Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khía cạnh lý luận và pháp luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (797.53 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MINH YẾN

HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI:
KHÍA CẠNH LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ MINH YẾN

HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI:
KHÍA CẠNH LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, các nội
dung và trích dẫn trong luận văn này là trung thực và chính xác. Những kết
luận khoa học của luận văn không trùng lặp với các cơng trình nghiên cứu có
liên quan đã được công bố.

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Minh Yến


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI
DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI ........................................................................................ 7
1.1. Khái niệm, bản chất, nội dung, mục đích của hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ........................................................................................................... 7
1.2. Cơ sở của việc xây dựng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ..... 18
1.3. Các yếu tố bảo đảm đạt được mục đích của hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ......................................................................................................... 25
Chương 2: PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI
NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI....................................................................... 37
2.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 được ban hành ...................... 37
2.2. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1985 về hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ......................................................................................................... 42
2.3. Quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ......................................................................................................... 44
2.4. Quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về hình phạt đối với người dưới 18

tuổi phạm tội ......................................................................................................... 51
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ HÌNH
PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18 TUỔI PHẠM TỘI VÀ CÁC GIẢI PHÁP
BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG ................................................................................... 68
3.1. Các xu hướng hoàn thiện các quy định về hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội ......................................................................................................... 68
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng ............................................................ 73
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CSHS

Chính sách hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

TANDTC


Tịa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quan điểm và đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta luôn coi con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước, trong đó trẻ em,
cụ thể là người dưới 18 tuổi được ví như măng non, là hạnh phúc của gia đình, là
tương lai của đất nước phải được bảo vệ, chăm sóc và giáo dục nhằm giúp họ phát
triển lành mạnh cả về mặt thể chất lẫn tinh thần một cách tốt nhất. Luật trẻ em năm
2016 đã ghi nhận tại Điều 5 như sau: “...Không phân biệt đối xử với trẻ em. Bảo
đảm lợi ích tốt nhất của trẻ em trong các quyết định liên quan đến trẻ em. Tôn
trọng, lắng nghe, xem xét, phản hồi ý kiến, nguyện vọng của trẻ em...”. Về đường
lối chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta luôn coi trẻ em, người dưới 18 tuổi
là đối tượng cần được bảo vệ, chăm sóc và phải được quan tâm một cách đặc biệt.
Mục tiêu quan trọng của nước ta là xây dựng một Nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, và vì dân, vì vậy, mục đích của hình phạt mà Nhà nước hướng tới
khơng chỉ nhằm mục đích trừng trị, mà cịn nhằm mục đích cải tạo, giáo dục người
phạm tội, từ đó giúp họ nhận ra sai lầm và tạo cho họ cơ hội để sửa chữa sai lầm,
sớm tái hòa nhập với cộng đồng. BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
quy định rất rõ TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đã thể hiện chính sách

nhân đạo của Nhà nước đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và coi họ là đối tượng
đặc biệt được pháp luật bảo vệ dưới cả hai góc độ là khi họ là chủ thể của tội
phạmvà cả khi họ là người bị hại.
Hình phạt nói chung, đặc biệt là hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội là một vấn đề cơ bản, phức tạp mang tính thời sự bởi tính chất nhân đạo và bởi
người dưới 18 tuổi phạm tội cũng chính là đối tượng đặc biệt cần có sự thận trọng
và phải được xem xét thấu đáo mọi khía cạnh khi áp dụng hình phạt vì người dưới
18 tuổi là chủ thể đạc biệt cần được pháp luật bảo vệ dưới cả hai góc độ là người
phạm tội thì cần phải được giáo dục, răn đe và vừa là đối tượng cần được bảo vệ,
chăm sóc và quan tâm đặc biệt. Việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội chỉ trong trường hợp thực sự cần thiết và hạn chế việc áp dụng hình phạt
tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
1


Để việc đấu tranh phòng chống tội phạm đối với người dưới 18 tuổi có hiệu
quả, thì ngồi việc phải tìm ra những nguyên nhân, điều kiện làm nảy sinh hành vi
phạm tội, từ đó tìm ra những giải pháp hữu hiệu để ngăn ngừa tội phạm là người
dưới 18 tuổi thì việc nghiên cứu về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
cũng không kém phần quan trọng, giúp đạt được hiệu quả cao nhất về mục đích của
hình phạt là khơng chỉ nhằm trừng trị, mà cịn nhằm mục đích giáo dục người phạm
tội, giúp họ nhận ra sai lầm và tạo cho họ cơ hội để sửa chữa, sớm tái hòa nhập với
cộng đồng và trở thành người có ích cho xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu đó đưa ra
những giải pháp bảo đảm hiệu quả của hình phạt, góp phần hồn thiện chính sách
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Vì những lý do đã nêu ở trên, tác giả lựa chọn đề tài nghiên cứu “Hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: Khía cạnh lý luận và pháp luật hình sự Việt
Nam” cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là một trong những vấn đề cơ

bản quan trọng và phức tạp của luật hình sự Việt Nam địi hỏi cần được nghiên cứu,
làm rõ. Thời gian qua, ở các mức độ khác nhau có rất nhiều cơng trình nghiên cứu
liên quan đến hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như: Võ Khánh Vinh
(1994), Nguyên tắc cơng bằng trong luật hình sự Việt Nam, Nxb Cơng an nhân dân,
Hà Nội; Nguyễn Minh Khuê, Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006;
Nguyễn Thị Thu Huyền (2012) Hình phạt tù có thời hạn áp dụng đối với người
chưa thành niên phạm tội theo Luật hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội; Trịnh Thị Yến, Quyết định hình phạt đối với
người chứ thành niên phạm nhiều tội, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại
học Quốc Gia Hà Nội, 2014…
Ngoài ra cịn có các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đăng trên tạp chí
chuyên ngành: “Nguyên tắc cá thể hóa việc quyết định hình phạt” của Võ Khánh
Vinh tạp chí Tịa án nhân dân, số 8/1990; “Quyết định hình phạt trong trường hợp
2


người chưa thành niên phạm tội” của Trần văn Dũng, Tạp chí Luật học, số
5/2000;“Quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội” của Dương
Tuyết Miên, Tạp chí Luật học, số 4/2002; “Quyết định hình phạt đối với người
chưa thành niên phạm tội” của Đinh Văn Quế, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 6/2007;
“Những điểm mới trong Bộ luật hình sự 2015 về các nguyên tắc xử lý đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội”.Các công trình khoa học trên đã làm rõ nhiều nội dung, vấn
đề liên quan đến TNHS, quyết định áp dụng hình phạt, ngun tắc cá thể hóa quyết
định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như làm rõ khái niệm, đặc điểm
người dưới 18 tuổi, cơ sở quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
các quy định của pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, một số vấn đề trong
thực tiễn về người dưới 18 tuổi phạm tội cần được pháp luật điều chỉnh. Tuy nhiên,
các cơng trình nghiên cứu trên tất cả đều nghiên cứu theo BLHS1999, chưa nghiên
cứu, cập nhật các quy định mới trong BLHS 2015 về hình phạt đối với người dưới

18 tuổi phạm tội. Do vậy, việc nghiên cứu về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội theo quy định của BLHS 2015 có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn sâu sắc
trong việc áp dụng pháp luật hình sự vào thực tiễn đấu tranh phịng chống tội phạm
nói chung và tội phạm được thực hiện bởi người dưới 18 tuổi nói riêng, góp phần
phịng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả do các tội phạm là người dưới 18 tuổi
thực hiện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống và lý luận nội
dung cơ bản của những quy định của pháp luật về hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam, qua đó thấy được xu hướng phát
triển của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội, các xu hướng hồn thiện của các quy định về hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, đề xuất các giải pháp áp dụng đúng hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội, góp phần tiếp tục hồn thiện các quy định của pháp luật đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội, nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội ở nước ta hiện nay.
3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích đã nêu ở trên thì luận văn thực hiện các nhiệm vụ
sau:
- Phân tích khái niệm, bản chất, mục đích, nội dung của hình phạt; cơ sở của
việc xây dựng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Biến đổi xã hội và các
loại hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Các yếu tố bảo đảm hiệu quả
của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Khái quát quá trình quy định và hồn thiện pháp luật về hình phạt và các
quy định về những vấn đề liên quan đến hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội ở Việt Nam, tập trung làm rõ và đánh giá các quy định của Bộ luật hình sự 2015

về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Hồn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18
tuổi phạm tội và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng về hình phạt đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội
- Nghiên cứu đưa ra các giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả của hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội như: (khái niệm, bản chất, mục đích, nội dung của hình phạt; cơ sở của
việc xây dựng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; Các loại hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội; Các yếu tố bảo đảm hiệu quả của hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội)
Nghiên cứu, đánh giá về các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam qua
các thời kỳ về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, quy định của BLHS
2015 về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nghiên cứu xu hướng phát
4


triển của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội và từ đó đưa ra các giải pháp bảo đảm nâng cao hiệu quả của hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận nghiên cứu
Cơ sở phương pháp của việc nghiên cứu là hệ thống các quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa liên quan đến người dưới 18 tuổi phạm tội, về hình phạt và giáo dục, cải tạo

con người; các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam và
nhà nước về pháp luật hình sự nói chung, hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
của khoa học luật hình sự như: Phương pháp hệ thống lịch sử, phân tích, tổng hợp
và thống kê, phương pháp so sánh để nhằm đạt được mục đích nghiên cứu. cụ thể
như sau:
Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp và phương pháp so sánh để làm
rõ các vấn đề lý luận, làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình
phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, đánh giá những thành tựu, những hạn chế
của các quy định, và làm rõ những thành tựu đã đạt được và những hạn chế để khắc
phục từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả của
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu một cách tồn diện và có hệ thống lý luận về hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo pháp luật hình sự Việt Nam. Kết quả
nghiên cứu của luận văn vì vậy góp phần phát triển lý luận về hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội

5


6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn nghiên cứu thực tiễn quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, nhận diện xu hướng phát triển của
pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội và các
giải pháp bảo đảm hiệu quả của hình phạt, vì vậy cũng qua nghiên cứu góp phần
hồn thiện pháp luật hình sự về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đồng

thời là tài liệu tham khảo nghiên cứu để áp dụng trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận của luận văn và danh mục các tài liệu
tham khảo, thì nội dung của luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Chương 2: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam về hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI NGƯỜI DƯỚI 18
TUỔI PHẠM TỘI
1.1. Khái niệm, bản chất, nội dung, mục đích của hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội
1.1.1. Khái niệm hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Khái niệm về hình phạt được nhiều nhà nghiên cứu khoa học định nghĩa
khác nhau nhưng nhìn chung thì các định nghĩa về hình phạt về cơ bản là thống
nhất, mặc dù cách diễn đạt có sự khác nhau nhất định:
Chẳng hạn theo tác giả Lê Văn cảm, trong bài viết về “Hình phạt và biện
pháp tư pháp trong Luật hình sự Việt Nam”, tạp chí Dân chủ và pháp luật (số 8 năm
2000) thì “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được
quyết định trong bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tịa án để tước bỏ hay hạn
chế quyền, tự do của người bị kết án theo các quy định của pháp luật hình sự”[5, tr.
10]. Tác giả Nguyễn Ngọc Hòa trong quyển “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”
cho rằng “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được quy

định trong Bộ luật hình sự, do Tịa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội
phạm, nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống
tội phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân” [10, tr. 29].
Trong khi đó hình phạt được quy định trong BLHS 2015 như sau:“Hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ
luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại
phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương
mại đó”[21, tr. 26]
Điều 12 BLHS 2015 quy định về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như sau:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ
những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác”

7


“2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy
định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 150, 151, 170, 171, 173, 178,
248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 285, 286, 287, 289, 290, 299, 303, và 304”.
Điều 90 BLHS 2015 quy định việc áp dụng Bộ luật hình sự đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội cụ thể như sau: “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm
tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của chương này; theo quy định
khác của phần thứ nhất của Bộ luật này không trái với quy định của chương
này”[21, tr.63].
Khác với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 không sử dụng cụm từ “người
chưa thành niên phạm tội” mà sử dụng cụm từ “người dưới 18 tuổi phạm tội” để
quy định về người phạm tội là người dưới 18 tuổi.
Ngoài ra, BLHS 2015 đã đưa ra khái niệm về tội phạm như sau:“1. Tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có

năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý
hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc,
xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật
tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình
sự”[21, tr. 13]. Về chủ thể của tội phạm phải là người có năng lực TNHS và phải đủ
tuổi chịu TNHS, tức là phải có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình,
khả năng nhận thức phụ thuộc vào độ tuổi và trạng thái thần kinh. Mà khả năng điều
khiển hành vi của con người lại được quyết định bởi khả năng nhận thức.
Như vậy, từ các quy định và các khái niệm trên có thể hiểu rằng “Hình phạt
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là biện pháp cưỡng chế có tính nhân đạo, do
Bộ luật hình sự quy định và Tòa án áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
theo một trình tự, thủ tục luật định nhằm mục đích cải tạo, giáo dục họ trở thành
người lương thiện.”
8


1.1.2. Bản chất (pháp lý, xã hội) của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội
Là hệ thống hình phạt được quy định tại Điều 98 BLHS 2015, do đó hình
phạt mang đầy đủ các nội dung cơ bản đó là: “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước, và được Nhà nước sử dụng như một cơng cụ sắc
bén trong cuộc đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm nhằm bảo vệ lợi ích của
mình, của xã hội và những lợi ích hợp pháp của cơng dân”. Hình phạt là một trong
những cơng cụ sắc bén của giai cấp thống trị dùng để đấu tranh phòng ngừa và
chống tội phạm.
Trong chủ nghĩa xã hội, hình phạt vẫn mang tính giai cấp, nhưng tính giai
cấp của nó thể hiện ở chỗ hình phạt được áp dụng để bảo vệ thành quả và lợi ích của
tồn thể nhân dân lao động. Hình phạt ở nước ta được quy định và áp dụng để “bảo

vệ chế độ kinh tế, bảo vệ chế độ chính trị, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân theo pháp
luật, đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm”[20, tr. 5].
Hình phạt đối với người dưới 18 tuổi cũng thể hiện bản chất giai cấp là bảo
vệ chế độ kinh tế, bảo vệ chế độ chính trị, quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, và bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa,
chống mọi hành vi phạm tội, đồng thời giáo dục mọi người có ý thức tuân thủ theo
pháp luật, đấu tranh chống và phịng ngừa tội phạm. Ngồi ra, cịn thể hiện chính
sách nhân đạo của Nhà nước đối với họ, việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội.
phải bảo đảm lợi ích tốt nhất và chủ yếu nhằm mục đích giúp đỡ họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và giáo dục họ trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
1.1.3. Nội dung của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
Hiện nay trong khoa học luật hình sự cũng như trong pháp luật hình sự thực
định, nội dung của hình phạt nói chung và hình phạt đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội nói riêng được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Thậm chí cịn có sự nhầm
lẫn giữa nội dung của hình phạt với mục đích của hình phạt. Xuất phát từ khái niệm
9


và bản chất cũng như mục đích của hình phạt, chúng tơi cho rằng nội dung của hình
phạt thể hiện ở tính trừng trị người phạm tội và tính cải tạo giáo dục người phạm tội
của nó. Tính trừng trị của hình phạt thể hiện ở việc “ hình phạt tước bỏ hoặc hạn chế
ở những người phạm tội (đã bị kết án) những quyền và lợi ích nhất định” và giáo
dục cải tạo họ trở thành người lương thiện. Nội dung trừng trị chỉ cần ở mức cần và
đủ, vì vậy mà đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, việc truy cứu TNHS không đồng
nhất với việc buộc họ phải chịu hình phạt, mà bên cạnh đó cịn có thể áp dụng các
biện pháp tư pháp có tính chất giáo dục, phòng ngừa. Trong trường hợp cần thiết
phải áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì Tịa án chỉ được áp
dụng một trong các hình phạt quy định tại Điều 98 BLHS 2015. Nội dung của hình

phạt đối với người dưới 18 tuổi thể hiện ở tính trừng trị và tính cải tạo, giáo dục của
các hình phạt mà theo quy định của pháp luật hình sự, được áp dụng đối với họ.
Trong số đó có:
- Hình phạt cảnh cáo
Nội dung của hình phạt này thể hiện ở sự khiển trách công khai của Nhà
nước do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội. Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất
trong các hình phạt chính được quy định trong BLHS đối với người dưới 18 tuổi
phạm tội vì nó khơng tước bỏ hoặc không hạn chế bất cứ một quyền lợi vật chất nào
của người bị kết án mà chỉ lên án về tinh thần đối với họ. Nội dung của cảnh cáo chỉ
thể hiện ở việc Tòa án tuyên bản án có tội đối với người bị kết án và Tịa án sẽ nhân
danh Nhà nước lên án người bị kết án về việc họ đã thực hiện tội phạm. Hậu quả
pháp lý duy nhất mà hình phạt cảnh cáo mang lại cho người bị kết án là họ phải
chịu án tích về việc đã thực hiện tội phạm. Tuy nhiên, hình phạt này cũng gây ra
cho người bị kết án những tổn thất nhất định về mặt tinh thần, kể cả việc họ phải
mang án tích.
Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì chỉ có thể áp dụng hình phạt cảnh
cáo đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội, vì hình phạt này chỉ áp
dụng đối với những tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, còn đối với
tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì khơng áp dụng
hình phạt này.
10


Ngoài điều kiện tuổi và loại tội phạm đã thực hiện để áp dụng hình phạt cảnh
cáo đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, còn phải bảo đảm những điều kiện cần và
đủ gồm:
Thứ nhất, người phạm tội “có nhiều tình tiết giảm nhẹ” trách nhiệm hình sự,
về các tình tiết giảm nhẹ được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 51 BLHS 2015.
Thứ hai, tội phạm mà người dưới 18 tuổi thực hiện chưa đến mức được miễn
áp dụng hình phạt.

Hình phạt tiền.
Phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội,
phạt tiền tước đi quyền lợi vật chất của người phạm tội nhằm mục đích cải tạo và
giáo dục họ trở thành cơng dân có ích cho xã hội. Hình phạt này có tính cưỡng chế
cao hơn hình phạt cảnh cáo, nó tước bỏ một phần lợi ích vật chất của người dưới 18
tuổi phạm tội nhằm giáo dục họ có ý thức tn theo pháp luật tơn trọng các quy tắc
trật tự công cộng, tôn trọng trật tự quản lý xã hội. Ngoài việc tác động vào ý thức và
danh dự của người phạm tội, hình phạt này cịn tước bỏ một phần lợi ích vật chất
thuộc sở hữu của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Vì là tước đi quyền lợi vật chất của người phạm tội nên người phạm tội dưới
18 tuổi được áp dụng hình phạt tiền là người có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Đây
là biểu hiện của nguyên tắc trách nhiệm cá nhân
Như vậy, hình phạt tiền được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
khi họ thỏa mãn các điều kiện sau:
Thứ nhất, tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội thì người phạm tội phải ở
độ tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Quy định này nhằm đảm bảo cho tính khả thi
khi áp dụng hình phạt tiền, và hình phạt tiền khơng áp dụng đối với người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi. Bởi vì, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chưa có khả năng
độc lập về kinh tế, cịn phụ thuộc vào gia đình, chưa có nghề nghiệp ổn định và cịn
đang trong độ tuổi đi học nên khơng thể áp dụng hình phạt tiền đối với độ tuổi này.
Thứ hai, người phạm tội phải có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Tài sản riêng
ở đây là tài sản thuộc quyền sở hữu của riêng người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi,
11


có thể đó là tài sản được tặng cho, được thừa kế hay do bản thân tự tạo nên, tự tích
lũy. Có thu nhập được hiểu là thu nhập hợp pháp trên thực tế từ các hoạt động sản
xuất, kinh doanh hoặc từ hợp đồng lao động của người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi phạm tội.
Các trường hợp mà người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội là người

từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị áp dụng hình phạt tiền bao gồm các trường
hợp cụ thể như:
Trường hợp thứ nhất, tội phạm mà người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thực
hiện là tội phạm ít nghiêm trọng, nghiêm trọng mà điều luật áp dụng với họ có quy
định hình phạt tiền là hình phạt chính.
Trường hợp thứ hai, người dưới 18 tuổi, cụ thể là người từ đủ 16 tuổi đến
dưới 18 tuổi thực hiện tội phạm mà tội phạm ấy rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự
quản lý kinh tế, mơi trường, trật tự, an tồn cơng cộng và một số tội phạm khác
được quy định trong BLHS mà điều luật áp dụng quy định hình phạt đối với họ là
phạt tiền.
Trường hợp thứ ba, theo khoản 2 Điều 54 BLHS 2015 quy định:“Khi tịa án
quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng,
nhưng không bắt buộc phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người
phạm tội là người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm
nhưng có vai trị khơng đáng kể”[20, tr. 37]
Trường hợp thứ tư, Trong trường hợp có đủ các điều kiện đã nêu tại trường
hợp thứ ba nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt là khung hình phạt nhẹ nhất,
thì Tịa án có thể quyết định chuyển sang hình phạt tiền
“Mức tiền phạt đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội không
quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định”[21, tr. 70] trong từng
trường hợp cụ thể việc áp dụng mức phạt nào là do Tòa án tùy nghi áp dụng trên cơ
sở căn cứ vào tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội phạm đã thực hiện, tình
hình tài sản của người phạm tội và sự biến động giá cả nhưng người từ đủ 16 tuổi
đến dưới 18 tuổi chỉ phải chịu áp dụng mức tiền phạt cao nhất là bằng một phần hai
12


mức tiền của người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội. Người từ đủ 16 tuổi đến dướ 18 tuổi
có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần và được ghi nhận cụ thể trong bản án. Quy
định trên về mức tiền phạt vừa phù hợp với thực tiễn, vừa thể hiện chính sách nhân

đạo của Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Khác với biện pháp xử phạt hành chính, hình phạt tiền được quy định trong
BLHS chỉ do Tòa án áp dụng đối với người phạm tội. Và người bị áp dụng hình
phạt tiền phải mang án tích trong một thời gian theo luật định.
- Hình phạt cải tạo khơng giam giữ
Người bị áp dụng hình phạt này khơng bị cách ly ra khỏi xã hội nhưng hình
phạt này là hình phạt chính được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi khi họ phạm
tội. Đây là loại hình phạt khơng tước tự do của người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng
là hình phạt nghiêm khắc hơn so với hình phạt cảnh cáo và hình phạt tiền. Bởi ngoài
việc tác động đến ý thức và danh dự của người phạm tội thì hình phạt cải tạo khơng
giam giữ cịn hạn chế một phần tự do cá nhân của người phạm tội, buộc họ phải
tuân thủ theo một chế độ quản lý, giám sát của gia đình, tổ chức xã hội, nhà trường.
Về mặt lý luận và lập pháp thì hình phạt cải tạo khơng giam giữ đối với người dưới
18 tuổi phạm tội được coi là hình phạt có vị trí rất quan trọng thể hiện chính sách
nhân đạo của Nhà nước ta đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Hình phạt cải tạo
khơng giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được áp dụng khi có các điều
kiện cần và đủ sau:
“Người từ đủ16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội
nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vơ ý” có thể bị áp dụng hình phạt
cải tạo khơng giam giữ [20, tr. 70].
Người phạm tội đã phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý mà tại thời điểm phạm
tội người đó thuộc độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì người phạm tội đó có
thể bị áp dụng hình phạt cải tạo khơng giam giữ.
Tuy nhiên, trong trường hợp Tịa án quyết định chuyển sang loại hình phạt
khác nhẹ hơn từ hình phạt tù có thời hạn thì người dưới 18 tuổi phạm tội cũng có
thể được áp dụng hình phạt này. Tất nhiên “Khi có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ
13


theo quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này” thì Tịa án quyết định một hình

phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, nhưng không bắt buộc
phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội là người từ
đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng
phạm nhưng có vai trị khơng đáng kể và chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình
sự
Trường hợp có đủ các điều kiện quy định trên nhưng điều luật chỉ có một
khung hình phạt là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tịa án có thể quyết định chuyển
sang hình phạt nhẹ hơn so với hình phạt được quy định đối với tội mà người từ đủ
16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng hoặc
phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý hoặc đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
phạm tội rất nghiêm trong do cố ý là hình phạt cải tạo không giam giữ. Và lý do của
việc giảm nhẹ này phải được thể hiện rõ trong bản án.
Trong thời gian chấp hành án, người bị kết án nếu là người từ đủ 18 tuổi trở
lên phạm tội thì phải thực hiện một số nghĩa vụ đã được quy định trong BLHS về
cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung
quỹ nhà nước. Nhưng vì người dưới 18 tuổi phạm tội là đối tượng đặc biệt được
Pháp luật bảo vệ nên khi thi hành phạt cải tạo không giam giữ, họ có nghĩa vụ tn
theo các quy định về hình phạt này nhưng khơng bị khấu trừ thu nhập.
Nhằm nhanh chóng đưa người phạm tội dưới 18 tuổi trở thành người lương
thiện, thời hạn cải tạo đối với họ cũng ít hơn so với người lớn. Cụ thể là “Thời hạn
cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá một phần
hai thời hạn mà điều luật quy định”[21, tr. 70] Như vậy, thời hạn áp dụng hình phạt
cải tạo khơng giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội cao nhất là từ 06 tháng
đến không quá 18 tháng. Trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội bị kết án trong
quá trình tố tụng đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời hạn tạm giữ, tạm giam bị trừ vào
thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, theo nguyên tắc 01 ngày tạm
giữ, tạm giam bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.
- Hình phạt tù có thời hạn:
14



Hình phạt tù có thời hạn là loại hình phạt có lịch sử lâu đời và được quy định
và áp dụng phổ biến ở hầu hết trong pháp luật hình sự của các nước trên thế giới,
hình phạt này mang lại hiệu quả cao trong việc trừng trị, giáo dục, cải tạo người
phạm tội. Người bị áp dụng hình phạt tù phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam
giữ trong một thời hạn nhất định. Đây là hình phạt nghiêm khắc nhất trong số các
hình phạt được áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, vì nó có nội dung tước
đi tự do của người bị kết án và buộc người bị kết án phải cách ly ra khỏi xã hội
trong một thời gian do mà tòa án đã áp dụng đối với người bị kết án, đồng thời
người bị kết án hình phạt tù có thời hạn phải thực hiện chế độ lao động, học tập theo
những quy định nghiêm ngặt tại nơi giam giữ.
Tuy nhiên, so với người từ đủ 18 tuổi trở lên, người phạm tội dưới 18 tuổi
được áp dụng hình phạt tù ở mức thấp hơn, cụ thể là:
“1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng không quá 18 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định”.
“2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật
được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao
nhất được áp dụng không quá 12 năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt
cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy
định”[21, tr. 75].
Người dưới 18 tuổi phạm tội do đặc điểm tâm sinh lý và chính sách nhân
đạo, khoan hồng đặc biệt nên không bị áp dụng hình phạt tử hình hoặc chung thân
đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, cho dù tội phạm mà họ thực hiện là rất nghiêm
trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Mặt khác, “Tịa án chỉ áp dụng hình phạt tù có
thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt như cảnh
cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ không tác dụng răn đe, phịng ngừa”[20, tr.
65] và tùy vào tính chất, mức độ hành vi gây nguy hiểm cho xã hội.


15


Mức phạt từ có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được xác định
theo hai độ tuổi khác nhau (từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi và từ đủ 14 tuổi đến dưới
16 tuổi) để quy định các mức độ xử lý nặng, nhẹ khác nhau.
Khoảng cách tối thiểu và mức tối đa của hình phạt tù là ba tháng đến mười
tám năm và được áp dụng với nhiều loại tội, từ ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng. Thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào
thời hạn chấp hành hình phạt tù có thời hạn với tỷ lệ tương ứng, cứ một ngày tạm
giữ, tạm giam bằng một ngày tù có thời hạn. Ngồi ra, khi áp dụng hình phạt tù có
thời hạn. Tịa án phải căn cứ vào những đặc điểm riêng theo từng lứa tuổi của người
phạm tội, cũng như các nguyên tắc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội. Vì vậy, mức
hình phạt tù có thời hạn được dựa trên cơ sở độ tuổi, mức độ phát triển thể chất, tinh
thần của người dưới 18 tuổi phạm tội.
Việc cách ly người dưới 18 tuổi phạm tội ra khỏi xã hội khi tịa án áp dụng
hình phạt tù có thời hạn để giáo dục, cải tạo họ có thể mang đến những tác động tiêu
cực khơng nhỏ. Vì vậy, “Tịa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác khơng
có tác dụng răn đe, phịng ngừa”[20, tr. 64] và cân nhắc một thời hạn vừa đúng
pháp luật đã được quy định trong BLHS, vừa ngắn nhất phù hợp với người bị kết
án, vừa đảm bảo mục đích của hình phạt. Chính vì vậy mà BLHS 2015 đã quy định
nguyên tắc: “Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội
được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm
tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất”.[20, tr. 65]
Như vậy, Việc quy định các loại hình phạt và mức hình phạt áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội trong BLHS đã có sự phân hóa hình phạt cụ thể đối với
hai nhóm tuổi đó là: Nhóm thứ nhất là hóm tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi; và
nhóm thứ hai là nhóm tuổi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Việc quy định hai nhóm
tuổi trên vừa thể hiện chính sách nhân đạo của Nhà nước ta đối với người dưới 18

tuổi phạm tội, vừa phù hợp với yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm.
1.1.4. Mục đích (xã hội) của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
16


Hiện nay mặc dù pháp luật hình sự quy định mục đích của hình phạt là trừng
trị và cải tạo, giáo dục, ngăn ngừa người phạm tội mới và phòng ngừa tội phạm,
song cần nhận thức hình phạt được quy định và áp dụng nhằm bảo đảm công lý,
công bằng xã hội và phòng ngừa tội phạm.Với nội dung là sự tước bỏ, hạn chế nhất
định về quyền và lợi ích của người phạm tội theo quy định của pháp luật, hình phạt
có nội dung là sự trừng phạt của nhà nước đối với người phạm tội. Như vậy, nội
dung của hình phạt trước hết là trừng trị người phạm tội, nếu khơng có trừng trị thì
khơng có hình phạt. Tuy nhiên, hình phạt là biện pháp TNHS mà Nhà nước sử dụng
để trừng trị, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Do đó, hình phạt có nội dung trừng trị
và nội dung giáo dục, cải tạo người phạm tội. Bằng việc áp dụng hình phạt, Nhà
nước trừng trị và đồng thời lên án họ về việc họ đã thực hiện hành vi phạm tội gây
nguy hiểm cho xã hội, thơng qua đó thuyết phục, giáo dục để họ nhận thức được
nghĩa vụ, trách nhiệm của mình đối với hành vi phạm tội đã thực hiện, làm cho họ
hiểu và nhận thức được sự sai trái, lỗi lầm và tính chất tội phạm của hành vi do
mình gây ra; thấy được sự lên án, phản ứng của Nhà nước đối với tội phạm do họ
thực hiện, từ đó có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội,
trở thành người có ích cho xã hội.
Ngồi ra, hình phạt cịn có mục đích phịng ngừa tội phạm: Phòng ngừa riêng
và phòng ngừa chung. Cụ thể, về mục đích phịng ngừa riêng, thơng qua trừng trị và
cải tạo giáo dục hình phạt ngăn ngừa người phạm tội tái phạm, và mục đích phịng
ngừa chung thể hiện việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trong từng
trường hợp cụ thể bao giờ cũng tác động đến các thành viên khác trong xã hội,
phòng ngừa riêng và phịng ngừa chung là hai mặt khơng thể tách rời của hình phạt,
có tác dụng tương tác và hỗ trợ lẫn nhau.
Như vậy, có thể hiểu hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội là biện

pháp cưỡng chế có tính nhân đạo, do BLHS quy định và Tòa án áp dụng đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội bị kết án theo một trình tự, thủ tục luật định nhằm mục
đích cải tạo, giáo dục họ trở thành người lương thiện..

17


1.2. Cơ sở của việc xây dựng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm
tội
1.2.1. Đặc điểm tâm - sinh lý của người dưới 18 tuổi phạm tội
Người dưới 18 tuổi phạm tội là người chưa thể nhận thức đầy đủ về tính chất
nguy hiểm cho xã hội của hành vi mình đã thực hiện do chưa phát triển đầy đủ về
tâm sinh lý,. Nhận thức của các em thường non nớt, chưa chín chắn và dễ bị kích
động. Đặc biệt khả năng kiềm chế còn hạn chế do chưa có kinh nghiệm sống nên
việc phạm tội của họ thường là bột phát, dễ manh động và nhất thời. Do vậy, người
dưới 18 tuổi là đối tượng có thể bị tác động dễ dàng hơn từ môi trường so với người
đủ 18 tuổi trở lên.
Nghiên cứu các đặc điểm tâm, sinh lí của người dưới 18 tuổi phạm tội trong
mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố độ tuổi, mơi trường, gia đình và xã hội, khả
năng nhận thức, điều khiển hành vi thì đặc điểm tâm, sinh lí của người dưới 18 tuổi
phạm tội có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, “Những hạn chế về mặt thể chất cũng như tâm, sinh lí do lứa tuổi
này cho thấy, người dưới 18 tuổi phạm tội có năng lực TNHS hạn chế hơn so với
người đủ 18 tuổi trở lên.. Trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của người dưới
18 tuổi còn nhiều hạn chế,chưa phát triển đày đủ về thể chất và tâm sinh lí, thiếu
bản lĩnh tự lập, khả năng tự kiềm chế chưa cao, dễ bị kích động, dễ bị rủ rê lơi kéo
vào các hoạt động phạm pháp. Tuy nhiên, người dưới 18 tuổi phạm tội có khả năng
phục thiện nhanh hơn do phần lớn động cơ của họ thường mang tính chất đặc thù
về lứa tuổi như nghịch ngợm, muốn tỏ ra mình dũng cảm và không mưốn thua kém
người khác, đánh giá sai tình huống và các giá trị chuẩn mực trong các mối quan

hệ xã hội, dễ dàng bị chi phối và bị ảnh hưởng bởi người khác. Nhìn chung, khả
năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của người dưới 18 tuổi phạm tội
hạn chế hơn so với người đủ 18 tuổi trở lên”. [33, tr. 336]
Thứ hai, “Nguyên nhân và điều kiện thúc đẩy hành vi phạm tội ở những
người dưới 18 tuổi phạm tội chủ yếu bắt nguồn từ những thiếu sót, bất cập và có cả
những việc nuôi dưỡng, giáo dục, trong điều chỉnh, tổ chức quan hệ xã hội của
18


người lớn. Từ nguyên nhân này đã đặt ra một địi hỏi hết sức cần thiết và chính
đáng là người dưới 18 tuổi phạm tội cần phải có sự quan tâm và bảo trợ đặc biệt
của gia đình, nhà trường, xã hội và pháp luật”. [33, tr. 337]
Thứ ba, “Người dưới 18 tuổi là người đang ở ngưỡng cửa cuộc đời, đang
trong giai đoạn hình thành nhân cách, cá tính, lập trường, quan điểm chưa lộ rõ,
tất cả có thể làm lại từ đầu, khả năng tiếp thu sự giáo dục, cải tạo ở họ là rất lớn.
Đặc điểm này cho phép các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện mục đích cải hóa,
giáo dục người phạm tội thơng qua những biện pháp, cách thức hiệu quả hơn là
việc buộc họ phải gánh chịu các chế tài nghiêm khắc của luật hình sự. Đây cũng
chính là cơ sở để cơ quan tư pháp hình sự và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền
thay thế các hình phạt bằng hệ thống các biện pháp riêng ít nghiêm khắc hơn đối
với người đủ18 tuổi trở lên phạm tội”. [33, tr. 337]
1.2.2. Các điều kiện xã hội
Các điều kiện xã hội là một trong các cơ sở để xây dựng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi. Bởi các điều kiện xã hội là một trong những yếu tố quyết định
và là bảo đảm tính khả thi của hình phạt. Bởi vậy, để xây dựng hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội thì khơng thể thiếu yếu tố về các điều kiện xã hội như
điều kiện kinh tế , chính trị, văn hóa…, nó là cơ sở của việc xây dựng hình phạt đối
với người dưới 18 tuổi phạm tội. Bởi vì, mục đích hình phạt có đạt được hay không
phụ thuộc vào các điều kiện xã hôi liên quan đến hình phạt. Điều kiện quan trọng có
ý nghĩa tác động trực tiếp đến hiệu quả của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi là

những điều kiện liên quan đến ý thức pháp luật của người dưới 18 tuổi.
Khi xây dựng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để hình phạt
được áp dụng trong thực tế và đạt được mục đích của nó thì nó phải được nhận thức
đúng và tự giác tuân theo. Vì vậy, hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội
phải được xây dựng và áp dụng phù hợp với ý thức pháp luật của người dưới 18 tuổi
phạm tội. Đặc biệt là nhận thức về các mặt như vai trị, vị trí của hình phạt đối với
người dưới 18 tuổi phạm tội (tức liên quan đến việc hình sự hóa, phi hình sự hóa để
xét xử từng vụ việc cụ thể…) như đánh giá mức độ nặng, nhẹ (được quy định hoặc
19


áp dụng). Tuy nhiên, cũng là một bộ phận của thượng tầng kiến trúc, ý thức pháp
luật cũng có thể lạc hậu với thực tiễn xã hội, chưa thể hiện được trình độ phát triển
xã hội mà trong đó hệ thống hình phạt đối với người dưới 18 tuổi được xây dựng và
áp dụng. Vì vậy, việc xây dựng hình phạt phải dựa trên các điều kiện xã hội.
Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội của Đảng và Nhà nước
ta đã thể hiện trong BLHS đó là phải bảo đảm lợi ích tốt nhất đối với họ và chủ yếu
nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm và phát triển một cách lành
mạnh, ưu tiên cải tạo tại cộng đồng. “Việc truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm
tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết
và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân
thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm, cần hạn chế áp dụng hình phạt tù”
[20, tr. 64]. Quan điểm này phù hợp với các Công ước quốc và có sự tương đồng so
với pháp luật của các nước trên thế giới về tư pháp người chưa thành niên, mà Cộng
hịa Pháp là một điển hình.
1.2.3. Xu hướng phát triển của tình hình tội phạm do người dưới 18 tuổi thực
hiện
Tồn cầu hóa là một q trình lâu dài, là một xu thế khách quan, có tác động
đến tất cả các mặt của đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Tồn cầu hóa có
nhiều tác động tích cực và tiêu cực đến tất cả quốc gia trên toàn thế giới, thúc đẩy

sự phát triển và xã hội hóa các lực lượng sản xuất đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao
cho tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, tồn cầu hóa cũng tác động đến nhiều mặt, hoạt
động và đời sống con người trở nên kém an tồn như: kinh tế, tài chính; văn hóa, xã
hội; mơi trường và an tồn chính trị. Một trong những vấn đề đó là sự hình thành và
phát triển của tội phạm đặc biệt là tội phạm do người dưới 18 tuổi thực hiện. Trong
điều kiện hội nhập và tồn cầu hóa, tình hình tội phạm là người dưới 18 tuổi sẽ có
những diễn biến sau:
- Số vụ tội phạm là người dưới 18 tuổi hàng năm được phát hiện có sự tăng,
giảm khơng đều, nhưng nhìn chung có xu hướng tăng và hậu quả do những hành vi
phạm tội gây ra cho xã hội có xu hướng ngày càng phức tạp, đặc biệt là các loại tội
phạm xâm phạm sở hữu, tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tội phạm ma túy.
20


×