Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số giải pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 ở trường THTHCS nga văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (787.8 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Mục
1
1.1
1.2
1.3
1.4
2
2.1
2.2
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
2.4
3
3.1
3.2

Nội dung
Mở đầu
Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của sáng kiến kinh nghiệm
Cơ sở lý luận của sang kiến kinh nghiệm
Thực trạng của việc dạy học dạng bài “Viết đoạn văn
ngắn” trong giơ Tập làm văn lớp 2 ở trường Tiểu học


&THCS Nga Văn
Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
Giải pháp 1: Hình thành và rèn cho học sinh các kỹ
năng cơ bản khi viết đoạn văn ngắn.
Giải pháp 2: Bồi dưỡng vốn hiểu biết về đời sống,
cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh.
Giải pháp 3: Rèn cho học sinh kỹ năng viết một
đoạn văn theo đúng trình tự.
Giải pháp 4: Bồi dưỡng hứng thú viết đoạn văn
ngắn cho học sinh.
Giải pháp 5: Dạy Tập làm văn lồng ghép qua các
môn học khác.
Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt
động giáo dục, với bản thân, đồng nghiệp và nhà
trường
Kết luận và kiến nghị
Kết luận
Kiến nghị

Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
4
4

6
10
12
14
16
17
17
17

0


1. Mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
Tiếng Việt có vai trị vơ cùng quan trọng trong q trình học tập cũng như
giao tiếp của học sinh. Môn Tiếng Việt giúp các em có các kĩ năng nghe, nói,
đọc, viết phục vụ cho việc học và giao tiếp; ngoài ra mơn Tiếng Việt cịn cung
cấp cho các em vốn từ ngữ phong phú để các em sử dụng trong quá trình giao
tiếp và tư duy. Ở chương trình tiểu học, phân mơn Tập làm văn có vị trí đặc biệt
quan trọng trong q trình dạy học mơn Tiếng Việt. Đây là phân môn sử dụng và
tổng hợp các kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt từ các phân môn Tập đọc, Tập viết,
Chính tả, Luyện từ và câu. Tập làm văn giúp cho học sinh vận dụng các hiểu
biết và kĩ năng về Tiếng Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp. Để
làm được một bài văn nói hoặc viết, người làm phải hoàn thiện các kĩ năng
nghe, nói, đọc, viết phải vận dụng các hiểu biết kiến thức về Tiếng Việt. Trong
quá trình vận dụng này, các kĩ năng và kiến thức đó được hồn thiện và nâng cao
dần. Do đó, Tiếng Việt khơng chỉ xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân
môn mà trở thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Phân môn Tập làm văn
thực hiện mục tiêu quan trọng nhất của dạy học là dạy học sinh sử dụng Tiếng
Việt để giao tiếp, tư duy, học tập. Việc học tốt môn Tập làm văn giúp cho học

sinh phát triển tư duy lơgic, có sự hiểu biết, có tình cảm u mến, gắn bó với
thiên nhiên, gắn bó với con người và vạn vật xung quanh. Từ đó, tâm hồn và
nhân cách của các em sẽ được hình thành và phát triển. Việc dạy cho học sinh
cách viết và trình bày một đoạn văn ngắn rất quan trọng, nó góp phần giúp cho
học sinh học tốt hơn phân môn Tập làm văn ở các lớp trên.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em được
làm quen với đoạn văn và được rèn kĩ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Qua
thực tế giảng dạy trên lớp và dự giờ đồng nghiệp, tôi nhận thấy các em còn lúng
túng khi viết đoạn văn, nhiều học sinh làm bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường
lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, cách chấm câu cịn hạn chế, có em viết khơng
đúng u cầu của đề bài hoặc có những bài làm đảm bảo về số câu nhưng viết
không đủ ý. Việc dạy cho học sinh viết được đoạn văn chính là q trình tơi khơi
dậy sự hiểu biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung
quanh. Điều đó địi hỏi tôi cần dạy cho học sinh biết cách dùng từ, đặt câu đúng
và hay khi viết. Song thực tế ta thấy với học sinh lớp 2 vốn sống của các em cịn
hạn chế, do đó khi viết đoạn văn ngắn học sinh cịn gặp rất nhiều khó khăn. Là
một tôi đứng lớp nhiều năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp
các em viết đoạn văn đúng và hay hơn? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra
những giải pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh. Nên tôi đã chọn và
viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “ Một số giải pháp rèn kỹ năng viết
đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 ở trường TH&THCS Nga Văn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
- Sáng kiến góp phần khắc phục được hạn chế về cách viết một đoạn văn
ngắn với câu văn cộc lốc, không đúng ngữ pháp, hay câu văn không rõ ràng, sự
sắp xếp các câu văn khơng lơgíc...Qua đó bồi dưỡng lịng say mê u thích con
người, cảnh vật xung quanh các em.
1


- Góp phần vào đổi mới cách dạy tiếng Việt, giúp học sinh có kĩ năng viết

đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tính cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh
- Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học
của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách sắp xếp
câu, ý sao cho lơgíc, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
- Nội dung, chương trình, Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, đặc biệt là
phân môn Tập làm văn lớp 2 và một số tài liệu tham khảo.
- Một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong giờ
Tập làm văn.
- Học sinh lớp 2 Trường TH&THCS Nga Văn.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra:
- Mục đích để tìm hiểu các phương pháp dạy học của tơi; tìm hiểu tính
tích cực nhận thức của học sinh.
- Phương pháp thực nghiệm: Dạy thực nghiệm tại lớp 2A
- Phương pháp trực quan:
- Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa, sách tôi, vở bài tập…
- Trao đổi với tơi – học sinh để tìm hiểu thực trạng dạy – học môn Tập
làm văn.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2 1. Cơ sơ lý luận:
Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kĩ
năng nói và viết. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ học
phân mơn Tập làm văn vì khơng biết nói gì? Viết gì? Ngay cả bản thân tơi đơi
khi cũng khơng tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các môn học khác.
Việc dạy cho học sinh viết đoạn văn chính là q trình tơi khơi dậy sự
hiểu biết và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều
đó địi hỏi tơi dạy cho học sinh có cách tổ chức, sắp xếp câu, ý sao cho lơgic,
cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học

sinh lớp 2 khó nhận thức được việc sắp xếp ý (cảm nhận của mình) theo trật tự
đúng. Vốn sống của các em cịn hạn chế, do đó khi diễn đạt học sinh gặp rất
nhiều khó khăn. Sự sắp xếp tổ chức câu trong đoạn còn rời rạc. Các câu độc lập
về nội dung chưa có sự liên kết và lơgic … Đơi khi các em cịn viết câu khơng
rõ ý, từ lặp lại nhiều… Là một tôi đứng lớp nhiều năm, tôi rất băn khoăn và trăn
trở: Làm thế nào để giúp các em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tơi
ln cố gắng để tìm ra những biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học
sinh. Đây là lí do tơi chọn và viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “Một số
giải pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học sinh lớp 2 ” nhằm góp phần
nâng cao chất lượng dạy-học phân môn Tập làm văn lớp 2.
2.2. Thực trạng của việc dạy học dạng bài: “Viết đoạn văn ngắn”
trong giờ tập làm văn lớp 2 ở trường TH&THCS Nga Văn:
2


* Về phía tơi:
- Đa số tơi đã quan tâm đến việc rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn cho học
sinh lớp hai. Tuy nhiên còn một bộ phận nhỏ tôi chưa thường xuyên lồng ghép
và thông qua các tiết dạy khác để rèn các kỹ năng cần thiết cũng như bồi dưỡng
tâm hồn, tình cảm cho các em, giúp cho các em viết đoạn văn được tốt hơn.
- Một số tôi khi dạy cách viết đoạn văn ngắn cho học sinh cách dạy còn
đơn điệu, lệ thuộc một cách máy móc vào sách tơi, hầu như rất ít sáng tạo, chưa
linh hoạt, chưa cuốn hút được học sinh…
- Mặt khác trong quá trình chấm và nhận xét một số tôi thường ngại phê
nên chưa thực sự chú tâm đến việc sửa lỗi viết văn cho học sinh hoặc sửa lỗi
một cách sơ sài, học sinh không thấy được lỗi viết của mình một cách rõ ràng do
đó cái sai của học sinh vẫn được lặp lại... Hay tôi cũng chưa chỉ ra được cái hay,
cái được trong đoạn viết của học sinh để các em phát huy hơn trong những bài
tiếp theo.
* Về phía học sinh:

- Học lớp 2 các em mới bắt đầu được làm quen với phân môn Tập làm văn
nên việc yêu cầu học sinh viết thành một đoạn văn hồn chỉnh gặp rất nhiều khó
khăn.
- Do các em chưa nắm vững được trình tự các bước khi viết một đoạn văn.
- Do vốn sống, vốn từ ngữ của các em còn hạn chế.
- Các em chưa biết dùng từ, đặt câu, chưa có kỹ năng sắp xếp câu thành đoạn.
- Do các em còn thiếu một số kỹ năng cần thiết như: Kỹ năng quan sát, kỹ
năng sử dụng từ ngữ và kỹ năng trình bày đoạn văn.
- Do học sinh chưa có hứng thú lắm với bài tập viết đoạn văn ngắn
- Các em có vốn sống cịn ít, vốn hiểu biết về Tiếng Việt, về từ ngữ còn
rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết câu văn còn cụt lủn. Hoặc câu có thể
có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng còn chưa rõ ràng về
nghĩa, việc trình bày, diễn đạt ý của các em cịn ở mức độ rất sơ lược.
- Học sinh có hứng thú trong giờ Tập làm văn, nhưng chủ yếu là tập trung
vào các bài tập làm miệng với các yêu cầu nói lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lại lời
khẳng định, phủ định. Tuy vậy. vốn từ các em còn chưa nhiều, kỹ năng diễn đạt
bằng ngôn ngữ viết của học sinh cịn hạn chế nên đơi khi các em chưa nhận ra
được sự khác biệt giữa các ngôn ngữ nói và ngơn ngữ viết.
- Kết quả của thực trạng
Năm học 2020-2021 tôi được phân công trực tiếp giảng dạy lớp 2A
Trường TH&THCS Nga Văn. Để nắm được thực trạng viết đoạn văn ngắn của
học sinh lớp tôi như thế nào, sau khi dạy xong bài tập làm văn tuần 8 tôi đã tiến
hành khảo sát với đề bài như sau :
Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1
của em.
Thời gian: 20 phút. Kết quả đạt được như sau:
Điểm
Sĩ số

Hoàn thành tốt

SL

TL

Hoàn thành
SL
TL

Chưa hoàn thành
SL
TL
3


HS
31

4

13%

17

55%

10

32%

* Nhận xét về kết quả

- Chất lượng học sinh hồn thành đoạn văn cịn thấp
- Khi viết đoạn văn kể về mẹ, các em thường bộc lộ các điểm yếu sau:
+ Về cách diễn đạt như: Từ bị lặp nhiều, dùng từ khơng chính xác.
+ Câu khơng rõ nghĩa, câu không đủ bộ phận, các câu trong đoạn văn cịn
lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi.
Trước thực trạng đó tơi đã tìm tịi, tham khảo nghiên cứu và đưa ra một số
biện pháp cụ thể.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
2.3.1. Giải pháp 1: Hình thành và rèn cho học sinh các kỹ năng cơ bản
khi viết đoạn văn ngắn.
a. hình thành và rèn kỹ năng quan sát cho học sinh bằng hệ thống câu hỏi
gợi ý rõ ràng:
Quan sát là cách nhìn nhận sự vật, hiện tượng một cách chi tiết và có
phân tích. Quan sát hướng đến và phục vụ cho mục đích, chủ ý rõ ràng. Nếu
khơng sử dụng óc quan sát, chúng ta chỉ nhìn thấy mọi thứ xung quanh mình
hàng ngày một cách ngẫu nhiên.
Để giúp học sinh biết cách quan sát tôi đã hướng dẫn học sinh rèn luyện
kỹ năng quan sát. Chẳng hạn khi nhìn một người, hãy đưa ra những nhận xét
như: người ấy tóc màu gì, cao hay thấp hơn mình, trang phục thế nào so với
những người xung quanh… Hay khi ngắm nhìn một cánh đồng hoa, ngồi việc
thưởng thức vẻ đẹp hãy tập thêm việc phân loại có bao nhiêu loại hoa, hướng
gió như thế nào,…
Do thời gian trên lớp quá ít nên trước khi làm một bài tập làm văn, tôi đã
yêu cầu học sinh về nhà chuẩn bị bài trước.
Ví dụ: Trước khi tả con vật nuôi trong nhà, tôi yêu cầu học sinh về nhà
quan sát kỹ con vật đó. Như vậy, để học sinh quan sát có hiệu quả, địi hỏi học
sinh phải có kỹ năng quan sát tốt. Vì thế, việc rèn kỹ năng quan sát cho học sinh
trước khi viết văn là rất quan trọng.
* Những yêu cầu khi quan sát:
- Các em phải dựa vào tất cả các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, da) để

nhận biết đặc điểm của từng đối tượng.
- Các em phải có một cái nhìn chung để xác định được mình đang phải
quan sát cái gì? Cảnh gì? Con gì? Tiếp theo các em phải chia nhỏ các đối tượng
thành nhiều phần rồi lần lượt quan sát theo nhiều góc độ khác nhau. Có thể cho
học sinh quan sát theo trình tự từ cái chung đến cái cụ thể, từ gần đến xa, từ trên
xuống dưới, từ phải sang trái, quan sát cảnh, nhân vật chính rồi sau đó mới quan
sát cảnh nhân vật phụ.
Ví dụ: Tả cảnh biển - Quan sát tranh: Cảnh biển (có thể cho HS quan sát
tranh ở SGK hoặc ảnh chụp về biển)
4


Quan sát từ gần (những con sóng) đến xa (những chiếc thuyền, chim,
mây, ông mặt trời)
- Tôi đưa ra các câu hỏi gợi ý:
+ Bức tranh vẽ cảnh gì?
+ Sóng biển như thế nào?
+ Trên mặt biển có những gì?
+ Trên bầu trời có những gì?
Ví dụ: Tả con vật
Tơi u cầu học sinh quan sát hình dáng bên ngồi (hình dáng chung), đến
các bộ phận (đầu, mình, chân, đi) của con vật. Sau đó, tiếp tục quan sát hoạt
động thường ngày của chúng. VD: lúc chạy, lúc ăn, lúc bắt mồi, lúc đùa giỡn.
Tập trung trả lời các câu hỏi:
+ Con vật ni có tên là gì?
+ Nó có bộ lơng màu gì?
+ Hình dáng con vật đó ra sao?
+ Các bộ phận (đầu, mình, chân, đi) của con vật đó như thế nào?
+ Hoạt động thường ngày của con vật đó?
Sau khi nghe tả và quan sát xong các em thành lập ra một sơ đồ như sau :

Tả hình dáng

Chú gà ở nhà em

Tả hoạt động
Gáy to

Mào đỏ
Con gà
Lơng nhiều màu
Đi dài, uốn cong

Ăn thóc …
Em u mến chú gà

Vỗ cánh...

5


Từ sơ đồ đã thành lập ở trên các em đã nắm được đặc điểm của con vật
cần kể mà phát triển thành một đoạn văn.
Khi quan sát cần lưu ý: Tập trung quan sát những bộ phận chính, lướt qua
bộ phận phụ, nên tập trung vào những gì có khả năng gây sự chú ý mạnh mẽ,
những đặc điểm nổi bật của các đối tượng quan sát. Điều quan trọng là không
chỉ quan sát bằng giác quan mà bằng cả tấm lịng, bằng cả tình u thiên nhiên,
lồi vật. Sau khi quan sát, các em phải ghi lại những gì mình đã quan sát, tập
trung nêu lại những gì gây ấn tượng nhất.
Để việc quan sát đạt hiệu quả, tôi đưa ra một số câu hỏi gợi ý để học sinh
tập trung chú ý vào những điều cần quan sát, tránh lan man đi lạc chủ đề chính.

* Nói quan sát là một kỹ năng bởi nó khơng chỉ phụ thuộc vào thị giác,
tích cách con người mà cịn có thể rèn luyện để phát triển. Và việc rèn luyện kỹ
năng này sẽ rất có ích cho cơng việc cũng như trong cuộc sống cho mỗi người
b. Rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng vốn từ ngữ khi nói và viết văn:
Để có kĩ năng viết đoạn văn tốt trước hết ở các tiết tập làm văn tôi rèn cho
học sinh kĩ năng nói gãy gọn, trọn vẹn ý, khơng nói câu cụt.
Ví dụ: Khi tả về con chim mà em u thích có học sinh nói: “Chim chích
ch cứ sáng sớm, trên cây dừa nhà em nó đậu rồi nó hót”.
Hoặc khi nói về tình cảm của cơ giáo với học sinh khơng nên nói: "Tình
cảm của cơ đối với em rất tốt", mà phải nói: "Cơ giáo rất u q chúng em..."
* Tơi đã phân tích cho học sinh:
Ý của em nói: "Cứ vào thời điểm buổi sáng, ở trên cây dừa nhà em có một
con chim chích ch đến và hót”. Vậy em cần nói cho gãy gọn và hay hơn:
“Sáng nào cũng vậy, chim chích choè lại bay đến đậu trên cây dừa nhà em, cất
tiếng hót líu lo”.
* Tơi nhắc nhở học sinh lưu ý giữa ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết. Khi
viết đoạn văn dẫn lời nói của người khác em phải cho trong ngoặc kép.
Ví dụ : - Muốn kể lại lời nói của Dì trong đoạn viết về người thân của em,
cần phải viết trong ngoặc kép như: Dì em bảo: “Cháu cứ lấy kẹo ra mà ăn ".
Hoặc khi trích dẫn lời nói của chú vẹt khi viết về một lồi chim mà em
thích. Mỗi khi có khách đến chơi chú lại nhanh nhảu: "Có khách! Có khách !".
2.3.2. Giải pháp 2: Bồi dưỡng vốn hiểu biết về đời sống, cung cấp vốn
từ ngữ cho học sinh.
a. Bồi dưỡng vốn sống:
Vốn hiểu biết về đời sống của học sinh được hình thành qua giao tiếp và
sinh hoạt hằng ngày, qua sách báo, truyền hình…và kiến thức được học ở
trường. Chính vì vậy tơi đã bồi dưỡng vốn sống cho các em. Trước hết đó là vốn
sống trực tiếp: tôi cho các em quan sát, và trải nghiệm những gì phải nói và viết.
Ví dụ: Khi dạy tiết tập làm văn tuần 21: “Viết 2, 3 câu nói về lồi chim
mà em thích” tơi đã trình chiếu cho các em xem tranh ảnh một số loài chim gần

gũi với các em như: chim bồ câu, chim sáo, vẹt, chào mào… và hoạt động của
các lồi chim đó.

6


- Khi học sinh quan sát tôi đặt những câu hỏi dẫn dắt, gợi mở, khơi dậy
suy nghĩ trong các em.
+ Con chim em định kể là con chim gì?
+ Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
+ Hoạt động của nó có gì nổi bật?
+ Vì sao em thích con chim đó?
Vốn sống được cung cấp gián tiếp cho học sinh qua các bài tập đọc, các
câu chuyện kể. Bởi vì rất nhiều kinh nghiệm của đời sống được đã được ghi
trong sách vở. Chính vì vậy tôi đã xây dựng cho học sinh hứng thú và thói quen
đọc sách.
Ví dụ: - Khi dạy bài tập đọc (cô giáo lớp em) trong khâu củng cố tôi cho
nhiều học sinh nhất là học sinh yếu nhắc lại hình ảnh cô giáo (cô giáo đến lớp
sớm, cô giáo rất chịu khó, thương u học sinh, …), tình cảm của học sinh đối
với cô giáo ( yêu quý cô giáo, ngắm mãi điểm 10 cô cho) để phục vụ cho bài tập
làm văn “ Bút của cô giáo” và bài “ Kể ngắn về cô giáo”.
- Khi dạy phân môn Tập đọc – Kể chuyện bài “Con chó nhà hàng xóm”
tuần 16, phần củng cố và liên hệ, tơi cho các em kể những công việc đã làm thể
hiện việc chăm sóc và u thương các con vật ni trong nhà để phục vụ cho tiết
Tập làm văn tuần tuần 16: Kể về con vật nuôi trong nhà mà em biết.
Nhờ thực hiện biện pháp này trong tiết tập làm văn, học sinh khá giỏi kể
chuyện tự nhiên, và những học sinh có khả năng diễn đạt kém cũng tiến bộ và
trình bày mạch lạc hơn.
b. Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh:
7



Để làm được một bài văn tốt, các em cần phải có vốn từ ngữ phong phú,
đa dạng. Trong các bài tập đọc đã cung cấp cho học sinh khá nhiều từ ngữ. Xong
tôi luôn chú ý giúp các em tích lũy vốn từ ngữ đó bằng cách làm sau:
Ví dụ: Khi dạy bài tập đọc “Cháu nhớ Bác Hồ” (Sách Tiếng Việt 2 Trang 105). Tôi giúp cho học sinh nắm được một số từ ngữ trong bài được dùng
để tả Bác Hồ như sau: mắt Bác sáng, da Bác hồng hào, vầng trán Bác rộng, tóc
Bác bạc phơ, mắt Bác hiền và sáng. (Với vốn từ ngữ mà các em thu nhận được
từ bài tập đọc này sẽ giúp các em viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về ảnh Bác
Hồ rất tốt)
Tơi đã lưu ý học sinh trong khi viết đoạn văn tránh viết lặp lại từ nhiều lần
mà phải thay những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự. Ví dụ: Bác Hồ
thành Bác, Người… thay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau
chuốt hơn.
Từ mỗi bài tập đọc học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp
và ghi nhớ để vận dụng trong viết văn.
Ví dụ: qua bài Tơm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn tả về
chú Cá Con trong bài “Con vật thân dẹt, trên đầu có đơi mắt trịn xoe, tồn thân
phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”. Vốn từ cịn có trong phân mơn luyện từ và câu.
Tơi có thể cho các em chơi trị chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá. Các em sẽ
rất hứng thú và tìm được rất nhiều từ.
Để hỗ trợ cho học sinh, tôi cung cấp cho học sinh: Nhiều từ ngữ gợi tả, từ
láy, từ tượng thanh, tượng hình … Ví dụ : Mặt biển xanh và rộng thành mặt biển
xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành những từ ngữ liên kết
như : và, thì, nếu, vậy là ….
Ví dụ:
- Tả nắng của mùa hè: nắng chói chang, nắng gắt gỏng….
- Tả về tiếng hót của chim: hót líu lo, hót véo von, hót vang lừng …
- Tả về hình dáng người.
+ Thân hình: mảnh khảnh, gầy gị, béo trịn, thon thả …

+ Nước da: đen sạm, trắng hồng, bánh mật, xanh xao, đỏ đắn, ngăm đen…
+ Mái tóc: đen bóng, óng mượt, bồng bềnh, loăn xoăn….
+ Khuôn mặt: Trái xoan, đầy đặn, trịn trịa, xương xương, vng vức....
- Tơi đưa một số câu văn hay đến với học sinh một cách tự nhiên khơng
gị ép.
Ví dụ: Khi dạy học sinh viết đoạn văn tả cảnh biển tuần 25 tôi gợi mở:
Câu “Những cánh buồm đủ màu sắc được nắng sớm chiếu vào sáng rực
lên, trông xa như những đàn bướm bay lượn giữa trời xanh cùng với cánh chim
hải âu”. Có thể trả lời cho câu hỏi nào? (Trên mặt biển có những gì ?)
Tơi đã sưu tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe để học sinh
học hỏi. Trưng bày những bài văn hay của các bạn trong lớp để các em học tập.
Học sinh tập ghi chép những từ hay, ý đẹp khi bắt gặp ở đâu đó vào một quyển
sổ riêng của mình. Từ đó, vốn từ của các em sẽ ngày càng nhiều, càng phong
phú.
8


* Như vậy, qua việc bồi dưỡng vốn sống, vốn từ cho học sinh là chúng ta
đã trang bị cho các em những hành trang cần thiết nhất để các em có thể viết
được những câu văn hay với những từ ngữ giàu chất gợi cảm, gợi tả. Bằng biện
pháp này, trong các tiết dạy cụ thể môn của Tiếng Việt tôi đã cung cấp cho các
em vốn sống và khả năng sử dụng từ ngữ một cách tự nhiên, giúp cho các em có
kỹ năng viết đoạn văn hay. Sau đây là bài văn của em Trịnh Phương My, đã có
nhiều tiến bộ trong việc sử dụng vốn từ để viết đoạn văn hay và sinh động.

9


2.3.3. Giải pháp 3: Rèn cho học sinh kỹ năng viết một đoạn văn theo
đúng trình tự.

Việc rèn cho học sinh viết đoạn văn ngắn cần tạo điều kiện phát huy tính
tích cực, chủ động của học sinh. Phải làm sao cho mỗi đoạn văn là một cơ hội
sáng tạo cho học sinh thâm nhập, quan sát, phân tích từ thực tế.
- Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài
văn như lớp 4 - 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết từ 3
đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý.
- Tơi hướng dẫn cách trình bày một đoạn văn: Khi bắt đầu viết đoạn cách
lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, hết câu phải viết dấu chấm, ý này
tiếp sang ý kia, viết hết đoạn mới xuống dòng.
Đối với những bài tập yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn dựa vào các
câu hỏi gợi ý cho sẵn các em thường viết đoạn văn bằng cách liên kết lần lượt
các câu trả lời lại. Nhưng đối với những bài tập khơng có câu hỏi gợi ý học sinh
không biết nên viết đoạn văn như thế nào? Vì vậy tơi đã tập trung rèn cho học
sinh kỹ năng viết đoạn văn theo trình tự sau:
a. Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần kể (hoặc tả).
(Có thể diễn đạt bằng một câu)
b. Phát triển đoạn văn: Kể (tả) về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý, mỗi
gợi ý có thể diễn đạt 2 đến 3 câu tùy theo năng lực học sinh.
c. Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ,
mong ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của
đối tượng đó đối với cuộc sống, với mọi người.
Ví dụ: Kể về một con vật ni trong nhà mà em biết. (Bài 2- Tiết TLV
tuần 16)
Câu mở đầu:
- Giới thiệu về con vật nuôi trong nhà mà em biết (ví dụ như con mèo):
Con mèo nhà em nó rất đep!
Các câu phát triển:
- Kể về con mèo: Nó có bộ lơng đen mượt như nhung. Đơi mắt nó tròn
xoe và xanh biếc như hai hòn bi ve. Hai cái tai luôn vểnh lên, nhỏ như hai cái
mộc nhĩ nhưng rất thính. Dáng đi của nó uyển chuyển nhẹ nhàng.Chuột dù nấp ở

đâu nó cũng tìm được.
Câu kết thúc:
- Tình cảm của em đối với con mèo: Em rất thích con mèo nhà em vì nó
bắt chuột rất giỏi.
Tơi nhắc nhở học sinh:
- Có thể viết đoạn văn với số lượng câu văn nhiều hơn yêu cầu nêu trong
đề bài nếu có khả năng.
- Cần viết một cách chân thực, đủ ý, đặt câu đúng, biết nối các câu thành
một đoạn văn ngắn.
Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài
văn như lớp 4 - 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết từ 3
đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý cho phù hợp.
10


Ở học kỳ I học sinh được kể về những người thân thiết với mình như: Cơ
giáo, thầy giáo, ơng, bà, anh, chị, em… Do đó tơi nên gợi ý học sinh trước tiên
tự giới thiệu về người đó (Tên là gì?, mối quan hệ với bản thân?). Tiếp đó là
hình dáng, tính cách, cơng việc hoặc ý thích của người kể và cuối cùng là tình
cảm của học sinh đối với người mình kể.
- Sang học kỳ II, học sinh được tả về một số con vật, cảnh vật xung quanh
mình. Đầu tiên cần gợi mở cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật) định tả. Chi
tiết nổi bật của cảnh, vật đó. Cuối cùng là tình cảm của bản thân đối với cảnh vật
và con vật đó…
* Biện pháp này giúp cho các em nắm vững các bước khi viết đoạn văn,
đồng thời khi các em học lên lớp trên, các em nắm chắc về bố cục khi viết đoạn
văn, bài văn hoàn chỉnh hơn.
Đây là bài văn có sự tiến bộ rõ rệt nhất của em Trịnh Ngọc Tuấn Anh và Phạm
Vũ Long.


11


2.3.4. Giải pháp 4: Bồi dưỡng hứng thú viết đoạn văn ngắn cho học sinh.
Hứng thú có vai trị rất quan trọng trong học tập và làm việc, khơng có
việc gì người ta khơng làm được dưới ảnh hưởng của hứng thú.
M. Gorki từng nói: “Thiên tài nảy nở từ tình u đối với cơng việc”. Vì
vậy bồi dưỡng hứng thú học tập có vai trị rất quan trọng nhằm nâng cao chất
lượng học tập cho học sinh, khi đã có hứng thú rồi học sinh viết đoạn văn sẽ
chính xác hơn, hay hơn và giàu cảm xúc hơn.
Để giúp cho học sinh có hứng thứ khi viết đoạn văn ngắn trong các giờ
dạy, tôi đã tổ chức cho học sinh tham gia các hoạt động như:
- Tạo hứng thú thơng qua một số trị chơi: thi đố, trị chơi, sắm vai…
Ví dụ : - Trị chơi “Thi kể về người thân” tôi đã áp dụng vào khi dạy tiết
Tập làm văn của tuần 10, tuần 15 (SGK Tiếng Việt - lớp 2)
Tôi đưa ra các gợi ý như:
+ Người thân của em bao nhiêu tuổi?
+ Người thân của em làm nghề gì?
12


+ Người thân của em yêu quý, chăm sóc em như thế nào?
Cho các em lần lượt thi kể về người thân của mình. Qua trị chơi này tơi
tập trung vào rèn kỹ năng nói cho học sinh. Đối với học sinh trung bình yếu cần
rèn cho học sinh kỹ năng nói gãy gọn, trọn vẹn ý, khơng nói cụt câu. Cịn đối
với học sinh khá, giỏi tơi hướng dẫn, gợi mở cho học sinh biết cách dùng từ ngữ
hay, câu văn sinh động giàu hình ảnh.
- Trị chơi “Thi tiếp sức viết một đoạn văn” tơi có thể áp dụng vào tất cả
các tiết Tập làm văn có bài tập yêu cầu viết đoạn văn ngắn.
Ví dụ: Khi dạy tiết tập làm văn tuần 21: Viết 2,3 câu về một lồi chim mà

em thích. Tơi tổ chức cho các em thi tiếp sức viết về hình dáng và hoạt động của
chích bơng….
- Trị chơi “Sắm vai” tơi đã tổ chức cho học sinh chơi khi dạy tiết Tập làm
văn của tuần 20: “Hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè.”
* Học sinh sẽ sắm vai là mùa hè để giới thiệu về mùa của mình: Tơi cho
học sinh bám vào các gợi ý sau:
+ Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm?
+ Mặt trời mùa hè như thế nào?
+ Cây trái trong vườn như thế nào ?
+ Học sinh thường làm gì vào mùa hè ?
Hay khi dạy tiết Tập làm văn tuần 16 “ Kể về một con vật nuôi trong nhà
mà em biết.”
Tôi cho hai em lên sắm vai, một em là “chú gà”, một em là “người tả”.
Cùng lúc đó, tơi cho học sinh vẽ sơ đồ trên vở nháp.
“Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà: “Nhà em có ni một chú gà”
Cịn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tả: “Tơi có bộ lơng nhiều màu sắc. Tơi
có cái cái mào rất đẹp trên đầu. Tôi thường gáy rất to vào mỗi buổi sáng. …”
Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà: “Em rất yêu
quý chú gà nhà em.”Hoặc tơi có thể chỉ cần cho một em sắm vai “chú gà”.

- Tạo hứng thú cho học sinh khi tiếp xúc với tác phẩm văn học.
13


Sau khi đã tạo được hứng thú cho học sinh bằng cách đưa học sinh các tác
phẩm văn học. Việc làm tiếp theo của tôi là phải tạo được hứng học sinh khi tiếp
xúc với các tác phẩm văn học, qua đó hình thành và rè các kỹ năng viết văn cho
học sinh.
Để học sinh có lịng u thích văn học và có hứng thú khi viết văn, Tập
đọc tơi đã làm như sau:

+ Ví dụ: Khi dạy bài Tập đọc: “Tôm Càng và Cá Con” Tiếng Việt 2 tập 2.
Sau khi tìm hiểu bài tơi u cầu học sinh tìm những từ ngữ, câu văn hay
đoạn văn tả con vật em cảm thấy hay trong bài. Các em đã đưa ra được ngữ hay
câu văn mà các em cảm nhận được đó là hay và chỉ ra được trong câu văn đó
như: “Con vật thân dẹt, trên đầu có đơi mắt trịn xoe, thân phủ một lớp vẩy
bạc óng ánh”.
Hay khi dạy bài Tập đọc “ Cây đa quê hương ” Tiếng Việt 2- Tập Sau
khi tìm hiểu bài tơi u cầu học sinh tìm những từ ngữ, câu văn tả cây đa mà em
cảm thấy hay trong bài. Ngay lập tức các em đã đưa ra được ngữ hay câu văn,
đoạn văn mà các em cảm nhận được đó là hay và chỉ cái hay trong câu đó như:
Cành cây lớn hơn cột đình. Ngọn chót vót giữa trời xanh. Rễ cây nổi trên mặt
đất thành những hình thù quái lạ, như những con rắn hổ mang giận giữ ”...
Đồng thời tơi khuyến khích các em học thuộc lòng những đoạn văn, đoạn thơ
hay mà các em yêu thích, kiểm tra những đoạn mà học sinh thích ở giờ học sau.
Những tiết sinh hoạt ngoại khóa, tơi tổ chức cho các em những bài văn, bài thơ
mà các em sưu tầm được ngoài sách giáo khoa, gi về cảnh đẹp ở địa phương để
trau dồi cảm xúc cho các em.
Để tạo hứng thú cho học sinh, tôi đã tổ chức quá trình dạy học theo một
chiến lược lạc quan: Chú trọng vào mặt thành công của học sinh. Chú trọng mặt
thành công là chúng ta phải đề cao, phải tơn trọng những gì học sinh đã đạt được
trong đoạn văn đã viết dù là rất nhỏ. Tôi đã có sự hiểu biết về học sinh, hình
dung thấy những khó khăn mà các em gặp phải khi viết đoạn văn để bình tĩnh
trước những sai sót của các em và có biện pháp giúp đỡ phù hợp.
Điều cuối cùng tôi cần chú ý là cách nhận xét đánh giá. Thực hiện theo
thông tư số 22/2016/TT-BGDĐT khi đánh giá học sinh, tơi đã động viên khích lệ
các em để kích thích học sinh học tập tốt hơn. Đạt được thành công trong học
tập sẽ tạo ra hứng thú và niềm say mê trong học tập ở học sinh
* Nhìn từ góc độ thực tiễn, biện pháp này giúp cho tơi gieo vào tâm hồn
các em lịng say mê với mơn Tiếng Việt. Đồng thời tạo được mối quan hệ tốt đẹp
giữa thầy và trị, tạo mơi trường học tập thân thiện, thoải mái để các em phát huy

hết khả năng của mình.
2.3.5. Giải pháp 5 : Dạy Tập làm văn lồng ghép qua các môn học khác
Các loại bài Tập làm văn được bố trí xen kẽ trong từng tuần, góp phần tơ
đậm thêm nội dung chủ điểm học tập của từng tuần. Vì vậy, dạy Tập làm văn
cần gắn với dạy các phân môn Tiếng Việt khác (đặc biệt là Tập đọc, Luyện từ và
câu) nhằm mục đích giúp học sinh nắm và vận dụng tốt hơn các kiến thức đã
học ở các phân môn Tiếng Việt khác ứng dụng vào phân môn Tập làm văn.
14


Ví dụ : Bài Luyện từ và câu: Từ chỉ tính chất. Câu kiểu Ai thế nào ? Từ
ngữ về vật ni
Qua bài học này, các em có dịp quan sát được nhiều vật nuôi, nắm được
một số từ chỉ đặc điểm về con vật ni . Đây chính là kiến thức cần thiết giúp
các em học tốt bài Tập làm văn: Kể ngắn về con vật nuôi.
Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai - là
gì?”, “ Ai - làm gì?”, “Ai - như thế nào?”, GV hướng dẫn HS nhận biết những
vấn đề sau:
- Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu
hỏi :Ai?(hoặc cái gì?/ con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi: Là gì (hoặc làm gì?/
như thế nào? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo ).
- Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa ? (Đảm bảo về mặt nghĩa)
Trên cơ sở đó , GV hướng dẫn HS viết dấu chấm khi hết câu.
Khi học về chủ đề “ Ông bà“ “Cha mẹ”, “Anh em” ( từ tuần 10 đến tuần
16), với rất nhiều những bài đọc thắm đượm tình cảm thương u trong gia đình,
cùng với những tiết học phân mơn Luyện từ và câu đã cung cấp, mở rộng vốn từ
ngữ cho học sinh. Ngoài việc giúp học sinh hiểu rõ người thân của mình là
những ai, ngồi việc khai thác và giáo dục tình cảm cho học sinh thơng qua các
nhân vật trong bài Tập đọc, Kể chuyện nhấn mạnh cái hay, cái đẹp của nội dung
bài, hướng cho học sinh liên hệ đến bản thân, gia đình, người thân của mình, tơi

cịn cung cấp thêm từ ngữ, hướng dẫn các em hệ thống lại, lựa chọn, ghi nhớ các
từ ngữ phù hợp với đề tài (ông bà, cha mẹ, anh em) để chuẩn bị cho bài làm văn
sắp tới (viết về người thân).
Ngồi ra, thơng qua việc học môn Tự nhiên và Xã hội. Cụ thể là bài “Gia
đình”, tuần 11. Qua nội dung bài học tổ chức cho học sinh kể về những công
việc của người thân trong gia đình - Lưu ý cho các em cách quan sát và kể người
thân lúc làm việc và khi nghỉ ngơi. Đồng thời qua đó giáo dục các em biết giúp
đỡ bố mẹ những công việc phù hợp với khả năng của mình, có tình cảm và thái
độ kính trọng, yêu quý những người thân trong gia đình. Để phục vụ cho tiết
Tập làm văn tuần 13: Hãy viết một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) về gia đình
em.
Đối với mơn Đạo Đức cụ thể là bài : Bảo vệ lồi vật có ích tuần 14.
Thơng qua bài học giúp các em hiểu được ích lợi của một số loài vật đối
với cuộc sống con người. Qua bài học tôi rèn kỹ năng quan sát từng con vật, chú
ý vào các đặc điểm như: đầu, mình, màu lơng… Từ đó nâng cao kỹ năng quan
sát đồng thời giáo dục cho các em có ý thức bảo vệ lồi vật có ích góp phần giữ
gìn mơi trường trong lành. Để phục vụ cho tiết Tập làm văn tuần 16 “Kể về con
vật nuôi trong nhà mà em biết” và bài: “Viết 2-3 câu về loài chim mà em biết” ở
tuần 21.
* Qua cách làm này tôi nhận thấy các em làm bài rất tốt, bài viết đầy đủ ý,
biết cách dùng từ ngữ phù hợp, câu văn sinh động, giàu hình ảnh và cảm xúc
cũng như lối viết văn tự nhiên, chân thực, có tình cảm và thái độ rõ ràng…

15


2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường.
Năm học 2020-2021 sau một thời gian áp dụng biện pháp nói trên trong
việc dạy học sinh viết đoạn văn ngắn, tôi đã kiểm tra học sinh để lấy số liệu.

Lần 1: Tuần 16
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về anh, chị, em
ruột của em ( hoặc anh, chị, em họ của em).
Thời gian làm bài :15 phút
Đối tượng 31 học sinh của lớp 2A: Kết quả đạt được như sau:
Điểm
Sĩ số
HS
31

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL

TL

SL

TL

8


25,8%

18

58,6%

5

16,1%

Lần 2: Tuần 28
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn (khoảng từ 4 đến 5câu) kể về một con
vật mà em thích (Thời gian: 15 phút)
Đối tượng 31 học sinh của lớp 2A. Kết quả đạt được như sau:
Điểm
Sĩ số
HS
31

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

SL

TL

SL


TL

SL

TL

12

38,7%

18

55,1%

1

3,2%

- Nhìn vào các bảng kết quả trên cho thấy cách tổ chức học sinh viết đoạn
ngắn theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh có kĩ năng viết đoạn văn chắc
chắn, thành thạo, chất lượng đoạn văn viết của học sinh tăng lên rõ rệt qua từng
đợt kiểm tra tại lớp thực nghiêm.
- Mặt khác qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp 2A tôi thấy giờ học
diễn ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói hơn
cả là hiện tượng nói câu khơng rõ nghĩa, khơng trọn ý khơng cịn nữa. Học sinh
đã biết dùng những từ ngữ giàu hình ảnh, câu viết khá sinh động. Khi viết về các
con vật và con người xung quanh mình. Thời gian hồn thành đoạn viết trong
các lần kiểm tra cũng nhanh hơn so với lớp đối chứng. Điều đó chứng tỏ cách
dạy viết đoạn văn theo hướng đã trình bày ở trên đã đem lại kết quả đầy khả

quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng viết đoạn nói riêng và
học Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 2.

16


3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết Luận
Viết đoạn văn ngắn - Đây là dạng bài nịng cốt trong mơn Tập làm văn
lớp 2. Nó địi hỏi ở người học có vốn sống hàng ngày, vốn từ phong phú, đôi
mắt quan sát tinh tường, óc tưởng tượng sáng tạo nghệ thuật. Bởi vậy khi dạy
dạng bài này tôi cần nắm rõ tâm lí lứa tuổi học sinh: Ở lứa tuổi này học sinh
nhìn nhận sự việc thế nào? Tính tình của từng học sinh ra sao? Có em tỉ mỉ quan
sát, có em rất hời hợt qua loa. Nên phải nhấn mạnh khi con muốn viết bất cứ cái
gì thì các con cần hiểu rõ về cái đó.
Qua thời gian tìm hiểu, nghiên cứu nội dung chương trình, đánh giá thực
trạng, tìm ra ngun nhân tơi đã mạnh dạn đưa ra một số biện pháp giúp học
sinh lớp 2 viết doạn văn ngắn mà theo cá nhân tơi việc đó là rất cần thiết và
trong q trình thực hiện tơi đã thu được kết quả khả quan. Đa số các em đã biết
cách viết đoạn văn với những câu rõ nghĩa, đủ ý của đoạn viết theo yêu cầu của
đề bài.
3.2. Kiến nghị
- Ban giám hiệu, chuyên môn ở các nhà trường nên đưa các kinh nghiệm
có chất lượng áp dụng vào quá trình dạy học để quá trình dạy học đạt hiệu quả
cao và khơng lãng phí những kinh nghiệm quí.
- Nhà trường nên tổ chức nhiều hơn nữa các hoạt động ngồi giờ lên lớp
dưới dạng trị chơi, hơi thi trong đó đề cập nhiều đến vấn đề bồi dưỡng vốn từ,
vốn sống cho các em.
* Những kết quả trên đã cho thấy những biện pháp trên là thiết thực, hiệu
quả. Tuy nhiên thực tế cho thấy khơng có biện pháp nào là hoàn chỉnh, là tối ưu,

điều quan trọng là người tôi phải biết lựa chọn, vận dụng các biện pháp sao cho
hài hịa hợp lí thì q trình giảng dạy sẽ đạt hiệu quả cao.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Nga Sơn, ngày 10 tháng 4 năm 2021
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.

Mai Thị Hoa

17


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
7.
8.
9.
10.

Tiếng Việt 2.Tập 1 sách tôi
Tiếng Việt 2. Tập 2. Sách tôi.

Vở bài tập Tiếng Việt 2. Tập 1
Tiếng Việt 2.Tập 1
Tiếng Việt 2. Tập 2
Vở bài tập Tiếng Việt 2. Tập 2
Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên chu kỳ III.
Chuẩn kiến thức kỹ năng lớp 2.
Tự nhiên và Xã hội lớp 2
Đạo đức lớp 2

18


DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Mai Thị Hoa
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên Trường TH&THCS Nga Văn.

TT

1
2
3
4

Tên đề tài SKKN

Kinh nghiệm hướng dẫn học sinh
lớp 4 giải toán bài diện tích các

hình
Sáng kiến được hội đồng khoa học
ngày đánh giá
Một số phương pháp dạy học địa lí
lớp 4-5
Một số giải pháp nâng cao hiệu
quả giải tốn có lời văn cho học
sinh lớp 3 trường Tiểu học Nga
Văn

Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)

Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B, hoặc
C)

Năm học
đánh giá
xếp loại

Phòng GD
Nga Sơn


B

2006-2007

C

2007-2008

B

2008-209

B

2017-2018

Phòng GD
Nga Sơn
Phòng GD
Nga Sơn
Phòng GD
Nga Sơn

19


SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA

PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN


SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ GIẢI PHÁP
RÈN KỸ NĂNG VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN CHO HỌC SINH
LỚP 2 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC VÀ THCS NGA VĂN

Người thực hiện: Mai Thị Hoa
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học và THCS Nga Văn
SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Tiếng Việt

THANH HOÁ NĂM 2021
20



×