Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Đương nhiên xoá án tích theo pháp luật hình sự việt nam từ thực tiễn tại thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.27 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH KỲ

ĐƯƠNG NHIÊN XĨA ÁN TÍCH THEO PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

Hà Nội, 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN ĐÌNH KỲ

ĐƯƠNG NHIÊN XĨA ÁN TÍCH THEO PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN TRÍ TUỆ



Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan luận văn “Đương nhiên
xố án tích theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tại thành phố Hải Phịng” là cơng trình
nghiên cứu của bản thân tôi. Các số liệu, kết quả
nghiên cứu trình bày trong luận văn là trung thực,
được trích dẫn từ các nguồn công khai, hợp pháp,
không sao chép từ bất kỳ cơng trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Đình Kỳ


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XỐ ÁN TÍCH
VÀ ĐƯƠNG NHIÊN XỐ ÁN TÍCH....................................................... 7
1.1 Khái niệm án tích và xố án tích ........................................................... 7
1.2 Khái niệm đương nhiên xố án tích ..................................................... 14
1.3 Ý nghĩa của đương nhiên xố án tích.................................................. 15
1.4 Đương nhiên xố án tích theo pháp luật Hình sự của một số nước .... 17
1.5 Sơ lược quy định của pháp luật Hình sự về đương nhiên xố án tích 20
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
ĐƯƠNG NHIÊN XĨA ÁN TÍCH TẠI THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG ..... 38
2.1 Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hiện hành về đương nhiên xố án

tích tại Thành phố Hải Phịng ..................................................................... 38
2.2 Những khó khăn vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn,
vướng mắc đó trong thực hiện chế định đương nhiên xố án tích tại thành
phố Hải Phịng ............................................................................................. 43
Chương 3: KIẾN NGHỊ HỒN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VÀ THỰC HIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐƯƠNG
NHIÊN XỐ ÁN TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG 51
3.1 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về đương
nhiên xóa án tích ......................................................................................... 51
3.2. Một số kiến nghị thực hiện quy định của pháp luật về đương nhiên xóa
án tích tại Thành phố Hải Phịng ................................................................. 55
KẾT LUẬN…………………………………………………………………67
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………69


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

HĐND

Hội đồng nhân dân

LLTP

Lý lịch tư pháp

NĐ – CP


Nghị định của Chính phủ

STP

Sở Tư pháp

BLHS

Bộ Luật hình sự

BLTTHS

Bộ Luật Tố tụng hình sự
Thơng tư liên tịch Bộ Tư pháp -

TTLT - BTP - TANDTC -

Tòa án nhân dân Tối cao -

VKSNDTC - BCA - BQP

Viện kiểm sát nhân dân tối cao Bộ Cơng an - Bộ Quốc phịng

TTLT-BTP-BCA
UBND

Thơng tư liên tịch Bộ Tư pháp Bộ Công an
Ủy ban nhân dân



DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Số hiệu

Tên biểu đồ

biểu đồ
2.1

Kết quả xử lý vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải
Phịng từ 2014-2018

Trang

38

Tỷ lệ số người được đương nhiên xố án tích so với số người
2.2

được xố án tích trên địa bàn thành phố Hải Phòng giai đoạn

40

2014-2018
2.3

Nguyên nhân người bị kết án không tiến hành các thủ tục
đương nhiên được xố án tích

41



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong q trình cải cách tư pháp của giai đoạn xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, xố án tích là một trong những
chế định pháp luật quan trọng bởi nhiều nguyên nhân. Thứ nhất là có một số
quy định về chế định xố án tích trong luật hình sự hiện hành cịn bộc lộ những
hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được những yêu cầu của việc xây dựng xã hội
công bằng, dân chủ. Thứ hai là sự phát triển của các lĩnh vực chính trị - xã hội.
Trong quá trình hội nhập quốc tế, vấn đề xố án tích nói riêng và các quy định của
luật hình sự cũng ln phải vận động và phát triển để đáp ứng những yếu cầu của
xã hội. Việc nghiên cứu về xố án tích cịn để tìm ra những nhận thức thống nhất,
tránh gây khó khăn trong việc áp dụng các quy định của pháp luật trên thực tiễn.
Bởi người được xố án tích thì sẽ được coi như chưa bị kết án và sẽ không bị coi
là có tiền án, nếu phạm tội lần tiếp theo sẽ khơng tính để xác định tái phạm, tái
phạm nguy hiểm. Như vậy, nó sẽ giúp cho những người đã từng lầm lỡ có cơ hội
làm lại cuộc đời, giảm bớt mặc cảm, bởi quá khứ tội lỗi của mình và khơng bị
cộng đồng phân biệt đối xử.
Mặc dù có tầm quan trọng là như vậy nhưng những vấn đề liên quan đến
chế định xố án tích vẫn chưa được các tác giả trong và ngoài nước quan tâm
đúng mực trong thời gian qua. Việc nghiên cứu một cách hệ thống những vấn
đề lý luận và thực tiễn áp dụng các chế định xố án tích từ đó đề ra các giải
pháp để hồn thiện hơn nữa Bộ luật Hình sự Việt Nam, giải quyết các vướng
mắc trong quá trình áp dụng luật trên thực tiễn là cần thiết, đáp ứng yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy tác giả lựa chọn đề tài: “Đương nhiên xố án tích theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tại thành phố Hải Phòng” làm đề tài nghiên
cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.


1


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Như đã đề cập ở trên, các chế định pháp luật về xố án tích rất quan trọng
nhưng cũng rất phức tạp, địi hỏi phải có sự nghiên cứu, tìm hiểu, tuy nhiên, trong
khoa học Luật Hình sự, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức.
Xố án tích chỉ được đề cập một cách chính thức trong Bộ luật hình sự
năm 1985 và được hồn thiện trong Bộ luật Hình sự năm 1999 bằng việc quy
định chế định xoá án tích, cịn trước đó, nó chưa được quy định quy định trong
bất kì văn bản nào. Chính vì vậy, các nhà khoa học đầu tư nghiên cứu chế định
này còn hạn chế. Sau khi được quy định chính thức, nhiều nhà khoa học đã bắt
đầu bắt tay vào nghiên cứu dù ở cấp độ không cao. Các nghiên cứu này chỉ
dừng lại ở các cơng trình nghiên cứu chung về chế độ xố án tích hoặc một
phần đề cập đến nhận thức hoặc phân biệt án tích, xố án tích.
- Các đề tài nghiên cứu được phát hành thành giáo trình, sách chuyên khảo:
“ Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật Hình sự” ( phần chung) của
tác gia Lê Cảm, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005;
“ Xố án – mơ hình lý luận về Bộ luật Hình sự Việt Nam” của tác giải
Phạm Hồng Hải, NXB Khoa học và xã hội Hà Nội, 1993;
“Xố án tích” của tác giả Trần Đình Nhã,
Ngồi ra cịn được đề cập trong giáo trình Luật Hình sự của các trường
Đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, khoa Luật – Đại
học Quốc gia Hà Nội,… hay các cuốn Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Việt
Nam của Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp.
- Các đề tài nghiên cứu là luận văn, luận án bao gồm: “Chế định xố án
tích trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 1999” của Nguyễn Thị Minh Hương ( khoá
luận tốt nghiệp cử nhân Luật 2001); “Chế định xố án tích trong Luật hình sự
Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Lan (khoá luận tốt nghiệp cử nhân Luật năm
2003); “Miễn chấp hành hình phạt và xố án tích trong Luật Hình sự Việt


2


Nam” của Tơ Thanh Phong (2014). Ngồi ra cịn có luận văn thạc sỹ của
Nguyễn Xuân Hiệp “Chế định xoá án tích trong Luật Hình sự Việt Nam”.
- Các bài viết đăng trên báo, tạp chí: “Án tích theo Bộ luật Hình sự 1999”
của tác giả Hồ Sỹ Sơn (2001),….
- Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) ra đời cùng với
tác phẩm Bình luận khoa học Bộ luật hình sự 2015 của Nguyễn Ngọc Hồ,
Đinh Văn Quế,… cũng đã đưa ra những quan điểm riêng về chế định đương
nhiên xố án tích.
Các đề tài nghiên cứu hạn chế cùng với các quan điểm, cách thức giải
quyết vấn đề khác nhau đã chưa thực sự đem lại kết quả tốt nhất mà các nhà
nghiên cứu mong muốn về chế định xố án tích. Những bất cập, chưa phù hợp
với thực tiễn, … khiến cho việc áp dụng chưa thống nhất, cịn nhiều khó khăn
sẽ là cơ sở để các nhà khoa học tiếp tục tiến hành nghiên cứu để tìm ra pháp
pháp thay đổi hữu hiệu nhất.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trong luận văn của mình, tác giả tập trung tập trung nghiên cứu các vấn
đề lí luận, các quy định của pháp luật về đương nhiên xố án tích và thực tiễn
áp dụng các quy định về xoá án tích trong Luật Hình sự Việt Nam. Đồng thời, luận
văn cũng sẽ chỉ ra những bất cập, tồn tại, những vướng mắc trong quá trình áp dụng
các quy định luật vào thực tiễn từ đó đề xuất ra các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện nhằm phục vụ công tác đấu tranh và chống tội phạm, bảo vệ chế độ, bảo vệ
quyền con người.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn làm rõ cơ sở lý luận chung của xoá án tích và đương nhiên xố
án tích, khái qt q trình hình thành và phát triển của chế định này trong lịch

sử lập pháp Việt Nam.

3


Những những vấn đề lý luận chung đó, luận văn đi vào nghiên cứu việc
áp dụng các quy định đương nhiên xố án tích của Bộ luật hình sự Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề bất cập, tồn tại, vướng mắc trong quá trình
áp dụng trên thực tiễn và từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm hồn
thiện chế định đương nhiên xố án tích để tạo ra sự đồng bộ trong việc áp dụng
để đảm bảo hiệu quả và tính thống nhất cao.
4. Đối tûợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về đương nhiên xố án tích – một khía cạnh của chế
định xố án tích, cụ thể là nghiên cứu các vấn đề: khái niệm án tích, xố án tích,
đương nhiên xố án tích, điểu kiện đương nhiên xố án tích, thủ tục đương
nhiên xố án tích,… Tuy nhiên, để luận văn được sâu sắc, cũng cần phải nghiên
cứu các vấn đề liên quan khác của Luật Hình sự và Luật tố tụng Hình sự như:
quyết định hình phạt, hình phạt, thời giạn thi hành hình phạt, miễn trách nhiệm
hình sự,… nhằm làm rõ hơn chế định xố án tích theo Luật Hình sự Việt Nam.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về đương nhiên xoá án tích theo Bộ luật Hình sự
Việt Nam hiện hành. Đồng thời cũng đề cập đến các quy định của Bộ luật Tố
tụng Hình sự, Luật Thi hành án Hình sự, Luật Lý lịch tư pháp, nhằm giải quyết
đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu.
Luận văn còn nghiên cứu các thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
Hình sự Việt Nam về đương nhiên xố án tích.
5. Cô sở lý luận và phûông pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận mà tác giả vận dụng để nghiên cứu là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin,

kết hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh và các chính sách của Đảng và nhà nước về tội
phạm, về án tích và vấn đề xố án tích. Bên cạnh đó, các thành tựu về triết học,

4


lịch sử, các học thuyết chính trị - pháp lý của các nhà nghiên cứu đi trước cũng là
những cơ sở lý luận quan trọng giúp tác giả có cơ sở đi sâu vào nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng rất nhiều các phương
pháp cả những phương pháp cụ thể và phương pháp đặc thù của khoa học Luật
Hình sự như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, hệ thống, đối chiếu,
phương pháp điều tra, thống kê xã hội học... Để tổng hợp được tất cả các kiến
thức khoa học Luật Hình sự phục vụ nghiên cứu luận văn. Việc vận dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu kết hợp với việc tham khảo, lấy ý kiến của các vị
chuyên gia, các nhà nghiên cứu khác về lĩnh vực liên quan cũng đóng góp
khơng nhỏ vào thành công của bài luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn với những vấn đề lí luận và thực tiễn có ý nghĩa quan trọng:
6.1. Ý nghĩa lí luận của đề tài:
Luận văn là một cơng trình khoa học có hệ thống, là một tài liệu tham
khảo thiết thực và bổ ích cho các bạn sinh viên, học viên, các bạn nghiên cứu
sinh tại các cơ sở đào tạo luật không chỉ trong lĩnh vực Tư pháp hình sự mà cịn
hướng tới trở thành một tài liệu thiết thực và toàn diện cho các nhà nghiên cứu,
các nhà lập pháp,…
Kết quả của đề tài sẽ là một nguồn kiến thức bổ ích phục vụ cho việc trang
bị những kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ trong q trình cơng tác tại cơ
quan điều tra, viện kiểm sát, toà án nhân dân hay các cơ quan thi hành án, các
quan nhà nước có thẩm quyền… về các vấn đề án tích và xố án tích trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự đảm bảo khách quan và chính xác.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:

- Luận văn với những nội dung cơ bản về chế định xố án tích góp phần
xác định đúng đắn các căn cứ, điều kiện, thủ tục của việc áp dụng các chế định
xố án tích đối với những người đã bị kết án, những người đã thi hành bản án

5


hoặc hết thời hạn thi hành bản án để họ có thể bớt mặc cảm, tránh bị xã hội xa
lánh và có cơ hội làm lại cuộc đời.
- Luận văn sẽ đưa ra những đề xuất, định hướng và giải pháp tổng thể để
hoàn thiện các quy định của pháp luật về xố án tích trong Bộ luật Hình sự nói
chung đồng thời tạo ra sự thống nhất và hiệu quả trong việc áp dụng các quy
định pháp luật này phù hợp với yêu cầu của cuộc cải cách tư pháp và xã dựng
nhà nước pháp quyền theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Kết quả từ những phân tích của luận văn sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động truy cứu trách nhiệm hình
sự, góp phần nâng cao hiệu quả của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở
nước ta.
7. Kết cấu của luận vân
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận vân gồm 3 chûông:
Chûông 1: Một số vấn đề lý luận chung về xoá án tích và đương
nhiên xố án tích.
Chûông 2: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về đương nhiên
xoá án tích tại Thành phố Hải Phịng
Chûông 3: Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật và thực
hiện quy định của pháp luật về đương nhiên xoá án tích trên địa bàn thành
phố Hải Phịng.

6



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XOÁ ÁN TÍCH
VÀ ĐƯƠNG NHIÊN XỐ ÁN TÍCH
1.1 Khái niệm án tích và xố án tích
1.1.1 Khái niệm án tích
Trong khoa học Luật hình sự Việt Nam có rất nhiều quan điểm về khái
niệm án tích:
PSG.TS Phạm Hồng Hải cho rằng: “Án tích là hậu quả pháp lý của bản
án kết tội mà Toà án tuyên đối với người phạm tội, là một tình tiết có ý nghĩa
pháp lý trong việc đánh giá tính chất nguy hiểm của tội phạm và của người
phạm tội khi tội phạm được thực hiện trong thời gian người ấy mang án
tích”[24].
ThS. Hồ Sỹ Sơn cũng đưa ra quan điểm: “Án tích là vết tích đã từng bị kết
án của người phạm tội; xuất hiện khi người đó đã chấp hành xong hình phạt
và được xố án để trở thành người chưa bị kết án khi người này đáp ứng được
những điều kiện mà Bộ luật Hình sự quy định hoặc tồn tại một khi người đã bị
kết án dù đã chấp hành xong hình phạt nhưng chưa đáp ứng được những điều
kiện được quy định trong Bộ luật hình sự và người đó cịn phải chịu tình tiết định
khung tăng nặng hình phạt nếu tội phạm trong thời gian mang vớt tích đã từng bị
kết án hoặc phải chịu trách nhiệm hình sự về những hành vi vi phạm pháp luật mà
theo quy định của Bộ luật Hình sự, vết tích đã từng bị kết án là yếu tố điều kiện
cấu thành tội phạm” [42].
Luật gia Nguyễn Thị Lan: “Án tích là một dấu ấn cho thấy, người có án
tích đã từng bị kết án vì đã phạm tội” [32].
PGS. TSKH Lê Cảm: “Án tích là hậu quả pháp lý của việc người bị kết
án bị áp dụng hình phạt theo bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tồ án
và là giai đoạn cuối cùng của việc thực hiện trách nhiệm hình sự, thể hiện trong


7


việc người bị kết án mặc dù đã chấp hành xong bản án (bao gồm hình phạt
chính, hình phạt bổ sung và các quyết định khác của Toà) nhưng vẫn chưa hết
án tích hoặc chưa được xố án tính theo quy định của pháp luật hình sự” [11].
Các quan điểm của các nhà nghiên cứu nêu trên đã phần nào thể hiện được
những nội dung cơ bản của án tích. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mỗi bản án
kết tội của Tồ án đều làm phát sinh án tích như trường hợp miễn trách nhiệm hình
sự bởi đã miễn trách nhiệm hình sự khơng làm phát sinh án tích. Án tích cũng
khơng phải là việc thực hiện trách nhiệm hình sự hoặc việc kết án cũng khơng phải
là dấu hiệu chung nhất của việc người phạm tội được xoá án tích.
Mặc dù tồn tại nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên, tác giả thấy rằng để
có thể hiểu được bản chất của vấn đề này, chúng ta cần đưa ra được những bản
chất pháp lý, nội dung cũng như giới hạn của án tích.
Về bản chất pháp lý: Án tích là hậu quả pháp lý của việc phạm tội, là một
trong những sự thể hiện của trách nhiệm hình sự.
Về điều kiện: Án tích chỉ xuất hiện khi có đầy đủ các điều kiện sau:
- Có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Tồ án;
- Người bị kết án bị áp dụng hình phạt;
Chỉ khi đáp ứng đầy đủ và đồng thời hai điều kiện nêu trên thì mới có án tích.
Về giới hạn của án tích: Án tích chỉ tồn tại trong khoảng thời gian từ khi
bản án kết tội của Tồ án có hiệu lực pháp luật đến khi được xoá bỏ (đương
nhiên được xố án tích hay xố án tích theo quyết định của Tồ án).
Từ những phân tích trên, tác giả mạnh dạn đưa ra định nghĩa: “Án tích là là
hậu quả pháp lý của việc phạm tội mà người bị kết án phải chịu hình phạt theo bản
án kết tội đã có hiệu lực pháp luật, gánh chịu trong thời gian nhất định kể từ khi bản
án có hiệu lực pháp luật đến khi hậu quả pháp lý của nó bị xoá bỏ theo quy định của
pháp luật”.


8


- Đặc điểm của án tích
Về đối tượng: Án tính tồn tại đối với người bị kết án bằng bản án buộc tội
của Tồ án. Án tích là một đặc điểm nhân thân gắn liền với người đã từng phạm
tội và bị kết án. Do đó, khơng có tội phạm thì khơng có án tích, chỉ có người
phạm tội mới phải mang án tích.
Về phạm vi: Khơng phải bất cứ người phạm tội bị kết án nào cũng mang
án tích. Đối tượng mang án tích chỉ là những người bị kết án bằng bản án có
hiệu lực của Tồ án và bị tuyên áp dụng hình phạt. Bởi người bị kết án nhưng
được áp dụng các biện pháp tư pháp khác như đưa vào trường giáo dưỡng, giáo
dục tại xã, phường, thị trấn… theo quy định tại Điều 95 và Điều 96 Bộ luật
Hình sự năm 2015 hay biện pháp buộc công khai xin lỗi, bồi thường thiệt hại
theo quy định tại Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sẽ không phải chịu hậu
quả pháp lý này. Đối với người được miễn trách nhiệm hình phạt hoặc áp dụng
các biện pháp tư pháp thì thực tế án tích khơng tồn tại với họ.
Về thời điểm xuất hiện án tích:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Án tích xuất hiện từ khi bản án kết tội có
hiệu lực pháp luật và những người phạm tội mới trong thời gian kháng cáo,
kháng nghị, chờ xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm sẽ khơng trở
thành đối tượng có án tích và sẽ không bị áp dụng những hậu quả pháp lý bất
lợi do việc cịn án tích như bị áp dụng các tình tiết tái phạm, tái phạm nguy
hiểm khi phạm các tội mới.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Án tích chỉ xuất hiện trong một khoảng thời
gian nhất định sau khi đã chấp hành xong hình phạt .
Nhìn chung, các quan điểm này đều chưa hợp lý. Về bản chất, bản án kết
tội của Toà sẽ làm xuất hiện án tích đối với người phạm tội ngay sau khi bản
án đó được tuyên. Nếu thời gian kháng cáo, kháng nghị hoặc thời gian chấp
hành hình phạt khơng được coi là thời gian mang án tích thì khi xét xử tội phạm

mới sẽ không đánh giá đúng mức độ nguy hiểm của tội phạm mới thực hiện

9


trong thời gian này. Tóm lại, án tích xuất hiện ngay sau khi người phạm tội bị
Toà án kết tội bằng một bản án buộc tội có hiệu lực pháp luật.
Về thời hạn tồn tại: Án tích chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định.
Án tích là đặc điểm nhân thân xấu và việc mang án tích có thể mang lại những hậu
quả pháp lý bất lợi cho người mang án tích nên khơng thể buộc họ phải vĩnh viễn
mang án tích cho một tội danh. Do đó, án tích có thể được xố sau một thời gian
đủ để chứng tỏ người phạm tội đã “hoàn lương” – khơng cịn nguy hiểm đối với
xã hội nữa. Đây được coi là thời gian thử thách đối với người bị kết án chấp hành
xong hình phạt. Thời hạn của án tích được bắt đầu từ khi bản án của Tồ án được
tuyên, kết thúc khi được xoá bỏ theo quy định của pháp luật.
- Hậu quả pháp lý của việc mang án tích
Án tích có thể mang lại những hậu quả pháp lý bất lợi cho người mang án
tích. Sự bất lợi của việc mang án tích đối với người bị kết án và bị áp dụng hình
phạt được thể hiện ở nhiều phương diện:
Người mang án tích trình lý lịch tư pháp cũng như các giấy tờ chứng thực về
nhân thân của người phạm tội sẽ ghi “có tiền án”, đồng thời chỉ rõ loại tội phạm cũng
như hình phạt dành cho tội phạm đó. Khi đó, án tích như một vét nhơ trong lý lịch
của người phạm tội, dẫn tới nhiều hậu quả xã hội bất lợi đối với người phạm tội.
Do tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà trong một số lĩnh vực,
pháp luật cịn hạn chế quyền của người mang án tích. Ví dụ như Luật Nuôi con
nuôi năm 2010 quy định: “người chưa được xố án tích về một trong các tội
cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của người khác;
ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có cơng
ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi
phạm pháp luật,….sẽ không được nhận con nuôi”.

Việc mang án tích có thể là căn cứ để xác định hành vi phạm tội là tái
phạm hay tái phạm nguy hiểm. Điều 53 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tái
phạm, tái phạm nguy hiểm:

10


“1. Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xố án tích mà lại
thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý. [37].
2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;[37]
b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội
do cố ý.”
Theo đó, dấu hiệu “chưa xố án tích” chính là dấu hiệu quan trọng để
xem xét hành vi phạm tội của người phạm tội có tái phạm hay tái phạm nguy
hiểm hay không. Đây sẽ là căn cứ để xác định việc áp dụng tình tiết tăng nặng
trách nhiệm Hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự
2015 hay tình tiết định khung hình phạt của các tội phạm cụ thể.
Ví dụ: Điểm p khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về Tội
giết người:
“ Người nào giết người thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình;…..p) Tái phạm nguy
hiểm”[37].
Đối với các tội phạm khác, khi có dấu hiệu cịn án tích và yếu tố tái phạm
tái phạm nguy hiểm không được áp dụng làm tình tiết định khung hình phạt thì
hành vi phạm tội mới thường bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình
sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Đối với một số cấu thành tội phạm, dấu hiệu “chưa xố án tích” trở thành
một trong những yếu tố định tội. Theo đó, nếu người phạm tội khơng có án tích
thì mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm pháp luật chưa cao, người vi phạm
có thể khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử lý hành chính. Tuy

11


nhiên, dấu hiệu “có tiền án” đã khiến mức độ nguy hiểm của hành vi tăng lên
và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ: Điểm b khoản 1 Điều 173 quy định về tội trộm cắp tài sản:
“Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng
đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong
các trường hợp sau đây thì bị phạt tải tạo khơng giam giữ đến 3 năm hoặc phạt
tù từ 6 tháng đến 3 năm: ……b) Đã bị kết án về tội này hoặc một trong các tội
quy định tại Điều 168,169,170,171,172,174,175 và 290 của Bộ luật này, chưa
được xố án tích mà cịn vi phạm”. [37].
Việc mang án tính dẫn đến rất nhiều các hậu quả pháp lý bất lợi đối với những
người mang án tích. Quy định này thể hiện sự nghiêm trị của pháp luật Hình sự
đối với những người phạm tội, đặc biệt là những đối tượng không biết hối cải vẫn
tái phạm.
1.1.2. Khái niệm xố án tích
Việc kết án là một sự kiện khách quan và khơng gì có thể xố bỏ được sự
kiện bị kết án của người phạm tội. Tuy nhiên, án tích khơng phải đặc điểm nhân
thân có tích chất vĩnh viễn. Với tính chất nhân đạo của pháp luật Hình sự nhằm
giúp xố bỏ mặc cảm tội lỗi với những người đã từng bị kết án, giúp họ tái hồ
nhập với cộng đồng, Bộ luật Hình sự đã quy định, án tích chỉ tồn tại trong một thờ
gian nhất định và khi đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì án
tích có thể được xố bỏ.
Cũng tương tự như án tích, xố án tích cũng là một khái niệm với rất nhiều

quan điểm và lập trường nghiên cứu khác nhau.
PGS.TS Trần Đình Nhã thì định nghĩa: “Xố án tích là sự thừa nhận về
mặt pháp lý người bị kết án khơng cịn mang án tích và vì vậy khơng cịn chịu
hậu quả do việc kết án mang lại” [35]. Quan điểm này đi theo khía cạnh đương
nhiên được xố án tích. Và như vậy thì sẽ khơng thể hiện hết được nội dung của
việc xố án tích bởi bên cạnh pháp luật quy định về đương nhiên được xố án tích

12


thì cịn có trường hợp được xố án tích theo quyết định của Toà án (phải được Toà
án xem xét và ra quyết định).
Ths. Đinh Văn Quế lại cho rằng: “Xố án tích là xố bỏ bản án hình sự
đối với một người đã bị Toà kết án, là sự thể hiện tinh thần nhân đạo trong
Luật Hình sự nước ta… là để cho người bị kết án không mặc cảm tội lỗi của
mình, tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hoà nhập với cộng đồng”.
PGS.TSKH Lê Cảm lại dùng thuật ngữ xố án tích để định nghĩa xố án
tích, tạo nên một định nghĩa trừu tượng và gây khó hiểu cho người đọc khi
muốn tìm hiểu sâu về vấn đề này: “Xố án tích là việc chấm dứt trách nhiệm hình
sự của người bị kết án do người đó được xố án tích theo các quy định của pháp
luật Hình sự, trên cơ sở sự xem xét và quyết định của Tồ án, cơng nhận là chưa
bị kết án” [11].
ThS. Phạm Thị Học đưa ra quan niệm: “Trong luật Hình sự Việt Nam, khái
niệm xố án tích được hiểu là việc xố bỏ việc án mang tích thể hiện ở sự công nhận
coi như là chưa bị kết án đối với người trước đó đã bị Tồ án xét xử, kết tội”.
Do có nhiều quan điểm của các nhà nghiên cứu khác nhau nên người đọc đã
gặp khó khăn trong q trình tìm hiểu. Khoa học Luật Hình sự đã dựa trên những
nghiên cứu thơng nhất có tính chất chỉ đạo của việc áp dụng các quy định của Luật
Hình sự Việt Nam về xố án tích đã đưa ra một khái niệm khái quát và tương đối
đầy đủ:

“Xóa án tích là chế định của luật hình sự Việt Nam thể hiện ở việc xóa bỏ
hậu quả pháp lý, xóa bỏ trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án và phải
chịu hình phạt theo bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tịa án khi có đủ các
điều kiện của pháp luật quy định và người đó được coi như chưa bị kết án.”
Xố án tích là một chế định pháp luật nhân đạo của Luật Hình sự thể hiện
sự thừa nhận của nhà nước về mặt pháp lý người bị kết án không cịn mang án
tích nữa và khơng phải tiếp tục gành chịu bất kỳ hậu quả pháp lý nào do việc
bị kết án mang lại. Người được xố án tích được coi là chưa bị kết án. Điều đó

13


có nghĩa là kể từ thời điểm án tích được xố, họ trở thành những người hồn
tồn bình thường về mặt Tư pháp, khơng ai có thể căn cứ vào sự kiện họ đã bị
kết án trước đây để hạn chế quyền lợi của họ. Sau khi được xoá án tích, mọi
giấy tờ liên quan đến căn cước, lý lịch của họ đều được ghi là “khơng có án
tích” và nếu người đó lại phạm vào tội mới thì cũng không bị xác định là tái
phạm, tái phạm nguy hiểm.
1.2 Khái niệm đương nhiên xố án tích
Xóa án tích là một chế định thể hiện rõ tính nhân đạo trong chính sách
pháp luật của nhà nước, nhằm giúp người đã từng phạm tội tái hòa nhập cộng
đồng một cách thuận lợi hơn. Thời gian qua đã chứng minh, đó là một chính
sách đúng đắn trong việc giúp người phạm tội có cơ hội sửa sai lỗi lầm và hạn
chế việc phân biệt đối xử đối với những đối tượng đã từng là một người phạm
tội. Chế định xố án tích được quy định từ Điều 69 đến Điều 73 Bộ luật Hình
sự 2015. Theo đó, việc xố án tích đối với người đã chấp hành xong bản án có
hiệu lực pháp luật của Toà án bằng một trong hai cách: Đương nhiên được xố
án tích và xố án tích theo quyết định của Tồ án. Người được xố án tích coi
như chưa bị kết án.
Đương nhiên xố án tích là trường hợp người bị kết án được coi là khơng

có án tích khi đáp ứng các điều kiện nhất định theo quy định của pháp luật mà
khơng cần có quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Theo quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam hiện hành, để được đương
nhiên xố án tích, người bị kết án phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện theo quy
định của pháp luật. Tuỳ thuộc vào từng loại tội phạm cũng như mức hình phạt
mà pháp luật quy định những điều kiện cụ thể để đương nhiên được xố án tích.
Nhìn chung, người phạm tội nếu muốn được đương nhiên xoá án tích phải đáp
ứng đồng thời hai điều kiện:
- Đã chấp hành xong bản án
- Không phạm tội mới trong thời gian luật định

14


Pháp luật thể hiện rõ chính sách phân hóa tội phạm cũng như tính nghiêm trị
đối với những hành vi gây nguy hiểm cao cho xã hội bằng cách quy định đối với
từng loại tội phạm và mức phạt mà có thời hạn để được đương nhiên xố án tích
khác nhau. Tội phạm mang tính chất nguy hiểm cho xã hội cao, hình phạt nặng thì
thời hạn để được đương nhiên xố án tích càng lâu, và ngược lại, nếu tội phạm
mang tính nguy hiểm cho xã hội thấp, hình phạt nhẹ thì thời hạn đương nhiên được
xố án tích sẽ nhanh hơn. Thời gian mang án tích cũng là thời gian thử thách để
khuyến khích cũng như bảo đảm người phạm tội biết hối cải về tội lỗi của mình,
có ý thức nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật nên tội phạm càng
nguy hiểm thì thời gian thử thách càng phải kéo dài.
1.3 Ý nghĩa của đương nhiên xố án tích
Điều 69 Bộ luật Hình sự 2015 quy định về xố án tích như sau:
1. “Người bị kết án được xố án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70
đến Điều 73 của bộ luật này. Người được xố án tích coi như chưa bị kết án.
Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm
trọng và người được miễn hình phạt khơng bị coi là có án tích” [37].

Theo quy định trên, một người sau khi được xố án tích thì được coi như
là chưa bị kết án. Chính vì vậy, xố án tích có nghĩa lớn cả mặt chính trị - pháp
lý, mặt xã hội.
Thứ nhất, về mặt chính trị - pháp lý:
Luật quy định: “Người được xố án tích coi như chưa bị kết án” vì vậy
xố án tích thể hiện sự cơng nhận, coi như chưa bị kết án đối với người đã từng
bị Toà án xét xử, kết tội. Khi một người được xố án tích phạm tội mới thì Tồ
án sẽ khơng được căn cứ vào tiền án trước đó để xác định là tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm. Có nghĩa là kể từ thời điểm được xoá án án tích, người phạm
tội sẽ trở thành người bình thường về mặt tư pháp và khơng ai có thể căn cứ
vào việc họ đã bị kết án trước đây để hạn chế quyền lợi của họ. Sau khi được

15


xố án, họ trở thành người “khơng có án tích” và nếu người đó phạm tội mới
thì được coi như phạm tội lần đầu.
Với chế định xố án tích, một mặt góp phần đảm bảo cho việc thực hiện
nhất quán nguyên tắc công bằng, mặt khác phản ánh nguyên tắc nhân đạo, tơn
trọng quyền con người của pháp luật Hình sự. Vì pháp luật cần thiết phải quy
định các chế tài nghiêm khắc để nghiêm trị và răn đe người phạm tội, nhưng
khơng thể thiếu tính nhân đạo. Xã hội muốn có cơng bằng và nhân đạo thì xã
hội đó phải có một hệ thống pháp luật vì con người. Xã hội cũng không thể ổn
định và phát triển nếu như pháp luật của xã hội ấy khơng vì con người. Nhưng
nếu pháp luật khơng mở đường cho sự hồn lương của người bị kết án thì pháp
luật đã khơng mang được đúng ý nghĩa mong muốn của nó.
Thứ hai, về mặt xã hội: Quy định của pháp luật về xố án tích nếu được Tồ
án áp dụng đúng đắn và chính xác trong thực tiễn sẽ đem lại hàng loạt các lợi ích
xã hội.
Xố án tích thể hiện sự nhìn nhận của pháp luật vào chiều hướng thay đổi

tích cực của người phạm tội, khích lệ, động viên họ nhìn nhận ra những điều
sai trái mà mình đã mắc phải, đồng thời cho họ cơ hội để nhìn lại cuộc đời;
Xố án tích cịn có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình học tập, lao động
và ảnh hưởng đến đời sống của những người này, nhất là đối với những người
phạm tội chưa thành niên;
Việc đương nhiên xoá án tích sẽ giúp cho những người đã từng lầm lỡ có
cơ hội làm lại cuộc đời, xố đi cảm giác mặc cảm bởi quá khứ tội lỗi của mình
và tránh được kì thị của người khác, dễ dàng hồ nhập với cộng đồng;
Việc đương nhiên xố án tích cịn mang tính phịng ngừa tội phạm cao.
Bởi lẽ đương nhiên xố án tích đã góp phần động viên người phạm tội tích cực
cải tạo, học tập, lao động và ngăn ngừa họ phạm tội mới để nhanh chóng trở
thành người lương thiện, có ích cho xã hội.

16


1.4 Đương nhiên xố án tích theo pháp luật Hình sự của một số nước
1.4.1 Đương nhiên xố án tích theo Bộ luật Hình sự nước Cộng hồ nhân
dân Trung Hoa
Bộ luật Hình sự nước Cộng Hồ nhân dân Trung Hoa khơng quy định
riêng về xố án tích cũng như đương nhiên xố án tích. Tuy nhiên, một số vấn
đề về xố án tích có thể được rút ra từ chế định tái phạm được quy định tại Điều
65, 66 Mục 2, Chương IV của phần chung Bộ luật Hình sự.
Theo quy định tại Điều 65: “Người bị kết án ít nhất là phạt tù có thời hạn
mà phạm tội mới có thể bị phạt tù có thời hạn trở lên trong thời hạn 5 năm kể
từ khi chấp hành xong hình phạt hoặc đặc xá thì được coi là tái phạm và phải
chịu hình phạt nặng hơn về tội mới. Trong trường hợp này, tái phạm về tội
phạm do vơ ý được loại trừ”.
Điều 66 Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội xâm phạm an ninh
quốc gia mà lại phạm tội mới xâm phạm an ninh quốc gia vào bất kì thời gian

nào sau khi chấp hành xong hình phạt hoặc được đặc xá đều bị coi là tái
phạm”. Có thể nói, án tích sẽ tồn tại suốt đời đối với các tội phạm xâm hại an
ninh quốc gia.
Bộ luật Hình sự nước Cộng hồ nhân dân Trung Hoa đã khơng đặt ra vấn
đề xố án tích nên vấn đề đương nhiên xố án tích cũng khơng được đề cập tới.
Vấn đề này chỉ được xem xét khi người bị kết án phạm tội mới. Đối với các
vấn đề này thì Bộ luật Hình sự cũng có sự phân hố rất lớn: Tội vơ ý, tội bị xử
lý bằng các hình phạt khơng phát sinh án tích; chỉ tội bị xử phạt tù mới được
coi là có án tích trong thời hạn 5 năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt tù
hoặc được đặc xá; đối với tội phạm an ninh quốc gia, án tích sẽ tồn tại vĩnh viễn
nếu người phạm tội bị kết án lại phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia mới.

17


1.4.2 Đương nhiên xố án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự Nhật Bản
Bộ luật Hình sự Nhật Bản cũng giống như Bộ luật Hình sự Việt Nam, khi
quy định về xố án tích khơng đưa ra một khái niệm cụ thể về xố án tích hay
đương nhiên xố án tích. Tại Điều 34.2 quy định về Hết hiệu lực của việc xử phạt:
“1. Khi đã quá 10 năm kể từ khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt
tù khơng có lao động bắt buộc hoặc hình phạt nặng hơn, hoặc đã được miễn
chấp hành hình phạt đó mà khơng bị kết án phạt tiền hoặc hình phạt nặng hơn
về tội khác thì việc kết án hết hiệu lực. Cũng áp dụng tương tự như vậy khi đã
qua 5 năm kể từ khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt tiền hoặc hình
phạt nhẹ hơn, hoặc đã được miễn chấp hành hình phạt đó mà khơng bị kết án
phạt tiền hoặc hình phạt nặng hơn về tội khác.
2. Trong trường hợp một người đã bị tun bố có tội nhưng được miễn
hình phạt hoặc khơng bị kết án phạt tiền hoặc hình phạt nặng hơn về tội khác
trong vòng 2 năm kể từ khi việc tun bố đó có hiệu lực pháp luật thì việc tuyên
bố người đó có tội hết hiệu lực”.

Như vậy, Bộ luật Hình sự Nhật Bản đã quy định án tích trong các trường
hợp người bị kết án bị áp dụng hình phạt và đã thi hành xong hoặc được miễn
chấp hành hình phạt đó. Án tích khơng có khi người phạm tội được miễn chấp
hành hình phạt.
Điều kiện để án tích bị dừng trong Bộ luật Hình sự Nhật Bản không phải
do phạm tội mới mà do bị kết án về tội phạm mới và bị áp dụng hình phạt tương
tự hoặc nặng hơn. Điều này xuất phát từ nguyên tắc: “Một người chỉ bị coi là có
tội khi có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật của Toà án”. Như vậy, tuy bị kết
án phạm tội mới nhưng tội phạm đó chưa bị kết án hoặc bị kết án và xử phạt nhẹ
hơn hình phạt đối với tội phạm trước đó thì thời hạn để tính xố án tích vẫn được
tiếp tục.
Từ những phân tích trên ta có thể thấy rằng, Nhật Bản chỉ có một hình
thức xố án tích duy nhất là đương nhiên xố án tích.

18


1.4.3 Đương nhiên xố án tích theo quy định của Bộ luật Hình sự Liên
bang Nga
Bộ luật Hình sự của Liên bang Nga cũng khơng có một khái niệm cụ thể
về xố án tích. Cũng giống như các quy định của pháp luật Hình sự Việt Nam,
Khoản 1 Điều 87 Bộ luật Hình sự Nga quy định về án tích: “Người bị kết án về
một tội phạm bị coi là người có án kể từ ngày bản án kết tội có hiệu lực pháp
luật cho đến khi được xố án”. Như vậy, án tích được tính trong trường hợp tái
phạm và khi quyết định hình phạt.
Bộ luật Hình sự Nga cũng chỉ quy định một hình thức xố án tích duy nhất
là đương nhiên xố án tích:
Khoản 3 Điều 87 quy định:
“Án tích được xố :
a. Đối với người bị án treo – sau khi hết thời hạn thử thách;

b. Đối với người bị kết án với những hình phạt nhẹ hơn hạn chế tự do –
sau một năm kể từ khi chấp hành xong hình phạt;
c. Đối với người bị kết án hạn chế tự do hoặc phạt tù về tội ít nghiêm trọng
hoặc tội nghiêm trọng – sau 2 năm kể từ ngày chấp hành xong hình phạt;
d. Đối với người bị kết án tù về tội rất nghiêm trọng – sau bốn năm kể từ
ngày chấp hành xong hình phạt;
e. Đối với người bị kết án tù về tội đặc biệt nghiêm trọng – sau sáu năm
kể từ ngày chấp hành xong hình phạt.”
Quy định của Bộ luật Hình sự Nga về đương nhiên xố án tích về cơ bản
cũng tương đồng với quy định của luật Hình sự Việt Nam. Tuy nhiên, nếu Bộ
luật Hình sự Việt Nam 1999 quy định người bị kết án sẽ đương nhiên được xố
án tích khi khơng phạm vào các tội quy định tại Chương XI – các tội xâm phạm
an ninh quốc gia và Chương XXIV – các tội phạm phá hoại hồ bình, chống
lồi người và chống chiến tranh thì Bộ luật Hình sự Nga lại khơng quy định
riêng về loại tội phạm nào, mà đó là quy định của tất cả các loại tội phạm nói

19


×