Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

VĂN học số PHẬN NHÂN vật ĐỒNG TÍNH TRONG DORIAN GRAY copy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.98 KB, 52 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Trường Đại học Sư phạm Tp. HCM
Khoa Ngữ Văn



Đề tài:

Số phận nhân vật đồng tính trong
tác phẩm
“Chân dung Dorian Gray”

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 1 tháng 1 năm 2013


MỤC LỤC
Chương 1. Đôi nét về Chân dung Dorian Gray và văn học đồng tính..................................2
1.1. Vài nét khái quát về tác giả, tác phẩm.............................................................................2
1.1.1. Chân dung Dorian Gray...........................................................................................2
1.1.2. Oscar Wilde..............................................................................................................3
1.1.2.1. Cuộc đời....................................................................................................3
1.1.2.2. Ẩn ức về khao khát đồng giới...................................................................5
1.1.3. Oscar Wilde và những định kiến độc ác của xã hội với đồng giới………………...7
1.2. Vài nét về nhân vật đồng tính trong văn học...................................................................9
Chương 2. Số phận bi kịch của nhân vật đồng tính nam trong Chân dung Dorian Gray13
2.3.1. Basil Hallward – một tình yêu “lương thiện” và kết thúc bất hạnh...................13
2.3.1.1. Basil Hallward – họa sĩ yêu nghề...................................................................12
2.3.1.2. Basil Hallward với tình u đồng tính và bức chân dung tử nghiệp...............14
2.3.2. Henry – người khơi nguồn và bắt đầu cho tội ác................................................21
2.3.2.1. Henry – người thử nghiệm những lý thuyết lạ lùng........................................22
2.3.2.2. Henry - người “giúp” Dorian kí hợp đồng với quỷ........................................23


2.3.3. Dorian Gray trong cuộc tìm đường tới bi kịch số phận........................................26
2.3.3.1. Dorian Gray – những khao khát bản năng.......................................................27
2.3.3.2. Dorian Gray – cám dỗ nhục thể và sự kháng cự tinh thần...............................28
2.3.3.3. Dorian Gray – những cú trượt ngã không phanh.............................................31
Chương 3. Chân dung Dorian Gray với nghệ thuật thể hiện độc đáo................................35
3.1. Dorian Gray với hình tượng đậm chất Gothic...............................................................36
3.1.1. Không gian…………………………………………………………………….…..…..36
3.1.2.

Thời

gian…………………………………………………………………….…...

…….39
3.2. Ý nghĩa biểu tượng trong “Bức chân dung” kì dị………………………….….…..……42
TỔNG KẾT…………………………………………………………………………………..47
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………………..…….…50

Trang 2


Chương 1. Đôi nét về Chân dung Dorian Gray và văn học đồng tính
1.1. Vài nét khái quát về tác giả, tác phẩm
1.1.1. Chân dung Dorian Gray
Tác phẩm kể về cuộc đời của một chàng trai trẻ, đẹp là Dorian Gray. Câu
chuyện được bắt đầu từ sự gặp gỡ
của anh với người đàn ông là họa sĩ
tên Basil. Basil đã yêu Dorian và
mời anh ta làm người mẫu cho mình.
Khi Henry, bạn của Basil đến thăm

anh thì đã gặp Dorian, Henry đóng
một vai trị quan trọng trong sự thay
đổi của Dorian sau đó.
Trong một lần Dorian ngồi
mẫu, Basil đã vẽ được một bức chân
dung Dorian rất đẹp. Trước khi đem
bức chân dung ấy về nhà, Dorian
thầm nguyện cho bức chân dung sẽ
xấu xí, già nua theo năm tháng; cịn con người ngồi đời của anh sẽ vĩnh viễn
khơng già. Lời nguyền ấy đã ứng nghiệm với Dorian, và chỉ duy nhất mình anh ta
biết. Vì thế sau mỗi lần anh phạm phải sai lầm nào đó thì khn mặt Dorian trong
bức chân dung lại trở nên xấu xí. Bí mật đó được Dorian tiết lộ với họa sĩ Basil,
và kết thúc tác phẩm là cái chết đau đớn của người họa sĩ này vì anh ta đã biết về
bí mật phía sau bức chân dung ấy – một con quỷ dữ, xấu xa, kinh tởm đến rợn
người1.
1 Theo một số nguồn tư liệu mà người viết cập nhật và tìm hiểu thì tác phẩm chưa dừng lại ở cái chết
của người họa sĩ, mà cuối cùng Dorian đã hủy diệt bức chân dung ma quái của anh, người ta tìm thấy
anh trên sân thượng với một con dao và hiện hữu lúc đó là một người đàn ơng nhăn nheo, già nua và
xấu xí. Tuy nhiên, người viết chỉ xin khảo sát và tìm hiểu tác phẩm trên phần văn bản mà người viết có
trong tay, đó là bản dịch của tác giả Nguyễn Thơ Sinh, do nhà xuất bản Văn nghệ phát hành năm 2008.

Trang 3


Tiểu thuyết “Chân dung Dorian Gray” đã đưa người đọc đến với những chiều
kích sâu lắng, phức tạp và thiêng liêng hơn của thân phận con người. Tác phẩm
thể hiện những khát khao ích kỷ của bản năng cũng như những trăn trở và nhiều
sự cám dỗ của cuộc sống. Đó là cuốn tiểu thuyết viết về hành trình đi tìm lương
tâm của một chàng trai trẻ. Đây là một hành trình của những cung bậc cảm xúc:
tâm tư giằng xé, trượt qua những dằn vặt tàn khốc, giãy dụa vật vã của nhân vật

trước cuộc đời, trước số phận mà trên lộ trình dài ấy, mỗi con người phải tự mình
chọn lựa; anh ta phải kháng cự hay chấp nhận, hài lòng hay phẫn nộ, dường như
vẫn là một câu hỏi lớn.
1.1.2. Oscar Wilde
1.1.2.1. Cuộc đời
Oscar Wilde sinh ngày 16
tháng 10 năm 1854 tại Dublin,
là nhà thơ và cũng là nhà soạn
kịch người Ái Nhĩ Lan. Cha
mẹ ông là người đã có những
ảnh hưởng đặc biệt lên sự
nghiệp sáng tác của ông sau
này. Mẹ ông là phu nhân Jane
Wilde sinh năm 1820 mất
năm 1986. Bà là một thi sĩ và cũng là một nhà báo, bà từng xuất bản hàng trăm bài
thơ rực lửa cổ vũ ý chí đấu tranh của người Ireland chống lại kẻ thù đàn áp. Wilde
rõ ràng là được thừa hưởng từ mẹ ông tinh thần đấu tranh đó nhưng trên một "mặt
trận" hồn tồn khác. Ông sống trong một thời đại mà châu Âu lần đầu tiên được
chứng kiến những thách thức của những luận điểm khoa học chống lại sự dị nghị
của giáo hội và nhà thờ đối với tình yêu đồng giới. Cha Oscar Wilde là một nhà sưu
tập đồ cổ, một nhà văn, và cũng là một bác sĩ chuyên khoa về mắt và tai.
Trang 4


Oscar Wilde theo học tại trường Portora Royal, thuộc thành phố Enniskillen quận
Fermanagh từ năm 1864 đến năm 1871. Sau đó, ơng theo học tại Đại học Trinity
của thành phố Dublin vào những năm 1871 đến hết năm 1874, và sau khi học ở
đây xong Oscar Wilde đã theo học tại Đại học Magdalen tại thành phố Oxford
cho đến khi tốt nghiệp cử nhân và đến sống tại London năm 1878.
Năm 1884 ông lấy vợ là nữ bá tước Lloyd. Để trang trải những chi phí sinh hoạt

gia đình, Oscar Wilde trở thành biên tập viên thường trực cho Phụ nữ Thế giới
trong khoảng thời gian từ năm 1887 đến năm 1889. Năm 1888, ơng cho ra đời tập
truyện Hồng tử hạnh phúc và những câu chuyện cổ tích, đặc biệt viết cho hai
cậu con trai của mình. Đây là một tác phẩm có giá trị nhân văn thâm thúy sâu sắc.
Cuộc hôn nhân của ông đổ vỡ vào năm 1893. Sau đó, ơng gặp một nhà qúy
tộc trẻ tên là Alfred Douglas. Nhà quý tộc này vốn là một nhà thể thao và cũng là
một nhà thơ. Sau đó họ trở thành tình nhân của nhau trong một quan hệ đồng
tính. Đây chính là nguyên nhân vừa phá hủy vừa để lại dấu ấn đôc đáo trong cuộc
đời và sự nghiệp văn chương của ơng.
Chính mối quan hệ tình cảm này đã dẫn đến việc ơng phải ra tịa về tội danh
quan hệ đồng tính (lúc đó vẫn cịn được coi là một tội phạm hình sự ở Anh
Quốc). Sau đó ơng phải lãnh án 2 năm tù lao động với tội danh quan hệ tình dục
đồng tính, được coi là phản lại các giá trị thuần phong mỹ tục.
Ông bị giam tại nhà Wandsworth ở London và kế đó được được chuyển đến nhà
tù Reading Gaol. Trong thời gian nàyong viết tác phẩm De Profund (1905). Đây
là tác phẩm Oscar Wilde viết riêng cho người bạn tình Alfred Douglas của mình
dưới dạng độc thoại và đã tiết lộ khá nhiều khía cạnh đời sống riêng tư của mình
như một tác phẩm hồi ký.
Năm 1987, ông được trả tự do và sống tại Berneval. Ông đã viết tác phẩm Vũ
khúc Ballad tại nhà tù Reading Gaol,trình bày một cách chi tiết những điều kiện
đối xử khắc nghiệt của nhà tù này. Osar Wild qua đời tại một khách sạn hạng tồi
Trang 5


ở Paris năm ơng 46 tuổi vì căn bệnh viêm màng não trong lúc ơng nghèo xác xơ
khơng cịn một xu nào dính túi.
Sinh thời, Oscar Wilde từng nói: “Một nụ hơn có thể hủy hoại một cuộc
đời”. Câu này ứng với ông cả khi sống lẫn sau khi chết. Oscar Wilde qua đời tại
Pháp năm 1908, cái chết của ông đến nay vẫn là một bí ẩn. Nhà điêu khắc Jacob
Epstein (1880-1959) đã dựng bia mộ cho ông ở Paris với một bức tượng con nhân

sư có cánh. Những người hâm mộ Oscar Wilde mỗi khi đến “thăm” ông đều để lại
những nụ hôn. Những vệt son môi cứ chồng lên chi chít, che phủ hết mặt đá của
bia mộ và bắt đầu hủy hoại pho tượng.
Trong bài báo có tiêu đề "Khi Oscar Wilde gặp Giáo Hồng Pius IX", tác
giả Monda viết: "Wilde là một thiên tài vĩ đại, người của những cảm xúc lớn, mà
đằng sau ánh sáng của những trang viết, đằng sau tấm mặt nạ của sự phù phiếm
là sự am hiểu sâu sắc về những giá trị bí ẩn của cuộc sống".
Và thật thiếu sót khi nhắc đến Oscar Wilde mà khơng điểm qua về những
“nỗi niềm” đồng giới của nhà văn. Bởi lẽ, theo Freud, nghệ sĩ giống như người
mắc bệnh tâm thần, rời bỏ cái thực tế để đi vào thế giới tưởng tượng và hình thức
nghệ thuật biểu hiện cái thế giới tưởng tượng. Trong đó, những dục vọng thầm
kín của nghệ sĩ cho phép nghệ sĩ nhất thời sống bằng những ảo tưởng dục vọng,
mà những ẩn ức ấy trong Oscar là nỗi niềm về đồng giới.
1.1.2.2. Ẩn ức về khao khát đồng giới
Bên cạnh những thành công về sự nghiệp, Oscar Wilde có một cuộc sống
riêng tư đầy bi kịch.
Những vở kịch của Oscar Wilde, đặc biệt là "The Importance Of Being Earnest" đã
đem lại cho tác giả người Ireland này một vị trí vững chắc trên văn đàn Anh quốc.
Đó cũng là lý do khiến mà các nhà viết tiểu sử trước đây thường chỉ tập trung vào
văn nghiệp của ơng. Tuy nhiên, những biểu hiện khơng bình thường về giới tính đã
đem đến cho ơng một cuộc đời đầy kịch tính. Dựa trên những tư liệu ghi lại những
Trang 6


cuộc phỏng vấn và nhiều cuốn hồi ký và nhật ký chưa xuất bản của nhà văn, tác giả
Neil McKenna đã xây dựng nên bức chân dung mới của một trong những nhà văn
có cuộc sống bi kịch nhất thế kỷ 19.
Neil McKenna bắt đầu bằng một sự thật gây shock: “Ít ai biết được rằng Oscar
Wilde có mặt trong một nhóm nhỏ gồm những người đàn ơng đấu tranh cho sự
chấp nhận về mặt luật pháp cũng như về mặt đạo đức xã hội tình yêu của những

người đồng giới”. Thông tin này đã làm đảo ngược những điều mà trước đây người
ta từng biết về nhà văn, đồng thời đặt ơng vào vị trí trung tâm của cuộc đấu tranh
của những người đồng tính.
Wilde sinh năm 1854 ở Bublin (Ireland). Ông sống trọn cuộc đời dưới triều đại của
Nữ hoàng Victoria - một triều đại đặc trưng bởi những quan niệm đạo đức chặt chẽ
và cực kỳ bảo thủ, trong đó quan hệ đồng giới được coi là tội ác nghiêm trọng hơn
cả tội giết người. Tuy nhiên ở thời đó, giới gay xuất hiện khá nhiều trong tầng lớp
thượng lưu ở Anh.
Theo John Addington Symonds, một nhà thơ đồng tính, từng học tập tại trường
Trung học Harrow thì hầu như "những cậu bé có gương mặt xinh xắn ở đây đều có
một cái tên con gái và ít hay nhiều đều có những biểu hiện đồng tính", trong khi
Lord Alfred Douglas, "bạn" sau này của Wilde (thường được biết đến với cái tên là
Bosie), ước tính "có khoảng 90% bạn bè cùng tuổi ơng tại Winchester có quan hệ
tình dục đồng tính".
Nếu những ai đã đọc "Nhà giả kim" của Paulo Coelho chắc không quên được phần
dẫn nhập với câu chuyện về chàng Narziss được Oscar Wilde viết lại đầy thi vị.
Trong các ẩn ức, thì mặc cảm Narziss được lý giải cho những ẩn ức đồng giới:
Truyền thuyết về chàng Narziss xinh trai, ngày ngày soi mặt trên hồ nước để tự
chiêm ngưỡng sắc đẹp của mình. Chàng say mê chính mình đến nỗi một ngày kia
nghiêng quá đà, ngã xuống hồ và chết đuối. Thế là từ nơi đó mọc lên một bơng
hoa đẹp, mang tên chàng Narziss nọ. Nhưng Oscar Wilde không kết thúc câu
Trang 7


chuyện như thế mà kể rằng sau khi chàng chết, những nàng tiên trong rừng hiện
ra, thấy hồ nước ngọt kia giờ đã biến thành một đầm lầy mặn vì nước mắt.
“Vì sao em khóc ?” – các nàng tiên hỏi.
“Vì em thương tiếc chàng Narziss”, hồ nước đáp.
“Phải rồi. Các chị chẳng ngạc nhiên tí nào. Và tuy tất cả chúng ta đều theo đuổi
chàng nhưng chỉ mình em được chiêm ngưỡng sắc đẹp tuyệt vời ấy”.

“Chàng xinh trai đến thế ư ?”, hồ nước ngơ ngác hỏi.
“Còn ai biết điều này rõ hơn là em chứ ?” – các nàng tiên ngạc nhiên – “ngày
nào mà chàng chẳng cúi người soi mình trên mặt hồ”.
Nghe thế, hồ nước im lăng hồi lâu rồi mới đáp : “Đúng là em khóc chàng Narziss,
nhưng em chưa bao giờ để ý rằng chàng đẹp trai đến thế. Em khóc chàng vì mỗi
lần chàng soi người trên mặt hồ thì em mới thấy được sắc đẹp của chính em hiện
lên rõ trong đơi mắt chàng”2.
Cũng theo Freud, mọi sự tưởng tượng phóng túng và nghệ thuật nảy sinh
trên sự tưởng tượng đó là lối thoát duy nhất để nghệ sĩ vượt lên trên mâu thuẫn
khơng hịa giải được giữa ham muốn bản năng và những quy tắc luân lý xã hội.
Và rõ ràng rằng, xã hội mà tác giả của bức “Chân dung Dorian Gray” ln có
những hình thức cấm đốn, đầy định kiến với thế giới thứ ba này.
1.1.3. Oscar Wilde với những định kiến độc ác của xã hội với đồng giới
Trong thập kỷ 60 của thế kỷ 19, Karl Heinrich Ulrichs, một luật sư người
Đức, được coi là người đầu tiên ở châu Âu công khai trạng thái giới tính "hai pha"
của mình. Ulrichs đã viết đến hàng chục cuốn sách dẫn đến những cuộc tranh cãi
trên những vấn đề chủ yếu như: Sự ham muốn đồng giới có phải là một căn bệnh di
truyền và nếu như thế thì nó khơng thể bị coi là tội ác. Ơng dùng khái niệm
"Uranian" với nghĩa như "Tình dục đồng giới" như bây giờ và ngay từ thời đó ơng
2 Trích đoạn "Nhà giả kim" - Paulo Coelho.

Trang 8


đã đề nghị luật pháp cho phép những người đồng giới được cưới nhau. Dần dà
những nhà tư tưởng cấp tiến ở Đức, Áo và Pháp bắt đầu bị thuyết phục bởi luận
điểm: tình dục đồng giới là một loại bệnh lý và cần được điều trị bởi các bác sĩ tâm
lý chứ không phải bởi sự trừng phạt của giáo hội và tịa án. Từ đó, Wilde và những
bạn bè cùng "cảnh ngộ" với ông thường sử dụng khái niệm "psychological" để chỉ
chung cho tất cả những hiện tượng liên quan tới giới đồng tính.

Cũng giống như những người đồng tính cùng thời với ơng, Wilde tìm cách
trốn chạy "căn bệnh" của mình bằng một đám cưới năm 1884 với Constance Mary
Lloyd, cuộc hơn nhân nhanh chóng cho ra đời hai đứa con trai vào năm 1885 và
1886. Nhưng việc áp dụng cuộc hôn nhân như một phương thuốc chữa bệnh của
nhà văn đã hoàn toàn thất bại.
Vào khoảng năm 1887, trong thời gian làm việc cho tạp chí Society
Magazines ở London (Anh), Oscar Wilde phải lòng một biên tập viên trẻ tên là
Alsager Vian. Nhà thơ thường xuyên viết thư cho Vian, mời mọc anh đến nhà ông
để "hút thuốc và uống rượu Italy".
Theo Telegraph, trong những bức thư gửi người tình, Wilde thường thẳng
thắn: "Tơi sẽ ở nhà vào chiều mai, rất vui nếu cậu đến uống trà"; "Chúng ta sẽ có
buổi tối tuyệt vời cùng nhau, sau khi hoàn thành xong các bài báo" hay "Hãy đến
vào ăn tối vào lúc 7h30 thứ sáu nhé. Không quần áo, chỉ có chúng ta và một chai
rượu Italy".
Tác giả McKenna cũng viết: "Nhân vật nam trong tác phẩm mang tâm hồn
và tình u của một người đàn ơng dành cho những người đàn ơng khác". Một năm
sau đó, Wilde cho xuất bản The Picture of Dorian Gray, trong đó nhân vật của ơng
đã có một tun bố đã trở thành câu trích dẫn cửa miệng cho giới gay cả thế kỷ sau
đó: "Cách duy nhất để loại bỏ sự cám dỗ đó là khuất phục nó".
1.2. Vài nét về nhân vật đồng tính trong văn học
Trang 9


Dù thích hay khơng thích, ủng hộ hay phản đối, người ta cũng không thể phủ
nhận một thực tế là xã hội từ xưa đến nay ln có những con người đồng tính.
Đồng thời với điều đó, việc những người đồng tính chịu sự kỳ thị nhất định cũng
là một thực tế khác. Họ phải tự ẩn mình, giấu đi danh tính thực sự của mình để
hịa chung vào cuộc sống thường nhật. Tuy nhiên, dấu ấn về sự hiện diện của
người đồng tính vẫn thể hiện đâu đó qua những tác phẩm văn chương.
Tại Việt Nam, văn học đồng tính xuất hiện khá muộn so với thế giới. Thời kỳ

trước, tác phẩm hiếm hoi ám chỉ đồng tính có lẽ là bài thơ Tình trai của Xuân
Diệu. Tuy nhiên, trong khoảng nhiều năm trở lại đây, đề tài đồng tính đã bắt đầu
được khai thác một cách khá mạnh dạn. Nhiều tác giả đã chọn đề tài gai góc này
để thử bút. Khơng ít người đã thành cơng và gây được những tiếng vang nhất
định. Có thể kể ra ở đây những tác phẩm như Một thế giới không có đàn bà, Les
- Vịng tay khơng đàn ơng (Bùi Anh Tấn), Song song (Vũ Đình Giang), Nháp
(Nguyễn Đình Tú), Thành phố khơng lạc lồi (Phạm Thành Trung)…
Việc đề tài đồng tính được các nhà văn khai thác thể hiện sự biến chuyển lớn.
Thứ nhất, đồng tính đã được coi là một hiện tượng tự nhiên, một thực thể tồn tại
trong xã hội. Một chức năng quan trọng của văn học là phản ánh cuộc sống, vậy
nên đề tài đồng tính được đề cập đến trong tác phẩm văn chương âu cũng là điều
hết sức bình thường. Thứ hai, khơng thể phủ nhận sự phát triển mạnh mẽ của đề tài
đồng tính của văn học Việt Nam phát triển cùng với sự mở rộng giao lưu với văn
học thế giới ở thời điểm sự đấu tranh cho quyền tự do, bình đẳng cho giới tính thứ
ba được phổ rộng ở cấp độ toàn cầu.

Khá nhiều huyền thoại trên thế giới đã từng đề cập đến chuyện đồng tính hoặc
quan hệ của những người cùng giới. Đây được coi là những biểu hiện của hiện
tượng đồng tính trong xã hội cổ đại. Thần thoại Hy Lạp đã từng đề cập đến nhân
Trang 10


vật Thần gió Tây Zephyrus. Mặc dù đã có nhiều vợ và nhiều con nhưng Zephyrus
vẫn say mê chàng hoàng tử Hyacinth người Spartan. Tuy nhiên, Hyacinth lại tôn
thờ thần Apollo. Quá tức giận và ghen tuông, Zephyrus đã dùng đĩa ném vỡ đầu
Hyacinth. Khi chết đi, máu của Hyacinth biến thành cây hoa dạ hương.Trong tác
phẩm Lịch sử có thật - True History của nhà văn người Hy Lạp Lucian (120-185)
được coi là tác phẩm đầu tiên đề cập đến chuyện tình u của những người nam
đồng tính. Cốt truyện kể về nhân vật chính, bị cơn bão cuốn lên mặt trăng và chứng
kiến cuộc chiến tranh giữa cư dân mặt trăng và cư dân mặt trời. Nhân vật chính

(nam giới) sau những chiến cơng trên chiến trường đã được vua mặt trăng chọn
làm con rể bằng cách cho lấy… con trai của nhà vua. Tuy nhiên, trong suốt thời kỳ
Trung Cổ, đồng tính bị coi là chủ đề cấm kỵ nghiêm ngặt. Mãi sau này, hiện tượng
đồng tính mới xuất hiện trở lại một cách dè dặt trong các tác phẩm văn học.
Carmilla (Sheridan Le Fanu) là tác phẩm đề cập đến quan hệ đồng tính nữ đầu tiên,
thể hiện ở hình tượng những cơ gái bị biến thành ma cà rồng và có hành vi sex với
người đồng giới. Tiểu thuyết Tiếng trống khác - A Different Drum (Chris
Davidson) cũng kể về tình yêu phát sinh giữa 2 chàng lính Yankee và lính Liên
Bang ở 2 chiến tuyến trong cuộc nội chiến Mỹ. Những tác phẩm đồng tính có thể
gây ra vơ số rắc rối cho tác giả. Nhà văn Radclyffe Hall, người viết cuốn sách đồng
tính nữ đầu tiên có tên Giếng cơ đơn - The Well of Loneliness (1928). Sau đó, ơng
đã phải hầu tịa vì đã viết nên những hành động trái tự nhiên giữa nữ giới unnatural practices between women. Cuốn sách bị cấm tại Anh hàng thập kỷ sau
đó. Trong khi ở Mỹ, cuốn sách thoát khỏi kiểm duyệt, trở thành cuốn sách dẫn đầu
cho làn sóng viết về đồng tính nữ sau này.

Cho đến giữa thế kỷ 28, đề tài đồng tính vẫn chỉ được đề cập đến một các
khá dè dặt. Tuy nhiên, khơng ít tác giả cũng đã bắt đầu có những tác phẩm chất
Trang 11


lượng về đề tài này. Tác phẩm Doanh trại Nữ - Women’s Barracks (Tereska
Torres) lấy đề tài là một nhóm nữ binh sĩ có quan hệ trên mức tình cảm với nhau
tại London trong Thế chiến II. Cuốn sách đã được bán ra hơn 4 triệu bản, trở
thành cuốn sách bán chạy nhất năm 1952 tại Anh. Tuy nhận khá nhiều lời chỉ
trích nhưng chất lượng cuốn sách đã khiến giới phê bình khơng thể phủ nhận giá
trị của tác phẩm. Nhà phê bình Donna Allegra đã phát biểu: “Tại sao phải ngại
ngùng khi đó là một phần hiện thực xã hội?”.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của những hoạt động vì nhân quyền,
người đồng tính dần được sự chấp nhận mạnh mẽ hơn từ xã hội và dư luận. Cùng
với đó, văn học với đề tài đồng tính đã trở thành một trào lưu khá mạnh mẽ, đồng

thời nó cũng gây ra khơng ít tranh cãi…
Theo tác giả Kilian Meloy trong bài viết Ảnh hưởng của những nhân vật
đồng tính trong Văn học - Influential Gay Characters in Literature thì: “Sự phát
triển của đề tài đồng tính trong văn học nghệ thuật liên quan mật thiết đến những
phong trào đấu tranh vì quyền con người, trong số đó có việc đấu tranh địi bình
đẳng cho người đồng tính. Những tác phẩm văn chương đồng tính trên một góc
độ nào đó đã thu hút được sự chú ý của dư luận, tạo nên cái nhìn cảm thơng hơn
của xã hội với giới tính thứ ba”.
Nửa đầu của thế kỷ 28, rất ít NXB dám xuất bản những tiểu thuyết đồng
tính. Chính vì thế, thể loại văn học đồng tính đã tìm các ẩn mình ở dịng văn học
như văn học viễn tưởng. Nhà phê bình văn học Darko Suvin viết: “Văn học viễn
tưởng có thể thoải mái chỉ ra những mối quan hệ đồng tính vì nó đề cập đến
những thế giới khác với nơi ta đang sống, buộc người đọc phải theo luật chơi
của tác giả”. Nhiều hình tượng đồng tính hoặc hàm ý đồng tính đã được xây
dựng.
Quan hệ đồng tính manh nha xuất hiện trong một số truyện tranh của các
công ty truyện tranh danh tiếng như Marvel Comics hay DC Comics. Thế giới
Trang 12


truyện tranh Nhật thậm chí cịn có dịng truyện tranh đồng tính nam - yaoi và
truyện tranh đồng tính nữ - yuri. Nhà phê bình văn học Nicola Griffith nhận định:
“Hình tượng những dị nhân phải che giấu thân phận của mình chính là nỗi niềm
của những người đồng tính”. Tác phẩm truyện tranh Sự quyến rũ của Trinh
nguyên - Seduction of the Innocent của Fredric Wertham được coi là khuyến
khích quan hệ đồng giới. Nhân vật Sao phương bắc - Northstar thuộc nhóm anh
hùng Alpha Flight là nhân vật siêu anh hùng đồng tính đầu tiên của hãng Marvel
Comics. Hãng truyện tranh DC Comics cho nhân vật siêu anh hùng trong nhóm
The Authority là Midnighter và Apollo cưới nhau, nhận 1 đứa bé gái làm con.
Chính vì sự phát triển của những mối quan hệ đồng tính xuất hiện trong

một số truyện tranh, Bộ Văn hóa Mỹ đã phải cho ra đời Bộ Quy tắc Tài liệu dành
cho Truyện tranh - Comics Code Authority (CCA) trong đó có giới hạn khá
nghiêm ngặt đối với chủ đề đồng tính, ngăn cản việc hàm ý quan hệ đồng tính ẩn
trong nội dung truyện. Tuy nhiên, bộ luật này chỉ áp dụng được với những tác
phẩm được xuất bản qua con đường chính thống. Những truyện tranh khơng xuất
xứ - underground comics sử dụng hình tượng của những người nổi tiếng, chính trị
gia vào vai người đồng tính nhằm thu hút độc giả trong giới đồng tính. Điều này
gây ra khơng ít phiền tối cho thể tài đồng tính trong văn học.
Tuy nhiên, với sự phát triển của các hoạt động đấu tranh vì con người, từ
những năm 80 trở lại đây, văn học đồng tính đã nhận được sự thừa nhận như là
một dòng văn học chủ lưu - mainstream, nghĩa là đây là một chủ đề có thể khai
thác với sự cấm kỵ ngày càng giới hạn. Sự phát triển đó cịn lan ra những ngành
nghệ thuật khác như điện ảnh, kịch nghệ khiến sự chấp nhận của xã hội ngày
càng lớn hơn. Tác phẩm Annie trong tâm trí tơi - Annie on My Mind (Nancy
Garden) xuất bản năm 1982 kể về 2 cô gái trung học yêu nhau được chào đón
nồng nhiệt. Năm 2008, Tập san Thư viện trường học - School Library Journal đã
Trang 13


coi Annie trong tâm trí tơi nằm trong top 100 cuốn sách định hình văn học thế kỷ
203.
Như vậy, vấn đề đồng tính dường như đã hịa chung vào dịng chảy của đời
sống văn học, chúng ta khơng có quyền chối bỏ dịng văn học ấy. Nó mang lại
cho cuộc đời những mảnh ghép hiện thực phong phú và đa dạng, đồng thời cũng
là tiếng nói cần phải được nói và chúng ta thì cần phải lắng nghe. Tác phẩm
“Chân dung Dorian Gray” là một trong những tiếng nói như thế. Không giống
những tác phẩm khác khi viết về “đồng tính”, Oscar Wilde đưa người đọc lần đến
với số phận của nhân vật, ở đó tình u đồng tính trỗi dậy có lúc nhẹ nhàng, cũng
có lúc mãnh liệt... buộc người đọc phải tị mị tìm đến hết tác phẩm. Dù đi ngược
lại với xu hướng sáng tác văn học đồng tính. Tác giả khơng hề thể hiện bất cứ

một cảnh “quan hệ” nóng bỏng nào trong các trang viết của mình, mọi con chữ
trong tác phẩm là sự cựa quậy của sự sống, nó tinh tế và sâu sắc mà người đọc
luôn bị ám ảnh.
Chương 2. Số phận bi kịch của nhân vật đồng tính nam trong Chân dung
Dorian Gray
2.3.1. Basil Hallward – một tình yêu “lương thiện” và kết thúc bất
hạnh
2.3.1.1. Basil Hallward – họa sĩ yêu nghề
Nhân vật Basil được giới thiệu trong phần đầu tác phẩm là một con người có
cá tính độc lập từ thuở bé. Chính bố anh đã ln tin rằng anh sẽ phải là một sĩ
quan trong quân đội. Và Basil đã đòi được đi học tại Oxford nhưng bố anh bắt
anh phải vào trường Đại học Middle Temple. Nhưng “sau khi ăn chưa đầy bữa

3 Phần này, chúng tôi mạn phép trích dẫn nội dung của tác giả Hồng Tùng (theo tạp chí Sơng Hương)/
Baomoi.com.

Trang 14


cơm ở đó, tơi quyết định bỏ nghành Luật và nhất định sẽ trở thành một họa sĩ [8,
tr.22].
Sự cố gắng của Basil đã giúp anh trở thành một người họa sĩ được “giới hâm
mộ” xôn xao. Basil được coi là bậc thầy của những nét cọ. Người họa sĩ ấy rất
yêu nghề và được đánh giá là “một họa sĩ có tài trong lĩnh vực nghệ thuật hiện
đại” [8, tr. 13].
Basil ln say sưa với “nghiệp vẽ” của mình, anh khám phá thế giới nghệ thuật
một cách tinh tế và ý nhị. Anh ln suy nghĩ “chỉ có hai điều quan trọng trong
lịch sử thế giới này. Đó là tìm ra một kênh sáng tạo nghệ thuật mới. Sau đó là sự
xuất hiện những cá tính cung cấp chất liệu cho nghệ thuật” [8, tr. 29].
Và trong người họa sĩ này, luôn trăn trở cũng như chiêm nghiệm về con đường

làm ra nghệ thuật, với Basil “người nghệ sĩ phải sáng tạo ra những điều thật đẹp”
cho công chúng. Anh khơng cho phép “cài đặt những tình cảm cá nhân của
mình vào nghệ thuật” và khi thấy mình đã vi phạm nguyên tắc ấy khi vẽ bức
chân dung của chàng trai trẻ Dorian, thì Basil đã khơng đưa nó đi trưng bày cho
cơng chúng, cho dù đó là một bức tranh rất tuyệt vời. Và cũng chính bức chân
dung ấy cũng là bức tranh đưa tài năng Basil vào cái chết ám ảnh người đọc ở
phần cuối của tác phẩm.
2.3.1.2. Basil Hallward với tình u đồng tính và bức chân dung tử nghiệp
Vốn là người đồng tính, Oscar Wilde có cuộc sống khá phóng
túng. Ơng là tác giả nổi tiếng của những câu nói: "Tơi có thể cưỡng lại
mọi thứ, trừ sự cám dỗ" (I can resist everything except temptation) và
"Cách duy nhất để thoát khỏi sự cám dỗ là đầu hàng nó" (The only way
to get rid of a temptation is yield to it). Có lẽ hình bóng của tác giả Oscar
Wilde được phản chiếu vào nhân vật Basil. Một người họa sĩ với tâm
trạng ngổn ngang của người đồng tính. Basil đã bị gục ngã trước cảm xúc
của mình, vì trái tim của anh đã bị người con trai ngây thơ đốt cháy:
Trang 15


“Bao giờ tơi cũng muốn làm chủ mình cho đến khi tơi gặp Dorian Gray .
Rồi thì – lúc đó tơi cũng khơng biết giải thích như thế nào nữa. Có một
thứ quyền lực nào đó khiến tơi hoảng sợ. Tơi biết rõ mình đang đứng
trên bờ vực thẳm khủng hoảng lớn nhất của số phận cuộc đời” [8, tr.22].
Và cũng ngay lúc đó, người họa sĩ Basil có cảm giác như số phận đã vùi
anh vào những niềm vui khó tả, trộn lẫn với những nỗi đau khó nói “Tơi
biết nếu như tơi và Dorian Gray nói chuyện riêng với nhau, tôi sẽ suốt
đời phục tùng quỳ lụy cậu ấy” [8, tr. 22]. Cuộc gặp gỡ của Basil với
Dorian - chàng trai có một cá tính rất lạ lùng đã khuấy tung, đảo lộn tâm
trí của Basil. “Cả hai chúng tôi đứng rất sát, gần như là cảm giác da thịt
chạm vào nhau. Ánh mắt của chúng tôi lại bắt gặp. Chàng trai cịn nói

với tơi rằng: Trời đã sắp đặt để chúng tôi không thể nào cưỡng lại
được số phận. Số phận đã được an bài để chúng tôi nhất định sẽ gặp
nhau” [8, tr.24].
Cho dù trước khi gặp chàng trai Dorian ấy, với những nét cọ của
mình Basil đã khiến anh được xem là “kẻ bất tử của thế kỷ thứ 19”,
nhưng chính Basil cũng phải thú nhận rằng từ khi gặp Dorian, Basil vẽ
toàn tranh đẹp, những tác phẩm tuyệt vời nhất trong lịch sử sáng tác của
riêng bản thân người họa sĩ này. Nhìn thấy cá tính của Dorian Gray khiến
Basil có một nhận thức khác hẳn về nghệ thuật, một cách diễn đạt hoàn
toàn mới mẻ. Người họa sĩ đã” nhìn mọi vật bằng con mắt mới. Giờ thì
tơi có thể tái tạo lại cuộc sống qua nét cọ mà trước đây tôi không hề có
khả năng này” [8, tr. 30].
Và tất cả những cung bậc cảm xúc của tình yêu đã giúp Basil có
một tinh thần mạnh mẽ đầy hưng phấn để vẽ, vì trong tâm hồn của Basil
giờ đây là một tình yêu chân thật dành trọn cho người con trai đã đánh
Trang 16


thức trái tim Basil cũng như đánh thức khả năng sáng tạo của anh. Bằng
con mắt non tơ của kẻ đang yêu, Basil trông Dorian thật hấp dẫn “... dù
đã ngồi hai mươi nhưng Dorian với tơi chỉ là một cậu bé… Chàng trai
này khiến tôi nhận ra cả một trường phái nghệ thuật mới qua một lối suy
nghĩ hết sức vơ thức – Một trường phái chỉ có cảm xúc và khát khao tinh
thần mới nhận ra, một phong cách thuần túy Hy Lạp, một sự giao hòa
tuyệt đỉnh giữa cơ thể và tâm hồn [8, tr. 30].
Với tâm hồn của người nghệ sĩ, Basil hiểu rằng Dorian Gray vô
cùng quan trọng, với Basil cảm giác mà anh dành cho Dorian là một tình
yêu trọn vẹn, những bức tranh phong cảnh của mình vẽ khi ngồi cạnh
Dorian đối với Basil đó cũng là những kỷ niệm đáng yêu, cho dù
“Agnew đã trả một giá rất cao nhưng tôi vẫn khơng bán được. Ơng có

biết vì sao khơng? Vì bức tranh ấy tôi đã vẽ khi Dorian ngồi bên cạnh tôi
đấy” [8, tr. 30]. Bởi lẽ, Dorian Gray đã giúp Basil “nhìn thấy những nét
cong queo trong những đường thẳng, các yếu tố tình cảm trong những
gam màu huyền diệu” [8, tr. 31].
Nhà họa sĩ điêu luyện ấy đã không đem triển lãm bức chân dung
mà anh ta vẽ chàng trai Dorian Gray. Vì đơn giản rằng trong bức chân
dung đó cảm xúc của người họa sĩ đã thể hiện rất cụ thể và rõ nét, người
họa sĩ yêu nghề ấy đã có được cảm hứng thật vi diệu để làm nên kiệt tác
khi gặp Dorian, và chính Basil đã thú nhận rằng: “có q nhiều nét thầm
kín của tơi trong bức chân dung của Dorian. Đấy là tình yêu của tơi” [8,
tr.31-32].
Cũng như quy luật cảm xúc của tình yêu, tình yêu đồng giới cũng
dào dạt sự mong mỏi đợi chờ và hi vọng sự đáp lại cảm xúc của người
Trang 17


tình. Và khi được Henry hỏi về cảm xúc của Dorian Gray dành cho mình
ra sao thì người họa sĩ cũng ngẫm nghĩ và nói “cậu ta thích tơi thật – Tơi
biết chàng trai này thật sự thích tơi. Thú thật tơi cũng hay nói những lời
nghe dỗ ngọt với cu cậu. Tơi tìm thấy khối cảm rất lạ khi nói ra những
điều thầm kín của mình với Dorian mà tơi biết sau này mình sẽ phải hối
tiếc. Chả khác nào tơi trao mình q dễ dãi. Như một định luật, Dorian
luôn hấp dẫn tôi. Bọn tôi đã từng cuốc bộ từ tiệm rượu về nhà, vai khoác
vai, tay đan tay, ngồi trong phịng họa nói chuyện về cả ngàn điều khác
nhau [8, tr.33].
Nhưng với Dorian, có lẽ chỉ là thích, anh ta hồn tồn có thể gần
gũi với Basil hàng giờ đồng hồ, nhưng cảm giác tình yêu thì khơng xuất
hiện trong anh khi bên cạnh Basil. Thậm chí có lúc hình như Dorian rất
thích thú khi nhìn thấy Basil đau khổ. Chính Basil cũng nhận ra được
rằng, mình đã yêu Dorian trong thầm kín, chính anh đã nhận thấy sự đau

đớn trong tình u đơn phương ấy “tơi cảm thấy, … tôi đã trao tất cả
tâm hồn của mình cho anh ta – một người ln coi tơi rất nhẹ. Nhẹ như
một cánh hoa cài vào áo khoác, một thứ phục sức phù phiếm, một vật
trang trí cho những ngày hè chóng qua. Cậu ta sẽ mau chóng chán ghét
tơi …[8, tr.33].
Dù tình u trong vơ vọng, nhưng sự ích kỷ trong tình u đồng
tính của Basil cũng khơng ngừng trỗi dậy, khi Henry hỏi mình về Dorian
Gray, Basil đã khơng bày tỏ nhiều điều về người mình u, thậm chí
Basil cịn khẳng khái nói với Henry rằng “tôi không muốn ông biết anh
ta đâu … Khi tôi thật sự u mến một người nào đó, tơi chẳng bao giờ
nói về người đó với bất cứ một ai… ông biết đấy, tôi luôn yêu thích sự
kín đáo và những điều bí mật” [8, tr. 17]. Cịn khi nói về cuộc gặp gỡ của
Trang 18


mình, Basil say sưa kể, đó là cảm giác vui vẻ và phấn khích khi một
người đang u nói về cuộc “lương duyên” của “ý trời” ... “Rồi trực giác
cho tơi biết có một người đang chăm chú nhìn tơi. Tôi xoay người lại và
nhận ra Dorian Gray. Đấy là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau. Khi tia
mắt hai chúng tơi gặp nhau tơi bắt gặp trong cái nhìn, tơi biết rõ khn
mặt mình đang tái xanh lại. Một thứ bản năng hiếu kì hồn tồn khống
chế tơi. Tơi biết mình đang đối diện với một nhân vật có sức mạnh quyến
rũ thật khó diễn tả. Tơi biết nếu mình khơng cưỡng lại, nhất là tơi bng
thả theo bản năng của mình, nhân vật ấy sẽ nuốt trọn tất cả con người
tôi. Nuốt cả linh hồn tôi, nuốt cả tâm tình của một người nghệ sĩ như tơi.
Thú thật với ông, từ xưa đến nay tôi chưa bao giờ bị bất cứ một ảnh
hưởng ngoại lực nào tác động lên cảm xúc của mình đến thế [8, tr.22].
Thật vậy, khơng cảm giác nào hụt hẫng hơn khi người mình u sẽ
lập gia đình, người mình ln nhung nhớ sẽ ln nằm trong vịng tay kẻ
khác. Tình u là bản năng tự nhiên của con người, tình yêu đồng giới

cũng thế, Basil đã vô cùng buồn bã khi nghe tin Dorian sẽ kết hôn...
“khuôn mặt Basil chợt tái hẳn đi một cách rõ rệt, một vẻ mặt đầy bỡ ngỡ.
Một thống bối rối xuất hiện trong đơi mắt của anh ta. Sau đó đơi mắt
Basil u tối thật nhanh; - Dorian Gray lấy vợ à; - Vơ lí lắm. Khơng thể
như thế được” [8, tr. 99]. Khơng có nỗi niềm nào xót xa hơn để có thể
diễn tả được, cảm xúc của người họa sĩ Basil khi cùng chàng trai mà anh
yêu đi xem mắt Sibyl – cô gái mà Dorian sẽ cưới làm vợ, đó là một nỗi
buồn chìm sâu dưới đáy vực của tâm hồn, nó đau khổ mà khơng tài nào
anh có thể bật lên thành tiếng “Basil im lặng. Trơng anh có vẻ rất trầm
ngâm tư lự. Thực ra nhìn anh có vẻ rất buồn. Basil không thể chịu đựng
được cuộc hôn nhân này” [8, tr. 109]. Basil biết rõ kể từ nay đối với anh
Trang 19


Dorian Gray sẽ khơng cịn là Dorian Gray của những ngày tháng cũ trong
quá khứ nữa... “Đôi mắt Basil tối xầm lại. Đám đông ồn ào náo nhiệt
trên đường phố nhập nhòa trong mắt anh. Khi chiếc taxi vừa đậu trên
bậc thềm của nhà hát, Basil biết rõ hình như anh đã già hơn trước rất
nhiều [8, tr. 109].
Nếu như cái tin Dorian sẽ lấy vợ đã khiến Basil già đi thấy rõ, thì
cái chết của cơ gái trẻ mà Dorian muốn kết hôn ấy đã vực Basil dậy và
mang đến cho anh một sức sống lạ kì, Basil vội vã đi tìm người mà anh
ngày đêm mong nhớ, cái tình yêu nồng nàn mà anh chỉ dành riêng cho
Dorian Gray, anh khơng dám nói với người mình u, anh cứ ngập ngừng
đến nghẹn ngào“Dorian… - Hay phải đợi đến một ngày nào đó em mới
chịu nhận ra là anh đã …” [8, tr.161].
Và trong cuộc nói chuyện của mình với Dorian, anh không muốn Dorian tiếp tục
gặp và nghe theo lời Henry, thì Dorian đã thẳng thừng từ chối “lịng tốt” của
chàng, Dorian khơng muốn Basil khun cậu ta về cách sống hay bất cứ một điều
gì. Lúc này trong Basil lại xuất hiện “sự mâu thuẫn giữa cảm giác gồ ghề và trực

giác mềm nhão nơi con người của anh” ngay chính bản thân mình, Basil cũng đã
nhận ra “anh có q nhiều nữ tínhtrong cơ thể của mình đến độ cảm giác ấy thật
quá êm ái, dịu dàng. Chàng trai trẻ kia vì đâu có thể khiến trái tim của Basil
rung động nhiều đến thế” [8, tr.165].
Và khi trái tim mình thơi thúc, khơng thể khơng nói ra, Basil đã bày tỏ tình
yêu của mình cho Dorian hiểu, dù tình cảm ấy anh sẽ khơng bao giờ được đáp lại,
nhưng có lẽ, nói ra sẽ khiến tâm hồn của người đàn ông ấy thanh thản và thoải
mái hơn, dù có ngập ngừng và bối rối, nhưng bằng tình yêu rạo rực, con tim cũng
cất thành lời “Thật đúng là anh đã tôn sùng em nhiều hơn là ranh giới của lãng
mạn, nhiều hơn cảm giác giữa tình tình bạn giữa hai người đàn ơng thuần túy.
Trang 20


Em ơi. Anh khơng hiểu vì sao nữa, anh chẳng thể nào yêu một người phụ nữ
được… Dorian ơi. Từ khi gặp em, cá tính nhân cách của em đã hoàn toàn đánh
gục anh. Anh hoàn toàn thú nhận rằng anh đã yêu thương em gần như điên lên
được, thật ngốc nghếch, thật diệu kì. Anh ghen tị với tất cả mọi người nói chuyện
với em. Anh chỉ muốn em mãi mãi thuộc về anh. Anh chỉ thật sự hạnh phúc khi
anh được ở bên cạnh em như trong lúc này… [8, tr. 171].
Sau đó, Basil đã khơng gặp Dorian nữa, tình cảm của anh bị nén lại trong
phịng họa của mình, cịn Dorian lại dửng dưng và vui vẻ chấp nhận những bài
học của Henry đã dạy. Càng ngày Dorian càng trở nên sa đọa trong cuộc sống
trác táng của anh, trăn trở khá lâu nhưng cuối cùng Basil cũng quyết định đến gặp
người mình yêu trước khi đến Pari vào một ngày đơng giá, gió mạnh và rét buốt
với mong muốn “nhìn thấy linh hồn” của Dorian và khuyên bảo cậu không nên
sống một cách lầm lạc như thế nữa. Khi hiểu ý định của Basil, Dorian đã cười
khẩy một cách bất cần. Trước khi phơi bày “linh hồn” của mình, cậu đã gào lên
thảm thiết, một sự đau khổ trần trụi được bộc lộ rõ nét qua từng giọng nói phẫn
uất ở người trai trẻ. “Bàn chân Dorian giậm mạnh lên cầu thang dẫn lên căn
phòng ở trên tầng cao nhất. Dorian cảm thấy một luồng xúc động man dại khi

anh có cơ hội chia sẻ thế giới riêng của mình với người đã vẽ ra bức chân dung
khiến Dorian phải xấu hổ mỗi khi nhìn nó. Chính bức chân dung ấy đã cất giữ
tất cả những điều xấu xa bỉ ổi của Dorian, tồn tại như những ký ức ám ảnh
không thể nào gột rửa được” [8, tr.237]. Dù cho Dorian có cư xử như thế nào với
mình, người họa sĩ ấy vẫn bình tĩnh và vẫn ln muốn người u của anh vui,
những gì Basil nói với Dorian cũng vì “chỉ nghĩ tốt cho em thơi. Anh biết từ
trong sâu thẳm trái tim mình, bao giờ anh cũng yêu em” [8, tr. 238].
Dorian đã nói hết tất cả sự dằn vặt của mình, và lí do vì đâu mà cậu ngày
càng thác loạn, tất cả đều do bức chân dung của Basil tặng anh ta. Mỗi lần lầm lỗi
là mỗi lần khuôn mặt trong bức chân dung trở nên méo mó. Cuối cùng thì Basil
Trang 21


cũng nhìn thấy bức chân dung mà chính tay anh đã vẽ, dưới cái khơng khí chập
chờn của ngọn nến đang cháy dở, anh đã tởm lợm khi nhìn thấy cái vẻ mặt “hết
sức quái đản đang hậm hực nhìn anh”. Basil lúc này có lẽ “đã thật sự nhập hồn
vào lời thoại của một vở kịch ma quái” [8, tr.243]; khuôn mặt Basil đã trở nên
“lịm ngất” một hồi lâu, nhưng vì vẫn cịn u Dorian nhiều, anh đã trấn an
Dorian mà cũng như đang trấn an mình, về nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi bức
chân dung của Dorian Gray “Có lẽ căn phịng ẩm thấp nên vải canvas bị hư thơi.
Loại sơn mà anh sử dụng có nhiều chất khoáng rất độc đối với rêu mốc” [8,
tr.244] chứ không phải là do Dorian gây ra nhiều chuyện xấu. Bao giờ Basil cũng
nghĩ tốt về người mà anh yêu. Tình yêu mà Basil đã thú nhận với Dorian và cả
Henry là một tình yêu “lãng mạn”, khi nhìn thấy khn mặt của người mình u
trở nên thay đổi đến đau đớn thì Basil vẫn giữ tình yêu của chính mình, “Tình
u của anh khơng có gì là xấu xa và vẩn đục. Cịn đây là khn mặt của một kẻ
chỉ biết đến những điều dâm dật bẩn thỉu …[8, tr. 244]. Anh đã van nài Basil cầu
nguyện “như hồi còn bé” với Chúa lòng lành, “Xin đừng để cho chúng con sa
chước cám dỗ - Xin tha tội cho chúng con. Hãy rửa sạch mọi tội lỗi cho chúng
con” [8, tr. 246].

Nhưng mọi thứ đó đối với Dorian là vô nghĩa, người họa sĩ hiền lành đã
chết dưới những nhát dao kinh rợn của người mà họa sĩ Basil thú nhận đã yêu,
thú nhận “tôn thờ mãi mãi”; “tôn thờ hơn tất cả mọi điều”. “Dorian bước đến
cánh cửa. Mở cửa ra và khơng buồn nhìn xác người đàn ông mà anh vừa giết
xong. Người bạn đã vẽ ra bức chân dung đáng nguyền rủa ấy, một bức tranh
nguy hiểm chết người đã bị anh giết” [8, tr. 249]. Và thế là người họa sĩ với tình
yêu đồng tính đã tử nghiệp bởi bức chân dung mà anh dành hết tình cảm nồng
nàn của mình để vẽ nên. Cuối cùng Basil cũng đã chết, người họa sĩ đã biến khỏi
cuộc đời Dorian Gray. Bất giác ta thấy thật nghiệt ngã cho con người ấy, sống
với lòng nhiệt thành và “tình yêu lãng mạn” chưa đủ, con người ta cần phải
Trang 22


có thêm nhiều nghị lực và lí trí tỉnh táo hơn trong suốt cuộc hành trình của họ.
Và khi có đủ tỉnh táo để nhận diện mình nên làm gì trong cuộc đời này, nên làm
gì trong tình yêu để khơng rơi vào tình trạng đau đớn mà Xn Diệu – một nhà
thơ có án nghi đồng tính đã viết nên: “Người ta khổ vì thương khơng phải cách/
u sai duyên và mến chẳng nhằm người”.
Và người đã gián tiếp đưa đến cái chết cho người họa sĩ này, là người đang
đi tìm cái bản chất thật sự trong mỗi con người thực thụ. Đó là Henry, chính
người đàn ơng này đã “dạy” cho cậu bé Dorian non nớt bước vào cuộc đời trụy
lạc đầy tăm tối.
2.3.2. Henry – người khơi nguồn và bắt đầu cho tội ác
2.3.2.1.

Henry – người thử nghiệm những lý thuyết lạ lùng

Trong cuộc nói chuyện của mình với Basil, Henry đã thốt lên rằng “cũng
đáng buồn thật đấy. Thiên tài bao giờ cũng trường tồn so với vẻ đẹp. Đấy là lí do
tại sao chúng ta cứ phải dằn vặt rồi lao đầu vào giáo dục. Tất cả chỉ là những cố

gắng vùng vẫy để sinh tồn. Chúng ta muốn mình tồn tại càng lâu càng tốt nên
sẵn sàng nhồi nhét đủ mọi thứ dữ kiện linh tinh vào trong đầu, với một hi vọng
ngốc nghếch rằng chúng ta sẽ được sống yên ổn [8, tr.33].
Với Henry ơng khơng thích con người cứ mãi “đưa vào đầu những dữ kiện
linh tinh”, lý thuyết mà ông theo đuổi ln nêu cao vai trị của bản năng mỗi con
người. Henry xem việc tự chối bỏ chính mình đã làm cho con người ta tê liệt về
mặt cảm giác. Nhân vật này luôn cho độc giả thấy những sự trừng phạt của cuộc
sống đến với con người là bởi vì chính sự trốn chạy của chúng ta. Tất cả những
xung đột mà con người trong xã hội cứ cố gắng vùng vẫy trong tâm tưởng cuối
cùng quay lại đầu độc chính bản thân họ. Henry đã cho rằng chẳng cịn gì tồn tại
ngồi những tàn tích của lạc thú và hưởng thụ. Anh đã đưa ra một lời khuyên cho
mọi người trong xã hội này, một “cách tốt nhất để xa lánh cám dỗ là phải tự
mình đánh đu và nhập cuộc với chúng” [8, tr. 44]; với Henry, khi người ta càng
Trang 23


chống lại cám dỗ thì tâm hồn của họ sẽ trở nên bệnh tật vì khát khao của họ bị
ngăn cấm. Thậm chí Henry cịn khẳng định rằng “Chúng ta chẳng làm gì được
để chống lại những dục vọng thú tính mà định luật tự nhiên đã tạo ra” [8, tr. 44].
Với những suy nghĩ ấy, Henry đã tâm sự và chia sẻ với Dorian những kinh
nghiệm của cuộc đời, chính Henry đã chỉ cho Gray thấy sự nhanh chóng cũng
như sức tàn phá mãnh liệt của thời gian. Henry đã cho Dorian hiểu giá trị của con
người cậu ấy, “Gray ơi, chính tuổi xn bạn đang có và sự trong trắng của thời
trẻ. Bạn đã từng có những lần đam mê và chính bạn đã từng sợ hãi. Những tư
tưởng ám ảnh cứ bủa vây lấy bạn, những giấc mộng kinh hoàng vào ban đêm
cũng như những lần bạn mơ tưởng giữa ban ngày. Tất cả đều là những kí ức đã
làm cho mặt của bạn đỏ lên vì mặc cảm xấu hổ” [8, tr.44].
Đồng thời, Henry còn khẳng định giá trị của Dorian, cho cậu thanh niên
ngây thơ ấy hiểu rằng “chủ nghĩa mới mẻ về hưởng thụ…là điều mà thế kỷ của
chúng ta đang mong muốn. Bạn chính là biểu tượng mọi người khao khát” [8,

tr.53]. Từ những “lý thuyết” thực tế đến “ma quái” của mình, Henry đã nhận ra
rằng “chỉ có phương pháp thí nghiệm mới là phương pháp giúp con người có thể
rìm ra những phân tích khoa học về cấu trúc của đam mê và khao khát [8, tr. 95];
và Henry cũng thấy được nhân vật giúp ông bắt đầu thực hành những lý thuyết
của mình “Dorian sẽ là một hứa hẹn hiệu quả cho những thí nghiệm thành cơng
và ý nghĩa...” [8, tr. 95]. Nuôi dưỡng tư tưởng ấy, Henry đã cho Dorian lột bỏ bản
chất “ngây thơ” của anh, để linh hồn anh về với quỷ.
2.3.2.2.

Henry - người “giúp” Dorian kí hợp đồng với quỷ

Khi gặp gỡ với Dorian Gray, Henry đã không ngần ngại mà cứ tự nhiên mở
lối cho khoang não của chàng trai trẻ ngây thơ ấy cứ nhảy dựng lên và choáng
ngợp đến run rẩy, dù những lời nói ấy “chỉ là những câu chữ trần trụi. Nhưng
chúng có một sức mạnh thật lớn lao. Thật rõ ràng, quá thực tế. Trần trụi đến độ
tàn nhẫn” [8, tr. 45] và chính Dorian Gray cũng đã phải khẳng định rằng “Chẳng
Trang 24


ai có thể thốt khỏi ma lực khỏa thân của những lời nói ấy. Nhưng lạ thật, tại sao
những câu nói ấy có đầy phép lạ. Cứ như thể những điều trừu tượng bỗng có
hình vóc, như được làm bằng nhựa, phát ra âm thanh như suối nhạc, ngọt lịm
réo rắt như tiếng kêu của một loài chim hạc” [8, tr.45-46].
Sau khi ngợi khen Dorian, Henry đã thì thầm mà nói với chàng rằng “Thần
thánh đã đối xử quá tốt với bạn. Nhưng những vị thần sẽ nhanh chóng địi lại
những gì họ đã tặng cho bạn. Họ sẽ trơ trẽn đến độ tráo trở địi lại những gì họ
hào phóng ban tặng cho bạn trước đây. Bạn chỉ có vài năm nữa để sống với vẻ
đẹp thời trẻ của mình. Khi tuổi trẻ ra đi vẻ đẹp của bạn cũng cuốn gói ra đi với
tuổi trẻ… có thể bạn sẽ bám víu vào ký ức của một dĩ vãng đầy vinh quang,
nhưng như thế sẽ càng khiến bạn cay đắng nhận ra mình đã bị đánh gục…[8, tr.

52].
Và Henry đã thúc giục Dorian hãy mạnh dạn sống giữa cuộc đời “đừng
ném tuổi xuân của mình vào tay những kẻ ngông cuồng, những kẻ tầm thường
và những kẻ chỉ biết nhìn đời bằng ánh mắt dung tục giả dối, có những châm
chọc ngu ngốc nữa… Hãy sống nhé! Hãy mạnh dạn sống một cuộc đời phong
lưu huyền diệu bạn đang có. Đừng đánh mất những gì thuộc về bạn. Hãy ln
tìm cảm giác mới lạ. Đừng sợ hãi vì bất cứ điều gì cả” [8, tr. 52-53].
Người đàn ơng lại tiếp tục ru ngủ Dorian bằng giọng nói đầy chất nhạc của
mình… Qủa thật, Henry ln thích thú với những phương pháp nghiên cứu
khoa học, còn những chuyện vụn vặt khác của khoa học thường không khiến
anh ta chú ý đến. Henry thường mổ xẻ chính mình cũng như anh mổ xẻ người
khác. Với Henry thì đời sống con người là phạm trù duy nhất xứng đáng để ơng
ta tìm hiểu. “Chẳng có gì khó khăn để tìm hiểu về con người. Sự thật thì chúng
ta ln theo dõi cuộc sống, quan sát về những điều khó hiểu, về niềm vui và nỗi
đau…” [8, tr.91].
Trang 25


×