha từ trong lịch sử xa xưa... Những nhà tư tưởng lớn, những nhà văn lớn của dân tộc ta đã từng nhận thức sâu sắc vai trò của nhân dân trong lịch sử”: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” (Nguyễn Trãi) “Trăm việc nghĩa không việc nghĩa nào ngoài việc nghĩa vì nước. Trăm điều nhân không điều nhân nào ngoài điều nhân thương dân” Song phải đến nền văn học hiện đại Việt Nam, được soi sáng bằng tư tưởng Hồ Chí Minh, bằng quan điểm Mác xít về nhân dân, được trải nghiệm trong thực tiễn vĩ đại của cuộc cách mạng mang tính nhân dân sâu sắc, văn học từ sau cách mạng tháng Tám đã đạt đến sự nhận thức sâu sắc về nhân dân và cảm hứng về đất nước đã mang tính dân chủ cao. Đặc biệt giai đoạn chống Mỹ, tư tưởng đất nước của nhân dân một lần nữa lại được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và những đóng góp hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc kháng chiến dài lâu và cực kì ác liệt. Các nhà thơ trẻ thời chống Mĩ đã phát biểu một cách thấm thía cảm nhận mới mẻ về đất nước. Song tư tưởng Đất nước là của nhân dân có lẽ được kết tinh hơn cả trong trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm trong Trường ca Mặt đường khát vọng. Nguyễn Khoa Điềm đã kết hợp giữa chính luận và trữ tình để trình bày những cảm nhận và suy tưởng về Đất Nước dưới hình thức lời trò chuyện tâm tình giữa đôi lứa yêu nhau. Đất Nước được cảm nhận toàn vẹn từ nhiều bình diện: Trong chiều dài của thời gian lịch sử, trong bề rộng của không gian địa lý, trong tầm cao của đời sống văn hóa, phong tục, tâm hồn tính cách cha ông... Ba phương diện đó gắn bó với nhau làm nổi bật tư tưởng.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> cơ bản: Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Tư tưởng đó là hệ qui chiếu mọi xúc cảm suy tưởng của tác giả để từ đó nhà thơ có thêm những phát hiện mới làm phong phú sâu sắc hơn quan niệm về đất nước trong thơ ca chống Mĩ. 2.Cảm nhận mới mẻ về Đất Nước Hai chữ Đất nước trong toàn chương và trong đoạn trích được viết như một mĩ từ thể hiện tình cảm thiêng liêng sâu sắc của nhà thơ với đất nước và tạo nên nỗi xúc động thiêng liêng cho người đọc. Sự vỡ tách và nhập ghép 2 âm tiết: đất nước trong một phát hiện đượm phong vị triết học: “Đất là nơi anh đến trường... nồng thắm” Anh là đất - phù hợp với khí chất vững vàng kiên định, em là nước thật dịu dàng nữ tính. Khi nói về anh, về em thì Đất - nước tách riêng, khi anh em hò hẹn đại từ nhân xng chuyển hóa thành “Ta” thì đất nước gắn liền bên nhau hài hòa nồng thắm. Khi tách riêng ra thì “Đất là hòn núi bạc”, Nước là “Biển khơi”, khi hợp nhất lại “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Khi tách riêng ra “Đất là nơi chim về”, “Nước là nơi rồng ở” khi hợp nhất lại “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”. Nguyễn Khoa Điềm thể hiện đầy xúc động cảm nhận mới mẻ về đất nước: Đó là sự thống nhất giữa riêng và chung, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa thế hệ này với thế hệ khác. Đất nước không chỉ bên ta, quanh ta mà cả trong ta. Điệp ngữ Đất Nước vang lên như một khúc nhạc thiêng tấu lên suốt chiều dài đoạn thơ. Đất Nước là 2 tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành. Chúng kết hợp giao hòa để tạo nên có thể đất đai, dáng hình xứ sở, cứ thể đất nước lớn lên trong tình yêu đôi lứa, trong thời gian đằng đẵng. Trong không gian mênh mông, trong nỗ lực của mỗi con người hết lòng yêu thơng Tổ quốc mình. Đất nước chân thực như “búi tóc của mẹ, miếng trầu của bà” mà vô cùng huyền ảo với “chim về, rồng ở. Lạc Long Quân và Âu Cơ... Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm có khả năng đánh thức tình cảm cội nguồn trong đáy tâm linh Việt: “Hàng năm ăn đâu làm đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” Bằng những câu thơ cấu tạo như định nghĩa Nguyễn Khoa Điềm đã tổng kết lịch sử trong quá trình sinh thành đất nước, tạo nên địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy nghìn năm qua. Nhà thơ đã chỉ rõ chủ nhân chân chính của đất nước là nhân dân. Đằng sau mỗi tên đất tên sông là mỗi cuộc đời và kì tích cha ông. Chính nhân dân đã xây dựng mở mang và giữ gìn đất nước. Họ là những con người bình dị, vô danh: “Họ đã sống và đã chết Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên Nhưng họ đã làm ra Đất nước”. Đây là cảm quan lịch sử mới về vai trò của nhân dân dới ánh sáng của hệ tư tưởng mới: Nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Lần theo những địa danh suốt 3 miền Bắc, Trung, Nam, Nguyễn Khoa Điềm dã dựng nên diện mạo non sông dáng hình xứ sở qua cuộc đời con người: nhất là những con người bình thường, vô danh... Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một thành công trong dàn hợp xướng về đất nước của thơ ca thời chống Mĩ, làm sâu sắc thêm nhận thức về nhân dân và Đất nớc của Văn hóa thời kỳ này. 3.Chất liệu văn hóa dân gian góp phần thể hiện tư tưởng: đất nước của nhân dân. Thành công của đoạn trích còn ở việc tạo ra một không khí, giọng điệu không gian nghệ thuật riêng đưa ta vào thế giới gần gũi mĩ lệ và giàu sức bay bổng của ca dao truyền thống, của văn hóa dân gian, nhưng lại mới mẻ qua cảm nhận và tư duy hiện đại. Đoạn thơ mở đầu bằng những câu thơ bình dị vừa thân thiết gần gũi vừa huyền diệu thiêng liêng: “Khi ta lớn lên Đất nớc đã có rồi”. Nó tạo mối liên hệ máu thịt giữa mỗi con người với đất nước. Tình cảm mỗi con người đối với đất nước lớn lên theo năm tháng, sự trưởng thành của mỗi người làm đất nước thêm lớn mạnh. Từ không gian huyền thoại, thời gian cổ tích: “từ ngày xửa ngày xa” chuyển hóa nhanh chóng sang không gian đời thường, thời gian.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> hiện tại “Miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ bây giờ”. Sự co giãn trong từng câu thơ (ngắn, dài xen kẽ), cách mở rộng nghĩa trong trường liên tưởng, lối đối xứng xa nay để tương sinh, cái huyền ảo và đời thường đặt cạnh nhau mà không tương khắc khiến Đất nước được cảm nhận như sự thống nhất của các phương diện văn hóa, truyền thống phong tục, cái hàng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống của mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Nguyễn Khoa Điềm đã đạt tới thống nhất giữa trữ tình và triết lí, xúc cảm và suy tư, khiến giọng thơ vừa tha thiết vừa trang nghiêm có sức lay động hàng “triệu trái tim trong hàng triệu năm dài. Thành công của đoạn thơ mà còn ở chỗ Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng chất liệu văn hóa dân gian để làm nên chất kết dính các hình ảnh thơ của mình. Không chỉ sử dụng vẹn nguyên mà tác giả còn sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa dân gian lâu đời, cho chúng một sức sống mới, một ý nghĩa mới. Những câu thơ thấm đẫm chất dân gian truyền thống mà rất hiện đại. Những câu ca dao, tục ngữ, thành ngữ, truyền thuyết quen thuộc nhng khi đi vào bài thơ đã lấp lánh ánh sáng tài năng, tâm hồn tình cảm Nguyễn Khoa Điềm: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nối nhớ thầm” Đất nớc có trong tình yêu thương của mẹ cha trong khoảnh khắc bồi hồi thầm thương trộm nhớ của mỗi người. Chúng ta có thể bắt gặp trong đoạn trích rất nhiều những câu thơ đầy tính sáng tạo, làm nên những hình tượng thơ vừa gần gũi mới mẻ, vừa đẹp đẽ đến như thế. Sự đậm đặc của yếu tố dân gian và cách nhìn cách thể hiện mới mẻ đã tạo ra một bầu khí quyển độc đáo huyền ảo bao trùm suốt đoạn thơ với những câu thơ có khả năng ngân vang trong cõi tiềm thức và cả vô thức của người Việt. Ngày xưa khi định nghĩa về đất nước, Lý Thường Kiệt phải thiêng hóa qua “đế cư” “thiên thư” Nguyễn Đình Chiểu phải mượn hình ảnh kì vĩ “Nhật nguyệt chói lòa”, “xa thư đồ sộ” để trang trọng hóa đất nước. Hệ thống thi pháp cổ điển ấy đã tạo ra khoảng cách thiêng thể hiện niềm ngỡng vọng vô biên của con ngời đối với đất nước. Còn ở đây, trong trích đoạn “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm, ngôn từ đậm chất liệu văn hóa dân gian đã nỗ lực bình dị đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có công đưa đất nước từ trời cao thượng đế, ngai vàng đế vương xuống miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ, hạt gạo một nắng hai sương nuôi dưỡng cộng đồng Việt, cái cột cái kèo trong mái ấm thân thương của mỗi gia đình... Đất nước thân thương giản dị xiết bao. Sử dụng chất liệu văn hóa dân gian không còn là thủ pháp nghệ thuật mà là một khám phá mới mẻ sâu xa của tình yêu về hình tượng Đất nước. Văn hóa dân gian là của nhân dân... Chất liệu văn hóa dân gian trong ngôn ngữ và hình ảnh thơ đã tập trung thể hiện chủ đề của toàn tác phẩm: Đất nước này là đất nước của nhân dân. Tư tưởng đó là điểm qui tụ mọi cách nhìn về đất nước từ thắng cảnh thiên nhiên kì thú: Núi vọng phu, hòn trống mái... trong mối liên hệ máu thịt với đời sống dân tộc. Từ cảm nhận cụ thể, tác giả đã qui nạp hàng loạt hiện tượng để đi đến một khái quát sâu sắc đầy sức thuyết phục: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi /Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống của ông cha Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” Khi nghĩ về lịch sử 4000 của đất nước, tác giả không điểm lại các vương triều phong kiến, các anh hùng nổi tiếng mà nhấn mạnh công đức những con người bình dị vô danh: “Trong 4000 lớp người... ra đất nước” chính những người vô danh bình dị ấy đã giữ gìn và truyền lại cho đời sau bó đuốc truyền thống trong cuộc chạy tiếp sức giữa các thế hệ các giá trị văn hóa, văn minh tinh thần vật chất của Đất nước, dân tộc: Hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ, Nguyễn Khoa Điềm trở về với cội nguồn văn hóa dân gian để định nghĩa một cách bất ngờ . Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại Nguyễn Khoa Điềm sử dụng hai vế song song đồng đẳng nhân dân - ca dao thần thoại. Bằng cách đó đã định nghĩa đất nước là kết tinh cao quý nhất đời sống trí tuệ, tình cảm của nhân dân. Bởi vẻ đẹp tinh thần của nhân dân kết tinh hơn đâu hết là ở ca dao dân.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> ca, cổ tích. Câu thơ với 2 vế song song đồng đẳng đã khiến định nghĩa Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm vừa giản dị vừa huyền ảo. Tác giả chọn trong kho tàng dân gian 3 câu nói về 3 phương diện quan trọng nhất của Đất nước được tác giả cảm nhận và phát hiện trong cái nhìn tổng hợp toàn vẹn mang đậm tư tưởng truyền thống dân tộc: Rất say đắm trong tình yêu (yêu em). Rất quí trọng tình nghĩa (Quý công cầm vàng...) nhng cũng thật quyết liệt trong căm thù và chiến đấu (biết trống tre... lâu. 4.Trách nhiệm bổn phận của mỗi cá nhân đối với đất nớc: Đất nước không ở đâu xa mà kết tinh hóa thân trong cuộc sống mỗi con người: “Em ơi em Đất nước là máu xương của mình Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất nước muôn đời...” Đoạn thơ nh một lời nhắn nhủ thiết tha. Mở đầu bằng tiếng gọi tha thiết: Em ơi em ... khiến tính chính luận không mang màu sắc giáo huấn mà như một lời tự nhủ tự dặn chân thành: sự sống của mỗi cá nhân không phải là chỉ riêng của cá nhân mà còn là của đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần vật chất của dân tộc, mỗi cá nhân phải có trách nhiệm gìn giữ, phát triển nó, truyền lại cho các thế hệ tiếp theo. Trách nhiệm của mỗi cá nhân không chỉ là bổn phận bảo vệ biên cương địa giới, tiếp nối truyền thống lịch sử, mà còn ở việc bảo lưu văn hóa phong tục, giữ gìn nét đẹp tâm hồn tính cách dân tộc. Quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử luôn hiện diện với hôm nay, trong miếng trầu của bà, búi tóc của mẹ là cả truyền thống 4000 năm tuổi. Hạt gạo một nắng hai sương hôm nay cũng là những hạt gạo nuôi dưỡng dân tộc Việt 4000 năm qua. Trách nhiệm của mỗi người đối với đất nước trong hiện tại là sự trân trọng đối với quá khứ là xây dựng nền tảng cho tương lai, làm nên huyết mạch nuôi dưỡng có thể đất đai, tạo sức sống trường cửu của dân tộc. Có lẽ trong thơ ca chưa có ai nói một cách chân thành, xúc động và thấm thía đến thế về trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với dân tộc đất nớc nh Nguyễn Khoa Điềm trong trích đoạn “Đất nớc” này: Đất nớc không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, sự sống của mỗi con người. Sự sống của mỗi cá nhân chỉ có ý nghĩa trong sự trường tồn của đất nớc. III.Kết luận Đất nước là đề tài, cảm hứng chủ đạo của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Mỗi nhà thơ lại có cảm nhận riêng về Đất nước nhưng tất cả đều xuất phát từ tấm lòng chung đó là tình yêu thiết tha với quê hương đất nước. Từ thực tiễn của cuộc kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm nhận thức sâu sắc vai trò và sự đóng góp to lớn, những hi sinh vô vàn của nhân dân trong cuộc chiến tranh dài lâu và cực kì ác liệt này. Tư tưởng đất nước của nhân dân từ trong văn học truyền thống đã được Nguyễn Khoa Điềm phát triển đến đỉnh cao, mang tính dân chủ sâu sắc. Chất liệu văn hóa dân gian được nhà thơ sử dụng nhuần nhuyễn, biến ảo đầy sáng tạo chính là nét đặc sắc thẩm mĩ thống nhất với tư tưởng “đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” của bài thơ. Như vậy tác giả đã vượt qua tính thời sự của một thời để nói lên tiếng nói của muôn đời . Đề 1. Phân tích và phát biểu cảm nghĩ của mình về đoạn sau: Trong anh và em hôm nay Đều có một phần đất nước….. ……Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời... Trong phần đầu của đoạn thơ, tác giả đã cảm nhận về đất nước một cách trọn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện: thời gian lịch sử và không gian địa lý, huyền thoại, truyền thuyết và đời sống sinh hoạt hàng ngày của mỗi gia đình. Đất nước được cảm nhận vừa thiêng liêng, sâu xa lại vừa gần gũi thân thiết. Những dòng thơ ở cuối phần là một sự cảm nhận sâu sắc và phát hiện mới mẻ của tác giả về đất nước trong sự sống, tình yêu, trong vận mệnh và trách nhiệm của mỗi cá nhân..

<span class='text_page_counter'>(28)</span> Trong anh và em hôm nay Đều có một phần đất nước. Đất nước không chỉ là núi sông, rừng, biển, không chỉ là lịch sử dựng nước và giữ nước mà Đất nước còn được kết tinh và tồn tại trong sự sống của mỗi cá nhân, mỗi chúng ta hôm nay. Quả vậy, sự sinh thành của mỗi cá nhân đều có cội nguồn sâu xa từ dân tộc và đợc thừa hưởng thành quả vật chất và tinh thần do bao thế hệ tạo dựng lên. Nhưng sự sống của mỗi cá nhân chỉ có thể tồn tại và có ý nghĩa trong sự hài hòa với những cá nhân khác và toàn thể cộng đồng: Khi hai đứa cầm tay ….. Đất nước vẹn toàn to lớn. Đất nước được trường tồn qua sự tiếp nối của các thế hệ và các thế hệ mai sau sẽ đưa đất nước tới sự phát triển xa hơn, đến “Những tháng ngày mơ mộng”. Những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện một chân lí giản dị mà sâu sắc về đất nước. Đất nước không chỉ là một khách thể ở ngoài mỗi chúng ta mà tồn tại ngay trong cơ thể, trong sự sống mỗi người. Đất nước trở nên hết sức thiêng liêng mà gần gũi với mỗi người. Chân lí ấy một lần nữa được tác giả nhắc lại như lời nhắn nhủ tha thiết “Em ơi em, đất nước là máu xương của mình”. Từ đó dẫn đến lời nhắc nhở về trách nhiệm thiêng liêng của mỗi người với đất nước. “Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên đất nước muôn đời”. Đề 2. Vì sao có thể nói tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã qui tụ mọi cách nhìn và đưa đến những phát hiện độc đáo của tác giả về đất nước ? Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã được tác giả phát biểu trực tiếp trong phần hai của đoạn thơ “Đất nước” nhưng đó cũng chính là tư tưởng bao trùm, là điểm xuất phát và nơi quy tụ mọi cảm xúc và phát hiện của tác giả về đất nước trong đoạn thơ. Đất nước được cảm nhận trong chiều rộng của không gian, trong vẻ đẹp và sự phong phú của núi sông với những thắng cảnh kì thú. Nhưng điều quan trọng là tác giả đã phát hiện ra sự gắn bó sâu xa, mật thiết của thiên nhiên đất nước với cuộc sống và số phận của nhân dân, của vô vàn những con người bình dị: Những người vợ nhớ chồng góp cho đất nước những núi Vọng phu Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống mái... Người học trò nghèo góp cho đất nước mình núi Bút non Nghiên. Nhìn vào thiên nhiên đất nước, nhà thơ đã “đọc” được tâm hồn, những ước vọng và sự gửi gắm của bao thế hệ con người. Từ đó tác giả cảm nhận được một chân lí hiển nhiên và sâu xa: Ôi đất nước, sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy, Những cuộc đời đã hóa núi sông ta Khi nói về lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc tác giả không nêu các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà mọi người đều nhớ, mà trước hết nhắc đến vô vàn những con người bình thờng, vô danh, những người “không ai nhớ mặt đặt tên, họ đã sống và chết, giản dị, bình tâm. Nhng chính họ đã làm ra đất nước”. Đất nước còn được cảm nhận trong chiều sâu của văn hóa, lối sống, phong tục, của tâm hồn và tính cách dân tộc. Để nói về những phơng diện đó, Nguyễn Khoa Điềm cũng lại tìm về với nguồn phong phú của văn hóa dân gian. Nhân dân không chỉ là ngư ời sáng tạo lịch sử, tạo dựng nên các giá trị vật chất mà còn là người sáng tạo và lưu truyền các giá trị văn hóa, tinh thần của dân tộc. Họ đã “truyền lửa qua mỗi ngôi nhà, truyền giọng điệu mình cho con tập nói”. Còn vẻ đẹp tâm hồn dân tộc đã được kết đọng trong kho tàng phong phú, mĩ lệ của ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết và cổ tích. Bởi vậy Nguyễn Khoa Điềm đã rất có lí khi nêu một định nghĩa “Đất nước của ca dao thần thoại” tiếp liền sau mệnh đề “Đất nước của nhân dân”. Đề 3. Đoạn thơ có sử dụng nhiều chất liệu của văn học dân gian. Hãy nêu một số ví dụ cụ thể và nhận xét về cách sử dụng chất liệu dân gian của tác giả..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Đoạn thơ đã sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian trong đó có văn học dân gian. Từ các truyền thuyết vào loại xa xưa nhất của dân tộc ta như Lạc Long Quân và Âu Cơ, Thánh Gióng, Hùng Vơng đến truyện cổ tích, nh Trầu Cau, đặc biệt là nhiều câu ca dao, dân ca, của nhiều miền đất nước: Ví dụ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” Là từ câu ca dao: Tay bưng chén muối đĩa gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau “Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi” gợi nhớ đến câu ca dao: “Yêu em từ thuở trong nôi Em nằm em khóc anh ngồi anh ru” “Biết quí trọng công cầm vàng những ngày lặn lội” là được rút từ câu ca dao: Cầm vàng mà lội qua sông Vàng rơi chẳng tiếc, tiếc công cầm vàng. Chất liệu văn học dân gian đã được tác giả sử dụng vào đoạn thơ một cách linh hoạt và sáng tạo. Không lặp lại hoàn toàn các câu ca dao, dân ca, nhà thơ th ờng chỉ dùng một hình ảnh hoặc một phần của các câu ca đó để đa vào tạo nên câu thơ của mình. Các truyền thuyết và truyện cổ tích cũng được sử dụng theo cách gợi nhắc tới bằng một hình ảnh hoặc tên gọi. Tác giả vừa đa người đọc nhập cả vào môi trường văn hóa, văn học dân gian đồng thời lại thể hiện được sự đánh giá, cảm nhận được phát hiện của tác giả về kho tàng văn hoá tinh thần ấy của dân tộc. Baøi 8. SOÙNG. (Xuaân Quyønh). Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Thơ chị là tiếng lòng của một tâm hồn tơi trẻ, luôn khát khao tình yêu, “nâng niu chi chút” từng hạnh phúc bình dị đời thường. Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Xuân Quỳnh xứng đáng được gọi là nhà thơ tình yêu. Chị viết nhiều, viết hay về tình yêu trong đó “Sóng” là một bài thơ đặc sắc. Đặc điểm nổi bật trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là chị vừa khát khao một tình yêu lý tưởng và hướng tới một hạnh phúc bình dị thiết thực: “Đến Xuân Quỳnh, thơ hiện đại Việt Nam mới có một tiếng nói bày tỏ trực tiếp những khát khao tình yêu vừa hồn nhiên chân thực, vừa mãnh liệt sôi nổi của một trái tim phụ nữ. “Sóng” là bài thơ đã kết tinh những gì sở trường của hồn thơ Xuân Quỳnh. Nhưng thành công đáng kể nhất là Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để diễn tả những cảm xúc vừa phong phú phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. B. Kiến thức cơ bản: 1. Xuất xứ: - “Sóng” (được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”- 1968) là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ của Xuân Quỳnh. Bài thơ bộc lộ một khát vọng vừa hồn nhiên, chân thật vừa da diết, sôi nổi về tình yêu mãnh liệt rộng lớn và vĩnh hằng của trái tim người phụ nữ. 2. Ý nghĩa hình tượng sóng: - “Sóng” là hiện tượng ẩn dụ của tâm trạng người phụ nữ đang yêu. Sóng là một sự hòa nhập và phân tán của nhân vật trữ tình “ em”. Nhà thơ đã sáng tạo hình tượng sóng khá độc đáo nhằm thể hiện những cung bậc tình cảm và tâm trạng của người phụ nữ đang yêu. - Cả bài thơ được kiến tạo bằng thể thơ 5 chữ với một âm hưởng đều đặn, luân phiên như nhịp vỗ của sóng. 3. Trạng thái tâm lý đặc biệt của người phụ nữ đang yêu (khổ 1+2): - Sóng được nhà thơ hình tượng hóa, thể hiện những trạng thái tâm lý đặc biệt của người phụ nữ đang yêu:.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ - Sóng thể hiện khát vọng vươn tới, tìm kiếm trong tình yêu của người phụ nữ: Sóng không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể - Đối diện với biển, nhà thơ liên tưởng đến sự bất diệt của khát vọng tình yêu. Biển muôn đời cồn cào xáo động, như tình yêu muôn đời vẫn “bồi hồi trong ngực trẻ” (Ôi con sóng ngày xưa. Và ngày sau vẫn thế. Nỗi khát vọng tình yêu. Bồi hồi trong ngực trẻ). - Người con gái trong bài thơ muốn cắt nghĩa nguồn gốc của sóng để tìm lời giải đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình: Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Nhưng tình yêu muôn đời vẫn là điều bí ẩn, không dễ cắt nghĩa. Xuân Quỳnh thú nhận sự bất lực ấy một cách rất dễ thương: “Em cũng không biết nữa. Khi nào ta yêu nhau”. 4. Nỗi nhớ trong tình yêu (khổ 5): - Người con gái đang yêu nhờ sóng diễn tả nỗi nhớ trong lòng mình: Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được - Nhân vật em còn trực tiếp diễn tả nỗi nhớ da diết của mình: “Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức”. => Nỗi nhớ dâng trào, tràn ngập trong không gian và thời gian, nỗi nhớ hiện về trong ý thức và trong tiềm thức. 5. Sự thủy chung (khổ 6+7): - Hình tượng sóng còn là sự biểu hiện của một tình yêu thiết tha, bền chặt, thủy chung của người phụ nữ: Dẫu xuôi về phương bắc Dẫu ngược về phương nam Nơi nào em cũng nghĩ Hướng về anh - một phương - Hình tượng sóng là minh chứng cho một tình yêu chân chính, một tình yêu vượt qua mọi cách trở để đến bên nhau vớimột niềm tin mãnh liệt: Ở ngoài kia đại dương Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở. 6. Khát vọng tình yêu vĩnh hằng: (khổ 8+9): - Người con gái khi yêu cũng bộc lộ một thoáng lo âu: Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Như biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa. - Nhà thơ ý thức được sự hữu hạn của đời người và sự mong manh của hạnh phúc nên có khát vọng hóa thân vào sóng để được trường tồn, bất diệt: Làm sao tan được ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> Để ngàn năm còn vỗ C. Kết luận: - Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là tiếng nói trái tim của những con người đang yêu, biết yêu và biết giữ mãi tình yêu cao đẹp của mình. - Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn duyên dáng vừa ý nhị sâu xa, mãnh liệt mà hồn nhiên, sôi nổi mà đằm thắm. Sau này nếm trải nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh còn phơi phới bốc men say nhng khát vọng tình yêu luôn khắc khoải trong trái tim nữ thi sĩ. Trái tim “mãi yêu anh” ngay cả khi ngừng đập, bởi cái chết có thể kết thúc một cuộc đời chứ không thể kết thúc một tình yêu. IV. Luyeän taäp: Có thể dẫn ra những câu thơ như: “Sóng tình dường đã xiêu xiêu – Xem trong âu yếm có chiều là lơi” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, “Anh xa cách em như đất liễn xa cách bể - Nửa đêm sâu nằm lắng sóng phương em” trong bài thơ Chùm nhỏ thơ yêu của Chế Lan Viên; các bài thơ Biển của Xuân Diệu, Thơ viết ở biển của Hữu Thỉnh,... Baøi 9. ĐAØN GHI TA CỦA. (Thanh Thaûo). I.TÌM HIỂU CHUNG: 1.Tác giả: + Tên khai sinh: Hồ Thành Công, sinh năm 1946. + Quê: Mộ Đức, Quảng Ngãi. + Sự nghiệp văn chương: Có các sáng tác hay và độc đáo về chiến tranh và thời hậu chiến. -Các tác phẩm: Những người đi tới biển ( 1977), Khối vuông Ru-bích ( 1985), Những ngọn sóng mặt trời(1994- Trường ca), Cỏ vẫn mọc( 2002-Trường ca)… Những năm gần đây: viết báo, tiểu luận phê bình. Đóng góp quan trọng nhất vẫn là thơ ca. + Đặc điểm thơ: Là tiếng nói của người tri thức nhiều suy tư trăn trở về cuộc sống. Ông luôn tìm tòi ,khám phá, sáng tạo cách biểu đạt mới qua hình thức câu thơ tự do, đem đến một mĩ cảm hiện đại cho thơ bằng thi ảnh và ngôn từ mới mẻ. Thơ Thanh Thảo viết về đề tài nào cũng đậm chất triết lí. Mạch trữ tình trong thơ ông đều hướng tới những vẻ đẹp của nhân cách: nhân ái, bao dung, can đảm, trung thực và yêu tự do.Thơ ông dành mối quan tâm đặc biệt cho những con người sống có nghĩa khí như: Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Ê-xê- nhin,Lor-ca... 2.Tác phẩm: “ Đàn ghi ta của Lor-ca”. a.Xuất xứ: + Rút trong tập “ Khối vuông Ru- bích” + Là tác phẩm tiêu biểu cho tư duy thơ Thanh Thảo: giàu suy tư, mãnh liệt và phóng túng, ít nhiều nhuốm màu sắc tượng trưng và siêu thực. c.Chủ đề: Bài thơ miêu tả Lor-ca, một nghệ sĩ tự do có lí tưởng cách tân về nghệ thuật, sống cô đơn trong khung cảnh chính trị Tây Ban nha và cái chết oan khuất của ông do thế lực tàn ác gây ra. Đồng thời thể hiện niềm xót thương của tác giả và những suy tư về cuộc giải thoát và giã từ của Lor- ca. II.ĐỌC- HIỂU VĂN BẢN: 1.Hình ảnh Lor-ca, con người tự do, nghệ sĩ cách tân trong khung cảnh chính trị và nghệ thuật Tây Ban Nha: *Lor- ca được miêu tả trên cái nền rộng lớn của văn hóa Tây Ban Nha:.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Áo choàng đỏ gay gắt: hình ảnh này nhắc tới môn đấu bò tót, một sinh hoạt văn hóa khiến Tây Ban Nha nổi tiếng toàn thế giới. - Vầng trăng - Yên ngựa. - Cô gái Di- gan. - Mô phỏng nốt nhạc ghi ta “ li-la-li-la-li-la” Tất cả làm nổi bật không gian văn hóa Taây Ban Nha. -Hình ảnh tấm áo choàng đỏ gắt giúp ta liên tưởng đến khung cảnh của một đấu trường.Đây không phải trận đấu giữa bò tót và võ sĩ mà là đấu trường quyết liệt giữa công dân Lor-ca cùng khát vọng dân chủ với nền chính trị độc tài, giữa nền nghệ thuật già nua Taây Ban Nha với nghệ thuật cách tân của Lor-ca. => Hình tượng Lor- ca nổi bật trên nền văn hóa đó, làm rõ Lor-ca là con người tự do, là ca sĩ dân gian. Đó là một ca sĩ đơn độc lang thang hát nghêu ngao cùng tiếng đàn bọt nước cùng với Vầng trăng chuếnh choáng, Trên yên ngựa mỏi mòn.Anh đã dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và khát vọng yêu thương của nhân dân mình. 2.Cái chết oan khuất của Lor- ca: - Đấy là khi Lor-ca bị bọn phát xít Prăng-cô giết và ném xác xuống giếng để phi tang. Để miêu tả sự việc bi phẫn này, tác giả sử dụng nhiều hình ảnh thực kết hợp với các biện pháp nghệ thuật như: *Đối lập: + Tự do của người nghệ sĩ >< Thế lực tàn bạo của phát xít. + Tiếng hát yêu đời, vô tư >< Hiện thực phũ phàng đến kinh hoàng (áo choàng bê bết máu). + Tình yêu, cái đẹp >< Hành động tàn ác, dã man. *Nhân cách hóa: Tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy => Tạo sức ám ảnh lớn đối với người đọc. *Hoán dụ: + Tiếng hát để chỉ Lor- ca. + Tấm áo choàng bê bết đỏ để chỉ cái chết. *So sánh chuyển đổi cảm giác: Tiếng ghi ta nâu, tiếng ghi ta lá xanh, tiếng ghi ta tròn => Mỗi so sánh này cũng làm nổi bật tình yêu, cái đẹp, cái chết, nỗi đau trong tư tưởng, khát vọng tình cảm của Lor- ca. Cái chết oan khuất của Lor- ca gây lòng căm thù với bọn phát xít và sự thương cảm sâu sắc đối với người nghệ sĩ dân gian. 3.Nỗi xót thương và suy tư về cuộc giã từ của Lor- ca: -Nỗi niềm xót thương Lor- ca được chuyển hóa thành niềm tin về sự bất tử của tiếng đàn Lor- ca: không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mộc hoang. + Tiếng đàn tượng trưng cho nghệ thuật của Lor-ca. Đó là cái đẹp mà sự tàn ác không thể hủy diệt nổi. Nó sẽ sống, lưu truyền mãi như thứ cỏ dại mọc hoang. + Tiếng đàn còn là nỗi xót thương của mọi người trước cái chết của một thiên tài. =>Nhà thơ Thanh Thảo đã thật sự cảm thông đến tận cùng với Lor- ca. Nghệ sĩ Lor- ca ra đi bất ngờ khiến hành trình cách tân nghệ thuật của ông bị dang dở và con đường ông đã đi qua không ai thực sự hiểu .Lor- ca đã dặn ”Khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn ghi ta”, lời dặn đó thể hiện nhân cách nghệ sĩ ,tình yêu say đắm với nghệ thuật và tình yêu tha thiết với đất nước Tây Ban Nha của Lor- ca.Lor- ca cho rằng cần phải biết chôn nghệ thuật của ông để thi ca đó không trở thành vật án ngữ,cản trở sư sáng tạo nghệ thuật giúp nghệ thuật đi tới, vươn cao hơn. 4.Tiếng đàn trong bài thơ: Chuỗi âm thanh “ Li-la-li-la-li-la”luyến láy sau hai câu đầu như khúc dạo đầu Và chuỗi âm thanh ấy còn được dùng để kết thúc bài thơ như nốt nhạc cuối của bản nhạc.

<span class='text_page_counter'>(33)</span> mang ý nghĩa của sự tri âm và kính trọng đối với người nhạc sĩ, nhà thơ Tây Ban Nha Phê-đê-ri-cô Ga-xi-a Lor-ca. III.TỔNG KẾT: 1.Nghệ thuật: + Thể thơ tự do, không dấu câu, không dấu hiệu mở đầu, kết thúc. + Sử dụng hình ảnh, biểu tượng- siêu thực có sức chứa lớn về nội dung. +Tạo màu sắc Tây Ban Nha rất đậm nét trong bài thơ. +Kết hợp hai yếu tố thơ và nhạc. 2.Nội dung: Qua bài thơ, tác giả thể hiện nỗi đau và sự xúc động sâu sắc trước cái chết bi thảm của Lor-ca - một nghệ sĩ khao khát tự do, dân chủ , luôn mong muốn sự cách tân nghệ thuật và nghệ thuật phải luôn đi tới không ngừng. Tình yêu con người, tình yêu nghệ thuật và khát vọng tự do mà Lor- ca hằng ôm ấp là cái đẹp mà sự tàn ác không thể nào hủy diệt được. Gợi ý giải bài tập. Để hiểu được ý thơ, cần đọc kĩ lời đề từ dưới nhan đề bài thơ. Sau đó, tìm câu trả lời cho câu hỏi: Vì sao tác giả lại viết: “không ai chôn cất tiếng đàn - tiếng đàn như cỏ mọc hoang”. Ý thơ trên mở ra nhiều hướng diễn dịch: + Là nỗi xót thương cái chết của một thiên tài; + Là nỗi xót tiếc hành trình cách tân dang dở không chỉ với bản thân Lor-ca mà còn với nền văn chương Tây Ban Nha. Bởi lẽ, nhà cách tân Lor-ca đã chết, nghệ thuật vắng thiếu người dẫn đường. Nghệ thuật thành thứ cỏ mọc hoang? + Nỗi xót đau trước cái chết của Lor-ca và trước sự đang dở của một khát vọng cách tân đọng lại thành những hình ảnh đẹp và buồn được viết theo lối sáp đặt, dựa trên nguyên lí cốt lõi của cấu trúc gián đoạn: giọt nước mắt vầng trăng - long lanh trong đáy giếng,... do đó, tạo lập một hệ hình ảnh trùng phức, giao thoa, ánh xạ vào nhau gợi những suy tư đa chiều... Bài làm tham khảo: Đàn ghi ta của Lorca" (Thanh Thảo) Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo - một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lor-ca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp. Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc : những tiếng đàn bọt nước Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt li-la li-la li-la đi lang thang về miền đơn độc với vầng trăng chếnh choáng trên yên ngựa mỏi mòn ... tiếng ghi ta nâu bầu trời cô gái ấy tiếng ghi ta lá xanh biết mấy tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy ? - Trước hết là nhờ "đàn ghi ta của Lor-ca". Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tấu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi u tối, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,... Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là "một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" do người ả-rập dựng nên. ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta - âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc, không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài Đàn ghi ta)... Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lẩy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vốn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca - người mê dân ca, "chàng hát rong thời trung cổ", "con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đối với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng "song trùng" với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca trước cuộc sống, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn cả là số phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muốn làm sống dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sống tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muốn hợp nhất vào đây một "văn bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu 1936 - cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu Âu yêu quý : Tây Ban Nha hát nghêu ngao bỗng kinh hoàng áo choàng bê bết đỏ Lor-ca bị điệu về bãi bắn chàng đi như người mộng du ... tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lối cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có một cấu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor-ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ những tiếng đàn bọt nước ở đầu bài nếu được nối kết với các câu thơ khác là tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan và tiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy, sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động.

<span class='text_page_counter'>(35)</span> của tiếng đàn. Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó, tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sống muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị - xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau : áo choàng bê bết đỏ - tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết hát nghêu ngao niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi bị điệu về bãi bắn một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ chàng đi như người mộng du có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này). Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vốn là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a) như hình ảnh người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sống. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số phận đầy bất trắc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong văn học, nghệ thuật phương Tây chăng ? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ ?... Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng ! ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sống kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vốn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sống của các nghệ sĩ : không ai chôn cất tiếng đàn tiếng đàn như cỏ mọc hoang giọt nước mắt vầng trăng long lanh đáy giếng đường chỉ tay đã đứt dòng sông rộng vô cùng Lor-ca bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc chàng ném lá bùa cô gái Di-gan.

<span class='text_page_counter'>(36)</span> vào xoáy nước chàng ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt li-la li-la li-la... Câu thơ không ai chôn cất tiếng đàn có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ - lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Không, ở đây không có thao tác đối lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ "chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khốc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực ?) gần Gra-na-đa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vô cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở - đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng dồn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí : không ai chôn cất tiếng đàn và dù muốn chôn cũng không được ! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thía chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy cỏ mọc hoang đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt không ai chôn cất chứ không phải là không ai chôn được ! Đến lượt độc giả, giọt nước mắt vầng trăng cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết. Từ câu đường chỉ tay đã đứt đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng lô gích tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo lô gích tồn tại của chính cuộc đời : tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bộc phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,... Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đối tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và dăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại... Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Frăng-cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn nghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang" (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như đã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đối với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi đường chỉ tay đã đứt (đường chỉ tay như dấu ấn của số mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuối làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của Hàn Mặc Tử) vào xoáy nước hư vô, như ném.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> trái tim mình vào lặng yên bất chợt - cái lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lấy thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ chàng đi như người mộng du ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lorca vẫn sống như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chết, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người ! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo[1] !... Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết ? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tin và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư ? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên : li-la li-la li-la... Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc - cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan - để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn ghi ta của Lor-ca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muốn thể hiện mối đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca -. cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch Baøi 10. NGƯỜI LÁI ĐÒ (Nguyeãn Tuaân). Giới thiệu : 1.Xuất xứ:Trích tập tùy bút “Sông Đà” (1960) Tác phẩm là kết quả chuyến đi thực tế của tác giả năm 1958 ở Tây Bắc . Năm 1960 miền Bắc hàn gắn vết thương chiến tranh và có nhiều khởi sắc trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, chinh phục thiên nhiên. 2.Chủ đề: Qua miêu tả sông Đà và người lái đò trên sông Đà, tác phẩm thể hiện tình yêu thiên nhiên đất nước, lòng khâm phục và yêu mến người lao động của Nguyễn Tuaân II. Đọc – hiểu :.

<span class='text_page_counter'>(38)</span> 1. H×nh ¶nh s«ng §µ a) S«ng §µ "hung b¹o" + s«ng §µ hiÓm trë, d÷ déi, víi nh÷ng ®o¹n bê s«ng dùng thµnh v¸ch cao vót, nh÷ng thác nớc hung dữ, "nớc xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt n¨m", "s½n sµng quËt ngöa bông nh÷ng thuyÒn ®i qua", víi nh÷ng ót níc "s©u nh lßng giếng, nớc xoáy tít ằng ặc có thể lôi tuột những bè gỗ lớn xuống tận đáy và đánh cho tan x¸c",… + Nguyễn Tuân đã dùng ngòi bút tinh tế để miêu tả hàng loạt những hình ảnh khác nhau võa cã tÝnh trÝ tuÖ võa cã tÝnh t¹o h×nh vît xa nh÷ng thñ ph¸p nh©n hãa th«ng thêng. C¸i dữ dội của sông Đà trở nên môi trờng anh hùng ca hoàn toàn độc đáo. Có lúc nhà văn dùng kĩ thuật điện ảnh để miêu tả hết sức tài hoa. - Sự hung tợn độc dữ của con sông thực ra cũng chỉ là biểu hiện của một nét đẹp thiên nhiªn T©y B¾c kú vÜ, d÷ tîn. Thiªn nhiªn Êy qu¶ lµ cã søc hÊp dÉn lín víi NguyÔn Tu©n, mét nhµ v¨n lu«n ®i s©u t×m nh÷ng c¶m gi¸c míi l¹, m·nh liÖt, nh÷ng phong c¶nh cùc kú d÷ déi. Miªu t¶ mét thiªn nhiªn nh vËy, NguyÔn Tu©n cã ®iÒu kiÖn t«n vinh, ngîi ca sù trÝ dòng phi thêng cña con ngêi. Tr×nh tù miªu t¶ tõ thîng nguån vÒ phÝa h¹ lu b»ng nh÷ng gãc nh×n ®a chiÒu. b) S«ng §µ "tr÷ t×nh" + Sông Đà cũng là con sông đạt đến mức trữ tình tuyệt vời. Dới con mắt khám phá sự vật ë ph¬ng diÖn mÜ thuËt, NguyÔn Tu©n nh×n dßng s«ng §µ nh mét c«ng tr×nh nghÖ thuËt thiªn t¹o tuyÖt vêi. S«ng §µ nh mét "¸ng tãc tr÷ t×nh tu«n dµi mµ ®Çu tãc, ch©n tãc Èn hiÖn trong m©y trêi T©y B¾c bung në hoa ban, hoa g¹o". NguyÔn Tu©n nh×n dßng s«ng §µ và truyền cho độc giả nhìn nó qua làn mây mùa xuân, ánh nắng mùa thu, chăm chú theo dõi những biến đổi sắc màu của nó khi thì "xanh màu ngọc bích", khi thì "lừ lừ chín đỏ". Ông phát hiện ra sự phong phú của chất thơ ở vẻ đẹp sông Đà lúc nh "nỗi niềm cổ tích", lóc "lãe s¸ng ¸nh s¸ng th¸ng ba §êng thi", lóc nh "ngêi t×nh nh©n cha quen biÕt",… + Vẻ đẹp màu nớc sông Đà cũng mang một nét riêng hết sức cá tính: “màu xuân màu xanh ngọc bích”, mùa thu “lừ lừ chín đỏ” cách gọi tên màu sắc con sông của Nguyễn Tu©n qu¶ lµ thËt chÝnh x¸c, Ên tîng. cã lÏ NguyÔn Tu©n yªu s«ng §µ bëi mµu níc cña nã: trong ra trong, đục ra đục chứ không lờ lờ canh hến nh ở những con sông khác. + S«ng §µ gîi c¶m : - Con s«ng nh mét cè nh©n gÇn gòi, th©n thiÕt tri ©m tù bao giê. - Con s«ng gîi nh÷ng niÒm th¬: mµu n¾ng th¸ng 3 §êng thi trong th¬ Lý B¹ch. + NiÒm vui khi gÆp l¹i dßng s«ng Sông Đà hiền hoà, êm đềm, thơ mộng, cảnh thuyền trôi từ từ trên dòng sông, cảnh ven sông lặng tờ nh cái êm đềm có tự ngàn xa nguyên sơ, thanh bình, tơi sáng, yên tĩnh, thanh vắng. Tác giả nh dẫn ngời đọc vào một thế giới cổ tích tuổi xa, nh trở về với khoảnh khắc cña thêi tiÒn sö hoang d¹i, hån nhiªn 2. Hình tợng ngời lái đò sông Đà. Khai thác vẻ đẹp, tính cách nghệ sĩ của ngời lái đò trong nghề nghiệp của mình. Đó là ngời lái đò thành thục, lão luyện một tay lái tài hoa, một nghệ sĩ trên lĩnh vực chèo đò v ợt th¸c. BiÓu hiÖn : - Dấu ấn nghề nghiệp in trong vóc dáng. Ông đò có một ngoại hình khá độc đáo, đúng là ngêi cña s«ng níc (dÉn chøng). Cã lÏ dÊu Ên nghÒ nghiÖp ¨n s©u vµo m¸u thÞt, x¬ng cèt con ngời, lúc nào ông lái cũng trong t thế chèo đò. - §ã lµ con ngêi cã cña nh÷ng c¶m gi¸c m¹nh mÏ, nguy hiÓm, nguy hiÓm. §Êy lµ “chÊt Nguyền” trong nhân vật của Nguyễn Tuân. Trên sông Đà, cuộc sống, lao động của ngời lái đò thực sự là một cuộc chiến trên chiến trờng sông nớc, luôn luôn phải dành giật sự sèng tõ thiªn nhiªn. §ã lµ mét nghÒ yªu cÇu con ngêi ph¶i lu«n m¾t, lu«n tai vµ c¶ lu«n tim nữa. Với ngời lái đò sông Đà chỉ có ý vị ở những đoạn lắm ghềnh, nhiều đá. Ông than phiÒn ®i trªn nh÷ng khóc s«ng kh«ng cã th¸c thÊy d¹i ch©n, d¹i tay vµ buån ngñ. Lóc Êy, sông Đà hình nh cũng hết cả đậm đà với nhà đò. - Con ngời đó có một trí nhớ dẻo dai, ông thuộc sông Đà nh mộ trờng thiên anh hùng ca, thuéc c¶ nh÷ng dÊu chÊm than, chÊm c©u, xuèng dßng,... - Vẻ đẹp, phẩm chất tài hoa nghệ sĩ của ngời lái đò hiện lên rõ nhất ở đoạn viết về trận thuỷ chiến. Đó là cuộc chiến không cân sức giữa ngời lái đò với sông Đà hung bạo. Ngời lái đò hiện lên nh một võ s nắm vững binh pháp của thần sông, thần đá, nh một tớng trận chỉ huy thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nớc, lại nh một nghệ sĩ xiếc đang thuần phục một con mãnh thú (sông Đà). Trên chiến trờng sông nớc ấy, ngời lái đò còn vẹn nguyên t thế một chiến sĩ quả cảm, tài ba chiến đấu với tất cả sự bình tĩnh, tự tin và lòng dòng c¶m.... - Khi sông nớc trở lại thanh bình, mọi nguy hiểm đã qua, ta không thấy ai bàn thêm một lỗi nào về chiến thắng. Họ coi chuyện ấy vẫn thờng xảy ra, rất bình thờng. ở đây ngời đọc vẫn nhận ra “chất Nguyễn” ấy trong nhân vật Nguyễn Tuân: chút gì đó hơi khinh bạc tài tö..

<span class='text_page_counter'>(39)</span> Nh vây, chính cái hùng vĩ, dữ dội của sóng, thác, nớc Đà giang là yếu tố tôn ông lái đò lên hàng oai linh tối thờng. Đó là điều kiện để nhân vật Nguyễn Tuân trở ra các ngón nghề của mình. Thiên nhiên Tây Bắc đẹp đẽ kỳ thú nhng con ngời Tây Bắc mới thực sự là “thứ vàng mời” của đất nớc ta, xứng đáng đợc tôn vinh ca ngợi phải có những con ngời dũng cảm, tài hoa nh vậy mới “trị” đợc con sông này, bắt nó phục vụ cho cuộc sống của m×nh. . Gợi ý giải bài tập. Có thể tham khảo thêm đoạn trích dưới đây: Hai nhân vật Sông Đà và người lái đò Sông Đà bộc lộ đầy đủ tính cách của mình khi được nhà văn đặt vào một cuộc giao tranh dữ dội. Đây cũng là cơ hội để Nguyễn Tuân khoe hết tài hoa, sự uyên bác và chữ nghĩa phong phú của mình. Cuộc giao tranh giữa ông lái đò trí dũng và thác dữ sông Đà diễn ra song song với cuộc đua tranh giữa Nguyễn Tuân và tạo hoá. Con Sông Đà trở thành một loài thuỷ quái vừa hung ác vừa nham hiểm. Khi còn ở xa đã lắng nghe được tiếng thác nước khi oán trách, khi van xin, khi khiêu khích, chế nhạo. Khi tới gần thì mặt sông rung tít lên như chiếc tuyếc-bin thuỷ điện? Lòng sông thì trắng xoá làm bật nổi những tảng đá dàn bày thế trận hòn nào “trông cũng ngỗ nghịch” Cuộc giao tranh bắt đầu. Những tri thức về quân sự, về võ thuật của tác giả được dịp ném ra để diễn tả sự độc ác, xáo quyệt hết sức nguy hiếm của con thác. Khi thì nó mai phục để đột nhiên nhổm cả dậy vồ lấy con thuyền nơi khúc ngoặt, khi thì nó tỏ ra sơ hở để dụ chiếc thuyền đi vào rồi bất ngờ quay lái đánh khuýp quật vu hồi,... Khi đã giáp lá cà thì nó đâm thắng vào ông lái đò nhằm bẻ gẫy cán chèo, rồi đá trái, thúc gối vào bụng, giở đủ đòn âm, đòn tỉa, rồi bóp chặt hạ bộ túm lấy thắt lưng đòi lật ngửa người lái đò trên trận nước… Nó vừa đánh, vừa reo hò la hét vang động cả một vùng sông nước hoang vu… Nhưng ông lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông than đá” nên đã chiến thắng được nó. Tác giả đã khắc họa được hình ảnh thật oai hùng của ông lái đò đầy trí dũng, cưỡi lên luồng nước hung dữ đang tế mạnh, nắm chắc lấy bờm sóng, lao vút qua lớp lớp những cửa đá đầy hiểm ác như mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước... Lái đò như thế quá là một nghệ thuật siêu phàm. Để diễn tả được đoạn giao tranh giữa con người và thiên nhiên này, Nguyễn Tuân đã phải ném ra bao chữ nghĩa góc cạnh, phải gọi ra biết bao liên tưởng so sánh độc đáo và chính xác. Ông gọi chỗ sông Đà có thác dữ là “quãng (sông) vừa ầm ầm vùa quạnh hiu”. ông dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri giác. Hòn thì bệ vệ oai phong lẫm liệt, hòn thì ngỗ ngược hòn thì trông nghiêng như là hất hàm hỏi cái thuyền phái xưng tên tuổi trước khi giao chiến hòn thì tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng khi chịu thua cái thuyền vượt được qua thác dữ,... Có những hình ảnh toả sáng rực cả trang sách: Mặt sông trong tích tắc loà sáng lên như một cửa bế đom đóm rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng? Có những đoạn dữ dội diễn tả cơn cuồng nộ của con sông Đà hung bạo . Nô rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cũng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng. (2). Baøi 11. AI ÑA ÕÑAËT TEÂN.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> (Hoàng Phủ Ngọc Tường) I.TÌM HIỂU CHUNG: 1.Tác giả: Hoàng Phủ Ngọc Tường, sinh năm 1937 tại thành phố Huế -Quê gốc: Làng Bích Khê - Xã Triệu Long - Huyện Triệu Phong - Tỉnh Quảng Trị. -Cuộc đời: (Xem saùch giaùo khoa) -Sáng tác văn chương: Văn xuôi và thơ -Tác phẩm chính: (Xem saùch giaùo khoa) 2. Tác phẩm: " Ai đã đặt tên cho dòng sông?” Thể loại: Tùy bút - Xuất xứ: In trong tập sách cùng tên. II. Đọc - Hiểu văn bản. 1. Vẻ đẹp của dòng Sông Hương a. Vẻ đẹp được phát hiện từ cảnh sắc thiên nhiên. * Từ Thượng nguồn - Khi qua dãy Trường Sơn hùng vĩ. + Sông Hương là bản tình ca của rừng già. Rầm rộ và mãnh liệt…Dịu dàng và say đắm…. -> Sự hợp âm của những nốt bổng, nốt trầm để mãi ngân nga vang vọng giữa đại ngàn của Trường Sơn. + Sông Hương như một cô gái Di gan phóng khoáng man dại. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản tính gan dạ, một tâm hồn tự do, phóng khoáng. Cũng chính rừng già nơi đây đã chế ngự sức mạnh bản năng của người con gái Sông Hương. -> Vẻ đẹp của một sức sống trẻ trung, mãnh liệt và hoang dại. - Khi ra khỏi rừng già. + Đóng kín phần tâm hồn sâu thẳm của mình ở cửa rừng… + Mang 1 sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của 1 vùng văn hoá xứ sở. -> Vẻ đẹp đầy bí ẩn, sâu thẳm của dòng sông. Nhận xét: Bằng óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú, bằng việc sử dụng nghệ thuật so sánh, nhân hoá tài hoa, táo bạo, HPNT đã phát hiện và khắc hoạ vẻ đẹp mạnh mẽ, trẻ trung đầy cá tính của dòng sông, gợi lên ở người đọc những liên tưởng kì thú gợi cảm xác đáng đầy sức hấp dẫn. *Bình một số chi tiết đặc sắc. (+ Bản tình ca của rừng già. + Cô gái di gan phóng khoáng man dại…) * Về Châu thổ - Sông Hương tìm đến Huế. + Chuyển dòng một cách liên tục, uốn mình theo những đường cong thật mềm. Từ ngã ba Tuần -> chảy theo hướng Nam -Bắc qua Hòn Chén. Chuyển hướng sang Tây- Bắc vòng qua Nguyệt Biển, Lương Quán. Đột ngột rẽ một hình cung thật tròn về phía đồng bằng ôm lấy chân đồi Thiên Mục, xuôi dần về Huế. -> Như một cuộc tìn kiếm có ý thức để đi gặp thành phố tương lai của nó. + Vẻ đẹp của dòng sông trở nên biến ảo vô cùng. Qua Tam Thai, Vọng Cảnh Dòng sông mềm như tấm lụa….

<span class='text_page_counter'>(41)</span> Dòng sông như một tấm gương phản chiếu màu sắc… Đến vùng rừng thông u tịch, lăng tẩm của vua chúa triều Nguyễn:Dòng sông mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc như triết lí, như cổ thi. Tới ngoại ô Kim Long: vẻ đẹp tươi vui…. Nhận xét: -> Sông Hương qua cái nhìn đầy lãng mạn của HPNT như một cô gái dịu dàng mơ mộng đang khao khát đi tìm thành phố tình yêu theo tiếng gọi vang vọng từ trái tim. Với nghệ thuật so sánh cân đối, hài hoà đậm chất thơ, với sự phong phú về ngôn ngữ hình tượng, nhà văn đã khắc hoạ được vẻ đẹp dòng sông huyền ảo, lung linh sắc màu, người đọc đặc biệt ấn tượng về vẻ đẹp trầm mặc, cổ kính của Sông Hương gắn với thành quán lăng tẩm của vua chúa thủa trước. *Chọn những hình ảnh so sánh, những câu văn giàu màu sắc, tạo hình và ấn tượng - Cuộc gặp gỡ giữa Sông Hương – Huế. Huế Sông Hương + Cầu Tràng Tiền = vành trăng non in + Uốn một cánh cung rất nhẹ = một tiếng vang gần trên nền trời. vọng nói ra của tác giả. -> một trong những biểu tượng của -> Vẻ e thẹn, ngượng ngùng khi gặp người trong Huế như mơ màng chờ đợi, như vẫy mong đợi, sự thuận tình mà không nói ra. gọi dòng sông. + Các nhánh sông toả đi khắp thành phố như + Những lâu đài của đất cố đô soi muốn ôm trọn Huế vào lòng. bóng xuống dòng sông xanh biếc. + Sông Hương và Huế hoà vào làm một, Sông Hương làm nên vẻ mộng mơ của Huế, Huế làm nên vẻ đẹp trầm tư sâu lắng của Sông Hương. + Sông Hương giảm hắn lưu tốc, suôi đi thực chậm… yên tĩnh, khát vọng được gắn bó, lưu lại mãi với mảnh đất nơi đây. Nhận xét: Cuộc gặp gỡ của Huế và Sông Hương được tác giả cảm nhận như cuộc hội ngộ của tình yêu. Sơng Hương được Hoàng Phủ Ngọc Tường khám phá, phát hiện từ góc độ tâm trạng: Sông Hương gặp thành phố như đến với điểm hẹn của tình yêu sau một hành trình dài trở nên vui tươi và mềm mại. Sông Hương qua nghệ thuật so sánh đầy mới lạ, bất ngờ trở nên có linh hồn, sự sống như một cô gái si tình đang say đắm trong tình yêu. *Chọn những hình ảnh, chi tiết đặc sắc để bình. (Cầu Tràng Tiền = Vành trăng non S.Hương uốn cong = tiếng vang không nói ra… Lưu tốc S.Hương = Slow tình cảm dành cho Huế). - Tạm biệt Huế để ra đi. Sông Hương + Rời khỏi kinh thành, Sông Hương ôm lấy đảo Cồn Huế, lưu luyến ra đi… + Đột ngột rẽ ngoặt lại để gặp thành phố yêu dấu 1 lần cuối.. Huế + Quanh năm mơ màng trong sương khói và biêng biếc màu xanh của tre trúc, vườn cau. + Thị trấn bao quanh là nơi Huế dõi theo 10 dặm trường đình.. Nhận xét: Sự lưu luyến, bịn rịn của đôi tình nhân trong chia biệt. Gợi liên tưởng đến mối tình Kim Trọng- Thuý Kiều. Sông Hương giống như nàng Kiều trong đêm tình tự với chàng Kim với nỗi vấn vương, lẳng lơ, kín đáo của tình yêu, như tấm lòng chung tình của người dân nơi Châu Hoá với quê hương xứ sở. b. Vẻ đẹp văn hoá của dòng sông - Dòng sông âm nhạc + là người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. + Là nơi sinh thành ra toàn bộ nền âm nhạc có điểm của Huế. + Là cảm hứng để Nguyễn Du viết lên khúc đàn của nàng Kiều. - Dòng sông thi ca-> một dòng sông thơ ca lặp lại mình.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> + Là vẻ đẹp mơ màng “Dòng sông trắng lá cây xanh” trong thơ Tản Đà. + Vẻ đẹp hùng tráng “như kiếm dựng trời xanh” của Cao Bá Quát. + Là nỗi quan hoài vạn cổ trong thơ bà Huyện Thanh Quan. + Là sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ Tố Hữu -> Sông Hương luôn đem đến nguồn cảm hứng mới mẻ, bất tận cho các thi nhân. - Dòng sông gắn với những phong tục, với vẻ đẹp tâm hồn của người dân xứ Huế. + Màn sương khói trên Sông Hương = màu áo điền lục, 1 sắc áo cưới của các cô dâu trẻ trong tiết sương giáng. + Vẻ trầm mặc sâu lắng của sông Hương cũng như 1 nét riêng trong vẻ đẹp tâm hồn của người xứ Huế: “rất dịu dàng và rất trầm tư…” c. Dòng Sông Hương với lịch sử hào hùng của mảnh đất Cố đô. * Là 1 dòng sông anh hùng. - Từ xa xưa: là một dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước của các vua Hùng. - Thời trung đại: + Dòng Linh Giang đã chiến đấu oanh liệt để bảo vệ biên giới phía nam tổ quốc Đại Việt. + Vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ. -Thời chống Pháp: + Sống hết lịch sử bi tráng với máu của các cuộc khởi nghĩa trong phong trào Cần Vương. + Đi vào thời đại Cách mạng tháng Tám với những chiến công rung chuyển. - Thời chống Mĩ: + Góp mình vào chiến dịch Mùa xuân 1968 Mậu Thân. * SH cùng với thành phố Huế cũng chịu nhiều đau thương mất mát. -> Sông Hương là dòng sông có bề dày lịch sử như 1 người con gái anh hùng, khi tổ quốc gọi nó tự biết hiến đời mình làm một chiến công. Sông Hương là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. -> Sử thi mà trữ tình, bản hùng ca mà cũng là bản tình ca dịu dàng tươi mát. Đó là nét độc đáo của xứ Huế, của Sông Hương được tác giả khám phá và khắc hoạ từ góc độ lịch sử. d. Ai đã đặt tên cho dòng sông. Bài kí mở đầu và kết luận bằng một câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” - Mang nghĩa hỏi: Chính nội dung bài kí là câu trả lời, một câu trả lời dài như một bài kí ca ngợi vẻ đẹp, chất thơ của dòng sông có cái tên cũng rất đẹp và phù hợp với nó: Sông Hương. - Mang tính chất biểu cảm. + Là cái cớ để nhà văn đi vào miêu tả, ca ngợi vẻ đẹp của dòng sông Hương gắn với mảnh đất cố đô cổ kính tươi đẹp. + Thể hiện tình cảm ngỡ ngàng ngưỡng mộ thái độ trân trọng ngợi ca của tác giả với dòng sông Hương, thành phố Huế thân yêu. Vì quá yêu mà bật thành câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông!” 2. Hình tượng cái tôi của tác giả. - Tình yêu thiết tha đến say đắm của tác giả đối với cảnh và người nơi xứ Huế. - Phong cách viết kí của HPNT: Phóng túng, tài hoa, giàu thông tin văn hoá, địa lí, lịch sử và giàu chất trữ tình lãng mạn. III- TỔNG KẾT. - Cảm nhận và hiểu được vẻ đẹp của Huế, của tâm hốn người Huế qua sự quan sát sắc sảo của Hoàng Phủ Ngọc Tường về dịng sơng Hương-> Hoàng Phủ Ngọc Tường xứng đáng là một thi sĩ của thiên nhiên, một cuốn từ điểm sống về Huế, một cây bút giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc. - Bài kí góp phần bồi dưỡng tình yêu, niềm tự hào đối với dòng sông và cũng là với quê hương đất nước..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> Baøi taäp 1: Bài kí kết thúc bằng cách lí giải về cái tên của dòng sông, gợi lai huyền thoại về chuyện người dân hai bên bờ sông nấu nước của trăm hoa đổ xuống dòng sông cho làn nước thơm mãi mãi. =>Gợi sự biết ơn đối với những người đã khai phá vùng đất mới. “Dòng sông ai đã đặt tên Để người đi nhớ Huế không quên ?” Bài làm tham khảo:. Ai đã đặt tên cho dòng sông? (Hoàng Phủ Ngọc Tường) Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là tác phẩm nằm trong loại hình kí và thuộc thể loại bút kí văn học. Bút kí văn học có dung lượng gần như truyện ngắn, ghi chép về những sự kiện, con người có thực, đồng thời trình bày trực tiếp cảm nhận, suy nghĩ của tác giả về những sự kiện, con người ấy. Đọc một bút kí, cái mà người ta chờ đợi trước hết là tính có vấn đề của nó, gắn liền với việc tác giả thể hiện được những khám phá sâu sắc về đối tượng, đề xuất được những tư tưởng, quan niệm có ý nghĩa đối với đời sống hiện tại. Ranh giới giữa bút kí văn học và tuỳ bút văn học nhiều khi khá nhập nhằng, đặc biệt trong trường hợp tác giả quan tâm nhiều tới việc biểu lộ cái tôi nghệ sĩ phóng khoáng, tự do, giàu tiềm lực văn hoá của mình và chọn một hình thức diễn tả có duyên, đầy màu sắc biểu cảm, chứa đựng nhiều liên tưởng, tưởng tượng độc đáo... Do có những đặc điểm vừa nói, Ai đã đặt tên cho dòng sông ? cũng có thể được xem là một thiên tuỳ bút đặc sắc (xem thêm phần nói về thể tuỳ bút ở bài Người lái đò Sông Đà). Viết về bất cứ dòng sông nào trên trái đất, người ta cũng cần có, cần thể hiện được một tình yêu tha thiết, lắng sâu và một sự am tường không hề sách vở về những vấn đề địa lí, lịch sử và văn hoá gắn liền với chúng. Bởi các dòng sông luôn là cái nôi của những vùng, những nền văn hoá đa dạng, lắm sắc màu và là đối tượng mà các cư dân sống trong vòng tay của chúng phải vô hạn biết ơn. Viết về con sông Hương cũng cần và lại càng cần như vậy. Đây là một thách thức nhưng là thách thức đã được chuyển hoá thành niềm giục giã đầy tự nhiên, đầy xao xuyến trong tâm hồn những ai yêu sông Hương, yêu Huế. May thay, chúng ta đã có được những nhà thơ, nhà văn tài năng vượt qua được các thách thức nói trên để tặng cho sông Hương những tác phẩm bất hủ[1]. Trong những nhà thơ, nhà văn đó có Hoàng Phủ Ngọc Tường, người đã viết nên một thiên tuyệt bút có nhan đề là Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Vang lên từ nhan đề, trước hết, câu hỏi Ai đã đặt tên cho dòng sông ? có dáng dấp của một thoáng ngẩn ngơ rất thi sĩ (và theo chính tác giả cho biết thì đó là câu hỏi của một thi sĩ đích thực). Từ thoáng ngẩn ngơ này, bao nhiêu ấn tượng về cái đẹp của sông Hương sẽ ùa về trong tâm trí, khơi lên mạch viết dạt dào cảm xúc về "nhan sắc" thiên phú của dòng nước êm đềm chảy qua Huế cố đô. Vang lên những lần khác trong tác phẩm[2], câu hỏi biến thành một nỗi suy tư thâm trầm, đánh động bao vốn liếng văn hoá tích tụ trong người viết và cũng đòi nó phải được hiện diện trên trang giấy. Vậy đó, ta đang nói đến những mạch cảm hứng lớn đã dẫn dắt nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đến và đi với sông Hương, để rồi tiếp nữa, làm một cuộc viễn du vào lòng muôn độc giả, đóng vai người truyền cảm hứng cho họ bộc lộ tình yêu xứ sở hết sức thiết tha của mình. Thông thường, người ta hay sử dụng phép nhân hoá khi miêu tả thiên nhiên. Kể cũng là điều dễ hiểu, bởi trong văn học, các đối tượng không bao giờ xuất hiện như những "khách thể tự nó" mà như những "vật" thể hiện nỗ lực của con người nhằm chủ quan hoá toàn bộ thế giới khách quan. Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nhân hoá sông Hương. Nhưng nhân hoá ở đây không chỉ là nhân hoá trong từng đoạn miêu tả rời rạc với mục.

<span class='text_page_counter'>(44)</span> đích làm cho câu văn, hình ảnh trở nên sinh động. Ông đã thực sự xây dựng sông Hương thành một nhân vật, một con người, để được chuyện trò, đối thoại cùng nó. Điều này hoàn toàn hợp lẽ, bởi chẳng phải ta vẫn quen nghĩ rằng các dòng sông vừa là kẻ đồng sáng tạo, vừa là chứng nhân lịch sử, văn hoá của một vùng đất hay sao ? Dưới ngòi bút tài hoa và cái nhìn đầy mê đắm, trân trọng của tác giả, sông Hương cũng có một cuộc đời phong phú trải qua nhiều giai đoạn, khi gian truân, khi êm đềm. Giữa lòng Trường Sơn, nó chính là "một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại", có "bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng". Còn khi đã ra khỏi rừng, "sông Hương nhanh chóng mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở". Sông Hương có "phần tâm hồn sâu thẳm", có vẻ mặt lúc trầm mặc, lúc vui tươi, có thái độ đầy ân tình với Huế khi dành cho cố đô "điệu slow tình cảm" vô cùng giàu ý nghĩa... Tác giả đã thực sự trở thành một tri kỉ của sông Hương, hiểu ngọn ngành khí chất của nó, và hơn thế, còn chu đáo đề xuất với chúng ta một cách nhìn toàn diện về người bạn của mình : "Nếu chỉ mải mê nhìn ngắm khuôn mặt kinh thành của nó, tôi nghĩ rằng người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương...". Ông dõi theo từng khúc quanh, nét lượn, bước ngoặt rất cụ thể của sông Hương để nói với độc giả về những "ý tứ" mà sông Hương muốn biểu lộ trước con người và miền đất Châu Hoá xưa : "Nhưng ngay từ đầu vừa ra khỏi vùng núi, sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm, như một cuộc tìm kiếm có ý thức để đi tới nơi gặp thành phố tương lai của nó. Từ ngã ba Tuần, sông Hương theo hướng nam bắc qua điện Hòn Chén ; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế". Theo tác giả, sông Hương đã thật "tâm lí" khi "trôi đi chậm, thực chậm" qua kinh thành Huế, như để yên ủi người ta đừng quá sầu muộn về sự biến đổi vô thường của cuộc đời, về sự vèo qua chóng mặt của thời gian. Dòng nước sông Hương đã lặng lờ một cách cố tình để muôn nghìn ánh hoa đăng trong đêm hội rằm tháng Bảy từ điện Hòn Chén trôi về qua Huế "bỗng ngập ngừng như muốn đi muốn ở". Bằng "cách trôi" rất riêng đó của mình, sông Hương như muốn nhắc người ta rằng cuộc đời này có rất nhiều cái đáng vương vấn. Rồi nữa, nếu không nhờ sự phát hiện đầy tính chất đồng điệu của tác giả đối với sông Hương, mấy ai biết rằng việc sông Hương đột ngột đổi dòng ngay khi vừa định chia tay Huế là thuận theo một lí do rất tình cảm, rất "người' : chẳng qua, nó muốn gặp lại Huế "để nói một lời thề trước khi về biển cả". ở đây, có đến ba thái độ chí tình cùng "hợp lưu" với nhau : cái chí tình của sông Hương đối với Huế, cái chí tình của con người Huế trong tình yêu (như là một phẩm chất được thấm nhiễm từ sông Hương) và cái chí tình của chính tác giả dành cho sông Hương, dành cho cả mảnh đất xưa gọi là Châu Hoá ! Suy cho cùng, nếu không có cái chí tình của tác giả thì cái chí tình của sông Hương không thể trở thành một "khách thể tinh thần" hiện diện trong đời sống chúng ta và gây ấn tượng sâu đậm đến vậy ! Nếu biết cất lên tiếng người, hẳn sông Hương sẽ nói rằng nó đã thực sự yên tâm khi chọn trang viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường để hoá thân. Có lẽ chính nhà văn cũng nhận thấy, cũng hiểu niềm tin cậy đó, nên từng câu văn của ông bay bổng, diễm ảo lạ thường. Nhiều lúc, độc giả có cảm tưởng ngôn từ trong bài bút kí không phải là của tác giả dùng để mỉêu tả sông Hương mà chính là ngôn từ của sông Hương đang hát lên bài ca của mình. Ngôn từ ấy trôi chảy hết sức tự nhiên, nếu có "luyến láy" thì cũng "luyến láy" một cách tự nhiên, bởi chất hào hoa, đa tình vốn đã là cái gì thuộc về căn cốt của người viết rồi. Hãy thử đọc lại một vài đoạn : "Trước khi về đến vùng châu thổ êm đềm, nó đã là một bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng", "Đó là vẻ đẹp trầm mặc nhất của sông Hương, như triết lí, như cổ thi, kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga tận bờ bên kia, giữa.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà", "Từ đây, như đã tìm đúng đường về, sông Hương vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long, kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam - đông bắc, phía đó, nơi cuối đường, nó đã thấy chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non",... Theo một cái nhìn mang tính phân tích, có thể thấy trong các đoạn văn trên, tác giả đã vận dụng khá nhiều thủ thuật ngôn từ, từ việc phối hợp hài hoà thanh điệu của các tiếng tới việc lựa chọn những định ngữ đắt nhất cho các đối tượng được miêu tả, từ việc sử dụng các ẩn dụ, so sánh đích đáng tới việc "khảm" một cách khéo léo ý tứ của các văn bản xưa vào văn mạch mới. Tuy vậy, đọc chúng lên, ta không có cảm giác cộm, vướng, bởi tác giả đã hoàn toàn làm chủ những thủ thuật ngôn từ kia, bắt chúng vâng phục tuyệt đối sự điều hành của mình. Nói rộng ra, thiên bút kí đưa đến rất nhiều thông tin mà đọc lên vẫn thấy thanh thoát là nhờ thế. Nhất quán với cách nhìn sử thi vốn có, Hoàng Phủ Ngọc Tường không quên tô đậm niềm "quang vinh" mà sông Hương đã có được trong lịch sử dài lâu của dân tộc. Có lẽ để khỏi mang tiếng là "thiên vị", ông đã dẫn ra các "lời chứng" vừa từ sử sách vừa từ những con người đã thực sự can dự vào cuộc kháng chiến vừa qua của dân tộc. Nhưng đồng thời, nhà văn cũng thấm thía rằng mọi thứ trên đời đều có thể bị quên đi, chỉ văn hoá là còn lại mãi. Có chiến công nào lớn hơn chiến công của văn hoá ? Và mọi chiến công khác, nếu còn muốn được nhắc tới thì đều phải mang ý nghĩa văn hoá. Ông viết : "Sông Hương là vậy, dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Khi nghe lời gọi, nó biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công, để rồi nó trở về với cuộc sống bình thường, làm một người con gái dịu dàng của đất nước". Không, nhà văn không đơn thuần "tính đếm" hay kể lại những phẩm chất đa dạng của sông Hương. Lồng trong lời đánh giá khái quát mang tính chất ghi công đó, ông muốn đặc biệt nhấn mạnh đến vẻ đẹp văn hoá sâu xa, trầm tĩnh của sông Hương. Không phải ngẫu nhiên ở rất nhiều đoạn trong bài bút kí này, ông đã thường xuyên nghĩ tới Truyện Kiều, nhân vật Kiều khi nói về sông Hương. Đối với người Việt Nam, Truyện Kiều là tập đại thành của nền văn học, văn hoá dân tộc. Được so sánh, được liên hệ với Truyện Kiều chính là một niềm vinh dự. Nhưng một điều thú vị đáng nói là là trong Truyện Kiều luôn có vang bóng của sông Hương, của văn hoá sông Hương. Tác giả đã chứng minh điều này một cách tinh tế và thuyết phục, bằng mẫn cảm nghệ sĩ, bằng những hiểu biết sâu sắc về cuộc đời Nguyễn Du. Ông đã có một so sánh rất lạ, rất độc đáo nhưng cũng vô cùng chính xác : "Hình như trong khoảnh khắc chùng lại của sông nước ấy, sông Hương đã trở thành một người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya". Sự thực, câu văn không đơn thuần chỉ có so sánh. Nó chứa đựng (hay là thể hiện) một cái nhìn đồng nhất hoá, nâng sông Hương lên thành đích thực một linh hồn. Tác giả cũng kể lại cho ta một phát hiện bất ngờ chỉ có được ở những con người sống vì nghệ thuật, sống trong nghệ thuật : "Tôi đã chứng kiến một người nghệ nhân già, chơi đàn hết nửa thế kỉ, một buổi tối ngồi nghe con gái đọc Kiều : "Trong như tiếng hạc bay qua - Đục như tiếng suối mới sa nửa vời"... Đến câu ấy, người nghệ nhân chợt nhổm dậy vỗ đùi, chỉ vào trang sách Nguyễn Du mà thốt lên : 'Đó chính là Tứ đại cảnh !". Bằng lịch lãm văn chương, nghệ thuật của mình, sau khi đi một vòng để nêu lên chân lí "dòng sông ấy không bao giờ tự lặp lại mình trong cảm hứng của các nghệ sĩ", rằng sông Hương đã hiện hình với đủ cung bậc trong thơ của Tản Đà và Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan và Tố Hữu, tác giả lại khẳng định trong niềm ngạc nhiên của sự khám phá : "sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều". Viết về một dòng sông văn hoá, quả rất cần một tư thế văn hoá. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thể hiện được điều này trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông ? Rất nhiều trải nghiệm của một đời viết luôn gắn bó với con người, dân tộc và đất nước đã được đưa vào đây. Yêu sông Hương nhưng tình yêu ấy không ngăn cản ta yêu những dòng sông khác có trên trái đất. Và ngược lại, niềm thích thú được quan sát dáng nét độc đáo của những dòng sông thuộc các vùng miền từng qua lại làm tươi mới trong ta nỗi rung động bồi hồi rất đặc biệt trước dòng sông quê hương đã nuôi lớn cuộc đời mình. Ai đã đặt tên.

<span class='text_page_counter'>(46)</span> cho dòng sông ? - Câu hỏi ấy không chỉ phản ánh một khoảnh khắc xao xuyến của tâm tư. Cao hơn, nó hé lộ cho ta thấy một tâm thế sống luôn có trách nhiệm với cuộc đời, luôn biết ngạc nhiên về cái bí ẩn, phong phú vô tận của tạo vật.. Baøi 12. VỢ NHẶT. (Kim Laân ). I.Giới thiệu : Taùc giaû Kim Lân tên thật Nguyễn Văn Tài, sinh năm 1920, quê ở Bắc Ninh. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, học hết tiểu học rồi đi làm. Tuy viết không nhiều nhưng Kim Lân có tác phẩm đặc sắc ở cả hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng tháng Tám. Sở trường :viết truyện ngắn với đề tài sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê và vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân Việt Nam -Đặc điểm truyện Kim Lân : Mộc mạc như chính đời sống của mình . 1. Hoàn cảnh sáng tác : -Rút từ truyện ngắn “ Con chó xấu xí”. Lúc đầu có tên“ Xóm ngụ cư” . Tác phẩm “Xóm ngụ cư “ viết năm 1946 phản ánh về nạn đói 1945 nhưng không hoàn thành và mất bản thảo. Đến 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ viết lại thành “Vợ nhặt”. 2.Toùm taét taùc phaåm. Vào một buổi chiều mùa hè, ở xóm Ngụ Cư tiêu điều bên thành phố. Anh Tràng một thanh niên đói rách làm nghề kéo xe bò thuê đi về với một người đàn bà lạ.Cả xóm Ngụ Cư xôn xao .Tràng phớt lờ tủm tỉm, lặng lẽ đi lòng cảm thấy hạnh phúc . Sau đó Tráng nhớ lại câu chuyện “nhặt vợ” của mình, trong một hoàn cảnh éo le bất ngờ. Tràng đưa vợ về giới thiệu cho mẹ. Người mẹ già ngạc nhiên à hiểu ra xót xa à thông cảm động viên hai con. Sáng hôm sau một cuộc sống mới như mở ra cho gia đình Tràng. Cuối truyện là niềm hy vọng lóe lên giữa những ngày đói kém, tan tác: Tràng vẫn thấy những người đói và lá cờ đỏbay phấp phới . 3.Chủ đề : -Tố cáo chế độ thực dân phong kiến đã đẩy những người nông dân lương thiện vào nạn đói khủng khiếp năm 1945. -Khẳng định :Dù trong đói nghèo người dân lao động vẫn luôn yêu thương, cưu mang giúp đỡ lẫn nhau và tin vào sự sống ở tương lai. II. Ñ OÏC - HIEÅU : Nhan đề toát lên từ một tình huống đặc biệt, có một không hai . Vợ nhặt : à nhặt vợ . Nhặt ở đây là nhặt nhạnh thu lượm. Nghiã là cái gì hết sức tầm thườn, tình cờ lượm được .à đồ vật à Gợi số phận hẩm hiu, rẻ rúng (kiếp người nhö kieáp vaät) àToá caùo Lấy vợ, lấy chồng là vấn đề trọng đại của con người: hai bên hiểu nhau – dạm hỏi – cưới xin không có. Chỉ bốn bát bánh đúc và một lời nói đùa bâng quơ à Tràng được vợ. Số phận người phụ nữ đói khát, hẩm hiu, rẻ rúng ..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> 1,Tình cảnh khốn khổ của nhân dân trong nạn đói 1945 : a.Tình caûnh chung cuûa xoùm nguï cö : -Khung cảnh thê lương ,thảm đạm , tối tăm, không còn sức sống : + Thời gian : “lúc chạng vạng mặt người …bóng chiều nhá nhem … tối om” . + Không gian : “ không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Con người : Đói rách, tiều tụy, thảm thương + Treû em : uû ruõ + Hình ảnh người đói:xanh xám, dật dờ, lặng lẽ, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. + “Người chết như ngả rạ”. * Kim Lân không trực tiếp tố cáo nhưng tội ác của thực dân, phát xít vẫn hiện lên qua khung cảnh làng quê thảm đạm, tang tóc và cuộc sống bế tắc cùng kiệt của người noâng daân. Tình cảnh riêng của người vợ nhặt : -Hậu quả của cái đói : Nhân dạng: rách rưới, đói khát (ngực lép, mặt lưỡi cày, áo quần tả tơi…) Tính caùch : + Táo tợn, trơ trẽn :lon ton chạy lại đẩy xe, liếc mắt cười tít, gợi ý để được ăn, cắm đầu ăn, ngôn ngữ thô thiển. + Liều lĩnh: theo không Tràng sau một lời nói nửa đùa nửa thật  vì đói mà niềm hạnh phúc nhất đời người con gái là được treo cưới đã không có  thân phận rẻ rúng =>Qua tình huống truyện độc đáo và cảm động, thấy cái TAØI và tấm lòng xót thương cuûa Kim Laân. Bữa cơm đón dâu nghèo nàn: cháo loãng, chè cám. Phẩm chất tốt đẹp của người lao động Việt Nam : Nhaân vaät Traøng : Giới thiệu chung : a . Ngoại hình: - Chiếc áo nâu tàng .-Cái đầu trọc nhẵn - Hai con mắt nhỏ tí, à xoàng xĩnh , xấu xí b. Ngôn ngữ : -Rích bố cu đó hở-Làm đếch gì có vợ -Cộc cằn, một anh chàng nông dân nghèo ế vợ + Tính tình : vui vẻ, có phần ngờ nghệch  Không có ấn tượng. Vẻ đẹp phẩm chất : Loøng nhaân aùi : + Thấy cô gái đói, anh sẵn sàng mời cô ăn + Sẵn sàng cưu mang người khác (thấy người con gái quyết tâm theo mình  cũng sợ cho tương lai nhưng không nỡ từ chối) Khaùt khao haïnh phuùc gia ñình (chuyeån bieán taâm lí cuûa Traøng ) + Làm quen nên duyên: cô gái theo về  Tràng cũng “chợn” nhưng đã chậc lưỡi “kệ”  kết quả của sự ao ước hạnh phúc bấy lâu nay. + Trên đường về nhà : tràn ngập niềm vui, cử chỉ vừa ngượng nghịu, lúng túng vừa tự haøo (tay noï xoa maõi vai kia, “moät mình toâi maáy u”, mua hai haøo daàu).

<span class='text_page_counter'>(48)</span> + Đón vợ về : Bàng hoàng  vui sướng  phấn chấn  gắn bó với gia đình  thấy có trách nhiệm với gia đình. Lạc quan tin tưởng ở tương lai: nghĩ đến Việt Minh phá kho thóc chia cho người nghèo, thấy lá cờ đỏ bay phấp phới. => Là người nông dân chất phác, tốt bụng. Nhân vật bà cụ Tứ : * Giới thiệu : người đàn bà già nua, ốm yếu; hết lòng yêu thương, lo lắng cho con, một phụ nữ nhân hậu, chí tình. *Bieåu hieän : Chöa hieåu chuyeän : ngaïc nhieân Khi hieåu ra : + Xót thương, mừng, tủi, lo lắng.(dẫn chứng) + Vui lòng chấp nhận con dâu  chấp nhận một miệng ăn vào gia đình giữa thì đói keùm (truyeàn thoáng “Laù laønh….” ) + Lạc quan, tin tưởng vào tương lai (dọn dẹp, bàn bạc về tương lai) => Là người mẹ hiền từ, nhân hậu. Nhân vật người vợ nhặt : *Giới thiệu : + Coâ gaùi lang thang, nhaët thoùc vaõi, khoâng hoï teân. + Ngoại hình: gầy ốm, xác xơ, tiều tụy. + Vì đói mà trơ trẽn, cong cớn, liều lĩnh. *Vẻ đẹp phẩm chất : + Khao khát hạnh phúc gia đình: về làm vợ Tràng, cô trở thành người phụ nữ hiền hậu, đảm đang quán xuyến mọi việc trong nhà. + Lạc quan, tin tưởng vào tương lai: sôi nổi kể về tin Việt Minh phá kho thóc của Nhật chia cho người nghèo. =>Người phụ nữ xốc vác, nhanh nhẹn, đằm thắm. Ngheä thuaät : Tình huống truyện độc đáo : +Anh thanh niên nghèo, xấu xí, bỗng “nhặt” được vợ một cách dễ dàng +Trong hoàn cảnh đói khát, chết chóc, Tràng có vợ  mọi người ngạc nhiên, lo lắng nhưng cũng mở ra một chút hi vọng, hạnh phúc cho mọi người Cách kể chuyện : tự nhiên, hấp dẫn +Đảo lộn trật tự thời gian +Kể qua lời đối thoại của nhân vật Khắc họa chân thật, sinh động diễn biến nội tâm của nhân vật +Vợ Tràng: tâm lí tội nghiệp (đói rách) +Tràng: tâm lí bàng hoàng +Mẹ Tràng: tâm lí của bà mẹ ngỡ ngàng. Toång keát : 1 .Nội dung: Truyện ngắn “Vợ nhặt” Kim Lân thể hiện: *Gía trị hiện thực thực sâu sắc : Phản ánh hiện thực đói khổ của người dân trước cách mạng. Tố cáo tội ác kẻ thù đã đẩy người dân Việt Nam vào con đường cùng của sự đói khát, chết chóc, thê lương * Gía trị nhân đạo cao cả :.

<span class='text_page_counter'>(49)</span> - Viết về người nông dân với niềm đồng cảm, xót xa , day dứt. Kim Lân còn phát hiện ở họ vẻ đẹp phẩm chất. Mặc dù đói nghèo, cơ cực, mấp mé cái chết, họ vẫn cưu mang, giúp đỡ chia sẻ miếng cơm manh áo.à Kim Lân thể hiện sự trân trọng đối với khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc, mái ấm gia đình và luôn hướng tới tương lai . 2 .Nghệ thuật :Ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, xây dựng tình huống truyện độc đáo . * Ghi nhớ :Sách giáo khoa . Gợi ý giải bài tập. Bài tập 1 HS có thể lựa chọn bất cứ đoạn văn nào trong tác phẩm, miễn là đoạn văn đó hay, đặc sắc. GV hướng dẫn để HS phân tích và chỉ ra cái hay của đoạn văn, cái đặc sắc của chi tiết nghệ thuật mà mình lựa chọn. Bài tập 2 Đoạn kết của truyện ngắn Vợ nhặt có ý nghĩa. quan trọng trong việc thể hiện chủ đề của tác phẩm. Truyện được khép lại bằng hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và hình ảnh lá cờ đỏ của Việt Minh phấp phới bay trong đầu óc Tràng. Những hình ảnh này đối lập vời những hình ảnh thê thảm về cuộc sống của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, được tác giả miêu tả ở phần đầu của thiên truyện. Cái kết thúc như vậy gợi ra xu hướng phát triển theo chiều hường tích cực của tác phẩm: Khi bị đẩy vào tình huống đói khổ cùng đường, thì người nông dân lao động sẽ hướng tới cách mạng. Đây cũng là xu hướng vận động chủ yếu của văn học Việt Nam từ l945 đến l975. Bài tập 3 Phân tích Tâm trạng bà cụ Tứ : Phân tích tâm trạng của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Bà cụ Tứ vốn là một nông dân từng trải, trung hậu. Cụ hiểu rõ hoàn cảnh của gia đình mình; Con trai mình trong những ngày tháng bị cái đói hành hạ ghê ghớm. Khi trông thấy người đàn bà ở trong nhà với con mình, bà cụ Tứ vô cùng ngạc nhiên “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ? (…) Sao lại chào mình bằng u (…) Ai thế nhỉ? (…) Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Đến lúc biết được người đàn bà kia chính là vợ của con trai mình, tâm trạng của bà cụ diễn biến khá phức tạp, phong phú. Trước hết, nghĩ đến cảnh túng thiếu, đói khát của gia đình mình cụ Tứ thấy tủi thân, tủi phận. Cụ ý thức rất rõ lấy vợ cho con trai lẽ ra phải thế này, thế nọ; nhưng cái khó bó cái khôn nên chỉ còn cách nghĩ ngợi tủi thân, tủi phận. Rồi cụ thương con đẻ, thương đến cả con dâu. Cụ biết duyên cớ vì đâu người ta phải theo con mình (“ Bà lão nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót”, và cụ nói với vợ chồng Tràng “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Việc Tràng “nhặt” được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vừa là niềm vui mừng của bà lão tội nghiệp này. Mừng vì người con thô lậu, quê kệch đã có vợ. Lo vì đúng lúc đói khát, chết chóc này, liệu lấy gì mà nuôi nhau. Tuy vậy, dẫu sao niềm vui vẫn nhiều hơn. Bà lão “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăn xắn thu dọn quét tước nhà cửa”. Đến bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cụ cố giấu cái lo, động viên các con “nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá… Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì con cái chúng mày về sau”. Nhưng “nghĩ ngợi mãi”, “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt chảy xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu… và chẳng thể thoát ra khỏi không khí chết chóc đang bủa vây xung quanh. Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt tài phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sắc sảo của Kim Lân. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi.

<span class='text_page_counter'>(50)</span> đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình. Baøi 13. VỢ CHỒNG A (Tô Hoài) PHUÛ. I. Giới thiệu : 1. Tác giả Tô Hoài : - Tô Hoài tên thật Nguyễn Sen, sinh 1920 tại huyện Từ Liêm, Hà Đông - Trước Cách mạng tháng Tám, thuộc dòng văn học hiện thực phê phán, chuyên viết về hai đề tài : + Đề tài nông thôn : cuộc sống gieo neo, cơ cực của người nông dân Ví du : Nhà nghèo, Quê người + Truyện về loài vật : phê phán cuộc sống thực tại, ước mơ một xã hội tốt đẹp V í duï : Deá meøn phieâu löu kí - 1943 tham gia hội văn hóa cứu quốc, trong kháng chiến chống Pháp tập trung chủ yếu hoạt động trong lãnh vực báo chí Sau 1945 tập trung vào sáng tác  nay, có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại -Sau Cách mạng tháng Tám: Tô Hoài đi về các địa phương miền núi  hiểu cuộc sống, tình caûm cuûa hoï  coù taùc phaåm ñaëc saéc veà mieàn nuùi: Truyeän Taây Baéc -Phong cách Tô Hoài: cách viết thể hiện vốn hiểu biết phong phú về đời sống và phong tục. Văn giàu chất tạo hình, chất thơ, kể chuyện sinh động , hóm hỉnh _Truyeän Taây Baéc . (1953) _ Đề tài: Tây Bắc . _ Gồm ba truyện : - Cứu đất cứu Mường -Mường Giơn - Vợ chồng A Phủ . Sáng tác :Kết quả của một chuyến đi thực tế cùng bộ đội tham gia chiến dịch, giải phoùng Taây Baéc (1952) 2. Hoàn cảnh sáng tác : - Sống ở Tây Bắc tám tháng  vốn hiểu biết về Tây bắc + tình yêu đối với Tây Bắc khiến Tô Hoài hình thành “ Truyện Tây Bắc “ (1953) -Qua những dòng hồi tưởng viết 1959, Tô Hoài tâm sự : “Đất nước và con người miền Tây đã để thương để nhớ cho tôi nhiều quá, tôi không bao giờ quên”. “Hình ảnh Tây Bắc đau thương và dũng cảm lúc nào cũng thành nét, thành người thaønh vieäc trong taâm trí toâi”. 3. Chủ đề : - Số phận bi thảm của người nông dân Tây Bắc dưới chế độ cũ. - Tinh thần tự đấu tranh để giành quyền được sống, được hạnh phúc của họ.  Tác phẩm mang tư tưởng nhân đạo sâu sắc. 4.Toùm taét: Chuyện “Vợ chồng A Phủ” kể về cuộc đời đôi vợ chồng người Mèo là Mị và A Phủ. Họ vốn là những nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra. Mị bị bắt về làm con dâu gạt nợ. A Phủ vì dám đánh con trai thống lí nên phải làm người ở gạt nợ. Trong cảnh ngộ giống nhau, họ đã cứu nhau thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra, tìm đến vùng Phiềng Sa. Ở đây họ đã trởi thành đôi vợ chồng. Họ đang xây dựng cuộc sống ấm no thì Tây đến cướp phá. Giữa lúc hoang man ấy, A Châu người cán bộ cách mạng đã đến với.

<span class='text_page_counter'>(51)</span> họ, giác ngộ vợ chồng A Phủ, A Phủ trở thành đội viên du kích, Mị trở thành một thành viên quần chúng cách mạng tích cực II. ĐỌC – HIỂU: 1. Nhaân vaät Mò : Điển hình cho số phận và sức sống tiềm tàng của người dân lao động miền núi , trước khi đến với cách mạng . 1 . Giới thiệu nhân vật : “Ai ở xa về …một cô gái ngồi quay sợi bên tảng đá … cạnh tàu ngựa. Lúc nào quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi, hay đi cõng nước … cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi … Cô ấy là vợ A Sử con trai thống lí Pá Tra .à Chân dung một thiếu phụ buồn, xa lạ, với cách sống giàu sang của Thống lí .à Số phận éo le bi đát của nhân vật à Tạo ấn tượng mạnh . a /. Cuoäc soáng cuøng khoå : a.1 / Trước kia (khi ở với cha mẹ) : + Mị trẻ, đẹp yêu đời, chăm chỉ lao động, đã có người yêu. Dẫn chứng : nhiều trai làng mê “ đến đứng nhẵn cả chân vách …”, “đi theo Mị hết nuùi naøy sang nuùi khaùc”  Mị có đủ phẩm chất để có thể sống một cuộc đời hạnh phúc _ khi xã hội công bằng Nhưng vì nghèo (bố mẹ mắc nợ PáTra)  bị bắt làm dâu gạt nợ  Mị đau khổ a.2 / Cuộc sống làm dâu gạt nợ (ở nhà thống lý PáTra) -Thực chất Mị chỉ là nô lệ Mở đầu tác phẩm : hình ảnh Mị cúi mặt, mặt buồn rười rượi (lúc nào cũng vậy) >< sự giàu sang của nhà PáTra Dẫn chứng : nhà thống lí giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phieän nhaát laøng)  Bieåu hieän moät noäi taâm buoàn khoå, moät cuoäc soáng toái taêm nhoïc nhaèn + Bị đày đọa về thể xác  Bị bóc lột sức lao động đến cùng cực:“Mị tưởng mình cũng là con trâu, con ngựa” + phaûi laøm vieäc quaàn quaät quanh naêm suoát thaùng Dẫn chứng : “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện … lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước sợi”  Bị coi rẻ hơn con trâu, con ngựa :Dẫn chứng + Bị đè nén về tinh thần : vì món nợ + Mị tin mình đã bị trình ma nhà PáTra  không dám phản kháng (chỉ còn biết đợi đến ngày chết)  Mị là nạn nhân của sự mê tín thần quyền. - Hậu quả thật bi thảm :Mị sống cam chịu nhẫn nhục,cô trở nên câm lặng ( sống lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa)  cuộc sống ấy giết chết tuổi xuân,sức sống và hạnh phúc của Mị (hình ảnh căn buồng Mị ở : ý nghĩa thực + tượng trưng ) => Tác giả nhân danh QUYỀN SỐNG của con người để tố cáo chế độ phong kiến miền núi tàn bạo và Mị là điển hình cho những người phụ nữ nghèo bị áp bức  nhân đạo. b /.Sức sống tiềm ẩn, khát khao tự do - Khi vừa bị cướp về làm dâu, Mị uất ức đau đớn, đêm nào cũng khóc  định ăn lá ngón tự tử nhưng thương cha Mị không được chết (lấy ai làm để mỗi năm trả lãi một nöông ngoâ).

<span class='text_page_counter'>(52)</span>  ý thức được cuộc sống tủi nhục nên tìm đến cái chết như một phương tiện để giải thoát. Đột biến thứ nhất: Trong ñeâm tình muøa xuaân -Taùc nhaân : + Khung cảnh : tươi vui, tràn đầy sức sống + Hơi rượu :quên hiện tại, nhớ về quá khứ + Tiếng sáo: Từ chỗ là một hình tượng ngoại cảnh (vọng lại, rủ bạn … ) tiếng sáo đã xaâm nhaäp vaøo noäi taâm cuûa Mò.  Tất cả khơi dậy quá khứ, khát khao tự do -Dieãn bieán taâm traïng : + Nhớ lại ngày xưa, với những kỉ niệm, niềm vui, hạnh phúc. + Sức sống ngày xưa bị đè nén bỗng bật dậy – cô ý thức lại trước cảnh đau xót dai dẳng đời mình, Mị muốn chết. + Từ những sôi sục nội tâm Mị đã hành động cụ thể : xắn mỡ, thắp đèn cho sáng căn phòng, quấn lại tóc, sửa soạn lại váy áo định đi chơi  lòng ham sống trỗi dậy mạnh meõ + Nhưng bị A Sử dập tắt ngay : trói đứng Mị, tắt đèn , khép cửa buồng lại, đi ra – cả đêm Mị luôn bị giằng xé giữa niềm khao khát tự do và thực tại nghiệt ngã.  Thực tại nghiệt ngã lại bóp chết khát khao ở Mị Đột biến thứ hai Đêm cởi trói cho A Phủ -Hoàn cảnh: A Phủ làm mất bò, bị trói đứng Mị đang ở trạng thái vô cảm - Dieãn bieán taâm traïng : + Mị thản nhiên ngồi thổi lửa hơ tay, vì : - Đó là cảnh thường xuyên ở nhà Pá Tra -Nỗi đau của Mị quá lớn  không còn khả năng quan tâm đến người khác. + Khi nhìn thấy dòng nước mắt của A Phủ, Mị bừng tỉnh khỏi trạng thái vô cảm : - Nhớ về quá khứ, liên tưởng đến số phận của những người đồng cảnh ngộ đồng cảm. -Nhận thức được sự tàn ác của PáTra. -Muốn cứu người – Thương người + Mị hành động táo bạo: cắt dây cởi trói cho A Phủ. + Thương mình - giải thoát cho mình (chạy theo A Phủ) => Hành động có ý nghĩa phản kháng quyết liệt chống lại cả cường quyền và thần quyeàn. 2. Nhaân vaät A Phuû : a.Soá phaän noâ leä, tuûi nhuïc: * Trước khi vào nhà thống lí: “ Biết đúc lưỡi cày, lưỡi cuốc, cày giỏi và đi săn bò tót cũng bạo”, “ A Phủ khoẻ chạy nhanh” Nhiều cô gái mơ ước: Đứa nào được A Phủ cũng bằng được con trâu tốt trong nhà”. - Moà coâi : cha meï cheát vì beänh dòch. - Bị bắt, đem bán, đổi lấy thóc. - Quanh năm làm thuê, làm mướn nuôi thân..

<span class='text_page_counter'>(53)</span> - Vì đánh A Sử nên bị bắt phải nộp 100 đồng bạc trắng, A Phủ mượn tiền PáTra  người ở trừ nợ. * Sống nô lệ ở nhà thống lí : - Bị bóc lột sức lao động: làm đủ việc - Bị đối xử tàn tệ : + Bị đánh dã man (lúc xử kiện ) + Bị trói đứng cho đến chết vì làm mất bo.ø - Bị áp chế về mặt tinh thần: chấp nhận làm nô lệ vì đã mượn tiền; phải làm cỗ đãi kẻ đánh mình; tự lấy dây, đóng cọc để trói mình b.Nét đẹp trong tính cách - Duõng caûm, gan goùc + Bị bắt đem đổi thóc, A Phủ bỏ trốn lên núi +Đánh A Sử vì hắn dám phá cuộc chơi của trai làng. - Phóng khoáng, ưa tự do: cả tháng chỉ ở ngoài rừng.  Những nét đẹp trong tính cách đó sẽ dẫn A Phủ đến với cách mạng, hòa nhập vào lí tưởng cộng sản 3. So sánh tính cách và số phận của Mỵ và A Phủ. a) Sự giống nhau: - Về tính cách: Cả hai đều là những người lao động, có những phẩm chất tốt đẹp, cả hai đều còn trẻ. - Về số phận: + Cả hai đều là những người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột và cuối cùng, kẻ thì thành con dâu gạt nợ, kẻ thì thành đứa ở gạt nợ cho nhà thống lý Pa Tra. + Sau một thời gian bị vùi dập, cả hai đều an phận, chấp nhận cuộc sống tôi đòi. Nhưng cuối cùng, cả hai đều đi từ đấu tranh tự phát, tự giải phóng cho mình và cuối cùng đi đến đấu tranh tự giác. b) Sự khác nhau: - Về tính cách : + Mị là cô gái có tâm hồn nhạy cảm (nhắc lại những vấn đề về sự hồi sinh trong tâm hồn cô trong đêm xuân và việc cởi trói cho A Phủ.) + Phủ cứng cỏi, gan dạ, ngay thẳng (với A Phủ, tác giả chủ yếu miêu tả hành động hơn là biểu hiện nội tâm) - Về số phận. + Mỵ tiêu biểu cho những người phụ nữ miền núi, thân phận thấp hơn cả con ngựa trong nhà thống lý + A Phủ tiêu biểu cho người thanh niên nghèo miền núi, là công cụ lao động cho những kẻ bóc lột. Toång keát : -Ngheä thuaät : + Xây dựng nhân vật: diễn tả tâm lí nhân vật đặc sắc, hợp logic; nhân vật mang tính tieâu bieåu cho giai caáp vaø coù neùt caù tính khaù roõ. + Nghệ thuật dựng cảnh mang đậm sắc thái miền núi. Giá trị: Vợ chồng A Phủ đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cuộc sống và con người miền núi, tác phẩm mang dấu ấn hiện thực và mang tính nhân đạo rõ nét. Luyeän taäp: Gợi ý giải bài tập..

<span class='text_page_counter'>(54)</span> Giá trị nhân đạo hiểu một cách giản dị là tình cảm, thái độ của nhà văn dựa trên các nguyên tắc và đạo lí làm người mang tính chuẩn mực và tiến bộ của thời đại được thể hiện qua cái nhìn về cuộc sống và con người từ bối cảnh cụ thể trong tác phẩm. Các phương diện của giá trị nhân đạo thường được cụ thể hoá qua - Niềm cảm thông, thương xót những con người bất hạnh, bị chà đạp, bị lăng nhục bởi xã hội hoặc một tầng lớp thống trị nào đó. - Thái độ thấu hiểu, trân trọng những đức tính cao quý của con người trong nghịch cảnh. Baøi 14. RỪNG XAØ NU (Nguyeãn Trung Thaønh). I. Giới thiệu : 1.Taùc giaû : Nguyeãn Trung Thaønh ( 5/ 9/ 1932 ) + Tªn khai sinh cña NguyÔn Trung Thµnh (Nguyªn Ngäc) lµ NguyÔn Ngäc B¸u. ¤ng sinh n¨m 1932, quª ë Th¨ng B×nh, Qu¶ng Nam. + Nguyễn Trung Thành là bút danh đợc nhà văn Nguyên Ngọc dùng trong thời gian hoạt động ở chiến trờng miền Nam thời chống Mĩ. + Năm 1950, ông vào bộ đội, sau đó làm phóng viên báo quân đội nhân dân liên khu V. N¨m 1962, «ng t×nh nguyÖn trë vÒ chiÕn trêng miÒn Nam. + Tác phẩm: Đất nớc đứng lên- giải nhất, giải thởng Hội văn nghệ Việt Nam năm 1954- 1955; Trªn quª h¬ng nh÷ng anh hïng §iÖn Ngäc (1969); §Êt Qu¶ng (1971- 1974); … + Năm 2000, ông đợc tặng giải thởng Nhà nớc về văn học nghệ thuật. Rõng xµ nu (1965) ra m¾t lÇn ®Çu tiªn trªn T¹p chÝ v¨n nghÖ qu©n gi¶i phãng miÒn Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó đợc in trong tập Trên quê hơng những anh hùng §iÖn Ngäc. 1. Toùm taét taùc phaåm : Truyện kể về Tnú, người con của dân làng Xô Man, Tnú cùng Mai làm liên lạc cho anh Quyeát (caùn boä caùch maïng). Moät hoâm ñi ñöa thö, Tnuù bò ñòch baét. Ba naêm sau, Tnú vượt ngục trở về, sau đó Tnú và Mai thành vợ chồng và sinh được đứa con trai đầu lòng. Thằng Dục dẫn một tiểu đội lên bắt Tnú, và đàn áp dân làng Xô Man. Bắt không được Tnú, Thằng Dục đã đánh Mai và con. Vì thương vợ con Tnú đã xông ra cứu, nhưng con anh và Mai đều bị chết. Bọn giặc bắt anh tra tấn đốt cháy mười đầu ngón tay. Trước hành động dã man đó, dân làng Xô Man mà người cầm đầu là cụ Mết đã đồng khởi giết bọn thằng Dục, cứu được Tnú. Sau đó Tnú đi lực lượng và hôm nay trở veà thaêm laøng. 2.Chủ đề : Thông qua câu chuyện bi tráng về số phận cuộc đời của nhân vật chính là Tnú, tác giả ca ngợi tập thể dân làng Xô Man anh hùng trong kháng chiến chống Mĩ . II. Đọc- hiểu : Nhan đề tác phẩm + Nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm của mình là "làng Xô Man" hay đơn giản hơn là "Tnó"- nh©n vËt chÝnh cña truyÖn. Nhng nÕu nh vËy t¸c phÈm sÏ mÊt ®i søc kh¸i qu¸t vµ sù gîi më. + Đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu dờng nh đã chứa đựng đợc cảm xúc của nhà văn và linh hồn t tởng chủ đề tác phẩm. + Hơn nữa, Rừng xà nu còn ẩn chứa cái khí vị khó quên của đất rừng Tây Nguyên, gợi lên vẻ đẹp hùng tráng, man dại- một sức sống bất diệt của cây và tinh thần bất khuất của ngêi. + Bởi vậy, Rừng xà nu mang nhiều tầng nghĩa bao gồm cả ý nghĩa tả thực lẫn ý nghĩa tợng trng. Hai lớp ý nghĩa này xuyên thấm vào nhau toát lên hình tợng sinh động của xà nu, đa lại không khí Tây Nguyên rất đậm đà cho tác phẩm. H×nh tîng rõng xµ nu.

<span class='text_page_counter'>(55)</span> + Më ®Çu t¸c phÈm, nhµ v¨n tËp trung giíi thiÖu vÒ rõng xµ nu, mét rõng xµ nu cô thÓ đợc xác định rõ: "nằm trong tầm đại bác của đồn giặc", nằm trong sự hủy diệt bạo tàn: "Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào đồi xà nu cạnh con nớc lớn". Truyện mở ra một cuộc đụng độ lịch sử quyết liệt giữa làng Xô Man với bọn MĩDiệm. Rừng xà nu cũng nằm trong cuộc đụng độ ấy. Từ chỗ tả thực, rất tự nhiên hình ảnh xà nu đã trở thành một biểu tợng. Xà nu hiện ra với t thế của sự sống đang đối diện với cái chết, sự sinh tồn đối diện với sự hủy diệt. Cách mở của câu chuyện thật gọn gàng, cô đúc mà vẫn đầy uy nghi tầm vóc. + Với kĩ thuật quay toàn cảnh, Nguyễn Trung Thành đã phát hiện ra: "cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là không bị thơng". Tác giả đã chứng kiến nỗi đau của xà nu: "có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào nh một trận bão". Rồi "có những cây con vừa lớn ngang tầm ngực ngời bị đạn đại bác chặt đứt làm đôi. ở những cây đó, nhựa còn trong, chất dầu còn loãng, vết thơng không lành đợc cứ loét mãi ra, năm mêi h«m sau th× c©y chÕt". C¸c tõ ng÷: vÕt th¬ng, côc m¸u lín, loÐt m·i ra, chÕt,… lµ những từ ngữ diễn tả nỗi đau của con ngời. Nhà văn đã mang nỗi đau của con ngời để biểu đạt cho nỗi đau của cây. Do vậy, nỗi đau của cây tác động đến da thịt con ngời gợi lên cảm giác đau đớn. + Nhng tác giả đã phát hiện đợc sức sống mãnh liệt của cây xà nu: "trong rừng ít có loại cây sinh sôi nảy nở khỏe nh vậy". Đây là yếu tố cơ bản để xà nu vợt qua giới hạn của sù sèng vµ c¸i chÕt. Sù sèng tån t¹i ngay trong sù hñy diÖt: "C¹nh mét c©y xµ nu míi ng· gục đã có bốn năm cây con mọc lên". Tác giả sử dụng cách nói đối lập (ngã gục- mọc lên; một- bốn năm) để khẳng định một khát vọng thật của sự sống. Cây xà nu đã tự đứng lªn b»ng søc sèng m·nh liÖt cña m×nh: "…c©y con mäc lªn, h×nh nhän mòi tªn lao th¼ng lên bầu trời". Xà nu đẹp một vẻ đẹp hùng tráng, man dại đẫm tố chất núi rừng. Xµ nu kh«ng nh÷ng tù biÕt b¶o vÖ m×nh mµ cßn b¶o vÖ sù sèng, b¶o vÖ lµng X« Man: "Cø thÕ hai ba n¨m nay, rõng xµ nu ìn tÊm ngùc lín ra che chë cho lµng". H×nh tîng xµ nu chứa đựng tinh thần quả cảm, một sự kiêu hãnh của vị trí đứng đầu trong bão táp chiến tranh. + Trong quá trình miêu tả rừng xà nu, cây xà nu, nhà văn đã sử dụng nhân hóa nh một phép tu từ chủ đạo. Ông luôn lấy nỗi đau và vẻ đẹp của con ngời làm chuẩn mực để nói vÒ xµ nu khiÕn xµ nu trë thµnh mét Èn dô cho con ngêi, mét biÓu tîng cña T©y Nguyªn bÊt khuÊt, kiªn cêng. C¸c thÕ hÖ con ngêi lµng X« Man còng t¬ng øng víi c¸c thÕ hÖ c©y xµ nu. Cô MÕt cã bé ngùc "c¨ng nh mét c©y xµ nu lín", tay "sÇn sïi nh vá c©y xµ nu". Cô MÕt chÝnh lµ c©y xà nu cổ thụ hội tụ tất cả sức mạnh của rừng xà nu. Tnú cờng tráng nh một cây xà nu đợc tôi luyện trong đau thơng đã trởng thành mà không đại bác nào giết nổi. Dít trởng thành trong thö th¸ch víi b¶n lÜnh vµ nghÞ lùc phi thêng còng gièng nh xµ nu phãng lªn rÊt nhanh tiếp lấy ánh mặt trời. Cậu bé Heng là mầm xà nu đang đợc các thế hệ xà nu trao cho những tố chất cần thiết để sẵn sàng thay thế trong cuộc chiến cam go còn có thể phải kÐo dµi "n¨m n¨m, mêi n¨m hoÆc l©u h¬n n÷a". + Câu văn mở đầu đợc lặp lại ở cuối tác phẩm (đứng trên đồi xà nu ấy trông ra xa đến hết tầm mắt cũng không thấy gì khác ngoài những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời) gợi ra c¶nh rõng xµ nu hïng tr¸ng, kiªu dòng vµ bÊt diÖt, gîi ra sù bÊt diÖt, kiªu dòng vµ hïng tr¸ng cña con ngêi T©y Nguyªn nãi riªng vµ con ngêi ViÖt Nam nãi chung trong cuéc kháng chiến chống Mĩ cứu nớc vĩ đại. ấn tợng đọng lại trong kí ức ngời đọc mãi mãi chính là cái bát ngát của cánh rừng xà nu kiêu dũng đó. Cuộc đời Tnú và cuộc nổi dậy của dân làng Xô Man Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hởng sử thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tnú có cuộc đời t nhng không đợc quan sát từ cái nhìn đời t. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để phản ánh đời t của Tnú. + PhÈm chÊt, tÝnh c¸ch cña ngêi anh hïng: - Gan gãc, t¸o b¹o, dòng c¶m, trung thùc (khi cßn nhá cïng Mai vµo rõng tiÕp tÕ cho anh QuyÕt). - Lòng trung thành với cách mạng đợc bộc lộ qua thử thách (bị giặc bắt, tra tấn, lng Tnó ngang däc vÕt dao chÐm cña kÎ thï nhng anh vÉn gan gãc, trung thµnh). - Số phận đau thơng: không cứu đợc vợ con, bản thân bị bắt, bị tra tấn (bị đốt 10 đầu ngãn tay). - Quật khởi đứng dậy cầm vũ khí tiêu diệt bọn ác ôn. + "Tnú không cứu đợc vợ con"- cụ Mết nhắc tới 4 lần để nhấn mạnh: khi cha cầm vũ khÝ, Tnó chØ cã hai bµn tay kh«ng th× ngay c¶ nh÷ng ngêi th¬ng yªu nhÊt Tnó còng kh«ng cứu đợc. Câu nói đó của cụ Mết đã khắc sâu một chân lí: chỉ có cầm vũ khí đứng lên mới là con đờng sống duy nhất, mới bảo vệ đợc những gì thân yêu, thiêng liêng nhất. Chân lí c¸ch m¹ng ®i ra tõ chÝnh thùc tÕ m¸u x¬ng, tÝnh m¹ng cña d©n téc, cña nh÷ng ngêi th¬ng yªu nªn ch©n lÝ Êy ph¶i ghi t¹c vµo x¬ng cèt, t©m kh¶m vµ truyÒn l¹i cho c¸c thÕ hÖ tiÕp nèi..

<span class='text_page_counter'>(56)</span> + Số phận của ngời anh hùng gắn liền với số phận cộng đồng. Cuộc đời Tnú đi từ đau thơng đến cầm vũ khí thì cuộc đời của làng Xô Man cũng vậy. - Khi cha cÇm vò khÝ, lµng X« Man còng ®Çy ®au th¬ng: Bän giÆc ®i lïng nh hïm beo, tiÕng cêi "s»ng sÆc" cña nh÷ng th»ng ¸c «n, tiÕng gËy s¾t nÖn "hï hù" xuèng th©n ng êi. Anh Xút bị treo cổ. Bà Nhan bị chặt đầu. Mẹ con Mai bị chết rất thảm. Tnú bị đốt 10 đầu ngãn tay. - Cuộc sống ngột ngạt dòn nén đau thơng, căm thù. Đên Tnú bị đốt 10 đầu ngón tay, làng Xô Man đã nổi dậy "ào ào rung động", "xác mời tên giặc ngổn ngang", tiếng cụ Mết nh mệnh lệnh chiến đấu: "Thế là bắt đầu rồi, đốt lửa lên!" Đó là sự nổi dậy đồng khởi làm rung chuyển núi rừng. Câu chuyện về cuộc đời một con ngời trở thành câu chuyện một thời, một nớc. Nh vậy, câu chuyện về cuộc đời Tnú đã mang ý nghĩa cuộc đời một dân tộc. Nhân vật sử thi của Nguyễn Trung Thành gánh trên vai sø mÖnh lÞch sö to lín. Gợi ý giải bài tập. Tham khảo đoạn trích dưới đây Bàn tay Tnú Thoạt đầu là hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lăn, bàn tay chú bé Tnú dắt cô bé Mai lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu vài lon gạo đi nuôi cán bộ Quyết trốn ở rừng; bàn tay cầm viên phấn bằng đá trắng, lấy từ núi Ngọc Linh về, vết lên bảng đen đan bằng nứa hun khói xà nu, để học chữ I dài chữ o thêm móc thành a; bàn tay cần đá tự đập vào đầu chảy máu chỉ vì học “dốt”; bàn tay mang công văn đi làm liên lạc; hai bàn tay mà Mai đã cầm lấy, ở gốc cây to đầu rừng lách, khi Tnú thoát ngục Công Tum, bàn tay duyên nợ Mai vừa cầm vừa ứa nước mắt khóc, “không phải như đứa trẻ nữa mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa thương yêu”. Bàn tay nguyên vẹn đó không còn. Cụ Mết có bàn tay nặng trịch nắm chặt như kìm sắt hỏi: “Mười ngôn tay mày vẫn cụt thế à [...] ừ... Câu hỏi lúc đó rất đột ngột, như người sực tỉnh, chợt nhớ một điều hệ trọng. Ông cụ hỏi và tự trả lời. […] Cụ giận dữ nói tiếp: ? “... Được! Ngón tay còn hai đốt cũng bắn súng được. Mày có đi qua chỗ rừng xà nu gần con nước lớn không? Nó vẫn sống đấy”. Đúng thế, cơn người, thiên nhiên, đất nước vẫn sống, vượt lên mọi đoạ đày, chém giết. […] Bàn tay Tnú là bàn tay tín nghĩa, không biết bội phản. Cũng là một bàn tay chỉ đường lưng Tnú ngang dọc những vết đao chém – Cộng sản đâu, chỉ ra! Tnú nói nhỏ: - Cởi trói đã, tay mới chỉ được. Chúng nó cởi trói một tay, Tnú để bàn tay ấy lên bụng mình: - ở đây này. Lại thêm những vết dao băm trên lưng Tnú, máu ứa đông đặc, tím thâm như nhựa xà nu. […] Thằng Dục tẩm dầu vào giẻ rồi quấn lên mười ngón tay Tnú, mười điểm chót, bén nhạy nhất, của hệ thần kinh. Dầu xà nu bắt lửa rất nhanh. Nó châm đốt dần từng ngón tay Tnú, như muốn thong thả nhấm nháp cái thích Tnú đao phủ đó: “Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc”. Dầu xà nu rất thơm nay khét lẹt mùi thịt cháy. […] Bản năng yêu thương đã khiến Tnú xông ra cứu vợ con. Nhưng vợ con vẫn chết, còn mình bị tra tấn. Vì, như cụ Mết nói: “... mày chỉ có hai bàn tay trắng, chúng nó trói mày lại [...] Tau không nhảy ra cứu mày. Tau cũng chỉ có hai bàn tay không?. Những bàn tay trắng, bàn tay không đó, có lí trí hướng đẫn, được tổ chức lại, sẽ làm nổi cơ đồ. Cụ Mết gọi thanh niên, đi tìm vũ khí. Câu chuyện đi tới đỉnh điểm với chân lí giản dị, sáng chói: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”. “Lửa đã tắt trên mười đầu ngón tay Tnú”. Nhưng mười ngọn đuốc thịt da đó đã kịp làm mồi châm ngọn lửa nổi đậy. Sau tiếng thét của Tnú, dân làng bột phát giết chết mười tên giặc. Rồi vết thương lành lại. Mỗi ngón tay cụt một đốt. Còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, bắn súng. Như cây xà nu bị mảnh đạn ứ nhựa tím bầm còn vươn cành đứng đó. Bàn tay không như cũ, nhận thức cũng không thể như cũ. Tnú đã phải trả giá đắt nhưng có được một kinh nghiệm lờn: “Chúng nó đứa nâu cũng là thằng Dục”. [...] Những thằng Dục mở mắt trắng dã nhìn tang chứng tội ác hiển nhiên của chúng. Nhìn bàn tay quả báo, bàn tay cụt mười ngón đang xoè ra bóp cổ chúng, không ngờ sự trừng phạt lại đến nhanh chóng và ghê gớm như vậy..

<span class='text_page_counter'>(57)</span> Baøi 15. NHỮNG ĐỨA CON (Nguyeãn Thi). I/Tìm hieåu chung: 1/ Taùc giaû: -Tên khai sinh : Nguyễn Hoàng Ca, bút danh khác Nguyễn Ngọc Tấn (1928-1968) - Queâ quaùn: Nam Ñònh - Mồ côi cha sớm, mẹ đi bước nữa, sống nhờ họ hàng,vất vả, tủi cực từ nhỏ . - Năm 1943 vào Sài Gòn cùng người anh, vừa đi làm kiếm sống vừa tự học. - Năm 1945 tham gia cách mạng rồi gia nhập lực lượng vũ trang -Trong kháng chiến chống Pháp, làm công tác tuyên huấn, vừa chiến đấu, vừa hoạt động văn nghệ . - Năm 1954 tập kết ra Bắc công tác ở toà soạn tạp chí Văn nghệ Quân Đội . -Sáng tác nhiều thể loại : bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết … - Năm 1962 tình nguyện trở lại chiến trường miến Nam, công tác tại Cục chính trị Quân giải phóng miền Nam, một trong những thành viên sáng lập và phụ trách “Tạp chí Vaên ngheä Quaân giaûi phoùng”. -Naêm 1968 hi sinh trong cuoäc toång tieán coâng noåi daäy teát Maäu thaân taïi Saøi Goøn . -Năm 2000 được tặng giải thường HồChí Minh về Văn học Nghệ thuật. Tác phẩm tiêu biểu : Trăng sáng (1960), Đôi bạn (1962), Nguyễn Ngọc Tấn Nguyễn Thi toàn tập … 2/ Taùc phaåm: a/ Hoàn cảnh sáng tác: Viết ngay trong những ngày chiến đấu ác liệt khi ông đang công tác ở Tạp chí Văn ngheä Quaân giaûi phoùng. b/ Ý nghĩa nhan đề: Truyện viết về những đứa con của một gia đình có truyền thống cách mạng, là hình ảnh thu nhỏ của cả miền Nam đau thương, anh dũng trong thời chống Mĩ, gánh chịu tang tóc do đế quốc Mĩ gây ra, đồng thời cũng lập được chiến tích lẫy lừng . Hình ảnh thu nhỏ của cả dân tộc Việt Nam, muôn người là một, đoàn kết chiến đấu giải phóng quê hương, xây dựng đất nước. c/ Chủ đề: Qua nhân vật Việt và Chiến nổi bật lên tình yêu đối với quê hương, đất nước . Thù nhà, nợ nước là động lực tinh thần và tình cảm giúp thế hệ trẻ Việt Nam tiếp nối cha ông đứng lên anh dũng đánh Mĩ. d/ Toùm taét taùc phaåm( SGK) II/ Đọc hiểu tác phẩm: 1.Tình huoáng truyeän: Ñaây laø caâu chuyeän cuûa gia ñình anh giaûi phoùng quaân teân Vieät. Nhaân vaät nay rôi vaøo một tình huống đặc biệt: Trong một trận đánh, anh bị thương nặng phải nằm lại giữa.

<span class='text_page_counter'>(58)</span> chiến trường, nhiều lần ngất đi tỉnh lại. Truyện được kể theo dòng nội tâm của nhân vật khi đứt, khi nối (ngất đi, tỉnh lại). 2. Những thành viên trong gia đình : - Gan góc, dũng cảm , khao khát được chiến đấu giết giặc - Caêm thuø giaëc saâu saéc. - Giàu tình nghĩa, rất mực thuỷ chung, son sắt với quê hương và cách mạng .  Mỗi nhân vật có một nét độc đáo riêng biệt . a/ Nhaân vaät chuù Naêm: - Ghi lại tất cả những sự kiện diễn ra trong gia đình  kết tinh đầy đủ truyền thống của gia đình. -Là người lao động chất phác nhưng rất đỗi giàu tình cảm, cũng dạt dào cảm xúc khi cất lên điệu hò và Việt chính là hiện thân, là nơi gởi gắm những câu hò của chú Naêm. - Chú Năm chính là khúc thượng nguồn trong “ dòng sông truyền thống” của gia đình Vieät . b/ Nhaân vaät maù Vieät : - Cũng là hiện thân của truyền thống, nhân vật phụ nữ mang đậm tính cách của Nguyeãn Thi. - Raát gan goùc, caêm thuø giaëc saâu saéc . - Rất mực thương chồng, thương con, đảm đang, tháo vát, nén chặt nỗi đau thương để nuôi con, đánh giặc.  Một người mẹ suốt đời vất va, lam lũ nhưng rất đỗi kiên cường, cao cả . c/ Nhaân vaät Chieán: - Trải qua hoàn cảnh bi thương, sớm trưởng thành, già dặn trước tuổi. - Mang những nét đepï của mẹ:gan gó, đảm đang, tháo vát, căm thù giặc sâu sắc - Có một tính cách rất đa dạng : là cô gái mới lớn, tính khí còn trẻ con, biết nhường nhịn e, trừ việc đi “ bộ đội”, thực hiện lời thề như “dao chém đá” : Nếu giặc còn thì tao maát .  Chiến mang nét tiêu biểu của phụ nữ thời chiến, đương đầu với hoàn cảnh bi thương, vươn lên mạnh mẽ để chiến đấu anh dũng . d/ Nhaân vaät Vieät : -Đứa con tiêu biểu trong gia đình . -Tính tình dễ mến, trẻ con, hiếu động, hay giành phần hơn với chị. -Vô tư, trong sáng, mọi việc đều phó thác cho chị “lăn kềnh ra ván cười khì khì … chụp con đom đóm úp trong lòng tay” - Yêu quý đồng đội nhưng giấu việc có chị, giấu chị “như giấu của riêng vì sợ mất chò”. -Chững chạc trong tư thế chiến sĩ trẻ, dũng cảm, kiên cường, gan góc, quả cảm, không khuất phục truớc quân thù. -Luôn trong tư thế chiến đấu với giặc . *Nhân vật Việt tiêu biểu mang đầy đủ phẩm chất của người Việt Nam : kiên cường, bất khuất, không sợ hi sinh… 2/ Vaøi neùt ngheä thuaät : - Truyện đặt trong bối cảnh đặc biệt, hoàn cảnh khác thường..

<span class='text_page_counter'>(59)</span> - Giọng văn trần thuật đặc sắc, khắc hoạ miêu tả tâm lí sắc sảo. Ngôn ngữ phong phú, chọn lọc, giàu chất tạo hình và đậm chất Nam Bộ … III/ Toång keát : Tác phẩm miêu tả đặc sắc những nhân vật trong gia đình Việt, mỗi người đều mang nét tính cách của người dân Việt Nam : kiên cường, bất khuất, trung hậu, đảm đang, dũng cảm đứng lên tiêu diệt giặc bảo vệ độc lập cho nước nhà. IV.luyeän taäp -Nh©n vËt ChiÕn vµ ViÖt cã nh÷ng ®iÓm gièng nhau + Hai chị em sinh ra trong một gia đình có thù sâu với đế quốc và phong kiến ,có truyền thèng c¸ch m¹ng . + §Òu cã chung mét ý nguyÖn tr¶ thï cho ba ,m¸ . + Sống hoà thuận vui vẻ, biết bảo ban nhau vâng lời chú năm. Cả hai chị em đều có c¸ch sèng tù lËp kh«ng phiÒn hµ ngêi kh¸c. -Kh¸c nhau + Giíi tÝnh, tuæi t¸c + Việt hay tranh với chị ( soi ếch cũng soi đợc nhiều hơn, bắn thằng Mĩ trên dòng sông §Þnh Thuû còng lµ cña ViÖt . + ChÞ ChiÕn víi t c¸ch ngêi chÞ nªn nhêng nhÞn em, ch¨m sãc em. Tuy hay giµnh, tranh phÇn h¬n nhng ViÖt biÕt nghe lêi chÞ kh«ng bíng bØnh, ®Çu bß ®Çu bíu . Tham khảo đoạn trích dưới đây -Việt vẫn đợc đồng đội gọi bằng cái tên âu yếm Cậu T .Trận chiến đấu ở rừng cao su với bọn Mĩ ,Việt tiêu diệt một xe bọc thép của địch nhng bị thơng khắp ngời, hai mắt không nhìn thấy gì. Lúc tỉnh,Việt cố lết từng đoạn để đi tìm đồng đội. Nhiều lúc Việt ngất đi . - Những lúc thiếp đi,Việt lại nh gặp từng ngời thân trong gia đình. Việt nhớ lúc ở nhà cùng chị Chiến theo du kích đánh tàu Mĩ trên dòng sông Định Thuỷ. Một thằng Mĩ bị b¾n chÕt. ChÞ ChiÕn nhêng c«ng Êy cho ViÖt. Nghe tiÕng Õch, nh¸i kªu,ViÖt nhí nh÷ng đêm cùng chị Chiến đi bắt ếch, hai chị em cứ giành nhau mình bắt đợc nhiều nhất . -Trong gia đình lúc này chỉ còn lại chú Năm. Ông nội bị lính tổng phòng bắn chết. Bà nội bị bọn lính đánh, bệnh rồi chết. Ba Việt tham gia kháng chiến hồi chín năm bị bọn Tây và tay sai lùng bắt, chặt đầu. Má và chị em Chiến Việt đi đòi đầu ba. Má cũng hi sinh vì đi lợm vũ khí cho đằng mình bị đại bác ở Mỏ Cày bắn. Tất cả mọi chi tiết đều đợc chú Năm ghi lạỉ trong cuốn sổ gia đình. Việt không thể quên . - Ngày chị em Chiến Việt ghi tên tòng quân, ai cũng muốn đi trớc. Chú Năm phải đứng ra nói với anh cán bộ về lấy quân để hai chị em cùng đợc đi. Việt nhớ cái đêm trớc ngày lên đờng, chị Chiến giải quyết mọi việc. Nào là cho xã mợn nhà dạy học. Thằng út em ở với chú Năm. Ruộng đất giao lại cho chi bộ chia cho bà con. Hai chị em quyết định khiêng bµn thê ba, m¸ sang göi nhµ chó N¨m. TÊt c¶ nh÷ng chi tiÕt Êy cø sèng dËy trong lßng ViÖt . -Đến ngày thứ ba, anh Tánh dẫn tiểu đội đi tìm, mấy lần đụng địch. Cuối cùng gặp đợc Cậu T trong một bụi rậm. Không nhanh miệng lên tiếng trớc thì đã ăn đạn của Cậu T rồi. Một ngón tay cậu vẫn còn nhúc nhích, một viên đạn đẫ lên nòng. Việt đợc đa về điều trị ở một bệnh xá dã chiến. Sức khoẻ hồi phục dần. Anh em trong tiểu đội giục Việt viết th cho chÞ ChiÕn. ViÖt nhí chÞ ChiÕn, muèn viÕt th nhng kh«ng biÕt viÕt sao. ViÖt còng kh«ng muốn kể chiến công của mình vì cha thấm gì với thành tích của đơn vị và cha đáp ứng đợc nguyện vọng của Má . Baøi 16. CHIEÁC THUYEÀN NGOAØI XA(Nguyễn Minh Châu). I.TiÓu dÉn: 1.T¸c gi¶: - NguyÔn Minh Ch©u (1930-1989).

<span class='text_page_counter'>(60)</span> - Quª: Lµng Th¬i ,x· Quúnh H¶i, huyÖn Quúnh Löu, tØnh NghÖ An. - Đầu 1950 gia nhập quân đội - Từ 1952 đến 1958 công tác và chiến đấu tại sử đoàn 320. - Năm 1960 công tác tại phòng văn nghệ quân đội. - Năm 1972 đửợc kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam. 2. Sù nghiÖp s¸ng t¸c: - B¾t ®Çu viÕt v¨n tõ 1954. +Trong chiÕn tranh: * Nghiªng vÒ c¶m høng anh hïng ca vµ cã khuynh höíng minh häa. * Phản ánh, tái hiện bức hiện bức tranh hiện thực sinh động về con ngửời và cuộc sống cña nh©n d©n trong kh¸ng chiÕn chèng Mü. * T¸c phÈm: Cöa s«ng (1967), Nh÷ng vïng trêi kh¸c nhau(1970), DÊu ch©n ngöêi lÝnh (1972)... +Sau chiÕn tranh: Khao khát đổi mới tử duy nghệ thuật - Rất nhậy cảm trửớc niềm tin yêu ấm áp của con ngửời, trửớc sự can đảm và tấm lòng bao dung cña ngöêi phô n÷. - Tác phẩm chính: Ngửời đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (1983), Bến quê (1987)... 2. T¸c phÈm: -Hoµn c¶nh s¸ng t¸c: +Th¸ng 8- 1983 +In trong tËp truyÖn ng¾n cïng tªn, NXB TP míi, HN, 1987 3.Tãm t¾t: Theo yêu cầu của trởng phòng, nghệ sĩ Phùng đến vùng biển là nơi anh đã từng chiến đấu để chụp một tấm ảnh cho cuốn lịch năm sau. Anh đã phát hiện và chụp đợc “một cảnh đắt trời cho” đó là cảnh một chiếc thuyền ngoài xa đang ẩn hiện trong biển sớm mờ sơng. Nhng khi chiếc thuyền vào bờ, anh đã kinh ngạc hết mức khi chứng kiến từ chính chiếc thuyền đó cảnh một ngời chồng đánh đập vợ hết sức dã man, đứa con vì muốn bảo vệ mẹ đã đánh trả lại cha mình. Những ngày sau đó, sự việc luôn lặp lại và Phùng đã ra tay can thiệp. Chánh án Đẩu (ngời đồng đội cũ của Phùng) mời ngời đàn bà đến toà án huyện. Tại đây, chị đã từ chối sự giúp đỡ của Đẩu và Phùng, nhất định không chịu bỏ chồng, đa ra lí do bằng chính câu chuyện kể về đời mình. Tấm ảnh của Phùng đợc chọn vµo bé lÞch n¨m sau, trë thµnh kiÖt t¸c nghÖ thuËt. Mçi lÇn ng¾m tÊm ¶nh, tuy lµ ¶nh tr¾ng ®en, bao giê Phïng còng thÊy hiÖn lªn c¸i mµu hång hång cña ¸nh s¬ng mai cïng với hình ảnh ngời đàn bà lam lũ, nghèo khổ. II. §äc hiÓu: 1. Hai phát hiện của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng : a.Ph¸t hiÖn thø nhÊt . -Vẻ đẹp trời cho mà cả đời bấm máy ngời nghệ sĩ chỉ có diễm phúc bắt gặp một lần: Mũi thuyÒn in trªn chiÕc mui khum khum... +Mét bøc tranh mùc tµu cña mét danh häa thêi cæ. +Toàn bộ khung cảnh từ đờng nét đến ánh sáng đều hài hòa +Một vẻ đẹp toàn bích *Không thể tìm thêm một từ ngữ nào ấn tợng hơn nữa để ca ngợi vẻ đẹp cổ điển mà lãng m¹n cña bøc tranh biÓn lóc b×nh minh. -C¶m xóc ngêi nghÖ sÜ: Ng©y ngÊt, bay bæng, chuyÓn sang kinh ng¹c, hôt hÉng Một cảnh đắt trời cho là cảnh chiếc thuyền lưới vó ẩn hiện trong biển sớm mờ sương có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào…Với người nghệ só, khung cảnh đó chứa đựng “chân lí của sự hoàn thiện” , làm dấy lên trong Phùng những xúc cảm thẩm mĩ, khiến tâm hồn anh như được gột rửa, thanh lọc. b.Ph¸t hiÖn thø hai: ®Çy nghÞch lÝ cña ngêi nghÖ sÜ nhiÕp ¶nh: Một cảnh tượng phi thẩm mĩ (một người đàn bà xấu xí, mệt mỏi; gã đàn ông to lớn, dữ dằn), phi nhân tính(người chồng đánh vợ một cách thô bạo, đứa con thương mẹ đã đánh lại cha,…)giống như trò đùa quái ác, làm phùng ngơ ngác không tin vào mắt mình. =>Qua hai phát hiện của người nghệ sĩ, nhà văn chỉ ra: cuộc đời chứa đựng nhiều nghịch lí, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bên ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong..

<span class='text_page_counter'>(61)</span> 1.Tính cách nhân vật a.Hình tượng người đàn bà hàng chài Ngoại hình: Trạc ngoài 40, thô kệch, mặt rỗ, khuôn mặt mệt mỏi tái ngắt, quần áo rách rưới bạc phếch -> Gây ấn tượng về một cuộc đời lam lũ, nhọc nhằn. - Cuộc sống: Cùng chồng bươi chải trên biển để nuôi con, thường xuyên bị chồng đánh đập hành hạ "ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nÆng. - Tính cách: Nhẫn nhịn, âm thầm chịu đựng mọi đớn đau, cực khổ vì cuộc sống mưu sinh trên biển cần có người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và vì những đứa con của bà cÇn ®ưîc sèng vµ lín lªn "...ph¶i sèng cho con chø kh«ng ph¶i sèng cho m×nh" -> Søc chịu đựng và đức hi sinh của người phụ nữ. - Lµ ngưêi yªu thư¬ng con c¸i: + Khi các con đã lớn Bà xin chồng lên bờ đánh mình. + Khi thằng Phác phát hiện ra bi kịch gia đình Bà vái lạy nó, ôm chầm lấy nó, vái lạy nã... -> Bà cảm thấy đau đớn vì rốt cuộc đã không sao tránh được cho con cái khỏi bị tổn thương. => Đây không phải là số phận của một người đàn bà cụ thể màlà số phận, cuộc đời của biết bao người đàn bà hàng chài khác -> Ngưêi phô n÷ bÊt h¹nh. Không hề cam chịu một cách vô lí, không hề nông nổi một cách ngờ nghệch mà thực ra chị là người rất sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời. Người phụ nữ này có một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ nhưng biết chắt chiu những hạnh phúc đời thường. Chị có ngoại hình xấu xí, thô kệch nhưng tâm hồn đẹp đẽ, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu đức hi sinh và lòng vị tha. b.Người đàn ông làng chài : - Lưng réng vµ cong như mét chiÕc thuyÒn. - M¸i tãc tæ qu¹. - Ch©n ®i ch÷ b¸t, bưíc tõng bưíc ch¾c ch¾n. - Hµng l«ng mµy ch¸y n¾ng. - Hai con mắt độc dữ. Vốn là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành và không bao giờ đánh đập vợ. -> Cuộc sống đói nghèo, lam lũ đã hằn in lên dáng vẻ khắc khổ của người đàn ôngà anh ta trở nên dữ dằn, vũ phu Người đàn ông vừa đáng bị lên án bởi sự độc ác, thói vũ phu, tính ích kỉ, tự cho phép mình cái quyền được hành hạ người khác để thõa mãn những bực dọc trong lòng. Nhưng anh ta cũng có chỗ có thể cảm thông,chia sẻ bởi xét đến cùng anh ta cũng là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt. Chánh án Đẩu : Có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng anh chưa thực sự đi sâu vào đời sống nhân dân. -> Lòng tốt là đáng quý nhưng chưa đủ, luật pháp là cần thiết nhưng phải đi sâu vào đời sống. * Nghê si Phùng: Nhạy cam trươc cái đđep cua thiên nhiên, xúc động mãnh liệt trươc tình trạng con ngươi phai chiu sư bạo hành cua cái xâu, cái ác. - Phát hiện vẻ đẹp tâm hồn con người: về người đàn bà - đằng sau vẻ xấu xí là một tâm hồn yêu thương, vị tha… Rút ra chân lý về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống. Nghệ thuật là chính cuộc đời và phải luôn luôn là cuộc đời. c. NghÖ sÜ Phïng: -Ngạc nhiên =>xúc động, phát hiện: Đằng sau vẻ ngoài xấu xí, thô kệch của ngời đàn bà lạc hậu lại lấp lánh tình thơng, lòng vị tha, đức hi sinh của ngời mẹ. => C©u chuyÖn Èn chøa nh÷ng triÕt lÝ s©u s¾c vÒ cuéc sèng vµ con ngêi:.

<span class='text_page_counter'>(62)</span> + Quan niệm hạnh phúc của con ngời nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhá bÐ mµ sao vÉn ngoµi tÇm tay. + Sự tàn bạo nhiều khi sinh ra từ sự đói nghèo, vất vả... --> ẩn hiện trong đó là nỗi u t của một trái tim nhân hậu; sự trân trọng hạt ngọc ẩn sâu bên trong tâm hồn con ngời lao động lam lũ, vất vả. * Chị em Phác: - ChÞ em th»ng Ph¸c: BÞ ®Èy vµo t×nh thÕ khã xöa khi ë trong hoµn c¶nh Êy. ChÞ th»ng Phác, một cô bé yếu ớt mà can đảm, đã phải vật lộn để tớc con dao trên tay thằng em trai, ngăn em làm việc trái luân thờng đạo lí. Cô bé là điểm tựa vững chắc của ngời mẹ đáng thơng, cô đã hành động đúng khi cản đợc việc làm dại dột của đứa em, lại biết chăm sóc, lo toan khi mẹ phải đến toà án huyện. Thằng Phác thơng mẹ theo kiểu một cậu bé con còn nhỏ, theo cái cách một đứa con trai vùng biển. Nó “lặng lẽ đa mấy ngón tay khẽ sờ trªn khu«n mÆt ngêi mÑ, nh muèn lau ®i nh÷ng giät níc m¾t chøa ®Çy trong nh÷ng nèt rç chặng chịt”, “nó tuyên bố với các bác ở xởng đóng thuyền rằng nó còn có mặt ở dới biển này thì mẹ nó không bị đánh”. Hình ảnh thằng Phác khiến ngời đọc cảm động bởi tình thơng mẹ dạt dào. b) Câu chuyện của người đàn bà ở tòa án huyện : - Đó là câu chuyện về cuộc đời nhiều bí ẩn và éo le của một người đàn bà hàng chài nghèo khổ, lam lũ… - Câu chuyện đã giúp nghệ sĩ Phùng hiểu về người đàn bà hàng chài (một phụ nữ nghèo khổ, nhẫn nhục, sống kín đáo, sâu sắc, thấu hiểu lẽ đời, có tâm hồn đẹp đẽ, giàu đức hi sinh và lòng vị tha); về người chồng của chị(bất kể lúc nào thấy khổ quá là lôi vợ ra đánh); chánh án Đẩu (có lòng tốt, sẵn sàng bảo vệ công lí nhưng kinh nghiệm sống chưa nhiều) và về chính mình (sẵn sàng làm tất cả vì sự công bằng nhưng lại đơn giản trong cách nhìn nhận, suy nghĩ). => Qua câu chuyện về cuộc đời của người đàn bà hàng chài và cách ứng xử của các nhân vật, nhà văn muốn gửi đến người đọc thông điệp: đừng nhìn cuộc đời, con người một cách đơn giản, phiến diện; phải đánh giá sự việc, hiện tượng trong các mối quan hệ đa diện, nhiều chiều. d. Tấm ảnh được chọn trong “bộ lịch năm ấy”: - Mỗi lần nhìn kĩ vào bức ảnh đen trắng, người nghệ sĩ thấy “hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai” (đó là chất thơ, vẻ đẹp lãng mạn của cuộc đời, cũng là biểu tượng của nghệ thuật). Và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ anh cũng thấy “người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh” (đó là hiện thân của những lam lũ, khốn khó, là sự thật cuộc đời). -Ý nghĩa: Nghệ thuật chân chính không thể tách rời, thoát li cuộc sống. Nghệ thuật chính là cuộc đời và phải vì cuộc đời. 2. Vài nét đặc sắc về nghệ thuật: -Cốt truyện giản dị mà độc đáo +Tình huống mang ý nghĩa khám phá về đời sống +Tình huống truyện đã đợc đẩy lên cao trào và càng xoáy sâu hơn nữa để phát hiện tính cách con ngời, phát hiện sự thật cuộc đời. -Ng«n ng÷ trÇn thuËt +Tạo điểm nhìn trần thuật sắc sảo, tăng cờng khả năng khám phá đời sống của tình huèng truyÖn, lêi kÓ trë nªn kh¸ch quan, ch©n thùc, giµu søc thuyÕt phôc. -Ngôn ngữ nhân vật: phù hợp với với đặc điểm tính cách của từng ngời. --> Khắc sâu thêm chủ đề t tởng của truyện ngắn III. KÕt luËn 1. Néi dung: Th«ng qua t¸c phÈm NguyÔn Minh Ch©u kh«ng chØ xãt xa th¬ng c¶m ngêi phô n÷ bÊt hạnh mà còn lên án sự tàn nhẫn thô bạo của ngời chồng trong gia đình. Đồng thời báo động tình trạng bạo lực trong gia đình đang làm khô héo, rạn vỡ t©m hån con ngêi. Ca ngîi t×nh mÉu tö tr©n träng kh¸t väng đợc sống trong yêu thơng, yên bình của trẻ em. 2. NghÖ thuËt - Tình huống truyện độc đáo - Nghệ thuật đối lập giữa cái đẹp của ngoại cảnh với hiện thực cuộc sống. - Giäng ®iÖu trÇn thuËt ®a d¹ng: + Khách quan ngạc nhiên khi tả cảnh đời, cảnh biển..

<span class='text_page_counter'>(63)</span> + Lo âu khi tái hiện lời thoại của ngời đàn bà + Xót thơng, căm phẫn khi chứng kiến cảnh ngời đàn ông ngợc đãi vợ con. + Day døt kh¾c kho¶i khi thÊy ngời đàn bà cha tìm đợc lối thoát... IV.Ghi nhí: (SGK) V.LuyÖn tËp: -Bức tranh là sự tự nhận thức, tự phê phán của một con ngời dới ánh sáng lơng tâm, đạo đức. -Chiếc thuyền ngoài xa là sự nhận thức, phê phán cái ác, cái xấu trong đời thờng. =>Cả hai tác phẩm đợc viết theo quan điểm nghệ thuật: chỉ ra mặt xấu, mặt tối để góp phần hoàn thiện nhân cách, làm cho cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn. Baøi 17. HOÀN TRÖÔNG BA. (Löu Quang Vuõ). I.TÌM HIỂU CHUNG: 1.Tác giả: - Lu Quang Vò – nhµ viÕt kÞch xuÊt s¾c cña níc ta sau n¨m 1975. KÞch cña «ng ph¶n ánh nhiều vấn đề nóng bỏng có tính chất thực sự của đời sống -> đóng góp thiết thực vào công cuộc đổi mới đất nớc. - §Æc s¾c trong sè cña t¸c gi¶: T¸i dùng t×nh huèng, kÕt hîp tÝnh mu«n thuë vµ tÝnh thêi sự, tính kịch và chất thơ. Ngôn ngữ nghệ thuật trau chuốt gợi cảm có chiếu sâu. Sung đột kịch xoay quanh xung đột trong cách sống và trong quan niệm sống. - Tác phẩm: Có h cấu độc đáo dựa vào cốt truyện dân gian, nhng có nhiều sáng tạo, đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, có ý nghĩa t tởng, triết lý và nhân văn sâu sắc. 2. T¸c phẩm: a. Xuất xứ: H cÊu s¸ng t¹o tõ mét cèt truyÖn d©n gian b. Thể loại: KÞch nãi - Khám phá, phát hiện những mâu thuẫn, xung đột -> diễn đạt bằng hành động và ngôn ngữ đối thoại. - Quá trình vận động: Thắt nút-> phát triển-> cao trào->mở nút. c. Tãm t¾t néi dung vë kÞch: Gåm 7 c¶nh 1.Trên thiên đình Nam Tào làm việc cẩu thả gạch nhầm tên người chết là Trương Ba 2. §Õ ThÝch kÕt th©n víi Trơng Ba-một cao cờ ở hạ giới. Trơng Ba đột ngột qua đời 3. Nam Tào sửa sai bằng cách cho hồn Trơng Ba nhập vào xác hàng thịt để sống lại 4. Xác hàng thịt đòi về nhà Trơng Ba. Mọi ngời ngỡ ngàng song đành phải chấp nhận 5. Lý trởng sách nhiễu. Trơng Ba phải ở nhà hàng thịt đến đêm mới đợc về nhà 6. Bị thể xác xui khiến, Trơng Ba định xuôi theo ở lại với vợ hàng thịt 7. Trơng Ba bắt đầu thay đổi tâm tính khiến mọi ngời trong gia đình, bạn bè, xa lánh chán ghét, bản thân vô cùng đau khổ.Quyết định giải thoát chấp nhận cái chết, hồn Trương Ba nhập vào màu xanh cây cỏ. d. §o¹n trÝch - TrÝch tõ c¶nh VII vµ ®o¹n kÕt cña vë kÞch. - Thuéc phÇn cao trµo vµ më nót II/ §äc-hiÓu: a) ý nghĩa ẩn dụ đoạn đối thoại Hồn Trơng Ba - xác anh hàng thịt. - Trớc hết đó là hoạt động kịch đã đầy ><, xung đột kịch tới cao trào. Xác anh hàng thịt tỏ ra lấn át hồn Trơng Ba -> sỉ nhục hồn Trơng Ba -> hồn Trơng Ba đau khổ đến cực độ -> không thể chịu đợc nữa. - ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại: + X¸c anh hµng thÞt: Èn dô vÒ thÓ x¸c cña con ngêi. + Hồn Trơng Ba: ẩn dụ về linh hồn của con ngời -> cuộc đối thoại đó là cuộc đấu tranh gi÷a thÓ x¸c vµ linh hån trong mét con ngêi. -> đó là hai thực thể có quan hệ hữu cơ với nhau. + Thể xác có tính độc lập tơng đối, có tiếng nói, có khả năng tác động vào linh hồn. + Linh hồn phải đấu tranh với những đòi hỏi không chính đáng của thể xác -> để hoàn thiÖn nh©n c¸ch. b) Đoạn đối thoại giữa hồn Trơng Ba và gia đình: - Trong đoạn đối thoại đó tính cách Trơng Ba đã có sự thay đổi.

<span class='text_page_counter'>(64)</span> -> trë nªn th« vông h¬n: lµm g·y c©y, gÉy diÒu -> trë nªn xa l¹ h¬n víi ngêi th©n: vî, con, cháu không muốn gần gũi vì tính tình của Trơng Ba đã thay đổi.rớc sự đổi thay đó hồn Trơng Ba có nhận ra -> ông cảm thấy không thể sống nh vậy đợc nữa, không thể khuất phục trớc thể xác là tự đánh mất mình. c) Thái độ của Trơng Ba khi Đế Thích có ý định cho nhập vào Cu Tị - moọt em bé hàng xãm võa chÕt. - Tríc hÕt Tr¬ng Ba rÊt th¬ng yªu Cu TÞ - moät em bÐ hµng xãm võa chÕt, b¹n cña ch¸u néi yªu quý cña «ng. - ¤ng kh«ng thÓ chÊp nhËn sù t¸i chiÕn bi kÞch sèng trong th©n x¸c cña ngêi kh¸c: “Không thể bên trong moọt đằng bên ngoài moọt nẻo đợc. Tôi muốn đợc là tôi toàn vẹn -> Hồn Trơng Ba đã xin cho Cu Tị đợc sống, còn mình thì xin đợc chết -> Hành động đó chøng minh cho ý thøc vÒ sù hîp nhÊt gi÷a linh hån vµ thÓ x¸c. d. §o¹n kÕt: - Thể hiện rõ nhất quan niệm sống của Trơng Ba đồng thời cũng khẳng định đợc nhân c¸ch cao thîng cña «ng vµ t tëng nh©n v¨n cao c¶ cña t¸c phÈm. “Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan đồng thời truyền đi thông điệp về sự chiến thắng của cái Thiện, cái Đẹp và của sự sống đích thực.” TS.Nguyễn Kiều Tâm * NghÖ thuËt: (đặc sắc trên nhiều phương diện) - Sự sáng tạo từ dân gian; Ngôn ngữ kịch linh ho¹t - Sự kết hợp giữa tính hiện đại và truyền thống - Sức phê phán mạnh mẽ, quyết liệt và chất trữ tình đằm thắm, bay bổng III. Toång keát: Qua đoạn trích vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” Lưu Quang Vũ muốn gửi tới người đọc: Được sống làm người quý giá thật, nhưng được sống đúng là mình, sống trọn vẹn với những giá trị mình vốn có và theo đuổi còn quý giá hơn. Sự sống chỉ thực sự có ý nghĩa khi con người được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn. Con người phải luôn biết đấu tranh với những nghịch cảnh, với chính bản thân, chống lại sự dung tục, để hoàn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thaàn cao quyù. IV.luyeän taäp Gîi ý c¸ch gi¶i: - Hai h×nh töîng hånTrö¬ng Ba vµ x¸c hµng thÞt ë ®©y mang ý nghÜa Èn dô. Mét bªn đại diện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghÜa con ngöêi vµ mét bªn lµ sù tÇm thöêng dung tôc. C¶ hai tån t¹i trong cïng mét con ngửời. Điều đáng trân trọng là con ngửời luôn biết đấu trang chống lại sự dung tục để hoµn thiÖn nh©n c¸ch. Bµi häc: - Cần phải ý thức sâu sắc giá trị sự sống: sống đúng là mình, trọn vẹn với giá trị mình vốn có và luôn tự mình đấu tranh với những nghịch cảnh để hoàn thiện nhân cách vµ vö¬n tíi nh÷ng gi¸ trÞ tinh thÇn cao quý. Baøi 18. NHÌN VEÀ VOÁN. (Trích “Đến hiện đại từ truyền thống”). (Traàn Ñình Höôu) I/ TiÓu dÉn: 1. T¸c gi¶: Trần Đình Hượu (1926 – 1995) - Quê: xã Võ Liệt – Thanh Chương- Nghệ An. - Là nhà nghiên cứu lịch sử, văn học Việt Nam trung cận đại - Năm 2000, ông được Nhà nước tặng giải thưởng về khoa học công nghệ. 2. Các tác phẩm chính:.

<span class='text_page_counter'>(65)</span> + Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900- 1930. + Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại + Đến hiện đại từ truyền thống + Các bài giảng về tư tưởng phương đông.... 3. Vị trí đoạn trích: Đoạn trích từ phần II trong cuốn “Đến hiện đại từ truyền thống”. 4. Bố cục: 3 phần + Đầu…với nó: Đặt vấn đề. + Tiếp… của đô thị: Nhận xét nền văn hóa Việt Nam trong mối quan hệ tổng thể với nền văn hóa các dân tộc trên thế giới. + Còn lại: Đặc điểm của nền văn hóa Việt Nam. II. Đọc hiểu văn bản. Chậm, kĩ, đúng ngữ điệu văn bản. Khi đọc chú ý hệ thống luận điểm của văn bản. 2. Tìm hiểu văn bản. Khái niệm về vốn văn hoá. Theo từ điển tiếng việt: Văn hoá là “ tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”(ta thường nói: văn hóa ẩm thực, văn hoá mặc, văn hoá ứng xử, văn hoá đọc...) 2. 1: Các vấn đề đoạn trích nêu lên, thái độ của tác giả: -Vấn đề: Đặc điểm của nền văn hóa Việt Nam. -Thái độ: Điềm tĩnh, khách quan, phân tích, đánh giá có khoa học. -Mục đích: + Góp phần xây dựng chiến lược phát triển mới cho đất nước. + Đưa đất nước thoát tình trạng đói nghéo, lạc hậu, kém phát triển như hiện nay. . Hệ thống lập luận Đặc điểm cuả vốn văn hoá. 2.2.Quan niệm sống, lí tưởng, cái đẹp. -*Quan niệm sống: + Coi trọng hiện thế trần tục hơn thế giới bên kia. + Ý thức cá nhân và sở hữu không phát triển cao. + Mong ước: thái bình, an cư lạc nghiệp, đông con nhiều cháu. *Thiết thực, yên phận thủ thường, không mong gì cao xa, khác thường hơn người. - Quan niện về lí tưởng sống: + Chuộng con người hiền lành, tình nghĩa. + Không chuộng trí mà cũng không chuộng dũng. + Tâm trí dân có bụt ( cứu giúp), có thần ( uy linh bảo quốc hộ dân. + Ca tụng sự khôn khéo (ăn cỗ đi trước lội nước theo sau, biết thủ thế, giữ mình, gỡ được tình thế khó khăn). Những cái khác bản thân: không dễ hoà hợp nhưng cũng không cự tuyệt đến cùng. - Quan niệm về cái đẹp: + Không háo hức tráng lệ, huy hoàng. + Không say mê huyền ảo, kì vĩ. + Chuộng màu sắc : dịu dàng, thanh nhã, ghét sặc sỡ. + Quy mô: Chuộng vừa khéo, xinh, vừa phải. + Giao tiếp: Chuộng hợp tình, hợp lí. + Ăn mặc: Không chuộng sự cầu kì. + Hướng vào vẻ đẹp dịu dàng, thanh lich, duyên dáng, quy mô vừa phải. =>Kết quả của ý thức lâu đời về sự nhỏ yếu, thực tế nhiều khó khăn, bất trắc của nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu. *Con người Việt Nam: -Chuộng thiết thực hơn mơ mộng -Khi gặp khó khăn, bất trắc trong cuộc sống thì biết linh hoạt, tìm cách tháo gỡ..

<span class='text_page_counter'>(66)</span> -Trong cuộc sống cộng đồng, làm ăn, giao tiếp thường có sự dung hoà với nhau *Gương mặt của văn hoá Việt Nam trong quá khứ. 2.3.Đặc điểm nổi bật của nền văn hoá Việt Nam - thế mạnh và hạn chế: Quan niệm của tác giả trong các sáng tạo văn hoá của Việt Nam: Tinh thần chung văn hoá việt Nam là thiết thực, linh hoạt, dung hoà. Thế mạnh:Tạo ra cuộc sống thiết thực bình ổn, lành mạnh với những vẻ đẹp dịu dàng thanh lịch sống có tình nghĩa, có văn hoá trên một cái nền nhân bản. Hạn chế: Quan niệm về lí tưởng (Không có khát vọng và sáng tạo lớn trong cuộc sống, không mong gì cao xa khác thường, hơn người. Trí tuệ không được đề cao). -Văn hoá nông nghiệp định cư, không có nhu cầu lưu chuyển, trao đổi, không có kích thích của đô thị. Tế bào của xã hội là nông nghiệp nhỏ, đơn vị tổ chức xã hội là làng. Đó là văn hoá người Việt, văn hoá vốn có từ lâu đời -> còn nhiều khó khăn và bất trắc trong cuộc sống. *2.4. Tôn giáo và văn hoá truyền thống Việt Nam. b. Những ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo đến truyền thống văn hoá Việt Nam. +Tôn giáo -Nho giáo -Phật giáo -Đạo giáo ( Lão – Trang) Sàng lọc, tinh luyện để thành bản sắc của dân tộc mình. =>Giá trị văn hóa dân tộc. *2.5.Con đường hình thành bản sắc văn hoá dân tộc: Vốn vốn có + khả năng chiếm lĩnh + khả năng đồng hoá -> những giá trị văn hoá dân tộc. III. Ghi nhớ : (Sách giáo khoa) IV. Luyện tập : Bài tập 2 - Tống cựu nghênh tân -Pháo hoa ngày tết -Đi chùa lễ tết ngày xuân -Thư pháp ngày tết -Du xuân -Hái lộc, xông nhà, chúc tết, mừng tuổi -Cũng vào dịp đầu xuân, người có chức tước khai ẩn, học trò sĩ phu khai bút, nhà nông khai canh, thợ thủ công khai công, người buôn bán mở hàng lấy ngày ... Baøi 19. THUOÁC. ( Loã Taán). I. Giới thiệu : 1. Taùc giaû Loã Taán (1881 – 1936 ) -Lỗ Tấn tên khai sinh là Chu Chương Thọ, sau đổi thành Chu Thụ Nhân, quê tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc; xuất thân trong một gia đình quan lại đã sa sút. -Bút danh Lỗ Tấn là ghép từ họ mẹ (bà Lỗ Thụy) và chữ “Tấn hành”- một kỉ niệm aáu thô. -Từ 6 – 17 tuổi học ở quê nhà, từ 18 tuổi đi học ở các trường “Tây học” và nhiều lần đổi nghề với động cơ tốt đẹp là vì yêu nước, thương dân : *Ban đầu Lỗ Tấn học hàng hải những mong đi đây đó để mở mang tầm mắt, rồi học nghề khai mỏ với nguyện vọng làm giàu cho Tổ quốc nhưng ông đều thất vọng..

<span class='text_page_counter'>(67)</span> *Chọn nghề y ông muốn cứu chữa những người nghèo ốm mà không thuốc nên phải cheát nhö boá oâng ( nguyeän voïng hoïc thuoác cuûa Loã Taán luùc 13 tuoåi) . *Nhưng cuối cùng ông chuyển sang sáng tác văn học với chủ trương dùng văn nghệ để đánh thức tinh thần dân tộc, chỉ ra các căn bệnh tinh thần của quốc dân  ngòi bút Lỗ Tấn đã phát huy được chức năng đích thực của văn chương là cứu nước, cứu dân. Về tư tưởng cách mạng: Cách mạng tháng Mười Nga bùng nổ đã thức tỉnh Lỗ Tấn. Ngoài sáng tác, Lỗ Tấn còn tham gia chỉ đạo phong trào yêu nước của sinh viên. Suốt cuộc đời Lỗ Tấn luôn kiên trì tiến lên trên con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin, là người chiến sĩ của giai cấp vô sản không bao giờ laïc loái . -Tác phẩm tiêu biểu : Gào thét , Bàng hoàng , AQ chính truyện. *Năm 1981 toàn thế giới kỉ niệm 100 năm ngày sinh danh nhân văn hóa Lỗ Tấn, một nhà văn hàng đầu của nền văn học hiện đại Trung Quốc đầu thế kỉ XX , là “linh hoàn daân toäc” Trung Hoa. 2. Taùc phaåm “Thuoác” : a /.Hoàn cảnh sáng tác : - Tác phẩm được viết ngày 25/4/1919, giữa lúc phong trào Ngũ Tứ (4/5/1919) nổ ra như vũ bão, nhân dịp người chiến sĩ cách mạng Thu Cận bị giết. b /.Chủ đề : Qua tác phẩm thuốc, Lỗ Tấn muốn phê phán sự lạc hậu về mặt chính trị của quần chúng, phê phán sự thoát li quần chúng của các chiến sĩ cách mạng tư sản, đồng thời tác giả cũng phê phán tư tưởng lạc hậu, cách chữa bệnh phản khoa học c / . Toùm taét: Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng bị cụ Ba Hạ phát giác với chính quyền để được lĩnh thưởng. Hạ Du bị hành hình, Cả Khang một tên đao phủ đã biến máu Hạ Du thành món hàng trục lợi. Oâng bà Hoa Thuyên có đứa con trai đau vì bệnh lao, đã mua chiếc bánh bao tẩm máu để chữa bệnh cho con. Sự việc mua chiếc bánh bao tẩm máu được nhiều người bàn tán, trong đó có một số thanh niên trong quán trà nhà cụ Thuyên. Họ đều cho Hạ Du là điên, là làm giặc. - Caâu chuyeän keát thuùc khi meï Haï Du vaø baø Thuyeân ñi thaêm moä con, meï Haï Du caûm thaáy xaáu hoå khi gaëp baø Thuyeân beân moä Haï Du, vaø khoâng hieåu vì sao moä con mình coù voøng hoa treân moä. II. ĐỌC- HIỂU 1. Caùc nhaân vaät : a.Nhaân vaät quaàn chuùng : -Ông bà Hoa : Mua bánh bao tẩm máu Hạ Du để chữa bệnh lao cho con nhưng nó vaãn cheát  thöông con nhöng laïc haäu, meâ muoäi . -Ông Ba Hạ (chú ruột Hạ Du): Phát giác cháu để lãnh thưởng hai lạng bạc  hám lợi maø baùn reû tình ruoät thòt. -Cả Khang - gã đao phủ : Biến máu Hạ Du thành món hàng để kiếm lợi. -Gã đề lao lấy aó Hạ Du một cách bất nhẫn, tham lam. -Những người trong quán trà : cho HạDu là điên, là giặc  bệnh thiếu trí tuệ xét đoán, thieáu tinh thaàn daân toäc. -Meï Haï Du : xaáu hoå khi gaëp meï Haï Du beân moä con => Quaàn chuùng laïc haäu veà khoa hoïc , thieáu hieåu bieát veà chính trò..

<span class='text_page_counter'>(68)</span> b.Nhaân vaät chieán só caùch maïng Haï Du Là hình tượng trung tâm, đầu mối của mọi tình tiết (dù chỉ được miêu tả gián tiếp qua suy tö cuûa caùc nhaân vaät khaùc) -Có lí tưởng tiến bộ: “Thiên hạ Mãn Thanh là của chúng ta” -Chiến sĩ cách mạng kiên cường bất khuất  bị tù, án chém. -Hạ Du không nhận được sự đồng tình của mọi người  thất bại. YÙ nghóa taùc phaåm : *Nhan đề "Thuốc" + Thuốc, nguyên văn là "Dược" (trong từ ghép Dược phẩm), phản ánh một quá trình suy tư nặng nề của Lỗ Tấn (động cơ và mục đích đổi nghề của Lỗ Tấn). Nhận thức rõ thực trạng nhận thức của người dân Trung Quốc thời bấy giờ “ngu muội và hèn nhát”, nhà văn không có ý định và cũng không đặt ra vấn đề bốc thuốc cho xã hội mà chỉ muốn “lôi hết bệnh tật của quốc dân, làm cho mọi người chú ý và tìm cách chạy chữa”. Tên truyện chỉ có thể dịch là Thuốc (Trương Chính). Vị thuốc (Nguyễn Tuân) chứ không thể dịch là Đơn thuốc (Phan Khải). Nhan đề truyện có nhiều nghĩa. + Tầng nghĩa ngoài cùng là phương thuốc truyền thống chữa bệnh lao. Một phương thuốc u mê ngu muội giống hệt phương thuốc mà ông thầy lang bốc cho bố Lỗ Tấn bị bệnh phù thũng với hai vị “không thể thiếu” là rễ cây nứa kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con đực, con cái dẫn đến cái chết oan uổng của ông cụ. *Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu “Bánh bao tẩm máu người”, nghe như chuyện thời trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước Trung Hoa trì trệ. Tầng nghĩa thứ nhất - nghĩa đen của tên truyện là: thuốc chữa bệnh lao. Thứ mà ông bà Hoa Thuyên xem là “tiên dược” để cứu mạng thằng con “mười đời độc đinh” đã không cứu được nó mà ngược lại đã giết chết nó - đó là thứ thuốc mê tín. *Hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du  hứa hẹn một sự tiếp bước người cách mạng + hi vọng, tin tưởng máu liệt sĩ sẽ không bị giày đạp, mồ mả sẽ không bị lãng quên. Hình aûnh con đường mòn: là một hình ảnh Lỗ Tấn hay đề cập. Con dường mòn là biểu tượng của tập quán xấu đã trở thành thỏi quen, trở thành suy nghĩ đương nhiên. Con đường mòn chia cắt nghĩa địa người chết chém (người phản nghịch, người cách mạng) với nghĩa địa người chết bệnh (nhân dân lao động nghèo khổ). Cuối truyện, phải qua một thời gian giác ngộ, hai bà mẹ mới bước qua con đường mòn để đến với nhau. *Hình ảnh “con quạ”. -Xuất hiện ở nghĩa trang =>Tang thương, ảm đạm. + Lần 1: “đậu trên cành khô, rụt cổ lại, im lìm như đúc bằng sắt” +Lần 2: “xoè đôi cánh, nhún mình, như mũi tên vút bay thẳng về chân trời xa” èTư thế “vút bay” gửi gắm một niềm lạc quan vào ngày mai. *-Thời gian: mùa thu “trảm quyết”=> mùa xuân năm sau. -Ý nghĩa: Thể hiện mạch suy tư lạc quan, tin tưởng của tác giả. Một mùa chuẩn bị khép lại, một mùa mở ra một năm mới, như lá vàng rụng xuống để tích nhựa cho chồi non. 2. Giaù trò ngheä thuaät : -Cốt truyện dung dị, cô đọng nhưng sâu sắc, nhiều tầng nghĩa . -Cách xây dựng nhân vật độc đáo: nhân vật chính không xuất hiện, chỉ được bàn luận đến. III. Toång keát : Tác phẩm phê phán sự lạc hậu và tối tăm của người dân Trung Quốc đương thờ, đặt ra vấn đề cần có thuốc để chữa căn bệnh tinh thần cho cả dân tộc . Bởi sự kém hiểu biết của người dân sẽ dẫn đến những bi kịch cho gia đình và xã hội * Ghi nhớ :Sách giáo khoa.

<span class='text_page_counter'>(69)</span> IV. LUYEÄN TAÄP: Baøi 20. SOÁ PHAÄN ( Mikhail CON NGƯỜ I Soâloâkhoâp). I. Giới thiệu : 1. Taùc giaû Soâloâkhoâp : -A.Sô-lô-khốp (1905-1984) là nhà văn Xô-viết lỗi lạc, đợc vinh dự nhận giải thờng Nobel về văn học năm 1965 (ông còn đợc nhận giải thởng văn học Lê-nin, giải thởng văn học quèc gia). -Cuộc đời và sự nghiệp của Sô-lô-khốp gắn bó mật thiết với sự ra đời của một chế độ- chế độ xã hội chủ nghĩa tại vùng đất Sông Đông trù phú, đậm bản sắc văn hoá ngời dân C«d¾c. Là nhà văn xuất thân từ nông dân lao động, Sô-lô-khốp am hiểu và đồng cảm sâu sắc với những con ngời trên mảnh đất quê hơng. Đặc điểm nổi bật trong chủ nghĩa nhân đạo của Sô-lô-khốp là việc quan tâm, trăn trở về số phận của đất nớc, của dân tộc, nhân dân còng nh vÒ sè phËn c¸ nh©n con ngêi. *Về giá trị bản dịch Số phận con người và định hướng khai thác Truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp được in lần đầu ở Liên Xô trên hai số báo Sự thật ra ngày 31 – 12 - 1956 và ngày l - l - 1957. Tác giả ấp ủ ý đồ sáng tác truyện ngắn này trong mười năm trời, vì thế chỉ trong vòng một tuần lễ ông đã viết xong. Đây là một tác phẩm tâm huyết, trong đó thể hiện những tư tưởng và tình cảm lớn mà nhà văn nung nấu trong nhiều năm về số phận con người. Toùm taét : Mùa xuân năm 1946, trên đường đi công tác, tác giả gặp anh lái xe An-đrây Xô-côlốp 46 tuổi và bé Va-ni-a chừng 5 – 6 tuổi trên bến đò. Nhân dịp này Xô-cô-lốp đã kể cho tác giả nghe về cuộc đời đau khổ của mình. Khi chiến tranh bùng nổ, anh ra trận, bị thương hai lần, sau đó bị đọa đầy trong các các trại tập trung của phát xít. Tìm cách trốn được về với quân ta, Xô-cô-lốp mới hay tin vợ và con gái anh đã bị bom phát xít giết hại. Niềm hi vọng cuối cùng của anh là con trai A-na-tô-li, nhưng đúng ngày 9 tháng 5 năm 1945, ngày chiến thắng, một tên thiện xạ Đức đã bắn chết người đại úy pháo binh ấy. Xô-cô-lốp đã chôn trên đất người Đức niềm sung sướng và niểm hi vọng cuối cùng. Sau đó anh giải ngũ, về chỗ vợ chồng môt người bạn ở U-riu-pin-xcơ,xin vào làm việc trong đội xe vận tải. Tại đây anh đã gặp bé Va-ni-a côi cút và quyết định nhận nó làm con. Tình yêu thương với Va-ni-a đã làm trái tim anh ấm lại. Nhưng nhiều đêm anh vẫn mơ thấy vợ con, tỉnh dậy gối đẫm nước mắt. Một sự việc không may xảy ra, Xô-côlốp bị thu bằng lái xe. Hai cha con anh đã quyết định cuốc bộ đến một địa phương khác,nơi người đồng đội cũ của Xô-cô-lốp đang làm việc. Hai con người côi cút, hai hạt cát bị sức mạnh của bão tố chiến tranh thổi bạt đến những miền xa lạ. Cái gì đang chờ đợi họ ở phía trước? Thiết nghĩ con người Nga có ý chí kiên cường đó sẽ đứng vững được, và cả chú bé kia một khi lớn lên cũng có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng ngại trên đường nếu như Tổ quốc kêu gọi. a. Chủ đề : -Tác phẩm phơi trần số phận nghiệt ngã của con người trong chiến tranh. -Ca ngợi tấm lòng cao cả và niềm tin bất diệt của con người vào cuộc sống. II. ĐỌC- HIỂU : 1. Nh©n vËt An-®r©y X«-c«-lèp - Hoµn c¶nh vµ t©m tr¹ng An-®r©y X«-c«-lèp sau chiÕn tranh: - Năm 1944, sau khi thoát khỏi cảnh nô lệ của tù binh, Xô-cô-lốp đợc biết một tin đau đớn: tháng 6 năm 1942 vợ và hai con gái anh đã bị bọn phát xít giết hại. Niềm hi vọng cuối cùng giúp anh bám víu vào cuộc đời này là A-na-tô-li, chú học sinh giỏi toán, đại uý pháo binh, đứa con trai yêu quí đang cùng anh tiến đánh Béclin. Nhng đung sáng ngày mồng 9 tháng năm, ngày chiến thắng, 1 thằng thiện xạ Đức đã giết chết mất An-nô-tô-li..

<span class='text_page_counter'>(70)</span> Anh đã “chôn niềm vui sớng và niềm hi vọng cuối cùng trên đất ngời, đất Đức”, “Trong ngời có cái gì đó vỡ tung ra” trở thành “ngời mất hôn”. Sau khi lần lợt mất tất cả ngêi th©n, X«-c«-lèp r¬i vµo nçi ®au cïng cùc. -Lời tâm sự của anh khi tìm đến chén rợu để dịu bớt nỗi đau: “phải nói rằng tôi đã thật sự say mª c¸i mãn nguy h¹i Êy”. X«-c«-lèp biÕt râ sù nguy h¹i cña rîu nhng anh vÉn cø uèng- Lêi t©m sù Êy hÐ më sù bÕ t¾c cña anh. -Xô-cô-lốp không cầm đợc nớc mắt trớc hình ảnh cậu bé Va-ni-a. Nỗi đau không thể diÔn t¶ thµnh lêi, chØ cã thÓ diÔn t¶ b»ng nh÷ng giät níc m¾t. BiÓu d¬ng, ngîi ca khÝ ph¸ch anh hïng cña nh©n d©n, S«-l«-khèp còng kh«ng ngÇn ng¹i nói lên cái giá rất đắt của chiến thắng, những đau khổ tột cùng của con ngời do chiến tranh g©y nªn- søc tè c¸o chiÕn tranh ph¸t xÝt m¹nh mÏ cña t¸c phÈm. An-®r©y gÆp bÐ Vania Giữa lúc đang lâm vào tâm trạng buồn đau, bế tắc, An-đrây đã gặp bé Va-ri-a, cũng là một nạn đáng thơng của chiến tranh. Tác giả tả việc Xô-cô-lốp nhận Vania làm con nuôi rất sâu sắc và cảm động. - Khi nh×n thÊy Vania tõ xa: “Th»ng bÐ r¸ch b¬n x¬ míp.... cÆp m¾t th× cø nh nhiÒu ng«i sao sáng sau trận ma đêm” rồi “thích đến nỗi bắt đầu thấy nhớ nó”. Và khi hiểu rõ tình trạng của Vania hiện tại, tình phụ tử thiêng liêng và tinh thần trách nhiệm đã thức tỉnh tr«ng X«-c«-lèp. Lßng th¬ng xãt d©ng lªn thµnh nh÷ng giät níc m¾t nãng hæi. Anh quyÕt định nhận Va-ri-a làm con. - X«-c«-lèp tuyªn bè anh lµ bè th× lËp tøc Va-ni-a chåm lªn «m h«n anh, rÝu rÝt lÝu lo vang c¶ buång l¸i... Cßn X«-c«-lèp “m¾t mê ®i”, “hai bµn tay lÈy bÈy”- søc m¹nh c¶u tình yêu thơng sởi ẩm trái tim cô đơn, đem lại niềm vui sống. - Với lòng nhân hậu, Xô-cô-lốp tìm mọi cách bù đắp tình cảm cho Va-ni-a, chăm sóc nó. ë toµn bé ®o¹n nµy, ®iÓm nh×n cña t¸c gi¶ hoµn toµn phï hîp víi ®iÓm nh×n cña nh©n vËt và vì vậy gây đợc niềm xúc động trực tiếp. Tinh thÇn tr¸ch nhiÖm cao c¶ vµ nghÞ lùc phi thêng cña X«-c«-lèp - Khã kh¨n cña X«-c«-lèp khi nhËn bÐ Va-ni-a lµm con trong cuéc sèng thêng nhËt: việc nuôi dỡng, chăm sóc..., những rủi ro bất cứ lúc nào cũng có thể xảy ra, đặc biệt là việc không thể làm “tổn thơng trái tim bé bỏng của Va-ni-a”. Bên cạnh đó là nỗi khổ tâm, dằn vặt của anh về những kí ức... vết thơng tâm hồn vẫn đau đớn. - X«-c«-lèp kh«ng ngõng v¬n lªn trong ý thøc nhng nçi ®au, vÕt th¬ng lßng kh«ng thÓ nµo hµn g¾n. §ã chÝnh lµ bi kÞch s©u s¾c trong sè phËn cña X«-c«-lèp. §ã còng lµ tÝnh ch©n thËt cña sè phËn con ngêi sau chiÕn tranh. * Luyeän taäp : Bài tập 1 Truyện ngắn Số phận con người của Sô-lô-khốp là cột mốc đánh đấu một giai đoạn phát triển mới của văn học Xô viết. Sô-lô-khốp thể hiện một cách nhìn mới và cách mô tả mới hiện thực cuộc sống vô cùng phức tạp trong chiến tranh. Với một dung lượng không lớn, Số phận con người đã khám phá chiều sâu chiến công hiển hách của nhân dân xô viết trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại. Sô-lô-khốp miêu tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó, trong “đau khổ, chết chóc, máu me” (lời L.Tôn-xtôi). Nhân dân Liên Xô đã vượt qua muôn vàn khó khăn tưởng không thể vượt qua được. 25 triệu người Xô viết đã anh dũng hi sinh vì sự nghiệp giải phóng đất nước và loài người khỏi thảm hoạ diệt chủng của bọn phát xít. Nhân vật chính trong Số phận con người là An-đrây Xô-cô-lốp, anh binh nhì trong Hồng quân, đại diện của hàng triệu người lính bình thường gánh trên vài toàn bộ gánh nặng của cuộc chiến. Thời gian cầm súng chiến đấu không nhiều, Xô-cô-lốp phải vượt qua bao gian khổ của thời chiến cũng như thời bình. Đó là người anh hùng vô danh, là chiến sĩ kiên cường với một trái tim nhân hậu. Tài nghệ của tác giả truyện ngắn còn thể hiện ở cách kể chuyện, tả cảnh, chọn lọc chi tiết, vẽ chân dung và dõi theo tâm trạng nhân vật. Sự ngưỡng mộ và cảm thông của nhà văn được gửi gắm qua phong cảnh, cách mô tả và lời trữ tình ngoại đề của người kể chuyện. Bài tập 2 Nhằm tăng tính cộng đồng sáng tạo và rèn đúc trí tưởng tượng nên chúng ta yêu cầu HS viết một đoạn văn nói vế cuộc sống trong tương lai của hai bố con nhân vật chính A. Xô-cô-lốp: Nếu thích cách kể chuyện cổ tích, HS sẽ vẽ ra một tương lai tốt đẹp một kết thúc có hậu. Nếu dựa theo bút pháp của Sô-lô-khốp, coi trọng sự khám phá sự thật đôi.

<span class='text_page_counter'>(71)</span> khi khắc nghiệt nhưng bao giờ cũng táo bạo, HS sẽ vẽ ra một tương lai còn đầy chông gai, đòi hỏi nghị lực và bản lĩnh của con người trên con đường vươn tới bình an, hạnh phúc. Baøi 21 I. T×m hiÓu chung. OÂNG GIAØ VAØ (O-nit Hª-ming-uª). 1. O-nit Hª-ming-uª (1899- 1961): + Nhà văn Mĩ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn xuôi hiện đại phơng Tây và góp phần đổi míi lèi viÕt truyÖn, tiÓu thuyÕt cña nhiÒu thÕ hÖ nhµ v¨n trªn thÕ giíi. + Nh÷ng tiÓu thuyÕt næi tiÔng cña Hª-ming-uª: MÆt trêi vÉn mäc (1926), Gi· tõ vò khÝ (1929), Chu«ng nguyÖn hån ai (1940). + Truyện ngắn của Hê-ming-uê đợc đánh giá là những tác phẩm mang phong vị độc đáo hiếm thấy. Mục đích của nhà văn là "Viết một áng văn xuôi đơn giả và trung thực về con ngêi". 2. ¤ng giµ vµ biÓn c¶ (The old man and the sea) + §îc xuÊt b¶n lÇn ®Çu trªn t¹p chÝ §êi sèng. + Tác phẩm gây tiếng vang lớn và hai năm sau Hê-ming-uê đợc trao giải Nô-ben. 3. Tãm t¾t t¸c phÈm (SGK). Oâng già đánh cá tên là Xanchiagô 74 tuổi thường đánh cá trên vùng biển có dòng nước nóng ở ngoài khơi Lahabana. Oâng đã đi biển nhiều ngày nhưng chẳng kiếm được con cá lớn nào. Cùng đi với ông già có cậu bé láng giềng Manôlin, nhưng vì thaáy oâng giaø ít gaëp may maén neân cha meï buoäc Manoâlin ñi theo thuyeàn khaùc. Lần này có một con cá kiếm rất lớn mắt câu, nó lôi chiếc thuyền một ngày mà vẫn chưa nổi lên. Oâng lão mệt nhoài, đói, bàn tay bị rách. -Hết trưa đến chiều hôm sau, con cá ngoi lên mặt nước, ông già thu dây và dùng lao đâm vào sườn con cá. Oâng chuẩn bị đưa cá vào bờ thì có một đàn cá mập phát hiện lao đến ngậm đuôi con cá kiếm, ông phải khó nhọc mới đẩy lùi được bọm cá mập, nhưng khi đưa được con cá kiếm vào bờ thì chỉ còn lại bộ xương . + T¸c phÈm tiªu biÓu cho lèi viÕt "T¶ng b¨ng tr«i": dung lîng c©u ch÷ Ýt nhng "kho¶ng trống" đợc tác giả tạo ra nhiều, chúng có vai trò lớn trong việc tăng các lớp nghĩa cho văn bản (Tác giả nói rằng tác phẩm lẽ ra dài cả 1000 trang nhng ông đã rút xuống chỉ còn bấy nhiªu th«i). 4.Nguyên lí “Tảng băng trôi” Hêminguê lấy hình ảnh tảng băng trôi phần nổi ít ,phần chìm nhiều đặt ra yêu cầu đối với tác phẩm văn chương phải tạo ra “ ý tại ngôn ngoại” . Nhà văn không trực tiếp công khai phát ngôn cho ý tưởng của mình mà xây dựng hình tượng có nhiều sức gợi để người đọc tự rút ra phần ẩn ý . một trong những biện pháp chủ yếu thể hiện nguyên lí “Tảng băng trôi” là độc thoại nội tâm kết hợp dùng ẩn dụ, biểu tượng. II. §äc- hiÓu v¨n b¶n ®o¹n trÝch 1. H×nh ¶nh «ng l·o vµ con c¸ kiÕm + Xan-ti-a-gô là một ông già đánh cá ở vùng nhiệt lu. Đã ba ngày hai đêm ông ra khơi đánh cá. Khung cảnh trời biển mênh mông chỉ một mình ông lão. Khi trò chuyện với mây nớc, khi đuổi theo con cá lớn, khi đơng đầu với đàn cá mập xông vào xâu xé con cá. Cuối cùng kiệt sức vào đến bờ con cá kiếm chỉ còn trơ lại bộ xơng. Câu chuyện đã mở ra nhiều tầng ý nghĩa . Một cuộc tìm kiếm con cá lớn nhất, đẹp nhất đời, hành trình nhọc nhằn dũng cảm của ngời lao động trong một xã hội vô hình, thể nghiệm về thành công và thất bại của ngời nghệ sĩ đơn độc khi theo đuổi ớc mơ sáng tạo rồi trình bày nó trớc mắt ngời đời... + Đoạn trích có hai hình tợng: ông lão và con cá kiếm. Hai hình tợng mang một vẻ đẹp song song tơng đồng trong một tình huống căng thẳng đối lập: - Con cá kiếm mắc câu bắt đầu những vòng lợn “vòng tròn rất lớn”, “con cá đã quay tròn”. Nhng con cá vẫn chậm rãi lợn vòng”. Những vòng lợn đợc nhắc lại rất nhiều lần gợi ra đợc vẻ đẹp hùng dũng, ngoan cờng của con cá trong cuộc chiến đấu ấy..

<span class='text_page_counter'>(72)</span> - Ông lão ở trong hoàn cảnh hoàn toàn đơn độc, “mệt thấu xơng” “hoa mắt” vẫn kiên nhÉn võa th«ng c¶m víi con c¸ võa ph¶i khuÊt phôc nã. - Cuộc chiến đấu đã tới chặng cuối, hết sức căng thẳng nhng cũng hết sức đẹp đẽ. Hai đối thủ đều dốc sức tấn công và dốc sức chống trả. Cảm thấy chóng mặt và choáng váng nhng «ng l·o vÉn ngoan cêng “Ta kh«ng thÓ tù ch¬i xá m×nh vµ chÕt tríc mét con c¸ nh thế này đợc” lão nói. Ông lão cảm thấy “một cú quật đột ngột và cú nảy mạnh ở sợi dây mµ l·o ®ang nÝu b»ng c¶ hai tay”. L·o hiÓu con c¸ còng ®ang ngoan cêng chèng tr¶. L·o biết con cá sẽ nhảy lên, lão mong cho điều đó đừng xảy ra “đừng nhảy, cá” lão nói, “đừng nhảy”, nhng lão cũng hiểu “những cú nhảy để nó hít thở không khí”. Ông lão nơng vào gií chß “lît tíi nã lîn ra, ta sÏ nghØ”. “§Õn vßng thø ba, l·o lÇn ®Çu tiªn thÊy con c¸”. Lão không thể tin nỗi độ dài của nó “ “không” lão nói, “Nó không thể lớn nh thế đợc”. Những vòng lợn của con cá hẹp dần. Nó đã yếu đi nhng nó vẫn không khuất phục, “lão nghÜ: “Tao cha bao giê thÊy bÊt k× ai hïng dòng, duyªn d¸ng, b×nh tÜnh, cao thîng h¬n mày”. Ông lão cũng đã rất mệt có thể đổ sụp xuống bất kì lúc nào. Nhng ông lão luôn nhủ “mình sẽ cố thêm lần nữa”. Dồn hết mọi đau đớn và những gì còn lại của sức lực và lòng kiêu hãnh, lão mang ra để đơng đầu với cơn hấp hối của con cá. Ông lão nhấc con ngän lao phãng xuèng sên con c¸ “c¶m thÊy mòi s¾t c¾m phËp vµo, l·o t× ngêi lªn Ên s©u rồi dồn hết trọng lực lên cán dao”. Đây là đòn đánh quyết định cuối cùng để tiêu diệt con c¸. L·o rÊt tiÕc khi ph¶i giÕt nã, nhng vÉn ph¶i giÕt nã. - “Khi Êy con c¸, mang c¸i chÕt trong m×nh, sùc tØnh phãng vót lªn khái mÆt níc ph« hÕt tầm vóc khổng lồ, vẻ đẹp và sức lực của nó”. Cái chết của con cá cũng bộc lộ vẻ đẹp kiêu dũng hiếm thấy cả ông lão và con cá đều là kì phùng địch thủ. Họ xứng đáng là đối thủ cña nhau. - Nhà văn miêu tả vẻ đẹp của con cá cũng là để đề cao vẻ đẹp của con ng ời. Đối tợng chinh phục càng cao cả, đẹp đẽ thì vẻ đẹp của con ngời đi chinh phục càng đợc tôn lên. Cuộc chiến đấu gian nan với biết bao thử thách đau đớn đã tôn vinh vẻ đẹp của ngời lao động: giản dị và ngoan cờng thực hiện bằng đợc ớc mơ của mình. 2. Néi dung t tëng cña ®o¹n trÝch Hình tợng con cá kiếm đợc phát biểu trực tiếp qua ngôn từ của ngời kể chuyện, đặc biệt là qua những lời trò chuyện của ông lão với con cá ta thấy ông lão coi nó nh một con ngời. Chính thái độ đặc biệt, khác thờng này đã biến con cá thành “nhân vật” chính thứ hai bên cạnh ông lão, ngang hàng với ông. Con cá kiếm mang ý nghĩa biểu tợng. Nó là đại diện cho hình ảnh thiên nhiên tiêu biểu cho vẻ đẹp , tính chất kiên hùng vĩ đại của tự nhiªn. Trong mèi quan hÖ phøc t¹p cña thiªn nhiªn víi con ngêi kh«ng ph¶i lóc nµo thiªn nhiên cũng là kẻ thù. Con ngời và thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ. Con cá kiếm là biểu tợng của ớc mơ vừa bình thờng giản dị nhng đồng thời cũng rất khác thờng, cao cả mà con ngời ít nhất từng theo đuổi một lần trong đời. 3. NghÖ thuËt ®o¹n trÝch §Æc ®iÓm ng«n ng÷ kÓ chuyÖn trong t¸c phÈm ¤ng giµ vµ biÓn c¶ cña Hª-minh-uª cã ngôn ngữ của ngời kể chuyện và ngôn ngữ trực tiếp của ông già đợc thể hiện bằng: “lão nghÜ.....”, “l·o nãi ....” + Ng«n ng÷ cña ngêi kÓ chuyÖn têng thuËt kh¸ch quan sù viÖc. + Lêi ph¸t biÓu trùc tiÕp cña «ng l·o. §©y lµ ng«n tõ trùc tiÕp cña nh©n vËt. Cã lóc nã là độc thoại nội tâm. Nhng trong đoạn văn trích nó là đối thoại. Lời đối thoại hớng tới con c¸ kiÕm: “§õng nh¶y, c¸”, l·o nãi. “§õng nh¶y”. “C¸ ¬i”, «ng l·o nãi “c¸ nµy, dÉu sao th× mµy còng sÏ chÕt. Mµy muèn tao cïng chÕt n÷a µ?” “Mày đừng giết tao, cá à, ông lão nghĩ “ mày có quyền làm thế”. “Tao cha từng thấy bÊt kú ai hïng dòng, duyªn d¸ng, b×nh tÜnh, cao thîng h¬n mµy, ngêi anh em ¹”. + ý nghÜa cña lêi ph¸t biÓu trùc tiÕp: - Đa ngời đọc nh đang trực tiếp chứng kiến sự việc. - Hình thức đối thoại này chứng tỏ Xan-ti-a-gô coi con cá kiếm nh một con ngời. - Nội dung đối thoại cho thấy ông lão chiêm ngỡng nó thông cảm với nó và cảm thấy nuèi tiÕc khi tiªu diÖt nã. - Mèi quan hÖ gi÷a con ngêi vµ thiªn nhiªn - ý nghÜa biÓu tîng cña con c¸ kiÕm - Vẻ đẹp của con ngời trong hành trình theo đuổi và đạt đợc ớc mơ của mình. III. Tæng kÕt Đoạn văn tiêu biểu cho phong cách viết độc đáo của Hê-minh-uê: luôn đặt con ngời đơn độc trớc thử thách. Con ngời phải vợt qua thử thách vợt qua giới hạn của chính mình để luôn vơn tới đạt đợc mớc mơ khát vọng của mình. Hai hình tợng ông lão và con cá kiếm đều mang ý nghĩa biểu tợng gợi ra nhiều tầng nghĩa của tác phẩm. Đoạn văn tiêu biÓu cho nguyªn lý “T¶ng b¨ng tr«i “ cña Hª-minh-uª..

<span class='text_page_counter'>(73)</span> IV. LuyÖn tËp Bài tập 1 Bài tập này nhằm nêu lên hiệu quả của việc sử dụng một loại ngôn từ trực tiếp của nhân vật (ông lão): Hình thức ngôn từ đã nói lên một quan hệ khác thường giữa người đi săn và vật bị săn đuổi. Bằng lời đối thoại với cá, ông chứng tỏ rằng dưới mắt ông, nó giống như một con người, thậm chí một đối thù đáng nể, một người bạn tâm tình. (Người phát ngôn đây hướng tời ai? Thái độ như thế nào?) Bài tập 2 Phát huy khả năng độc lập suy nghĩ của HS khi đối chiếu ngôn từ bản gốc với bản dịch, giới hạn ở một ngữ đoạn quan trọng (tên tác phẩm). Giải đáp vế thứ hai của bài tập phụ thuộc vào ý thích riêng của HS. Tuy nhiên, GV cần hướng dẫn: dịch văn bao giờ cũng cần bám sát văn phong của nhà văn.. PHẦN 2:. Làm văn :. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT TƯ TƯỞNG ĐẠO LÍ Gợi ý giải bài tập. Bài tập 1 a) Vấn đề mà Gi. Nê-ru bàn luận là phẩm chất văn hoá trong nhân cách của mỗi con người. Căn cứ vào nội dung cơ bản và một số từ ngữ then chốt, ta có thể đặt tên cho văn bản ấy là: “Thế nào là con người có văn hoá?” “Một trí tuệ có văn hoá”, hoặc “Một cách sống khôn ngoan”,... b) Để nghị luận, tác giả đã sử dụng các thao tác lập luận: giải thích (đoạn l: Văn hoá, đó có phải là sự phát triển nội tại... Văn hoá nghĩa là...); phân tích (đoạn 2: Một trí tuệ có văn hoá...); bình luận (đoạn 3: Đến đây, tôi sẽ để các bạn...). c) Cách diễn đạt trong văn bản trên khá sinh động. Trong phần giải thích, tác giả đưa ra nhiều câu hỏi rồi tự trả lời câu nọ nối câu kia, nhằm lôi cuốn người đọc suy nghĩ theo gợi ý của mình. Trong phần phân tích và bình luận, tác giả trực tiếp đối thoại với người đọc (tôi sẽ để các bạn quyết định lấy... Chúng ta tiến bộ nhờ... Chúng ta bị tràn ngập... Trong tương lai sắp tới, liệu chúng ta có thể...), tạo quan hệ gần gũi, thân mật, thẳng thắn giữa người viết (thủ tướng một quốc gia) với người đọc (nhất là thanh niên). Ở phần cuối, tác giả viện dẫn đoạn thơ của một nhà thơ Hi Lạp vừa tóm lược các luận điểm nói trên, vừa gây ấn tượng nhẹ nhàng, dễ nhớ và hấp dẫn. Bài tập 2 SGK đã nêu những gợi ý cụ thể. GV nhắc HS làm bài ở nhà (lập dàn ý hoặc viết bài), rồi kiểm tra, chấm điểm để động viên, nhất là những HS chăm chỉ, tự giác học tập.. NGHỊ LUẬN VỀ MỘT HIỆN TƯỢNG ĐỜI SỐNG Gợi ý giải bài tập. Bài tập 1 a) Điều mà tác gia Nguyễn Ái Quốc bàn là hiện tượng nhiều thanh niên, sinh viên Việt Nam du học nước ngoài dành quá nhiều thời gian cho việc chơi bời, giải trí mà chưa chăm chỉ học tập, rèn luyện để khi trở về góp phần xây dựng đất nước. Hiện tượng ấy diễn ra vào những năm đầu thế kỉ XX. Trong xã hội nước ta ngày nay, hiện tượng ấy vẫn còn. Nhiều thanh niên, sinh viên Việt Nam ngày nay du học ở nước ngoài cũng đang mải mê kiếm tiền, chơi bời, lãng phí thới gian cho những việc vô bổ mà không chịu tập trung tư tướng, quyết tâm học tập, rèn luyện chuyên môn, tiếp thu khoa học kĩ thuật tiên tiến để có năng lực tốt nhất trở về phục vụ quê hương, đất nước. Hiện tượng trên, ta có thề bàn thêm một vài ý:.

<span class='text_page_counter'>(74)</span> - Nêu và phê phán hiện tượng: Thanh niên, sinh viên Việt Nam du học lãng phí thời gian vào những việc vô bổ. - Chỉ ra nguyên nhân: Họ chưa xác, định lí tưởng sống đúng đắn, họ ngại khó, ngại khổ, lười biếng hoặc chỉ sống vì tiền bạc, vì những lợi ích nhỏ hẹp; cũng một phần do cách tổ chức, giáo dục chưa tốt của những người có trách nhiệm. - Bàn luận: Nêu một vài tấm gương thanh niên, sinh viên chăm học đạt học vị cao đã trở về tham gia giảng dạy ở các trường đại học hoặc làm việc tại các ngành kinh tế, khoa học, kĩ thuật tiên tiến của nước nhà. - Rút ra bài học cho bản thân: Xác định lí tưởng, mục đích học tập đúng đắn. Khi ở trong nước, cố gắng học tập, rèn luyện; nếu được du học sẽ dành thật nhiều thời gian cho việc học tập, tiếp thu kiến thức khoa học, kĩ thuật tiên tiến, sau này góp phần phục vụ Tổ quốc... . . b) Trong văn bản, Nguyễn ái Quốc dùng thao tác lập luận phân tích (thanh niên du học mải chơi bời, thanh niên trong nước không làm gì cả, họ sống già cỗi,, thiếu tổ chức, rất nguy hại cho tương lai của đất nước...); so sánh (nêu hiện tượng thanh niên, sinh viên Trung Hoa du học chăm chỉ, cần cù) và bác bỏ (thế thì thanh niên của ta đang làm gì? Nói ra thì buồn, buồn lắm: Họ không làm gì cả). c) Nghệ thuật diễn đạt của văn bản: Dùng từ, nêu dẫn chứng xác đáng, cụ thể, kết hợp nhuần nhuyễn các kiểu câu trần thuật, câu hỏi (thế thì thanh niên của ta đang làm gì?), câu cảm thán (trực tiếp bày tỏ nỗi lo âu chính đáng: Hỡi Đông Dương đáng thương hại! Người sẽ chết mất nếu đám thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh.). Bài tập 2 Đề bài nêu một hiện tượng tiêu cực đang diễn ra khá phổ biến trong giới trẻ nước ta hiện nay: quá ham chơi, nghiện ka-ra-ô-kê và in-tơ-nét. GV yêu cầu HS đọc lại văn bản trích của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc và vận dụng các tri thức đã học để giải quyết yêu cầu của bài tập. PHẦN 3: Bài làm tham khảo: Đề 1: Sống đẹp là gì hỡi bạn? Trong cuộc sống hằng ngày mỗi người chọn cho mình những cách thể hiện khác nhau hình thành lên những cách sống khác nhau: sống đẹp, sống có ích và lối sống ích kỷ, buông thả thậm chí chìm trong vòng tội lỗi. Như vậy “sống đẹp" là một lối sống tích cực mà mỗi người cần phải hướng tới. Nhưng sổng thế nào mới là lối "sống đẹp”, còn là điều băn khoăn của rất nhiều người. “Đẹp” không phải chỉ là cái đẹp hình thức. Cái "đẹp" thể hiện từ những hành động cư xử nhỏ nhất trong cuộc sống đến nghị lực vươn lên trong mỗi con người. "Sống đẹp" trước hết phải xuất phát từ lòng nhân ái, từ chính tình yêu trong trái tim để từ đó mà sống hết mình vì người khác, để bao dung, thứ tha ... Xuất phát từ tình yêu thương nên bất cứ hành động nào dù là nhỏ nhất cũng đầy sự quan tâm, chia sẻ giữa những con người. Một sáng đến trường, bạn không sợ muộn học mà dừng lại giúp một cụ già qua đường. Mỗi ngày dành dụm tiền để ủng hộ quỹ "Vì người nghèo". Những hành động ấy dù nhỏ nhặt nhưng đều là những nghĩa cử cao đẹp. Lại nhớ đến hơn 30 năm trước đây, người con gái Hà Nội Đặng Thuỳ Trâm xung phong vào chiến trường Quảng Trị gian khổ bản thân chịu những thiệt thòi nhưng chị vẫn dành một tình thương bao la cho những người quanh chị. Bất lực trước một ca mổ, chị đau đớn, lo lắng cho người em nuôi giờ này đang đè nặng tang tóc, đêm chị mất ngủ. Tất cả những điều ấy đều xuất phát từ lòng yêu thương trong trái tim chị! Để chính từ những lo lắng, đớn đau ấy dân tộc Việt Nam có một người con anh dũng, kiên cường tận tụy làm người. Đó là chuyện của 30 năm trước, còn giờ đây có biết bao người ngày đêm nhen lên ngọn lửa tình yêu thương trên cõi đời này. Một nhà giáo già ngày ngày đạp xe khắp chốn bán những bức hình cụ Rùa Hồ Gươm mà thầy vô tình chụp được để lấy tiền.

<span class='text_page_counter'>(75)</span> góp vào quỹ "Vì người nghèo". Bao nhà hảo tâm, bao con người có mỗi năm lại lắng lòng mình nhớ đến những người còn trong đói khổ bần cùng.Cuộc sống muôn màu muôn vẻ tạo nên muôn nghìn gương mặt con người khác nhau: có người tốt, kẻ xấu, có những người từng gây ra tội ác. Nhưng không có ai chưa từng sai lầm. Dẫu có lầm lạc bước vào ngõ cụt vẫn có thể quay đầu lại. Chúng ta vẫn luôn dang tay chờ đón một con người mới ở những người từng mắc tội. Mỗi dịp lễ lớn, không chỉ những người ngoài khung sắt nhà lao mới náo nức chờ đợi mà những người ở trong cũng vui mừng vì mỗi dịp ấy họ lại có cơ hội được ân xá, được trở về với người thân, bè bạn. Chào đón họ bằng lòng bao dung tha thứ, tin vào một sự thay đổi ở họ đó cũng là "sống đẹp". Chính nhờ có lòng yêu thương mà không ít người tìm lại được chính mình. Có một nhà thơ với bút danh "Hoàn Lương" từng nửa đời làm tướng cướp trên những chuyến tàu Đà Nẵng - Nha Trang, làm đại gia buôn lậu xảo quyệt, thi nhân ấy tên là "Nguyễn Đức Tân" (Đông Mỹ - Thanh Trì - Hà Nội). Nửa đời làm việc thất đức nhưng trong trại giam được nghe lời khuyên nhủ tâm tình của giám thi, như người tỉnh cơn mê anh tâm sự:“Đêm đêm nghe tiếng vọng vangTiếng ngoài xã hội rộn ràng trong đêmĐã buồn lại thấy buồn thêmKhát thèm cuộc sống ấm êm ngoài đời”Và cuộc đời của tên tướng cướp ấy rẽ sang một ngả khác khi mãn hạn tù, anh trở thành một nhà thơ, một thành viên của đội Công an xã. Khi được hỏi làm thế nào mà cá sự thay đổi lớn trong anh như vậy, tướng cướp, thi nhân ấy trả lời nhờ có sự bao dung, tình yêu của người vợ hiền và của tất cả mọi người. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết "Sống trên đời cần có một tấm lòng. Để làm gì em biết không? Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi…". Gió sẽ cuốn những tấm lòng thảo thơm gieo tình yêu khắp muôn nơi, mang lại ánh sáng cho miền đất tăm tối, mang lại hạnh phúc cho những người cùng khổ. Mỗi chúng ta, hãy gửi theo gió tấm lòng mình để cứu giúp bao người và để chính chứng ta là những con người có lối "sống đẹp”. “Cuộc sống không có con đường cùng chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải làm sao để vượt qua được những ranh giới ấy” (Nguyễn Khải). Cuộc sống luôn chứa đựng những thử thách, và không ai là không vấp ngã một lần. Vậy nhưng sau cú ngã đau đớn ấy, bạn làm gì mới là điều đáng nói. Trong đầu tôi cứ thể hiện lên hình ảnh con lật đật nhỏ bé miệng luân nở nụ cười và lần nào vấp ngã cũng bật dậy, trên môi vẫn là nụ cười lạc quan. Đã bao giờ bạn được như con búp bê ấy, kiên cường và nghị lực?...Đọc Đặng Thuỳ Trâm, những dòng tâm sự của chị, từng câu từng chữ bao giờ cũng tràn ngập một lòng ham sống phi thường. "Đời phải trải qua giông tố nhưng chớ cúi đầu trước giông tố ". Câu nói tâm đắc ấy của chị, giờ đây, mỗi chúng ta cũng phải lấy đó làm châm ngôn sống cho cuộc sống của mình. Tôi được nghe thầy dậy Hoá kể câu chuyện về người học trò cũ của thầy. Anh là một học sinh chăm ngoan, học giỏi, luôn nằm trong nhóm đầu. Vậy nhưng trong kỳ thi Đại học quan trọng anh lại trượt điều tưởng như không thể đã xảy ra. Đau buồn, thất vọng về chỉnh mình, cuộc sống của một thanh niên 18 tuổi lúc ấy chỉ toàn một màu đen khi bao hứa hẹn tương lai, kỳ vọng của gia đình, thầy cô đều sụp đổ. Không chịu giam mình trong màn đêm, anh tự mình thắp lên ngọn nến niềm tin và tiếp tục học tập hết mình. Anh đã đỗ vào năm sau với một số điểm cao. Dù so với bạn bè, anh là người đến sau nhưng anh lại là người đạt được chiến thắng lớn nhất: Chiến thắng chính mình, cuộc sống với những ranh giới của nó luôn bao quanh bạn. Nếu không có nghị lực làm sao bạn có thể đi hết được con đường của riêng mình ? Từ số 1 đến số 0 chỉ trong gang tấc nhưng khoảng cách từ số 0 đến số 1 trên trục đời là cả một quá trình mà nếu không có niềm tin, nghị lực, bạn sẽ mãi chỉ là con số 0 mà thôi. Hãy là một người bộ hành với đôi chân dẻo dai sẵn sàng đạp lèn mọi chông gai để bước đi: "Chặng đường nào trải bước trên hoa hồng, bàn chân cũng thấm đau vô vàn những mũi gai” Lời bài hát của ban nhạc tôi yêu thích cứ văng vẳng bên tai. Bàn chân có thể sẽ chảy máu vì gai nhọn nhưng đừng ngồi xuống rên xiết, hãy để máu ấy thấm lên những cánh hồng đỏ thắm trên bước đường vinh quang của bạn! Làm được như vậy tức là bạn đang "sống đẹp",sống và luôn giữ cho mình một niềm tin vào ngày mai, luôn có một nghị lực vươn lên hướng đến ánh mặt.

<span class='text_page_counter'>(76)</span> trời.Tôi từng đọc một bài thơ nghe qua tưởng chỉ là thơ vui nhưng lại mang một ý nghĩa sâu sắc: "Khi anh sinh raMọi người đều cườiRiêng anh thì khóc tu tuHãy sống sao để khi chết điMọi người đều khócCòn môi anh thì nở nụ cười”Bạn và tôi, hãy tự chiêm nghiệm cho mình lối sống đẹp để khi ở cuối con đường, chúng ta đều mỉm cười mãn nguyện! Bài làm tham khảo: Đề 2: "Tình thương là hạnh phúc của con ngưới" Bài làm Trong cuộc sống giữa con người và con người chúng ta luôn tồn tại tình yêu thương. Tình yêu thương là cội nguồn đầu tiên của con nguời chúng ta cho đến ngày nay. Những tình yêu thương đẹp đẽ đó mang đến niềm hạnh phúc cho chúng ta. Vậy chúng ta cùng tìm hiểu " tình thương là hạnh phúc của con nguời là gì?". Tình thương là sự cảm thông chia sẻ tront phạm vi gia đình, xã hội, nhà trường. Hạnh phúc là niềm vui, niềm sung sướng khi ta đạt được niềm mơ ước, phấn đấu trong cuộc sống. Khi chúng ta cho nguời khác tính thương hoặc khi chúng ta biết chia sẻ niềm vui nỗi buồn với người khác thì chúng ta sẽ nhận lại được từ họ sự sự biết ơn bởi cuộc sống là cho, đâu chỉ nhận riêng mình. Tình thương còn được thể hiện ở nhiều khía cạnh , ta thấy gần guũinhất là gia đình, tình cảm của cha mẹ đối với con cái là vô cùng lớn lao vô bờ bến. Từ ngàn xưa cha ông ta đã có nhưữngcâu ca dao đề cao tính yêu thương của cha mẹ; Công cha như núi thái sơn , gnhĩa mẹ như nườc trong nguốn chảy ra. Núi cao to đồ xộ nước chảy nhiều như thế ta cũng không thể hình dung được tình yêu thương của cha mẹ lớn lao như thế nào bởi ta khôngbao giờ đong đo đếm được.Điều đó đã trở thành đạo lí bổn phận con chúng ta phải biết ghi nhớ công ơn của cha mẹ, vâng lời cha mẹ, cố gắng học tập thật tốt để làm cha mẹ vui lòng.Ta có thể thấy trong văn học, thuý Kiều vì thương cha mình đã phải bán thân chuột cha, Nguyễn Đình Chiểu khóc đến mù cả mắt khi hay tin mẹ mất. Ngoài ra tình yêu thương còn được thể hiện trong nhà trường: vâng lời , lẽ phép với thầy cô người lớn tuổi hoàng thành nhiệm vụ mà thầy cô gáo,ghi nhớ công ơn thầy cô đã dạy cho ta những bài học đầu tiên,nhưng chữ đầu đời. Trong quan hệ bạn bè: cảm thông chia sẻ với những bạn có hoàn cảnh khoókhăn, giúp đỡ các bạn học yếu. Tong xã hội, biết chia sẻ cảm thông với những số phận bất hạnh, vận động kêu gọi mọi người quyên góp giúp đỡ đồng bào lũ lụt, quỹ nhà tình thương, vì người nghèo.... Vì sao chúng ta sống phải có tình thương: Vì tình thương là một trong nhưng thứ cao đẹp nhất của con ngưòi, tình thương là sự cho đi đồng thời nhận lại, tình thương đém đến niềm tin lẽ sống, niềm hạnh phúc, sự ấm áp cho mọi người , có tình thương giúp con người sẽ xây dựng xã họi tốt đẹp, trật tự tình thương giúp con người hoàn thiện nhân cách của mình hơn. Tuy nhiên tình thương phải biết đặt đúng chỗ vì khônf đặt đúng chỗ sẽ không là hạnh phúc mà là bất hạnh. Một người mẹ quá nuông chiều con sẽ khốn khổ vì con. Cho tiền nhưng kẽ dạng hành khất là tiếp tay cho lười biếng .Khoan hồng, dung tha cho những kẻ phạm tội nhưng chúng vẫn " ngựa quen đường cũ" thì thật là nguy hiểm cho xã hội. bên cạnh những người giài lòng yêu thương vẫn còn vô vàn nhưng kẻ ích kỉ, sống chỉ biết vì miìnhthật là đáng phê phán lên án. "Tình thương là hạnh phúc của co người" câu nói tuy ngắn gọn nhưng bao hàm đầy đầy đủ ý nghĩa cho chúng ta tình thương là một trong những cảm xúc đẹp nhất của con người.Đừng sống vì mình mà hãy sống vì mọi nguời nhất là đối với những người chúng ta yêu thương, sẽ làm cuộc sống này trở nên tốt đẹp hơn mọi nguươì cảm thấy yêu đời hơn.

<span class='text_page_counter'>(77)</span> Bài làm tham khảo: Đề 3: Quan điểm của mình trước cuộc vận động: “Nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” . Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã từng căn dặn rằng:”Đất nước Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có thể sánh vai cùng với các cường quốc năm châu đc hay không đó là nhờ một phần rất lớn công học tập của các cháu”. Học sinhđược xem là những mầm non tương lai, là người kế thừa công cuộc phát triển đất nước đang ra sức học tập, rèn luyện hết sức mình. Để thực hiện đc điều Bác dạy quả thật không phải là dễ, chúng ta cần phải học tập thật tốt . Nhưng trong nền giáo dục của nước ta hiện nay đã bị căn bệnh tiêu cực trong thi cử cũng như bênh thành tích trong học tập. Vì vậy việc cần thiết và cấp bách hiện nay chính là cần phải làm một cuộc vận động: “nói không với những tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục” . Hiện tượng tiêu cực trong thi cử trong nhà trường hiện nay là một hiện tượng xấu cần xoá bỏ, nó làm cho học sinh ỷ lại, không tự phát huy năng lực học tập của mình. Thật vậy, học sinh đến trường học bây giờ chỉ học qua loa đối phó, gian lận trong thi cử thậm chí xin xỏ hoặc sửa điểm để kết quả học tập đc cao, - đó là những biểu hiện cụ thể, triệu chứng của bệnh “chuộng” thành tích. Nhiều lúc ta cảm thấy ngạc nhiên trước lối học của một số hoc sinh, lên lớp thì nghệch ngoạc vài chữ, ngáp lên ngáp xuống, học theo kiểu “ cưỡi ngựa xem hoa”, về nhà thì vở vất đầu giường. Thế nhưng, hok hiểu sao cứ đến kì thi lại có hok ít người rất tự tin cầm bút vào phòng thi, rốt cuộc “ may mắn” làm sao, điểm vẫn trên trung bình, danh sách học sinh tiên tiến, học sinh giỏi ở các trường vẫn “ thừa thắng xông lên”. ”. Tại sao lại có sự mâu thuẫn đến như vậy? Phải chăng vì họ quá thong minh đến nỗi không cần học bài , hiểu bài cũng có thể thi, làm kiểm tra điểm cao hay họ đã gian lận dung một số mánh khóe trong thi cử.Điều này khi bước vào kì thi ĐH kết quả sẽ cho ta đc lời giải thích đáng nhất. Thiếu trung thực trong thi cử là không tốt, là không tự tin cũng như không tin tưởng vào khả năng của mình làm được.nhưng nguyên nhân là do đâu phải chăng do thái độ ỷ lại vào sự giúp đỡ của bạn bè trong các kì thi hay sự dễ dãi trong quá trình gác thi của giám thị phòng thi.Nhưng nguyên nhân cơ bản ở đây chính là sự lười nhác học bài, không muốn học bài nhưng mong cho mình có điểm số cao để ngang bằng với các bạn và chính việc đó là nguyên nhân dẫn đến hành động gian lân, quay cóp.Ngoài ra còn một số học sinh mặc dù kiến thức khá vững vàng nhưng đến giờ kiểm tra thì lo sơ, không làm chủ được bản thân, không tự tin và không dám tin rằng họ có thể làm được bài mà không cần sách,thế là họ đã quay cóp. Không hẵn lỗi tất cả do học sinh mà cũng có chút ít nào đó thuộc về phụ huynh cũng như giáo viên. Có thể thầy cô không nỡ nhìn học sinh của mình buồn khi nhận những con điểm kém, kết quả tồi nên họ đã làm ngơ trước một vài điều hay là với tâm lí sợ trò học không giỏi một phần là do thầy cô dạy không hay, có trường hợp nhiều học sinh đỗ xô đi học một giáo viên A, B,.. nào đó không chỉ đơn thuần là giáo viên đó dạy giỏi, giảng hay mà còn vì giáo vien đó “ thương” học trò và biểu hiện ra đó là cho học sinh biết trước những đề kiểm tra, khi cho điểm thi lại hết sức nhẹ nhàng với học trò “ tại gia” của mình. Xin nói thẳng chính vì thương kiểu đó mà đã có không ít những kết quả sai lệch, học giả nhưng điểm thật. Và những thầy cô đó có thật sự thương học sinh của mình mà đang huỷ hoại dần vốn kiến thức và ý thức học tập của hcọ sinh, dần dần họ cứ nghĩ rằng cứ có thật nhiều tiền mua quà chăm sóc thầy cô hay có một chỗ ngồi êm ấm trong nơi học thêmt hì sẽ dễ dàng với việc học, thi, kiểm tra. Thật là sai lầm! Ngoài ra một nguyên nhân nữa cũng góp phần vào việc đưa con em mình đến tệ nạn này đó chính là áp lực từ các bậc phụ huynh luôn luôn yêu cầm điễm số,yêu cầu thứ hạng mà con em mình khó có thể đạt tới làm con em chúng ta không thể tự tin học hành không thể tự đi trên chính đôi chân của mình mà phải dựa vào gian lận quay cóp nhằm đạt thành tích cao.

<span class='text_page_counter'>(78)</span> đúng nguyện vọng phụ huynh. Ông bà ta đã từng nói: “Không học thì làm sao có tương lai”. Tương lai đó không thể mua bằng tiền, bằng những mẹo vặt khi làm bài hay sự nài nỉ của một ai đó... Tương lai là do chính bản thân mình nắm lấy, mình bắt giữ, phải đổ mồ hôi, nước mắt trong học tập thật sự thì mới có một tương lai tươi sáng. Trong kì thi đại học vừa qua đã có không ít “ sĩ tử” thành “tử sĩ” chỉ vì học không đúng với bản thân, hổng kiến thức trầm trọng, thế nhưng trong các năm học trứoc hay thi tốt nghiệp vẫn luôn là “ giỏi”. Chính lúc bước vào kì thi chung của cả nước, kì thi đại học gắt gao thì khả năng của mỗi học sinh mới được thể hiện thật sự chính xác, ai giỏi có cố gắng thì sẽ đậu, ai mà chỉ biết mánh khoé, học giả dối thì phải nhận kết quả thấp, hi vọng rằng họ sẽ không than vãn là “ học tài thi phận”. Không biết rằng trước kết quả đáng buồn của học sinh mình, thầy cô có hối hận hay không, vì đã quá dễ dãi trong việc dạy dỗ học sinh của mình.. Chắc mọi người vẫn chưa quên vụ” chạy trường, lớp điểm” ở trường Lê Quý Đôn vừa qua gây xôn xao trong bộ giáo duc và cả xã hội hay là kì thi tốt nghiệp năm ngoái có trường thi tốt nghiệp đạt 0%, tức là không một học sinh nào đậu. Không biết là nên thất vọng bao nhiêu cho đủ đây, trước hậu quả mà bệnh thành tích đã gây ra trong nhà trường. Tuy nhiên, nói cho công bằng trách nhiệm cũng không nên đỏ hết cho thầy cô, đó còn là sự học buông thả của một số học sinh, không chuyên tâm vào học hành, chỉ biết học đối phó, qua loa và cách dạy có thể chưa hợp lí, làm học sinh thích thú... Đối với nhửng người đã gian lận thì lần sau rất khó khăn vượt qua cám dỗ đễ tiếp tục gian lận quay cóp. Nếu cứ tiếp tục làm thế thì chắc chắn một điều rằng họ sẽ không có một tí kiến thức gì khi bước ra khỏi cổng trường cũng như bước vào đời. Tuy nhiên cũng có một số ý kiến cho rằng thực lực một số người trong học tập khá cao nhưng sau khi xem xét họ nhận ra rằnn những bạn khác tuy không học được bằng mình nhưng họ lại gian lận vì vậy điểm số lại cao hơn mình, đấy cũng chính là một nguyên nhân gián tiếp dẫn đến hành vi gian lận quay cóp của số ít học sinh học tốt. Gia đình và thầy cô giáo cần kiểm tra về kiến thức và việc học của học sinh chặt chẽ hơn nữa, tạo ra nhiều phương pháp học khiến học sinh thích thú nên hạn chế những lối học “thầy đọc, trò chép” khô khan. Hơn hết quan trọng nhất là ý thức của mỗi học sinh, sự nỗ lực và cố gắng của từng bạn, lúc đầu có thể khó khăn nhưng về sau bạn có thể có được niềm vui đích thực khi đón nhận những điểm số tốt xứng đáng với sức mình bỏ ra.Một ví dụ khác như việc làm bằng giả, hiện nay tình trạng này khá phổ biến ở nước ta.Ngày nay họ có thẻ nhận được bất cứ tấm bằng nào mà họ muốn mà chỉ cần mất một khoản tiền chứ không phải công sức bỏ ra học tập,rèn luyện.Chính nhưng nguyên nhân đấy sẽ làm cho xả hội mất niềm tin vào ngành giáo dục của đất nước, chất lượng giảm sút không thể nâng cao vị thế nền giáo dục trên trường quốc tế. Hiện nay ngành giáo dục và xã hội ta đang phát động cuộc vận động “Chống tiêu cực trong giáo dục và bệnh thành tích” hay khẩu hiệu “Ba không” trong học đường....Mặt khác cần khen thưởng, động viên kịp thời những đối tượng đầu tàu, gương mẫu trong vấn đề gạt bỏ mặt tiêu cực trong ngành giáo dục hiện nay.Xét cho cùng muốn làm đươc cuộc vân đông này cần có sự quyết tâm nhất trí của hầu hết học sinh, sinh viên cũng như thầy cô giáo đồng thời cần phê phán những người không hưởng ứng, không tích cực tham gia cuộc vận động. Thật đáng buồn khi ngành giáo dục, một ngành đào tạo và góp phần xây dựng nên nhân cách con người, lại nhiễm phải một căn bệnh trầm kha như vậy. Khi người đào tạo bị nhiễm bệnh thành tích thì tất yếu họ sẽ tạo ra những con người, thậm chí là những thế hệ bị nhiễm bệnh thành tích. Như thế quả là tai hại cho xã hội nếu như căn bệnh này tiếp tục hoành hành trong ngành giáo dục như hiện nay. Thiết nghĩ, để khắc phục được căn bệnh này, chúng ta cần có nhiều biện pháp tổng hợp, trong đó có các biện pháp sau: Thứ nhất, sửa đổi lại cách đánh giá các danh hiệu thi đua của cá nhân và tập thể nhà trường một cách sát thực hơn. Thay vì lấy tiêu chí học sinh lên lớp, đậu tốt nghiệp làm cơ sở chính để xét thi đua thì ngành giáo dục dùng các biện pháp như tăng cường dự giờ, thao giảng, kiểm tra sổ sách, lấy ý kiến phản hồi từ học sinh về khả năng.

<span class='text_page_counter'>(79)</span> và phương pháp dạy - hiểu của giáo viên đối với học sinh, khả năng tổ chức quản lý dạy học của nhà trường… Thứ hai, giáo dục thêm cho các giáo viên ý thức đấu tranh phê bình và tự phê bình đối với các biểu hiện thiếu trung thực về thành tích dạy học cũng như các vấn đề tiêu cực khác trong nhà trường. Thứ hai, giáo dục thêm cho các giáo viên ý thức đấu tranh phê bình và tự phê bình đối với các biểu hiện thiếu trung thực về thành tích dạy học cũng như các vấn đề tiêu cực khác trong nhà trường. Thứ ba, có các biện pháp kỷ luật đích đáng đối với các cá nhân tổ chức có các việc làm nhằm phản ánh sai thành tích dạy học của mình để được khen thưởng Thứ tư, phát huy tinh thần tố cáo tiêu cực của học sinh, giáo viên và phụ huynh trong học tập, thi cử và có các biện pháp xử lý nghiêm khắc các tập thể cá nhân vi phạm.Có như thế thì phần nào đó chúng ta mới có thể khắc phục đươc nạn tiêu cực trong thi cử cũng như bệnh thành tích trong giáo dục. Mọi người, mọi trường đang tham gia hưởng ứng một cách tích cực, học sinh chúng ta hãy hòa mình vào đó. Hãy từ biệt căn bệnh thành tích trong nhà trường. Sống và học tập hết mình để xứng đáng trở thành những người kế thừa và phát triển đất nước. bác Hồ đã từng nói “ Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không đó là nhờ phần lớn ở công học tập của các cháu”. Quyết tâm bài trừ bệnh thành tích trong nhà trường, , góp phần đưa chất lượng giáo dục Việt Nam đi lên!.

<span class='text_page_counter'>(80)</span> Đề 4:.

<span class='text_page_counter'>(81)</span> Ai không có một tình bạn chân chính thì không xứng đáng được sống Ông cha ta từng có câu: “Bạn bè là nghĩa tương thân Khó khăn hoạn nạn, ân cần có nhau” Con nguời không ai có thể sống thiếu bạn. Tình bạn là một trong những tình cảm cao đẹp và trong sáng nhất. Như nhà văn Thomas Hughs từng nói: “Phước thay người nào đó có tài kết bạn, vì đó là một trong những quà tặng quý nhất của Thượng Đế.” Quả thật như thế, tình bạn có một sức ảnh hưởng vô cùng to lớn đến cuộc sống của mỗi chúng ta. Con người từ khi sinh ra đến ngày trưởng thành không ai không có bạn. Tình bạn rất gần gũi, giản dị chứ không xa vời hay khó nói như nhiều thứ tình cảm khác. Tình bạn là một phạm trù xã hội, được dùng để chỉ quan hệ giữa người với người có những nét giống nhau về tâm tư, tình cảm, quan điểm hay hoàn cảnh… mà họ có thể chia sẻ, đồng cảm, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tình bạn có thể là bạn tri kỉ, bạn nối khố, bạn học, bạn đồng hương, bạn đồng lứa, bạn đồng minh hay bạn chiến đấu. Bạn là người có cùng sở thích, cùng lí tưởng, quan niệm sống với chúng ta. Bạn là người cho ta một bờ vai mỗi khi ta khóc, cho ta một điểm tựa khi ta rơi vào tuyệt vọng, cho ta một bầu trời ánh sáng khi ta lạc bước vào thế giới tăm tối, là người sẽ luôn bên ta dù cuộc đời có đổi thay, khi ta gặp hoạn nạn cũng như tìm thấy hạnh phúc. Nhưng tại sao ta cần phải có bạn? Phải chăng vì bạn là người luôn ở bên ta như câu nói: “Ở nhà thì nhờ ba mẹ, ra đường thì nhờ bạn bè”. Có lẽ vì vậy mà bạn bè rất quan trọng, nếu ai không có bạn thì đó là một thiệt thòi lớn trong đời. Có bạn là điều hạnh phúc nhất của mỗi cuộc đời như nhà văn A.Manzoni đã nói: “Một trong những hạnh phúc lớn nhất đời này là tình bạn, và một trong những hạnh phúc của tình bạn là có một người để gửi gắm tâm sự thầm kín. Tình bạn đến với mỗi chúng ta một cách rất tự nhiên bởi lẽ nó xuất phát từ trái tim của mỗi người. Trong cuộc sống, tình bạn được biều hiện trên nhiều phương diện khác nhau. Bất cứ thời đại nào cung tồn tại rất nhiều tình bạn đẹp. Chẳng hạn như tình bạn của Lưu Bình và Dương Lễ ngày xưa. Khi Dương Lễ là một thư sinh nghèo khổ, Lưu Bình không những không chê bai mà còn kết giao bạn hữu và tạo điều kiện cho Dương Lễ ăn học. Đến khi Dương Lễ công thành danh toại, Lưu Bình chỉ là một kẻ ăn mày rượu chè bê tha. Nhớ đến nghĩa tình bạn bè năm xưa, Dương Lễ đã nhờ vợ mình giúp nuôi và đốc thúc việc học của Lưu Bình. Sau đó, Lưu Bình đỗ đạt làm quan. Hay tình bạn vô cùng tốt đẹp và sâu sắc của hai nhà chính trị lớn là Các-mác và Ăng-ghen. Tình bạn của hai ông bắt nguồn từ việc có cùng chung mục đích và lí tưởng. Trong suốt thời gian nghiên cứu và làm việc, hai ông đã không ngừng viết thư cho nhau và vô cùng vui sướng khi gặp lai nhau. Có lần Ăng-ghen bị bệnh, Các-mác đã bỏ ra rất nhiều thời gian và tâm huyết nghiên cứu sách vở để tự tìm ra cách trị bệnh cho bạn.. Đó mới chính là tình bạn chân thành và cao quý. Bên cạnh tình bạn chân chính còn có tình bạn không chân chính. Đó là tinh bạn dựa trên sự giả dối và lợi dụng. Tình bạn ấy sẽ không bao giờ vĩnh cửu cả. Bởi tình bạn được xây dựng dựa trên những tình cảm, những cảm xúc chân thành nhất. Chính vì vậy, nếu thiếu đi những thứ này, tình bạn sẽ không bao giờ bền vững.Viên pha lê “tình bạn” óng ánh kia sẽ không còn sáng lấp lánh nữa mà thay vào đó là những ánh sáng mờ nhạt, đen tối.Tình bạn dối lừa sẽ làm cho con người ta mất đi nhân phẩm, đạo đức của mình. Tình bạn dối trá sẽ khiến cho hai chữ “tình bạn” không còn thiêng liêng và cao quý nữa. Tình bạn này sẽ khiến cho bất cứ ai trong cuộc đều cảm thấy buồn phiền và thất vọng. Không những ta đã gây cho người khác sự tổn thương mà chính ta cũng bị tổn thương ngược lại bởi những gì ta đã gây ra. Vì vậy, chúng ta cần tránh xa thứ tình bạn đáng xấu xa này. Tình bạn là một trải nghiệm lí thú của cuộc đời mỗi người. Tình bạn giúp chúng ta hoàn thiện nhân cách của mình. Chính nhờ tình bạn mà ta trưởng thành hơn, giàu nghị lực hơn trong cuộc sống. Không những thế, tình bạn giúp cuộc sống trở nên vô cùng ý nghĩa, đúng.

<span class='text_page_counter'>(82)</span> như Democrite đã nói: “Ai không có một người bạn chân chính thì người đó không xứng đáng được sống.”.

<span class='text_page_counter'>(83)</span>

×