Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

SKKN một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng tự học môn ngữ văn cho học sinh THCS theo định hướng phát triển năng lực ở trường THCS minh khai, TP thanh hóa, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.73 KB, 25 trang )

MỤC LỤC
1. Mở đầu...............................................................................................................
1.1. Lý do chọn đề tài:...........................................................................................
1.2. Mục đích nghiên cứu......................................................................................
1.3. Đối tượng nghiên cứu......................................................................................
1.4. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................
2. Nội dung............................................................................................................
2.1. Cơ sở lí luận.....................................................................................................
2.2. .....Thực trạng về vấn đề tự học môn Ngữ Văn của học sinh THCS theo định
hướng phát triển năng lực ở trường THCS Minh Khai, thành phố Thanh Hóa,
tỉnh Thanh Hóa......................................................................................................5
2.3. .....Một số giải pháp tăng cường khả năng tự học môn Ngữ văn cho học sinh
THCS theo định hướng phát triển năng lực ở trường THCS Minh Khai, thành
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa...........................................................................7
2.31. Giải pháp thứ nhất: Giáo viên cần phải giáo dục để giúp học sinh xác định
được ý thức, mục tiêu, nhiệm vụ học tập và hiểu được sự cần thiết của việc tự
học bộ môn Ngữ Văn trong việc phát triển những năng lực cần thiết cho bản
thân.......................................................................................................................7
2.3.2. Giải pháp thứ hai: Giáo viên cần phải dạy phương pháp tự học và rèn
luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản để tăng cường khả năng tự học môn Ngữ
văn .......................................................................................................................9
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Giáo viên tổ chức tốt các giờ hướng dẫn đọc thêm, tự
học có hướng dẫn để giúp hình thành và củng cố các kỹ năng tự học cho HS...11
2.3.4. Giải pháp thứ tư: Giáo viên cần tổ chức các hoạt động trải nghiệm, ngoại
khóa để rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh ................................................14
2.3.5. Giải pháp thứ năm: Chú trọng đổi mới kiểm tra đánh giá để tăng cường
khả năng tự học cho học sinh............................................................................ ..15
2.4. Hiệu quả của sáng kiến ...............................................................................
3. Kết luận và kiến nghị.......................................................................................
3.1. Kết luận.........................................................................................................
3.2. Kiến nghị......................................................................................................


3.2.1.Đối với Sở giáo dục & Đào tạo Thanh Hóa................................................
3.2.2. Đối với Phịng GD&ĐT thành phố Thanh Hóa.........................................
Tài liệu tham khảo...................................................................................................
Danh mục các sáng kiến đã được xếp loại các cấp..................................................


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng nguồn nhân
lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu
hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ thông ở Việt
Nam đã và đang đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ XXI đó
là “Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung
sống”.
Chương trình giáo dục phổ thơng ban hành theo quyết định số 16/2006/QĐBGĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT đã nêu: Phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc trưng môn
học, đặc điểm đối tượng học sinh, điều kiện của từng lớp học; bồi dưỡng cho
học sinh phương pháp tự học, khả năng hợp tác; rèn luyện kĩ năng vận dụng
kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú và
trách nhiệm học tập cho học sinh.
Như vậy, mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển dần từ chủ yếu là
trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho học sinh. Phương
pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy
tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học.
Thực tế cho thấy, trong thời đại mà khoa học kĩ thuật phát triển nhanh
chóng như hiện nay, nhà trường dù tốt đến mấy cũng không thể đáp ứng hết nhu
cầu học tập của người học cũng như đòi hỏi ngày càng cao của đời sống xã hội.
Vì vậy, bồi dưỡng năng lực tự học học sinh là một công việc có vai trị vơ cùng
quan trọng. Chỉ có tự học, tự bồi đắp tri thức bằng nhiều con đường, nhiều cách
thức khác nhau, mỗi học sinh mới có thể bù đắp được những thiếu khuyết về tri

thức, về đời sống xã hội. Từ đó, có được sự năng động, tích cực, tự tin, có thể
đạt được những thành cơng trong xã hội hội nhập.
Trong nhà trường phổ thông, môn Ngữ văn có vai trị quan trọng trong việc
thực hiện mục tiêu giáo dục này. Sau những năm thực hiện chương trình đổi
mới, chất lượng dạy – học mơn Ngữ văn ở các nhà trường THCS nói chung và ở
trường THCS Minh Khai, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa nói riêng đã và
đang từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, học sinh vẫn còn rất nhiều hạn chế về
năng lực tự học, điều đó ảnh hưởng tới mục tiêu giáo dục của bộ môn và hiệu
quả dạy học. Xuất phát từ thực tế đó, tơi đã chọn đề tài:“Một số giải pháp
1


nhằm tăng cường khả năng tự học môn Ngữ văn cho học sinh THCS theo
định hướng phát triển năng lực ở trường THCS Minh Khai, thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa” để nghiên cứu.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu, phân tích thực trạng hoạt động tự
học của học sinh trong môn Ngữ văn ở trường THCS Minh Khai, thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa;
- Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm giúp tăng cường năng lực tự học của
học sinh THCS trong môn Ngữ văn theo định hướng phát triển năng lực; nhằm
trao đổi với đồng nghiệp, giúp ích trong q trình giảng dạy, góp phần tháo gỡ
những khó khăn trong việc dạy học ngữ văn hiện nay, đặc biệt là để thực hiện có
hiệu quả việc đổi mới phương pháp dạy học theo phương pháp dạy học tích cực.
1.3. Đối tượngnghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi đã chọn học sinh các khối lớp 6,7,8,9 của trường
THCS Minh Khai, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa trong 2 năm học:
2018 -2019 và 2019-2020 để khảo sát, tìm hiểu, nghiên cứu và chọn học sinh
lớp 6A2 và 7A2 để tiến hành thực nghiệm, vì bản thân tơi trực tiếp quản lí, chỉ
đạo, sinh hoạt chuyên môn tại tổ chuyên môn Khoa học xã hội và trực tiếp tham

gia giảng dạy môn Ngữ Văn trong nhiều năm liền (28 năm).
1.4 Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Thu thập thông tin khoa học qua
đọc các văn bản chỉ đạo của các cấp, sách, báo, tài liệu, trên cơ sở phân tích,
tổng hợp, phân loại... nhằm mục đích tìm chọn những khái niệm, những tư
tưởng cơ bản làm cơ sở lý luận và thực tiễn cho đề tài.
- Phương pháp chuyên gia: Trưng cầu ý kiến của giáo viên dạy mơn Ngữ
Văn có trình độ cao, có kinh nghiệm trong và ngồi nhà trường trong q trình
thực hiện đề tài;
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, khảo sát, thu thập thông tin
từ thực tiễn việc tự học của học sinh trong nhà trường ở môn Ngữ Văn.
- Phương pháp xử lý số liệu, thống kê: Có số liệu đối chiếu cụ thể trước và
sau quá trình triển khai thực hiện.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: phân tích các cứ liệu đã thu thập để
làm sáng tỏ từng luận cứ, khái quát thành các luận điểm.
- Phương pháp đối chiếu - so sánh: Đối chiếu, so sánh về ý thức, tinh thần,
thái độ, kết quả học tập của học sinh trước và sau khi thực hiện đề tài.
2


2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Trong xã hội hiện đại ngày nay, khi khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin
đang phát triển và bùng nổ như vũ bão thì việc dạy học cũng nhất thiết phải thay
đổi. Giờ đây, chúng ta khơng thể nhồi nhét vào đầu óc học sinh một khối lượng
kiến thức khổng lồ, xuất hiện ngày càng nhiều mà phải quan tâm dạy cho học
sinh phương pháp học tập.
Vì thế, Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập
cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là

một mục tiêu dạy học. Trong các phương pháp học thì cốt lõi, trọng tâm là
phương pháp tự học.
Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự
mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân
tích, tổng hợp, …) cùng các phẩm chất, động cơ, tình cảm… để chiếm lĩnh tri
thức ở một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội của
nhân loại và biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học.
Tự học là phương pháp học tích cực. Ở đó, dưới sự thiết kế, tổ chức,
hướng dẫn của giáo viên, học sinh tự chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt
các mục tiêu, kiến thức, kĩ năng, thái độ của chương trình, bài học. Thực chất
của quá trình tự học yêu cầu người học phải tích cực suy nghĩ, chủ động tham
gia các hoạt động để tự khám phá và lĩnh hội kiến thức, rèn luyện kĩ năng, xây
dựng thái độ và hành vi đúng đắn; tích cực sử dụng thiết bị, đồ dùng học tập;
thực hành vận dụng kiến thức đã học để phân tích, đánh giá, giải quyết các tình
huống và các vấn đề đặt ra từ thực tiễn; mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến,
quan điểm các nhân, tích cực thảo luận, tranh luận, đặt câu hỏi cho bản thân, cho
thầy, cho bạn; biết tự đánh giá và đánh giá các ý kiến, quan điểm, các sản phẩm
hoạt động học tập của bản thân và bạn bè.
Q trình tự học giúp học sinh phát huy tính tính cực, tự giác, chủ động,
sáng tạo, tìm tịi, phát hiện, khai thác, xử lí thơng tin, tự hình thành hiểu biết,
năng lực và phẩm chất. Đặc biệt, nó cịn tạo cho học sinh lòng ham học, khơi
dậy nội lực, khả năng vốn có của mỗi người, giúp kết quả học tập được nâng
lên. Bên cạnh đó, tự học giúp học sinh thích ứng với mọi biến cố của sự phát
triển kinh tế - xã hội, giúp các em có thể khẳng định được năng lực, phẩm chất
của mình và để có thể cống hiến được thật nhiều cho xã hội. Rèn kỹ năng tự học
chính là phương cách tốt nhất để tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá trình học tập.
Việc hình thành ý thức, khả năng tự học cho học sinh THCS là phù hợp với
đặc điểm của lứa tuổi và cần thiết cho việc dạy học. Bởi, đây là lứa tuổi có vị trí
3



đặc biệt trong quá trình phát triển của một con người. Đây là giai đoạn chuyển
từ tuổi thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Bên cạnh những phát triển mạnh mẽ về thể
chất, học sinh ở lứa tuổi này bắt đầu hình thành những phẩm chất mới về trí tuệ,
nhân cách phù hợp cho việc bồi dưỡng năng lực tự học cho các em. Ở lứa tuổi
này, học sinh đã có khả năng phân tích, tổng hợp, liên tưởng phức tạp hơn. Trí
nhớ của các em cũng tăng cường tính chất chủ định, có tổ chức, việc ghi nhớ
máy móc ngày càng nhường chỗ cho logic và ghi nhớ ý nghĩa. Tư duy trừu
tượng và tư duy độc lập dần dần chiếm ưu thế. Học sinh bắt đầu biết sử dụng
những phương pháp đặc biệt để ghi nhớ. Chẳng hạn các em đã biết tiến hành các
thao tác như so sánh, phân loại, hệ thống hóa để ghi nhớ và tái hiện tài liệu theo
cách hiểu của mình. Ở một số học sinh, hoạt động học tập đạt mức phát triển cao
và ham hiểu biết nhiều lĩnh vực. Vì thế, việc xây dựng ý thức, thói quen tự học
cho học sinh là vơ cùng cần thiết.
Việc phát huy tính tự học trong mơn ngữ văn có một ý nghĩa vơ cùng
quan trọng, đáp ứng yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học. Bởi vì, mơn ngữ
văn trong nhà trường là một bộ môn khoa học nghệ thuật. Cho nên, nghệ thuật
ngơn từ chính là bản chất thẩm mĩ của nó. Đây cũng là điểm khác với các bộ
môn khác. Trong quá trình học tập, mỗi học sinh sẽ đến với tác phẩm văn học
bằng một nguồn cảm xúc khác nhau, bằng một cách thẩm thấu khác nhau, nếu
khơng có sự vận động của bản thân chủ thể học sinh thì mọi hoạt động từ phía
giáo viên đều trở thành áp đặt. Những cảm xúc của cá nhân, những năng lực chủ
quan của học sinh nếu không được phát huy thực sự thì việc chiếm lĩnh tri thức,
việc thưởng thức tác phẩm hay hứng thú học tập sẽ bị thui chột và quá trình
chiếm lĩnh tác phẩm văn học sẽ trở thành gị bó, nhàm chán, khơ cứng, dẫn đến
hiệu quả học tập sẽ khơng cao. Phát huy tính chủ thể học sinh trong q trình tự
học mơn ngữ văn có thể khơi dậy, thắp sáng lên được những ngọn lửa – ngọn
lửa nhiệt huyết, đam mê khám phá và sáng tạo. Bên cạnh đó cũng góp phần hình
thành và phát triển nhiều năng lực quan trọng cho các em.
Nói một cách tổng qt thì nhiệm vụ của mơn Ngữ văn trong nhà trường

phổ thơng là góp phần hình thành và phát triển nhân cách xã hội chủ nghĩa cho
học sinh bằng phương tiện đặc thù của nó. Nhiệm vụ của việc dạy văn là cung
cấp cho học sinh những hiểu biết về thế giới bên ngoài, về xã hội và con người.
Từ việc hiểu biết thế giới bên ngoài để các em có thể soi rọi vào mình, để hiểu
chính bản thân mình, đó là q trình nhận thức để tự nhận thức. Cho nên cung
cấp kiến thức cốt là để từ đó học sinh tự ý thức về mình, để sống có nhân cách
hơn, cao thượng hơn, trong sạch hơn, có bản lĩnh hơn. Mục đích cao nhất của
việc dạy văn không phải chỉ là thông báo một số kiến thức mà là cung cấp
4


những khả năng, những năng lực để tự học sinh giải quyết các vấn đề về bài toán
cuộc đời của chính bản thân các em. Vì thế, việc tự học, tự vận dụng kiến thức
vào cuộc sống của học sinh là vô cùng quan trọng và cần thiết.
2.2. Thực trạng tình hình tự học của học sinh trong mơn Ngữ văn cấp
THCS theo định hướng phát triển năng lực ở trường THCS Minh Khai,
thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Mặc dù có vai trị quan trong trong việc phát triển năng lực, phẩm chất, kĩ
năng cho học sinh để đáp ứng yêu cầu giáo dục của thời đại mới nhưng trong
thực tế hiện nay, một bộ phận không nhỏ học sinh đến với môn Ngữ văn một
cách thờ ơ, hời hợt, thiếu sự say mê, ít hứng thú với tâm lí gị bó, ép buộc. Đa số
các em thường học theo kiểu đối phó. Học chỉ để có đủ điểm lên lớp, đủ điểm
trong kì thi vượt cấp. Trong các giờ học, nhiều em thường không tập trung chú
ý, không có ý thức phát biểu xây dựng bài, thậm chí cịn đem mơn khác ra học
(tình trạng này thường xảy ra ở học sinh thích học các mơn khoa học tự nhiên);
về nhà, nhiều em không học bài cũ, không soạn bài, không chuẩn bị bài trước
khi đến lớp. Trong các giờ kiểm tra thường đối phó, thậm chí cịn có tư tưởng
sao chép tài liệu...
Tơi xin dẫn nguồn từ kết quả khảo sát về hoạt động tự học của học sinh
trong nhà trường. Để tìm hiểu thực trạng hoạt động tự học của học sinh, tôi đã

tiến hành khảo sát 12 thầy cô dạy môn Ngữ văn của nhà trường và 1368 học
sinh khối 6,7,8,9 của trường THCS Minh Khai, thành phố Thanh Hóa, tỉnh
Thanh Hóa vào thời điểm đầu năm học 2019-2020. Kết quả cho thấy:
Về kết quả khảo sát học sinh, trong 1368 em học sinh được khảo sát thì
phần lớn học sinh chưa thấy được tầm quan trọng của việc tự học mơn Ngữ Văn,
có khoảng 50% học sinh chưa chú ý và chưa có thói quen tự học. 30% học sinh
còn lúng túng khi sử dụng các kỹ năng tự học. Chỉ có khoảng 20% học sinh thực
sự hứng thú với vấn đề này. Thời gian dành cho việc tự học bộ môn của học sinh
cũng khá khiêm tốn. Khảo sát thời gian tự học của học sinh với từ 1– 2 giờ/ngày,
có 496 em chọn (chiếm 36,2%); từ 2 giờ trở lên/ngày, có 276 em chọn (chiếm
20,1%), số còn lại học dưới 1 giờ/ngày. Trong q trình học mơn ngữ văn, đa số
học sinh vẫn cịn thói quen thụ động, chỉ quen nghe, chép, ghi nhớ và tái hiện
những gì giáo viên nói. Học sinh chưa hình thành được thói quen khám phá bài
học mới nếu khơng được giao nhiệm vụ, có khi được giao nhiệm vụ rồi cũng
còn lúng túng, thiếu tự giác, thiếu chủ động khi giải quyết vấn đề. Thậm chí, có
em mua rất nhiều cuốn tài liệu tham khảo để dựa dẫm vào đó để trả lời những
câu hỏi đọc hiểu nhưng thực chất lại không hề hiểu vấn đề. Học sinh chưa có
nhu cầu bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm cá nhân, ý kiến cá nhân của mình trước

5


tập thể, nếu có thì cũng theo khn mẫu, thiếu tự tin nên dễ bị lạc hướng. Trong
nhà trường, vẫn cịn tồn tại một bộ phận khơng nhỏ học sinh chán học, thờ ơ,
thiếu trách nhiệm với các giờ dạy - học Ngữ Văn.
Về kết quả khảo sát giáo viên, có khoảng 90% ý kiến giáo viên dạy mơn
Ngữ Văn cho rằng học sinh trong lớp dạy của mình chưa chú ý đến vấn đề tự
học môn học này. Các em luôn thụ động, luôn dựa dẫm vào thầy cô, bạn bè
trong q trình học tập. Thậm chí, nhiều người phàn nàn là học sinh không chịu
chủ động học thuộc lịng các bài thơ, khơng đọc nội dung các văn bản truyện,

không thuộc các khái niệm, các nội dung cần ghi nhớ. Hầu hết, các em chỉ học
một cách đối phó khi có sự thúc ép của thầy cơ, cha mẹ. Điều này dẫn đến tình
trạng học sinh học trước quên sau, học mãi vẫn không thể nào ghi nhớ được, từ
đó dẫn đến việc ngại và sợ học bộ mơn. Đa số học sinh chưa có ý thức tự tìm
hiểu và khám phá cái hay, vẻ đẹp của văn chương, nhiều em hiểu sai lệch nội
dung tư tưởng của văn bản, một số em còn xuyên tạc theo kiểu nghĩ gì nói nấy
dẫn đến tình trạng “cười ra nước mắt” khi giáo viên chấm bài.
Đây quả là một thực trạng rất đáng lo ngại, là vấn đề bức thiết đặt ra với
những người CBQL và giáo viên trực tiếp dạy học môn ngữ văn trong giai đoạn
hiện nay, khi chúng ta đang tiến hành dạy - học trên tinh thần phát huy tính tích
cực, tự chủ, phát huy năng lực của học sinh.
* Nguyên nhân của thực trạng:
- Học sinh còn học thụ động, thiếu sáng tạo: Các em chỉ tiếp thu bài học
một cách thụ động, theo kiểu bắt chước mà thơi. Tính chất thụ động thể hiện ở
việc học thiếu hứng thú, học đối phó, và về nhà chỉ còn biết học thuộc để trả bài
và làm bài, thậm chí nhiều em cịn khơng chịu học thuộc bài theo yêu cầu của
thầy cô giáo.
- Học sinh chưa có ý thức và khơng biết tự học. Học sinh chưa ý thức
được vai trò tự giác của bản thân trong học tập và rèn luyện, chưa coi việc tự
học là điều quan trọng, cần thiết. Đa số không biết cách chủ động tự đọc SGK để
tìm hiểu kiến thức, khơng biết cách phân biệt cái chính và cái phụ, khơng biết
tìm kiến thức trọng tâm để học, khơng biết từ cái đã học mà suy ra cái chưa học,
không có nhu cầu tự tìm hiểu, nghiên cứu.
- Học sinh thiếu hứng thú, đam mê trong việc học tập bộ môn. Thiếu
những động cơ nội tại này, việc học tập thường là tẻ nhạt, nhàm chán, nặng nề, ít
có kết quả.
- Về phía giáo viên, trong q trình lên lớp, một số giáo viên cũng chưa đề
cao yếu tố tự học của học sinh. Chưa xem học sinh là chủ thể của hoạt động học

6



văn, chưa trao cho các em tính chủ động trong học tập. Nhiều giáo viên chưa
thực hiện tốt vai là người tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh.
- Về phía phụ huynh, nhiều phụ huynh học sinh cịn có quan niệm sai lầm,
họ cho rằng, học văn sẽ khó cho việc lựa chọn ngành nghề sau này và áp lực thi
cử cũng cao hơn so với các mơn khác, vì thế, họ khơng khuyến khích con em
say mê mơn học này.
- Ngồi ra, cịn phải nói đến những yếu tố ảnh hưởng khác từ xã hội như:
Sức hấp dẫn của mạng Internet với các trò chơi trực tuyến, ... đã lấy đi của học
sinh đa số thời gia rảnh rỗi để có thể tự học.
Thực trạng trên yêu cầu mỗi thầy giáo, cô giáo và mỗi nhà trường phải có
giải pháp để khắc phục, để giúp tăng cường khả năng tự học cho học sinh.
Xuất phát từ việc tìm hiểu cơ sở lí luận và thực trạng nêu trên, bản thân
tôi luôn băn khoăn, trăn trở về việc tìm một hướng đi, một cách thức, giải pháp
để nâng cao năng lực tự học môn ngữ văn cho học sinh THCS, góp phần nâng
cao chất lượng dạy học đồng thời cũng góp phần tạo nền tảng cho học sinh phát
triển năng lực tự học với mức độ cao hơn ở cấp THPT và xa hơn nữa là đào tạo
được những con người có khả năng tự học, tự nghiên cứu trong một xã hội học
tập suốt đời. Chính vì thế, tơi đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng
cường khả năng tự học môn Ngữ văn cho học sinh THCS theo định hướng
phát triển năng lực ở trường THCS Minh Khai, thành phố Thanh Hóa, tỉnh
Thanh Hóa” để nghiên cứu.
2.3. Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng tự học môn Ngữ văn cho
học sinh THCS theo định hướng phát triển năng lực ở trường THCS Minh
Khai, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
2.3.1. Giải pháp thứ nhất: Giáo viên cần phải giáo dục để giúp học sinh
xác định được ý thức, mục tiêu, nhiệm vụ học tập và hiểu được sự cần thiết
của việc tự học bộ môn Ngữ Văn trong việc phát triển những năng lực cần
thiết cho bản thân.

Ý thức học tập góp phần tạo nên động cơ học tập. Vì vậy, giáo viên cần
tăng cường giáo dục ý thức học tập cho học sinh. Cần giáo dục để các em thấy
được tầm quan trọng của việc học tập và việc tự học. Giúp học sinh xác định
được việc tự học là điều kiện tiên quyết trên con đường học vấn và sự nghiệp
của mỗi người. Khơng có khả năng tự học, con người sẽ khơng có đủ kiến thức,
kĩ năng để làm việc và khơng thể thích ứng trong xã hội hội nhập. Việc tự học
thể hiện trách nhiệm của mỗi người với chính mính, thể hiện con người có ý chí,
lịng tự trọng và nhân cách.

7


Bên cạnh đó, cũng cần phải quán triệt cụ thể về mục tiêu cần đạt, kĩ năng,
thái độ học tập với đặc thù của bộ môn Ngữ Văn một cách cụ thể. Ngay từ đầu
năm học, giáo viên cần giáo dục học sinh ý thức học tập tích cực và giúp các em
bước đầu nhận thức được tầm quan trọng của bộ môn Ngữ văn cũng như tầm
quan trọng của việc tự học bộ môn này.
Mặt khác, cũng cần giúp học sinh hiểu được sự cần thiết của việc tự học bộ
môn Ngữ Văn trong việc phát triển năng lực cần thiết cho bản thân mỗi người.
Trong định hướng chương trình GDPT, mơn Ngữ Văn được coi là mơn học
cơng cụ, theo đó, năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức văn học,
cảm thụ thẩm mỹ là các kỹ năng mang tính đặc thù của mơn học.
Mơn Ngữ Văn giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp ngơn ngữ ở tất cả
các hình thức: đọc, viết, nói và nghe, trong đó bao gồm cả năng lực tìm kiếm và
xử lí thơng tin từ nhiều nguồn khác nhau để viết và nói; giúp học sinh sử dụng
tiếng Việt chính xác, mạch lạc, có hiệu quả và sáng tạo với những mục đích khác
nhau trong nhiều ngữ cảnh đa dạng. Ngồi ra, mơn Ngữ Văn cũng chú ý giúp
học sinh phát triển năng lực giao tiếp bằng các phương tiện nghe nhìn hay
phương tiện phi ngơn ngữ (tranh ảnh, biểu đồ, phim,…). Ví dụ: trong chương
trình ngữ văn lớp 6, học sinh nắm được hệ thống từ loại tiếng Việt, cấu tạo từ

tiếng Việt, nghĩa của từ, các biện pháp tu từ, các quy tắc ngữ pháp …từ đó các
em sẽ sử dụng phù hợp, hiệu quả trong các tình huống giao tiếp. Qua các bài hội
thoại ở lớp 8 và lớp 9, học sinh từng bước làm chủ tiếng Việt trong các hoạt
động giao tiếp. Các bài đọc - hiểu văn bản cũng tạo môi trường, bối cảnh để học
sinh được giao tiếp cùng tác giả và mơi trường sống xung quanh… Đây chính
cách thực hành vận dụng kiến thức đã học vào đời sống.
Thông qua những tác phẩm văn học đặc sắc, học sinh được phát triển
năng lực thẩm mỹ, nhạy cảm và tinh tế với các sắc thái của tiếng Việt; giúp các
em biết đọc và có hứng thú đọc các tác phẩm văn học, biết viết, thảo luận và có
hứng thú viết, thảo luận về các tác phẩm văn học, nhờ đó các em có cơ hội khám
phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, có cá tính và đời sống
tâm hồn phong phú, có quan niệm sống và ứng xử nhân văn.
Tự học trong mơn Ngữ Văn cịn giúp học sinh phát triển năng lực tư duy,
đặc biệt là tư duy suy luận, phản biện, biết đánh giá tính hợp lí và ý nghĩa của
những thơng tin và ý tưởng được tiếp nhận; giúp học sinh phát triển năng lực
tưởng tượng và sáng tạo, sự tự tin, năng lực tự lập, năng lực hợp tác và tinh thần
cộng đồng.
Việc tự học trong môn Ngữ Văn giúp bồi dưỡng cho học sinh thái độ tích
cực và tình u đối với Tiếng Việt và văn học, qua đó, biết trân trọng, giữ gìn và

8


phát triển các giá trị văn hóa Việt Nam, có thói quen và niềm vui đọc sách, có
tinh thần tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, có khả năng hội nhập quốc tế,
trở thành những cơng dân tồn cầu, nhưng ln có ý thức về cội nguồn và bản
sắc của dân tộc Việt Nam.
2.3.2.Giải pháp thứ hai: Giáo viên cần phải dạy phương pháp tự học và
rèn luyện cho học sinh các kỹ năng cơ bản để tăng cường khả năng tự học
môn Ngữ Văn.

Đây là điều vô cùng quan trọng, bởi khi chuyển từ tiểu học lên THCS đa số
học sinh đều chưa có được kĩ năng và thói quen tự học. Việc học tập đối với các
em còn thụ động, chủ yếu là học và làm theo khuôn mẫu cho sẵn.
Để thực hiện công việc này, giáo viên cần phải có sự tìm hiểu về việc tự
học của học sinh, nắm được tình hình tự học của các em như: Tìm hiểu điều
kiện, mơi trường, thời gian, kỹ năng tự học của mỗi học sinh…
Từ việc nắm bắt tình hình tự học cụ thể của từng học sinh, giáo viên có
biện pháp giúp các em có kỹ năng và ý thức tự học ở trường cũng như ở nhà. Đó
là, giúp học sinh thực hiện được các cơng việc cần thiết như: thiết kế góc học tập
ở nhà, xây dựng thói quen soạn bài ở nhà và học bài vừa học trên lớp, xây dựng
tổ, nhóm học tập, đơi bạn cùng tiến, thiết kế thời khóa biểu tự học…
Trong việc hình thành phương pháp tự học cho học sinh, giáo viên cần phải
dạy cho các em các nhóm kĩ năng cơ bản sau:
Nhóm thứ nhất: Kĩ năng kế hoạch hóa việc tự học. Kĩ năng này cần tuân
thủ các nguyên tắc sau: Đảm bảo thời gian tự học tương xứng với lượng thông
tin của môn học; xen kẽ hợp lý giữa các hình thức tự học, giữa các môn học,
giữa giờ tự học, giờ nghỉ ngơi; thực hiện nghiêm túc kế hoạch tự học như biết
cách làm việc độc lập, biết tự kiểm tra.
Nhóm thứ hai: Kĩ năng tự học ở nhà. Ở kĩ năng này, trước hết, người dạy
cần hướng dẫn cho học sinh kĩ năng đọc sách. Đọc sách trong môn Ngữ văn đầu
tiên là đọc các văn bản, các bài viết trong SGK ngữ văn, sau đó là đọc tài liệu
liên quan đến bài học, đọc các tác phẩm thơ văn… Khi đọc sách, phải biết chọn
cách đọc phù hợp như tìm hiểu nội dung tổng quát của văn bản, đọc thử một vài
đoạn, đọc lướt qua nhưng có trọng điểm, đọc kĩ có phân tích, nhận xét, đánh giá.
Khi đọc sách cần phải tập trung chú ý, tích cực suy nghĩ, khi đọc, phải kết hợp
ghi chép.
Bên cạnh đó, giáo viên cần hướng dẫn cụ thể cho học sinh các thao tác
chuẩn bị bài (soạn bài) trước khi đến lớp. Đây là khâu quan trọng để các em có
thể tự tin tiếp thu tri thức mới. Trong khâu soạn bài, người dạy còn phải hướng
dẫn học sinh trả lời được các câu hỏi đọc hiểu qua việc đọc, suy ngẫm, nhận xét


9


của bản thân về nội dung, nghệ thuật, tư tưởng của các văn bản trong chương
trình SGK. Việc trả lời các câu hỏi đọc hiểu theo sự chủ quan của học sinh đơi
khi có thể chưa được thỏa đáng, hợp lí, nhưng cũng là một lần các em tự tiếp cận
văn bản, tự trăn trở với những câu hỏi, băn khoăn giữa cái đúng và cái chưa
đúng. Trên lớp, các em sẽ có được cái háo hức, chờ đợi để được nghe sự giảng
giải của thầy, cô giáo và sẽ tự mình chiêm nghiệm được chân lí của vấn đề. Điều
đó sẽ đem đến cho các em sự thú vị và niềm hứng khởi về môn học ở những bài
tiếp theo.
Ngồi ra, dạy cách cho học sinh kĩ năng ơn tập trong môn Ngữ Văn cũng là
một khâu rất quan trọng. Kĩ năng này được chia làm hai nhóm là kĩ năng ôn và
kĩ năng tập luyện. Kĩ năng ôn bài là hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc
chiếm lĩnh kiến thức bộ môn. Môn Ngữ Văn bao gồm 3 phân mơn đó là Văn
bản, tiếng Việt, Tập làm văn. Học sinh có thể ơn tập theo từng dạng bài, từng
chủ đề, chuyên đề văn học. Ví dụ: Ở phần tiếng Việt lớp 6, học sinh có thể ôn
tập, hệ thống hóa kiến thức về từ loại; các biện pháp tu từ, cụm từ… Kĩ năng tập
luyện có tác dụng trong việc hình thành kỹ năng tương ứng với những tri thức đã
học. Từ việc giải bài tập ngữ văn của thầy cô, học sinh tự thiết kế những loại bài
tập, các dạng đề cho mình từ bài tập ứng dụng giản đơn đến những bài tập vận
dụng kiến thức vào cuộc sống.
Mặt khác, để học sinh có thể tự học tốt môn Ngữ Văn, giáo viên cũng cần
phải yêu cầu và hướng dẫn học sinh biết chuẩn bị những vấn đề cần trao đổi với
thầy, cô trên lớp qua việc soạn bài. Đây là bước khá khó trong quá trình tự học
của học sinh nên người dạy cần kiên trì hướng dẫn người học biết “hỏi” thầy cơ
về những vấn đề mà mình khơng hiểu hay cịn băn khoăn.
Để khuyến khích học sinh thực hiện các yêu cầu tối thiểu trên trong quá
trình tự học ở nhà, người dạy cần có sự kiểm tra, đánh giá từng bước, có động

viên khen thưởng kịp thời. Để đánh giá quá trình tự học của học sinh, giáo viên
cần quan tâm vào việc kiểm tra vở soạn bài của các em một cách thường xuyên
song song với việc kiểm tra bài cũ và nên ghi điểm khuyến khích đối với học
sinh có sự chuẩn bị, tự học tốt.
Nhóm thứ ba: Kĩ năng tự học trên lớp trên lớp. Tự học khơng chỉ là việc
tự học ở nhà mà cịn cần phải tự học trong cả tiết học trên lớp khi có sự hướng
dẫn của người thầy. Các hoạt động tự học trên lớp bao gồm các khâu như: ôn bài
cũ, làm quen với bài sắp học, hình dung các câu hỏi đối với bài mới. Cần lưu ý
cách ghi bài khi nghe giảng như ghi một cách chọn lọc, sử dụng kí hiệu riêng,
ghi cả chính đề lẫn phụ đề, ghi thắc mắc của chính mình. Học sinh nên sử dụng
các dạng sơ đồ để khái quát lại nội dung bài học cho dễ nhớ, dễ hiểu. Bên cạnh

10


đó, các em cịn cần phải có kĩ năng chủ động, tích cực đọc bài, nghe giảng, suy
ngẫm, ghi chép bài, chủ động trong việc tương tác với thầy cô và các bạn, tranh
luận và bày tỏ quan điểm, nhận thức riêng của cá nhân về một vấn đề nào đó, về
cái hay, cái đẹp của văn chương, về độ chuẩn của từ ngữ, câu… trong phân môn
tiếng việt… Khi học sinh tự tin trình bày ý kiến của mình trước lớp, cũng là khi
hiệu quả của việc tự học được thể hiện. Học sinh càng thể hiện vấn đề một cách
chính xác, lưu lốt, tự tin thì càng chứng tỏ quá trình tự học đã mang lại hiệu
quả tốt.
Trong các tiết học trên lớp, giáo viên phải thực sự là người thiết kế, tổ
chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập theo nhóm nhỏ để học sinh tự chiếm lĩnh
kiến thức. Vì thế, cần phải tạo được tâm thế, hứng thú cho các em vào khi bài
học mới. Tuỳ thuộc vào nội dung, yêu cầu của bài học mà giáo viên sử dụng các
hình thức, phương pháp cho phù hợp. Có thể sử dụng phương pháp phát vấn,
thảo luận nhóm, phiếu học tập…nhưng điều quan trọng là phải đưa ra được ra
được những câu hỏi có vấn đề, câu hỏi gợi mở, liên quan đên vấn đề trọng tâm

của bài học để thu hút sự tranh luận, tìm tịi của học sinh và tạo ra được “khoảng
lặng” để học sinh suy nghĩ và những phút ồn ào, sôi nổi của học sinh khi thảo
luận, tránh sự áp đặt, khiên cưỡng. Mặt khác, để việc tự học phát huy tối đa hiệu
quả, cịn phải ln chú ý đến đối tượng học sinh, làm thế nào mà tất cả học sinh
trong lớp từ giỏi - khá - trung bình - yếu đều có cơ hội được thể hiện hiểu biết
của mình, cơ hội được tiếp nhận kiến thức bài học. Cuối mỗi giờ học, giáo viên
phải luôn chú ý đến việc củng cố phát triển kiến thức bài học và yêu cầu, hướng
dẫn học sinh chuẩn bị cho việc học tập bài mới.
Vấn đề tự học rõ ràng không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập có hiệu
quả, nhất thiết học sinh phải chủ động, tự giác học tập bất cứ lúc nào bằng chính
nội lực của bản thân, vì nội lực mới chính là nhân tố quyết định cho sự phát
triển. Ngồi ra, rất cần tới vai trị của người thầy với tư cách là ngoại lực trong
việc trang bị cho học sinh một hệ thống kiến thức, kĩ năng, thái độ cùng với
phương pháp tự học cụ thể, khoa học. Nhờ đó hoạt động tự học của học sinh
mới đi vào chiều sâu thực chất.
2.3.3. Giải pháp thứ ba: Giáo viên tổ chức tốt các giờ hướng dẫn đọc thêm,
tự học có hướng dẫn để giúp hình thành và củng cố các kỹ năng tự học cho
học sinh.
Hệ thống văn bản hướng dẫn đọc thêm và tự học có hướng dẫn trong
chương trình ngữ văn hiện hành được điều chỉnh ở hầu hết 4 khối lớp với tổng
số tiết dạy bài hướng dẫn đọc thêm và tự học có hướng dẫn là 35 tiết, có thể

11


thấy, việc dạy bài hướng dẫn đọc thêm rất quan trọng. Nhưng dạy như thế nào
để phù hợp với yêu cầu của các tiết học này?
Đặc trưng cơ bản về phương pháp dạy học loại bài này là coi trọng yếu tố
tự học của trị thơng qua sự hướng dẫn một cách khoa học của thầy. Thầy gợi
mở phương pháp nhiều hơn là dạy kiến thức. Nó khác với loại bài dạy học chính

khóa là thầy và trị “đồng hoạt động, đồng sáng tạo, đồng cảm thụ”.
Hoạt động tự học của học sinh trong các giờ đọc thêm, tự học có hướng dẫn
được hiểu là hoạt động tự lực của các em để chiếm lĩnh tri thức khoa học đã
được qui định thành kiến thức học tập trong chương trình và SGK với sự hướng
dẫn trực tiếp hoặc gián tiếp của giáo viên thông qua các phương tiện học tập như
tài liệu tự học có hướng dẫn, tài liệu tra cứu…
Hình thức tự học có hướng dẫn vừa phải đảm bảo thực hiện đúng quan
điểm dạy học hiện đại vừa phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh. Ở hình
thức này, chủ yếu là giáo viên hướng dẫn để học sinh tự học. Như vậy, trong
cách dạy học này có hai kiểu hướng dẫn được phối hợp với nhau là: Hướng dẫn
bằng câu hỏi tìm hiểu bài được viết ngay trong SGK, đó là những chỉ dẫn nhằm
định hướng cho học sinh có thể tự lực thực hiện các hành động học một cách có
ý thức, có phương hướng rõ ràng và việc hướng dẫn của giáo viên ngay tại lớp là
những loại hoạt động cụ thể để rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh. Giáo viên
có thể theo dõi, giúp đỡ, uốn nắn, điều chỉnh các kết quả học tập ngay tại lớp.
Mục đích của phương pháp này là tạo điều kiện cho học sinh tự học được dễ
dàng và tận dụng thời gian làm việc với giáo viên để tranh thủ sự hướng dẫn của
giáo viên mà rèn luyện phương pháp, kĩ năng tự học, việc nắm vững kiến thức,
rèn luyện năng lực. Như vậy nội dung của phương pháp "dạy tự học có hướng
dẫn" sẽ bao gồm hoạt động của giáo viên và học sinh. Trong đó, hoạt động của
giáo viên có vai trị như một sự định hướng.
Ví dụ: Hướng dẫn đọc thêm: Văn bản: Mưa (Trần Đăng Khoa)
* Trọng tâm kiến thức: Bức tranh thiên nhiên sống động và vẻ đẹp của con
người lao động được miêu tả trong bài thơ.
* Phần hướng dẫn tự học, tự đọc thêm của giáo viên:
Giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị cho giờ học:
+ Câu hỏi 1: Tìm hiểu về tác giả Trần Đăng Khoa (Lời giới thiệu, hình
ảnh, phim tư liệu.
+ Câu hỏi 2: Hãy quan sát bài thơ và nhận xét về thể thơ, nhịp điệu của
bài thơ?

Giáo viên giao nhiệm vụ cho các nhóm làm việc
+ Câu hỏi 3 (Yêu cầu học sinh chuẩn bị theo nhóm):

12


Nhóm 1: Biện pháp nghệ thuật nào được sử dụng chủ yếu trong bài thơ để
miêu tả bức tranh cảnh vật? Hãy chọn một hình ảnh thơ có sử dụng biện pháp
nghệ thuật đó để nêu cảm nhận
Nhóm 2: Để miêu tả hình ảnh con người trong bài thơ, tác giả đã sử dụng
biện pháp nghệ thuật gì? Hãy nêu cảm nhận về hình ảnh đó.
Nhóm 3: Vì sao nhà thơ có thể vẽ lên cảnh cơn mưa rào sinh động và có ý
nghĩa như thế khi mới chỉ là một cậu bé 9 tuổi?
Nhóm 4: Nếu được tái hiện nội dung bài thơ bằng những bức tranh cảnh
vật và con người trước và trong cơn mưa, em sẽ đưa và tranh của mình những
hình ảnh nào?
* Phần tổ chức hoạt động trên lớp trong giờ hướng dẫn đọc thêm:
- Giáo viên tổ chức các hình thức hoạt động trên lớp để học sinh trình bày
kết quả tự đọc, tự học của mình dưới hình thức đối thoại hoặc sử dụng hình ảnh
trình chiếu, thuyết trình ngắn...
- Học sinh giới thiệu về tác giả Trần Đăng Khoa (…)
- Học sinh nhận xét về thể thơ, nhịp điệu của bài thơ (…)
- Đại diện các nhóm trình bày kết quả hoạt động:
Nhóm 1: Bức tranh cảnh vật được miêu tả qua biện pháp tu từ nhân hoá:
Dùng những từ vốn gọi người để gọi sự vật: ông trời. Dùng những từ vốn chỉ
hoạt động, tính chất, trạng thái của người để chỉ hoạt động, tính chất, trạng thái
của sự vật: Mối trẻ, Gà con/ Rối rít tìm nơi/ Ẩn nấp, Mn nghìn cây mía/
Múa gươm, Kiến/ Hành qn, Sấm/ Ghé xuống sân/ Khanh khách/ Cười, Cây
lá hả hê,...-> Cảnh vật trước và trong cơn mưa hiện lên sinh động, chính xác, có
hồn: hối hả trước cơn mưa, hả hê trong cơn mưa.

Nhóm 2: Hình ảnh con người được nói bằng biện pháp ẩn dụ khoa trương
thể hiện tư thế hiên ngang, sức mạnh của con người lao động. Điệp từ Đội tơ
đậm tầm vóc của con người lao động -> Tơn vinh vẻ đẹp của con người lao
động.
Nhóm 3: Nhà thơ có thể vẽ lên cảnh cơn mưa rào sinh động và có ý nghĩa
như thế khi mới chỉ là một cậu bé 9 tuổi Tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên, quan sát
tinh tế, liên tưởng độc đáo. Sử dụng khéo léo, chính xác từ ngữ, biện pháp tu từ.
Tình u thiên nhiên, làng q bình dị, mộc mạc.
Nhóm 4: Học sinh giới thiệu tranh vẽ về hai cảnh chính của bài thơ
Giáo viên cũng cần chú trọng đế việc hướng dẫn học sinh luyện tập ở nhà.
Ví dụ: Khi dạy xong văn bản: “Mưa” của Trần Đăng Khoa, có thể đưa bài tập để
rèn luyện kĩ năng tạo lập văn bản: “Dựa vào phần đầu bài thơ, em hãy viết một
đoạn văn ngắn miêu tả trận mưa rào mùa hạ”.

13


2.3.4. Giải pháp thứ tư: Giáo viên cần tổ chức các hoạt động trải nghiệm,
ngoại khóa để rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh.
Ngồi các giờ học chính khoá trên lớp, giáo viên cần tổ chức cho học sinh
tự học thơng qua các hoạt động hữu ích ngồi giờ lên lớp. Bởi thực tế, theo phân
phối chương trình của bộ quy định có nhiều tiết, nhiều bài khơng thể trong 45
phút của tiết học mà giáo viên có thể hướng dẫn, tổ chức cho học sinh tự lĩnh hội
hết được các yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ năng và thái độ cần đạt.
Mặt khác, là môn học có tính nghệ thuật, văn học có quan hệ gần gũi với
các môn nghệ thật khác như sân khấu, kịch, điện ảnh, các phương tiện nghe nhìn
khác như đài truyền thanh, vơ tuyến truyền hình… nên khả năng mở rộng hoạt
đơng văn học cho học sinh ngồi đời sống là có cơ sở thực tế và cần thiết. Nếu
có được sự kết hợp giữa việc tự học trên lớp và việc tự học qua các hoạt động
văn học ngoài xã hội, học sinh sẽ được mở rộng và khơi sâu được kiến thức văn

học đã được thu nhận ở trường. Ở mặt này, có thể tổ chức cho học sinh tham gia
các hoạt đông trải nghiệm, hoạt động ngoại khóa với các hình thức sau:
Hình thức thứ nhất, có thể tổ chức cho học sinh đi xem phim, xem kịch
chuyển thể từ văn bản văn học để các em có thể nhận thức rõ hơn, cảm thụ sâu
hơn những phương tiện ngơn ngữ nghệ thuật khác nhau. Qua đó, cảm xúc về thể
loại của học sinh cũng được thử thách nhiều hơn. Chẳng hạn, khi học đến thể
loại chèo của văn học dân gian, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh xem các
trích đoạn từ các vở chèo tiêu biểu như: Quan âm thị Kính…Hay khi học đến thể
loại kịch, học sinh có thể xem các trích đoạn từ các vở kịch của Mơ-li-e.
Hình thức thứ hai, có thể bằng các hoạt động ngoại khóa về văn học:
ngâm thơ, đọc thơ hoặc sắm vai trên khấu. Các em có thể thuyết trình để giới
thiệu về tác phẩm, có thể kể chuyện, nói chuyện văn học, gặp gỡ bạn u văn
v.v…Hình thức này nên được tổ chức thơng qua các buổi ngoại khố theo các
chun đề (có thể theo từng lớp, khối lớp). Chẳng hạn:
- Lớp 6: chuyên đề về kể chuyện dân gian theo hình thức sân khấu hóa
như: Đóng tiểu phẩm chuyển thể từ các truyện truyền thuyết, cổ tích, ngụ ngơn,
truyện cười.
- Lớp 7: chun đề Ngâm thơ, thi hát về cao dao dân ca Việt Nam hoặc thi
hùng biện về các chủ đề “Mẹ” nhân ngày 8/3; về thầy cô giáo nhân ngày 20/11
để khuyến khích khả năng biểu cảm của các em.
- Lớp 8: Chuyên đề thuyết minh về các danh lam thắng cảnh của quê
hương đất nước v.v…
- Lớp 9: chuyên đề sáng tác thơ ca ca ngợi về Bác Hồ kính yêu, về anh bộ
đội cụ Hồ Việt Nam, về quê hương đất nước v.v…
14


Hoặc thơng qua hình thức các câu lạc bộ văn học như: câu lạc bộ văn học
dân gian, Vườn ươm văn học, hay các cuộc thi, các liên hoan, hội diễn văn nghệ.
Ở đây, các em vừa được kiểm tra kiến thức đã học, vừa được thể hiện tài năng,

năng khiếu văn chương và các khả năng khác của bản thân mà sau này rất có ích
trong cuộc sống như: tập làm người dẫn chương trình, làm diễn viên, khả năng
tổ chức, điều khiển các hoạt động tập thể, khả năng thuyết trình trước đám đơng.
Hình thức thứ ba, kết hợp học tập và tham gia các hoạt động trải nghiệm
qua việc tham quan, píc níc, học tập thực tế ngay trên quê hương Thanh Hóa
thân yêu. Ở hoạt động này, giáo viên có thể tổ chức cho các em đi đến các địa
chỉ: Đền Bà Triệu (Hậu Lộc), Lam Kinh (Thọ Xuân), Thành Nhà Hồ (Vĩnh
Lộc), Suối cá (Cẩm Lương, Cẩm thủy)… để kết hợp học tập và tham quan.
Đây sẽ là những sân chơi bổ ích giúp các em thay đổi khơng khí học tập
sau những giờ học căng thẳng trên lớp, nhưng quan trọng là sẽ giúp các em tự
học một cách có hiệu quả, giúp mở rộng, khắc sâu kiến thức ngoài các tiết học
trên lớp, rèn luyện các kĩ năng giao tiếp ứng xử, áp dụng kiến thức trong sách vở
vào thực tiễn cuộc sống, tìm được niềm say mê. u thích mơn học. Tuy nhiên,
muốn thực hiện và tổ chức thành cơng hình thức tự học này, bản thân giáo viên
phải đầu tư thời gian, cơng sức, trí tuệ. Phải hết sức linh hoạt, chủ động lên kế
hoạch báo cáo tổ chuyên môn, xin phép Ban giám hiệu, phối hợp với đồng
nghiệp, với tổ chun mơn, với các tổ chức đồn thể như chi đồn thanh niên,
cơng đồn, phụ huynh học sinh… thì mới có thể được hỗ trợ về cả về vật chất
lẫn tinh thần.
2.3.5. Giải pháp thứ năm: Chú trọng đổi mới kiểm tra đánh giá để tăng
cường khả năng tự học cho học sinh.
Trong cuộc trao đổi với báo chí, Tiến sĩ Nguyễn An Ninh - Cục trưởng
cục Khảo thí, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã nói: “Hạn chế lớn nhất của đề
văn là sự sáo mòn, lặp đi lặp lại. Cách tiếp cận, đánh giá, kiểm tra kiến
thức đã gần như khuôn mẫu”. Cách ra đề kiểm tra đánh giá như vậy vơ tình
tạo ra lối mịn trong cách học và làm hạn chế khả năng sáng tạo của học
sinh khiến học sinh khơng cịn thiết tha với vấn đề tự học.
Đổi mới cách ra đề theo hướng phát triển năng lực là một trong những giải
pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn ở trường phổ thơng. Để hình
thành và phát triển năng lực đọc - hiểu văn bản văn học cho học sinh, người giáo

viên cần có “chiến lược” dạy đọc - hiểu (hướng dẫn học sinh đọc hiểu văn bản
theo mơ hình thể loại, có kĩ năng xác định yếu tố biến đổi của thể loại để quá
trình tiếp nhận, khám phá giá trị tác phẩm khơng khn theo những trình tự khơ
cứng, nhàm chán). Chỉ khi làm chủ kĩ năng đọc, học sinh mới có năng lực đọc
15


sáng tạo, mới trở thành “bạn đọc sáng tạo” của nhà văn, và quá trình tiếp nhận
tác phẩm văn học lúc đó sẽ trở thành một hành trình “chạy tiếp sức” của các thế
hệ bạn đọc và của chính học sinh ấy trên con đường khám phá giá trị của tác
phẩm một cách đầy đủ, sâu sắc.
Để rèn luyện và phát triển cho học sinh năng lực thực hành tạo lập văn bản
một cách hiệu quả, bền vững, giáo viên dạy ngữ văn cần phải đổi mới quan niệm
về kiểm tra đánh giá, về yêu cầu nội dung cũng như cấu trúc của đề thi. Hình
thức kiểm tra đa dạng, linh hoạt, có sự kết hợp giữa trắc nghiệm khách quan và
tự luận (để vừa có thể đảm bảo đánh giá được mức độ thông thuộc, thông hiểu
của học sinh trên một lượng kiến thức cơ bản, toàn diện vừa có thể đánh giá
được khách quan, chính xác những kĩ năng và năng lực cần thiết cần hình thành
cho học sinh); nội dung kiểm tra phải đảm bảo sự cân đối giữa nghị luận xã hội
và nghị luận văn học, theo hướng ưu tiên nghị luận văn học, trong đó các tri
thức văn học - Tiếng Việt - Tập làm văn được sắp xếp hợp lí, lơgic phù hợp với
đặc trưng bộ môn.
Đề kiểm tra, đề thi theo hướng mở là đề văn không giới hạn bài làm trong
một lối mịn tư duy và những khn mẫu chung về hình thức nhưng vẫn gợi mở
giúp học sinh có định hướng về cách viết. Đề văn mở giảm thiểu tối đa tính hạn
định, tạo khả năng cho học sinh tự do lựa chọn vấn đề và cách giải quyết vấn đề.
Đề mở yêu cầu cao ở học sinh sự sáng tạo, linh hoạt, những suy nghĩ, cảm thụ
độc lập, khó có thể lệ thuộc vào các tài liệu tham khảo. Đề mở khơng những
kích thích khả năng tư duy sáng tạo cho học sinh mà cịn có thể phân loại được
học sinh.

Ví dụ: Sau khi dạy tác phẩm Làng của nhà văn Kim Lân, giáo viên có thể
ra đề bài cho học sinh theo hướng mở:
Từ ý thức trách nhiệm của ông Hai - người nông dân trong thời đại kháng
chiến chống Pháp, em hãy viết một đoạn văn nghị luận khoảng 2/3 trang giấy
thi trình bày những suy nghĩ của em về trách nhiệm của thế hệ trẻ với tương lai,
vận mệnh của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Đề thi mở theo hướng phát triển năng lực góp phần phá vỡ lối mòn trong
tiếp cận và đọc hiểu văn bản, phá vỡ những khuôn mẫu truyền thống trong
phương pháp dạy - học văn (khn q trình tiếp nhận, khám phá văn bản trong
trình tự các bước mà khơng quan tâm nhiều đến đặc điểm riêng về thể loại và
phương thức biểu đạt). Đề thi mở và đáp án được xây dựng dựa trên hệ thống
năng lực chung và năng lực đặc thù của mơn học chính là đích đến của quá trình
dạy học, là thước đo đánh giá phù hợp và tin cậy về chất lượng học tập môn ngữ
văn theo chương trình, sách giáo khoa.
16


Hình thức trắc nghiệm khách quan nếu được sử dụng hợp lí vẫn có thể phát
triển năng lực tư duy (qua các thao tác lựa chọn, loại trừ, so sánh ở hình thức
trắc nghiệm nhiều lựa chọn), hình thành năng lực sáng tạo (viết suy nghĩ, cảm
nhận, đánh giá ở hình thức trắc nghiệm điền khuyết) đồng thời vẫn kiểm tra
được khá toàn diện kiến thức cơ bản, mức độ thông thuộc, thông hiểu và vận
dụng kiến thức, kĩ năng ở cấp độ thấp của học sinh. Vì vậy trong các bài kiểm
tra, giáo viên có thể linh hoạt lựa chọn các hình thức trắc nghiệm khách quan để
rnf luyện các năng lực cho học sinh.
Mỗi một văn bản trong Sách giáo khoa Ngữ văn ở trường phổ thông đều là
một “thông điệp thẩm mĩ” mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc. Người ra đề
là cầu nối để tạo nên nhu cầu giao tiếp, đối thoại giữa nhà văn - tác phẩm và bạn
đọc học sinh. Làm sao để sau khi đọc một câu chuyện, nghe một bài thơ, viết
một bài văn, học sinh thấy thêm yêu cuộc sống, u con người, thấy trí óc mình

được khai sáng, tâm hồn mình được thanh lọc, học sinh có nhu cầu được bày tỏ
những suy nghĩ, cảm nhận của mình về cái hay, cái đẹp của văn bản, đó là thành
công của người giáo viên Ngữ văn trong dạy học và trong “nghệ thuật ra đề”.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến:
2.4.1. Hiệu quả về chất lượng học tập:
Sau khi khảo sát học sinh của lớp 6A2, 7A2 do tôi trực tiếp giảng dạy môn
Ngữ văn, kết quả cho thấy: Phần lớn học sinh đã có chuyển biển biễn rõ rệt
trong nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của việc tự học. Có khoảng 70% học
sinh hứng thú với các giờ học Ngữ văn. 50% học sinh chủ động, tích cực
trong giờ học. 60% học sinh biết vận dụng kiến thức môn Ngữ văn vào thực tế
cuộc sống. Các em đã dành nhiều thời gian hơn cho việc tự học ở nhà.
Đa số học sinh đã biết chiếm lĩnh tác phẩm bằng cảm nhận riêng của mình.
Nhiều học sinh biết cảm nhận và rung động trước cái đẹp, biết ca ngợi các lối
sống và hành động đẹp, biết phê phán những biểu hiện chưa đẹp trong cuộc
sống. Một số em đã bắt đầu biết ước mơ và thích hành động theo các nhận vật
chính diện. Như vậy, việc tự học đã giúp cho học sinh tự nhận ra được giá trị
thẩm mĩ của sự vật, hiện tượng, con người và cuộc sống, từ đó biết hướng suy
nghĩ của mình theo cái đẹp, cái thiện.
Quan sát việc học tập trong các giờ học, giờ ơn tập, ngoại khố và vở soạn,
vở bài tập về nhà của học sinh kết quả khá khả quan:
- Trong các giờ học khơng khí học tập ln sơi nổi, nghiêm túc và học
sinh có tinh thần tự giác cao.

17


- Học sinh chủ động, tự tin và sáng tạo trong các giờ học. Đặc biệt nhiều
tiết ngoại khoá đã để lại trong lòng các em những ấn tượng sâu đậm, những kỉ
niệm khó quên (tâm sự của học sinh sau các buổi học ngoại khóa).
- Bài tập, câu hỏi giao về nhà, đa phần các em đều hoàn thành; các

phương tiện, dụng cụ chuẩn bị cho bài học các em đều có ý thức chuẩn bị chu
đáo.
Kết quả học tập của học sinh của lớp 6A2 năm học 2019-2020 và lớp
7A2, năm học 2020-2021 (học kì I), như sau:
Điểm
Năm học
8.0 - 10 6.5 - 7.9 5.0- 6.4 4.9- 3.0 Dưới 3.0
2019 - 2020
15 %
45 %
30%
8%
2%
2020 - 2021 (Học kì I)
22 %
48 %
28 %
2%
0%
2.4.2. Hiệu quả khoa học:
Sau quá trình 2 năm nghiên cứu và thực hiện đề tài, tôi nhận thấy, với việc
áp dụng các giải pháp nhằm tăng cường khả năng tự học cho học sinh THCS
theo định hướng phát triển năng lực thì các giờ học ngữ văn đã trở nên phong
phú và đa dạng. Các em đã được hình thành thói quen đọc, sưu tầm, hình thành
năng lực tu duy, năng lực quan sát cuộc sống và năng lực độc lập phát hiện kiến
thức. Việc chuẩn bị và thực hiện các hoạt động trên lớp đã giúp cho học sinh có
được nhu cầu tìm hiểu khám phá, phát huy vốn hiểu biết thực tiễn đa dạng
phong phú của cuộc sống. Từ đó, các em có điều kiện thâm nhập vào cuộc sống
một cách chủ động hơn. Tự học giúp học sinh tiếp thu kiến thức từ nhiều nguồn
khác nhau: Sách báo, bài giảng, truyền hình, cơng nghệ thông tin, bạn bè, những

người xung quanh, kinh nghiệm sống của nhân dân… Tự học giúp học sinh có
thái độ chủ động tìm ra phương pháp học tập phù hợp, đạt hiệu quả cao.
Việc thực hiện nội dung đề tài đã giúp người học đến với mục tiêu cần
đạt của nội dung chương trình dạy học mơn Ngữ Văn theo định hướng phát triển
năng lực học sinh mà các nhà nghiên cứu giáo dục đã đề ra. Tăng cường khả
năng tự học cũng khuyến khích để học sinh hồ nhập một cách chủ động, tích
cực hơn với mơi trường các em đang học tập, với xã hội tương lai khi các em ra
trường, nó khiến các em năng động và sáng tạo hơn mà đặc trưng của con người
trong thế kỷ XXI là tính năng động và sáng tạo.
3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận
Việc tăng cường khả năng tự học cho học sinh trong môn Ngữ Văn có ý
nghĩa và vai trị rất lớn. Bởi vì, khi đã hình thành cho học sinh nhu cầu tìm hiểu,
18


khám phá, phát huy vốn hiểu biết về văn học, về cuộc sống thì những hiểu biết
của các em sẽ không dừng lại trong khuôn khổ các giờ học ngữ văn. Từ đó, sẽ
hình thành nhu cầu tìm tịi, hiểu biết về những vấn đề đã và đang đặt ra cho cuộc
sống hôm nay và mai sau. Đây cũng là một nội dung quan trọng trong việc góp
phần hình thành nhân cách và trách nhiệm cho các em - những chủ nhân tương
lai của đất nước.
Việc phát huy khả năng tự học của học sinh THCS trong môn Ngữ Văn
cần thiết như thế nhưng lại không hề đơn giản. Để thực hiện cơng việc này, có
con đường chung nhưng cũng có nghệ thuật riêng ở từng người, từng trường, áp
dụng phù hợp cho từng lứa học sinh qua mỗi năm học. Phương pháp và kinh
nghiệm dạy học vô cùng phong phú, đa dạng. Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra một số
kinh nghiệm trong việc phát huy tính tự học của học sinh trong môn Ngữ Văn ở
một trường THCS, nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy môn học này, khơi dậy
niềm đam mê, u thích mơn học của học sinh, hướng tới mục tiêu giáo dục cao

cả của bộ mơn là góp phần hình thành và phát triển nhân cách tồn diện cho con
người, bởi «Văn học là nhân học ».
Dạy để học sinh học theo, làm theo được những điều giáo viên truyền thụ
đã khó, dạy để học sinh chủ động, tự giác tìm tịi, chiếm lĩnh tri thức, thẩm thấu
văn chương để từ đó biết sống đẹp, sống ý nghĩa lại càng khó khăn gấp bội
phần. Cho nên, điều quan trọng là giáo viên phải thổi bùng lên được ngọn lửa
của lòng đam mê và nhiệt huyết học hành cũng như lịng u thích khám phá
văn chương ở các em, nhất là trong thời đại công nghệ số, khi con người đang
sống nhanh, sống gấp hiện nay.
Vì vậy, muốn làm được điều này, người dạy học phải có lịng nhiệt tình,
tâm huyết, có tình u và lịng đam mê nghề nghiệp, sự kiên trì, sự phấn đấu
khơng mệt mỏi cho sự nghiệp trồng người và cần cả một niềm lạc quan, tin
tưởng sâu sắc ở công việc của mình. Mỗi chúng ta, hãy đừng nản lịng, hãy cứ đi
là sẽ đến, có cất cơng « gieo hạt » ta mới gặt hái được thành cơng.
Bên cạnh đó, việc hình thành và rèn luyện khả năng tự học mơn ngữ văn
nói riêng và khả năng tự học nói chung cho học sinh cũng cần sự chung tay, góp
sức của các điều kiện khác như: sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu,
của Tổ chuyên môn; sự phối hợp kiểm tra, đôn đốc, kèm cặp của cha mẹ học
sinh…Trong quá trình giáo dục, nếu biết kết hợp hài hịa, phù hợp các yếu tố
trên thì cơng việc này sẽ đạt hiệu quả như mong đợi.
3.2. Kiến nghị

19


* Đối với phịng GD&ĐT thành phố Thanh Hóa:
- Tổ chức thêm các chuyên đề về dạy học theo định hướng phát triển năng
lực cho người học, các chuyên đề về phương pháp, cách thức dạy học các bài
hướng dẫn đọc thêm, bài tự học có hướng dẫn để giáo viên có điều kiện học hỏi
và nâng cao chun mơn nghiệp vụ, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy.

* Đối với Sở GD&ĐT Thanh Hố:
- Có các văn bản chỉ đạo, quy định cụ thể về việc tổ chức các hội nghị, hội
thảo trao đổi, phổ biến kinh nghiệm, đổi mới phương pháp dạy học nói chung
và đổi mới phương pháp dạy học với mơn Ngữ Văn nói riêng.
- Biên soạn và cung cấp các tài liệu tham khảo cho các nhà trường để giáo
viên có thể tiếp cận được những kiến thức về phương pháp và cách thức dạy học
hiệu quả nhất.
Tôi đã vận dụng đề tài này vào quá trình trực tiếp giảng dạy trong 2
năm học 2019-2020; 2020-2021 ở trường THCS Minh Khai, thành phố
Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa và thấy được kết quả khả quan của nó. Tuy
nhiên, trong q trình thực hiện, chắc chắn cịn nhiều thiếu sót. Tơi rất
mong nhận được sự góp ý, xây dựng của các quý đồng nghiệp để đề tài
được hồn thiện hơn nữa, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả của việc
tăng cường khả năng tự học môn Ngữ Văn cho học sinh trong nhà trường
THCS, cũng như góp phần nâng cao chất lượng dạy học.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
Tôi xin cam đoan đây là SKKN do
Thành phố Thanh Hóa, ngày
bản thân tơi nghiên cứu, thực hiện 01/4/2021
trong q trình cơng tác tại trường,
Người thực hiện
khơng sao chép nội dung của người
khác.
XÁC NHẬN CỦA BGH NHÀ TRƯỜNG
Nguyễn Thị Thu Hà

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. “ Bồi dưỡng khả năng tự học cho HS trung học cơ sở” tạp chí Giáo
dục.
2. Bộ sách giáo khoa Ngữ văn lớp 6, 7, 8, 9 cấp THCS – NXB GD, Bộ GD
và ĐT.
3. “Biến quá trình dạy học thành quá trình tự học” tạp chí nghiên cứu
Giáo dục.
4. Chỉ thị số 3031/CT-BGDĐT ngày 26/8/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo (GDĐT) về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, GDTX và giáo dục chuyên nghiệp năm học 2016-2017.
5. “Đổi mới việc chỉ đạo hoạt động tự học ở nhà của HS” tạp chí Giáo
dục.
6. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kỹ năng môn Ngữ văn THCS,
NXB GD, Bộ GD và ĐT;
7. Những vấn đề chung về Đổi mới giáo dục THCS môn Ngữ văn,
NXB GD, Bộ GD và ĐT;
8. “Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng”, dự án Việt-Bỉ, Bộ GD&ĐT
2010.
9. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04/11/2013 Hội nghị lần thứ tám Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI về đổi mới căn bản, tồn diện GD và ĐT.
10. “Quá trình dạy học - tự học” NXB Giáo dục Hà Nội.
11. “Quá trình tự học và phương pháp dạy tự học cho học sinh, sinh
viên” Bộ môn Khoa học Xã hội & Nhân văn trường Đại học Giáo dục.
12. Quyết định số 16/2006/QĐ - BGĐT ngày 5/6/2006 của Bộ trưởng Bộ
GD&ĐT ban hành chương trình giáo dục phổ thông.
13. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên môn Ngữ văn chu kỳ III– NXB GD,
Bộ GD & ĐT;
14. Tập huấn hướng dẫn nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng do Sở
GD&ĐT Thanh Hóa; Phịng Giáo dục &ĐT thành phố Thanh Hóa tổ chức.
15. “Tổ chức tốt việc tự học của HS” tạp chí nghiên cứu Giáo dục.
16. “Tự học một chìa khóa vàng của giáo dục” tạp chí nghiên cứu Giáo

dục.
DANH MỤC


CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP CAO HƠN
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Nguyễn Thị Thu Hà
Chức vụ, đơn vị công tác: Hiệu trưởng - Trường THCS Minh Khai, thành phố
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Kết
quả
đánh
giá
xếp
loại

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh giá
xếp loại
(Phịng, Sở,
Tỉnh…)

1

“Một vài kinh nghiệm về cách tổ
chức giờ dạy học Tiếng Việt lớp 7

nhằm phát huy tính tích cực của học
sinh.”

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

A

2

“Rèn luyện kỹ năng làm bài văn nghị
luận về tác phẩm văn học.”

Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

C

2007-2008

B

2010-2011

B

2013-2014

3


4

5

6
7

“Luyện kỹ năng viết bài văn thuyết
Sở GD&ĐT
minh cho học sinh lớp 8.”
Thanh Hóa
“ Dạy học thể văn cổ (Hịch, Cáo)
theo đặc trưng thể loại nhằm giúp
Sở GD&ĐT
học sinh lớp 8 tiếp nhận văn bản một
Thanh Hóa
cách tích cực, hiệu quả.”
“Dạy học thể văn cổ (Hịch, Cáo)
theo đặc trưng thể loại nhằm giúp
HĐ KHSK TP
học sinh lớp 8 tiếp nhận văn bản một
Thanh Hóa
cách tích cực, hiệu quả.”
“Dạy học thể văn cổ (Hịch, Cáo)
HĐ KHSK
theo đặc trưng thể loại nhằm giúp
tỉnh Thanh
học sinh lớp 8 tiếp nhận văn bản một
Hóa
cách tích cực, hiệu quả.”

“Nâng cao khả năng viết bài văn
Phịng
miêu tả cho học sinh lớp 6 thơng qua
GD&ĐT

Năm học
đánh giá
xếp loại

2004-2005

B
2014-2015
B
A

2014-2015


8

9

10

11

12

13


14

việc rèn luyện kỹ năng thực hành.”
TPTH
Vận dụng một số cách tổ chức giờ
dạy-học tiếng Việt nhằm phát huy
Sở GD&ĐT
tính tích cực của học sinh lớp 6 Thanh Hóa
Trường THCS Minh Khai.
“Một số biện pháp dạy học nhằm
giúp học sinh trung học cơ sở tiếp
Sở GD&ĐT
nhận tác phẩm văn học một cách
Thanh Hóa
hiệu quả trong giờ đọc -hiểu văn
bản.”
“Vận dụng các phương pháp dạy
học tích cực vào việc giảng dạy tiết
Sở GD&ĐT
ơn tập tiếng Việt trong chương trình
Thanh Hóa
Ngữ văn lớp 9 nhằm nâng cao hiệu
quả dạy – học.”
“Một vài kinh nghiệm bồi dưỡng
giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp
Phòng
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
GD&ĐT TP
tại trường THCS Minh Khai thành

Thanh Hóa
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa”.
“Một vài kinh nghiệm bồi dưỡng
giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp
HĐ KHSK TP
nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ
Thanh Hóa
tại trường THCS Minh Khai thành
phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa”.
“Một số giải pháp tăng cường cơng
tác quản lý, chỉ đạo, triển khai nhằm
Phịng
nâng cao hiệu quả của hoạt động
GD&ĐT TP
giáo dục pháp luật cho học sinh ở
Thanh Hóa
trường THCS Minh Khai, thành phố
Thanh Hóa”.
“Một số giải pháp tăng cường công HĐ KHSK TP
tác quản lý, chỉ đạo, triển khai nhằm
Thanh Hóa
nâng cao hiệu quả của hoạt động
giáo dục pháp luật cho học sinh ở
trường THCS Minh Khai, thành phố

B

2015-2016

B


2016-2017

B

2017-2018

A
2018-2019

B

A

A

2019-2020


15

Thanh Hóa”.
“Một số giải pháp tăng cường cơng
tác quản lý, chỉ đạo, triển khai nhằm
nâng cao hiệu quả của hoạt động
giáo dục pháp luật cho học sinh ở
trường THCS Minh Khai, thành phố
Thanh Hóa”.

Sở GD&ĐT

Thanh Hóa

C
2019-2020


×