Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Kiểm sát điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn huyện sơn hà, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 88 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH VĂN THI

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN SƠN HÀ, TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐINH VĂN THI

KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN SƠN HÀ, TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số

: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan rằng Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của tơi dưới sự hỗ
trợ của giáo viên hướng dẫn. Các nội dung nghiên cứu và kết quả trong đề tài này
là trung thực và kết quả trong đề tài này là trung thực, việc tham khảo có trích dẫn
đầy đủ. Tơi hồn tồn chịu trách nhiệm về tính trung thực của Luận văn này.
Người cam đoan

Đinh Văn Thi


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ ............................................................................................ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự ....................... 6
1.2. Khái quát về kiểm sát điều tra vụ án hình sự ............................................. 8
1.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao tiến hành một số
hoạt động điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra vụ án hình sự. .. 17
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CƠNG TÁC
KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ................................................. 21
2.1. Kiểm sát việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can ............................................. 22
2.2. Kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi. .............. 31
2.3. Kiểm sát hoạt động hỏi cung bị can ......................................................... 35
2.4. Kiểm sát hoạt động khám xét, đối chất, nhận dạng, thực nghiệm điều tra
......................................................................................................................... 37
2.5. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn ......... 44
2.6. Kiểm sát việc đình chỉ điều tra, phục hồi điều tra ................................... 55

CHƯƠNG 3. THỰC TIỄN CÔNG TÁC KIỂM SÁT ĐIỀU TRA TRÊN
ĐỊA BÀN HUYỆN SƠN HÀ, TỈNH QUẢNG NGÃI VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ......................................... 59
3.1. Thực tiễn công tác kiểm sát điều tra ở huyện Sơn Hà ............................. 59
3.2. Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát điều tra.
......................................................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
TTHS

:

Tố tụng hình sự

KSĐT

:

Kiểm sát điều tra

THQCT

:

Thực hành quyền công tố

CQĐT


:

Cơ quan điều tra

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện Kiểm sát nhân dân

KSV

:

Kiểm sát viên

KTV

:

Kiểm tra viên

ĐTV


:

Điều tra viên

BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 chính thức có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2018 đã đánh dấu bước tiến mới của công tác lập pháp, đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp và hội nhập quốc tế, công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ở Việt
Nam hiện nay. Bộ luật này đã mở rộng thẩm quyền và đề cao hơn nữa vai trò của
Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra-vốn là giai đoạn đặc biệt quan trọng và mang
tính quyết định đối với giai đoạn truy tố, xét xử sau đó. Nổi bật lên là một số quy
định mới liên quan đến việc đề ra yêu cầu điều tra, mở rộng đối tượng công tác
kiểm sát điều tra và các hành vi tố tụng mà Viện kiểm sát có quyền áp dụng khi Cơ
quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra không thực hiện yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát… Chính việc mở rộng này

đã tạo hành lang pháp lý vững chắc cho các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thực thi
nhiệm vụ, quyền hạn trong giai đoạn điều tra, đảm bảo công tác điều tra đạt chất
lượng tốt hơn.
Tuy nhiên, để vận dụng, thực thi những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra một cách đúng đắn, sáng tạo và đầy đủ nhằm
giải quyết vụ án hình sự đúng người, đúng tội, tránh oan sai và bỏ lọt tội phạm là
khơng dễ, địi hỏi sự chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Lãnh đạo Viện kiểm sát cùng
với việc nâng cao năng lực của các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thụ lý vụ án.
Huyện Sơn Hà với đặc trưng là huyện miền núi ở phía Tây tỉnh Quảng Ngãi, có
hơn 80% dân số là người đồng bào dân tộc H’re, cùng với địa hình nhiều đồi núi, khó
khăn trong đi lại. Trong những năm gần đây khi nền kinh tế tại địa phương phát triển,
nơi đây đã thu hút lượng lớn dân nhập cư từ các tỉnh, thành phố khác đến sinh sống,
làm ăn kéo theo sự gia tăng của tình hình tội phạm trên địa bàn, nhất là các trường
hợp người phạm tội là các đối tượng ngồi địa phương, khơng có nơi cư trú rõ ràng.
Sự gia tăng tội phạm đòi hỏi ngành Kiểm sát huyện Sơn Hà cũng như tồn tỉnh
Quảng Ngãi phải có những thay đổi, bổ sung các giải pháp kịp thời để giải quyết các

1


vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật ngay từ giai đoạn điều tra.
Thực tiễn trên cho thấy tầm quan trọng của công tác kiểm sát hoạt động điều
tra các vụ án hình sự, đặc biệt đối với các địa bàn miền núi như huyện Sơn Hà, tỉnh
Quảng Ngãi, đó là lý do chính để học viên chọn đề tài: “Kiểm sát điều tra vụ án
hình sự từ thực tiễn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi” làm Luận văn thạc sĩ luật
học, với mong muốn nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận, các quy định của
pháp luật về kiểm sát điều tra các vụ án hình sự kết hợp với việc nghiên cứu thực
tiễn tại huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi để từ đó tìm thêm các giải pháp góp phần
hồn thiện pháp luật, nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác kiểm sát điều tra vụ án
hình sự trên địa bàn.

2. Tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu một số cơng trình khoa học ở trong nước có liên quan đến đề
tài, tập trung hầu hết các cơng trình phân tích, hướng dẫn về công tác nghiệp vụ
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ nhiều khía cạnh
khác nhau như:
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Kiều Hồng Nhung, Khoa Luật - Trường Đại học
Quốc gia Hà Nội: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của
Viện kiểm sát nhân dân (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Đắk Lắk), năm
2014. Luận văn đã nghiên cứu và đưa ra các khái niệm về kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra, thực tiễn thực thi pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk. Tuy nhiên tác giả luận văn chưa chỉ ra được những nét đặc trưng của địa bàn
ảnh hưởng đến công tác kiểm sát hoạt động điều tra và những giải pháp khắc phục
kèm theo.
Luận văn Thạc sỹ của tác giả Đặng Thị Hồng Thủy, Khoa Luật – Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội: Kiểm sát hoạt động điều tra – Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn (Trên cơ sở nghiên cứu số liệu tại địa bàn tỉnh Nam Định), năm 2014. Luận văn
cũng đã nghiên cứu lý luận về công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động điều tra của Viện kiểm sát, phân tích mối quan hệ giữa Viện kiểm sát và Cơ
quan điều tra trong hoạt động này, chỉ ra những mặt hạn chế, khó khăn từ thực tiễn

2


công tác kiểm sát điều tra trên địa bàn tỉnh Nam Định và đề ra giải pháp. Tuy nhiên,
xuất phát từ đặc trưng địa lý là tỉnh đồng bằng nên các giải pháp Luận văn này đưa
ra chưa phù hợp và chưa có nhiều tính mới.
Sách chun khảo do tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên (năm 2008), “Thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra”, Nhà
xuất bản Tư pháp, đã đề cập các quan điểm và lý luận chung về chức năng, nhiệm
vụ của Viện kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, đối tượng, phạm vi

quyền công tố và kiểm sát điều tra trong giai đoạn điều tra.
Sổ tay Kiểm sát viên hình sự - Tập 1 do Ban quản lý dự án JICA xuất bản
(năm 2011), Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, đã đề cập đến các thao tác nghiệp vụ
của Kiểm sát viên nhằm vận dụng, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của Viện
kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Bên cạnh đó, có những bài viết nghiên cứu trên cơ sở thực tiễn hoạt động kiểm
sát điều tra ở nhiều địa phương trên toàn quốc để đưa ra những giải pháp, kiến nghị
áp dụng trong toàn ngành như: Trần Thanh Thủy (2017), Kinh nghiệm thực tiễn
kiểm sát điều tra vụ án hình sự, Báo điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An;
Thanh Nghị (2016), Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn
công tố với hoạt động điều tra là nhiệm vụ thường xuyên của Kiểm sát viên, Báo
điện tử Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Định.
Trong phạm vi nghiên cứu của mình, Luận văn tiếp thu có chọn lọc những quan
điểm về mặt lý luận, giải pháp của các cơng trình nghiên cứu nói trên đồng thời đưa
ra những quan điểm, giải pháp mới nhằm khắc phục những vướng mắt, khó khăn cụ
thể trong công tác kiểm sát điều tra trên địa bàn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Góp phần bổ sung, hoàn thiện những vấn đề lý luận về kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện kiểm sát nhân dân; trên cơ sở đó, đề
xuất các giải pháp tăng cường hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra.

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Tập hợp, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về vị trí, chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nói chung và cơng tác kiểm sát điều tra nói
riêng, thực trạng pháp luật và những hạn chế, khó khăn trong thực tiễn công tác

kiểm sát điều tra trên địa bàn huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi; trên cơ sở đó, tìm ra
giải pháp khắc phục nhược điểm, phát huy ưu điểm, góp phần nâng cao chất lượng
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra của ngành Kiểm sát nói
chung và Viện kiểm sát huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Những vấn đề lý luận, pháp luật và thực tiễn hoạt động kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra của VKSND trên cơ sở số liệu thực tiễn ở
huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Về thời gian, luận văn nghiên cứu thực tiễn về công tác kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong hoạt động điều tra của Viện Kiểm sát huyện Sơn Hà từ đầu
năm 2015 đến tháng 11 năm 2018.
+ Về không gian: Địa bàn khảo sát, phân tích trên phạm vi huyện Sơn Hà, tỉnh
Quảng Ngãi.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở các phương pháp luận biện chứng duy
vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về phòng, chống
tội phạm ở nước ta. Đồng thời, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
cụ thể, phù hợp với chun ngành như: Thống kê hình sự, phân tích, tổng hợp, so
sánh đối chiếu dựa trên những tài liệu tổng kết, số liệu thống kê của Viện kiểm sát
nhân dân tỉnh Quảng Ngãi và Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Quảng Ngãi
khi giải quyết những vấn đề thuộc nội dung của luận văn.

4


6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung vào hệ thống lý luận khoa

học pháp lý về hoạt động kiểm sát điều tra của Viện kiểm sát nhân dân, chỉ ra tính
liên kết và tầm quan trọng trong mối quan hệ giữa Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra
và các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.
Luận văn sẽ là tài liệu bổ ích khơng những cho cán bộ làm công tác nghiên
cứu khoa học tham khảo, mà còn giúp Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra nghiên cứu,
vận dụng, nhất là trong xây dựng Quy chế phối hợp liên ngành; giúp các Kiểm sát
viên những kiến thức cơ bản, thao tác nghiệp vụ kiểm sát cụ thể khi thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra. Những đề
xuất trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát và
Cơ quan điều tra trong đấu tranh, phòng ngừa tội phạm trong những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm sát điều tra vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh cơng tác kiểm sát điều tra vụ án
hình sự
Chương 3: Thực tiễn cơng tác kiểm sát điều tra vụ án hình sự trên địa bàn
huyện Sơn Hà, tỉnh Quảng Ngãi và giải pháp nâng cao hiệu quả công tác

5


CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA VỤ ÁN
HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm giai đoạn điều tra
Trong khoa học pháp luật hình sự, đã có nhiều cách tiếp cận khác nhau về
khái niệm giai đoạn điều tra. Có quan điểm cho rằng “Điều tra là công tác trong

TTHS được tiến hành nhằm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ”; có ý kiến khác lại cho rằng: “Điều tra là một giai đoạn của quá
trình TTHS, trong đó CQĐT áp dụng các biện pháp do Luật TTHS quy định để xác
định tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội”.
Theo Từ điển Bách khoa Công an nhân dân Việt Nam năm 2005 thì điều tra
được hiểu là hoạt động thu thập chứng cứ, tài liệu, tình hình… phản ánh sự thật về
một tổ chức, con người, sự việc, hiện tượng hoặc mục tiêu, địa bàn, lĩnh vực thuộc
phạm vi nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Điều tra do Cơ quan Công an tiến hành có
thể dưới hai hình thức: Điều tra cơng khai do CQĐT hoặc một số cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiến hành cơng khai theo
quy định của luật TTHS. Điều tra bí mật (điều tra trinh sát) do lực lượng trinh sát
tiến hành, thường diễn ra trước khi khởi tố vụ án hình sự, phải tuân theo trình tự,
thủ tục, thẩm quyền mà các văn bản của ngành Công an quy định. Mỗi hình thức
điều tra có sự khác nhau cơ bản về chủ thể, thời hạn, hình thức cũng như trình tự,
thủ tục, thẩm quyền điều tra [7].
Như vậy, từ những phân tích trên, có thể tiếp cận khái niệm về điều tra vụ án
hình sự như sau: Điều tra vụ án hình sự là hoạt động của CQĐT căn cứ vào các quy
định của pháp luật TTHS, dưới sự kiểm sát của VKS, tiến hành các biện pháp tố
tụng cần thiết nhằm thu thập và củng cố các chứng cứ, làm rõ các tình tiết của vụ
án hình sự.
Theo pháp luật TTHS Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế, việc giải quyết
vụ án hình sự được chia thành các giai đoạn, mỗi giai đoạn TTHS có nhiệm vụ giải
quyết những yêu cầu khác nhau và tương ứng với mỗi giai đoạn mà phân định chức
năng cụ thể của mỗi cơ quan có thẩm quyền riêng biệt nhằm thực hiện nhiệm vụ do

6


pháp luật quy định. Pháp luật TTHS Việt Nam chia quá trình giải quyết vụ án hình
sự thành các giai đoạn gồm: Giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, giai đoạn điều tra vụ

án hình sự, giai đoạn truy tố, giai đoạn xét xử vụ án hình sự và giai đoạn thi hành
bản án hình sự. Đối với các hoạt động xét xử phúc thẩm, tái thẩm và giám đốc thẩm
không được xem là các giai đoạn TTHS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà
hoạt động đó là thủ tục tố tụng đặc biệt để xét lại những vụ án hình sự đã xét xử có
kháng cáo, kháng nghị.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình TTHS
được BLTTHS năm 2015 quy định ở Phần thứ hai, từ chương X đến chương XVII.
Giai đoạn điều tra được xác định bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự
cho đến khi CQĐT chuyển tồn bộ hồ sơ vụ án cùng với Bản kết luận điều tra và đề
nghị truy tố cho VKS. Tuy nhiên, trong một số trường hợp khi có đủ các căn cứ do
pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra và tất nhiên các hoạt động tố tụng
trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm dứt, nên trong trường hợp vụ án bị
đình chỉ điều tra thì cũng được coi là thời điểm chấm dứt điều tra vụ án hình sự.
Khoảng thời gian bắt đầu cho đến khi kết thúc của giai đoạn điều tra được BLTTHS
quy định khá cụ thể, được phân loại thời hạn điều tra căn cứ vào tính chất nguy
hiểm của tội phạm.
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ
án hình sự, kết quả của giai đoạn này là để phục vụ cho việc truy tố của VKS và
hoạt động xét xử của Tịa án. Từ đó, địi hỏi Cơ quan có thẩm quyền điều tra cùng
với VKS phải vận dụng mọi biện pháp tố tụng được BLTTHS quy định để thu thập
các tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án hình sự, chứng minh tội phạm và người
thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến vụ án hình sự, xác định
nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cơ quan hữu quan có liên
quan thực hiện biện pháp phịng ngừa tội phạm.
Như vậy, giai đoạn điều tra vụ án hình sự được hiểu là: Một giai đoạn trong
TTHS trong đó CQĐT và một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra thực hiện các biện pháp điều tra do BLTTHS quy định để thu thập chứng
cứ chứng minh tội phạm, người phạm tội và những vấn đề khác có liên quan đến vụ
án làm cơ sở cho việc xét xử của Tịa án. Đồng thời, thơng qua hoạt động điều tra,
xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội đối với từng vụ án cụ thể và kiến nghị với


7


các cơ quan hữu quan có biện pháp phịng ngừa tội phạm.
1.1.2. Đặc điểm của giai đoạn điều tra
Từ những nội dung phân tích khái niệm của giai đoạn điều tra vụ án hình sự
ở trên, có thể đưa ra những đặc điểm cơ bản và đặc trưng của giai đoạn điều tra vụ
án hình sự như sau:
Thứ nhất, giai đoạn điều tra vụ án hình sự là một giai đoạn trong q trình
giải quyết vụ án hình sự, có thời hạn được xác định từ lúc vụ án được khởi tố bằng
Quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra
vụ án, ban hành Bản kết luận điều tra và đề nghị truy tố, chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án
cho VKS; hoặc CQĐT ra quyết định đình chỉ vụ án.
Thứ hai, nhiệm vụ của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là việc các cơ quan có
thẩm quyền thực hiện các biện pháp điều tra do BLTTHS quy định để chứng minh
tội phạm và người phạm tội, làm rõ các tình tiết khác liên quan đến tồn bộ nội
dung vụ án bao gồm các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị
can, các tình tiết buộc tội, gỡ tội, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để
kiến nghị các cơ quan hữu quan trong cơng tác phịng ngừa tội phạm.
Thứ ba, chủ thể thực hiện các biện pháp điều tra trong giai đoạn điều tra này
bao gồm CQĐT; cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và
cả VKS trong một số trường hợp luật định. Các tài liệu do chính hoạt động của các
chủ thể nói trên tiến hành thu thập theo đúng trình tự, thủ tục quy định trong
BLTTHS mới được coi là chứng cứ làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ tư, các biện pháp điều tra nhằm phục vụ công tác điều tra được áp dụng
trong giai đoạn điều tra này được quy định cụ thể từ chương XI đến chương XVI
của BLTTHS năm 2015. Các biện pháp đó là: Hỏi cung bị can; lấy lời khai những
người tham gia tố tụng khác; đối chất và nhận dạng; khám nghiệm hiện trường,
khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều tra; giám định

và định giá tài sản; các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt như: Ghi âm, ghi hình bí
mật, nghe điện thoại bí mật, thu thập bí mật dữ liệu điện tử... Việc thực hiện các
hoạt động này đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải đảm bảo đúng trình tự, thủ tục
quy định trong BLTTHS.
1.2. Khái quát về kiểm sát điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Khái niệm cơng tác kiểm sát điều tra

8


Trên cơ sở kế thừa và đổi mới thể chế, Hiến pháp năm 2013 của Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tiếp tục khẳng định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND là THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Để làm rõ khái niệm công tác KSĐT, cần phải làm rõ chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKS và đây là chức năng chung của VKS trong tồn bộ q
trình giải quyết vụ án. Tại Điều 4 Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định như
sau: “Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm
sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự;
trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại tố cáo
trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật”
Từ quy định trên đây, chúng ta cần tiếp tục làm rõ việc thực hiện chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của VKS. Có thể hiểu cơ bản,
với chức năng, nhiệm vụ được Hiến pháp quy định, KSĐT là một trong số các
nhiệm vụ của VKS thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp. Điều này có
nghĩa là hoạt động điều tra là hoạt động tư pháp, CQĐT là cơ quan tư pháp, Thủ
trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, ĐTV là các chức danh tư pháp và mọi hoạt động
theo pháp luật TTHS của cơ quan và các chức danh này phải chịu sự kiểm sát của

VKS. Bản chất của hoạt động này là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các
hoạt động TTHS được thực hiện bởi CQĐT và cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
hành một số hoạt động điều tra nhằm đảm bảo các tài liệu, chứng cứ buộc tội đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và chống oan sai.
Đối tượng của công tác KSĐT chính là hành vi xử sự của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và các văn bản
tố tụng có trong hồ sơ vụ án ở giai đoạn điều tra. Khi tiến hành hoạt động kiểm sát,
VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý mà Hiến pháp, Luật tổ chức VKSND,
BLTTHS, các văn bản pháp luật khác và văn bản, quy định do Ngành Kiểm sát ban
hành để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp luật, cũng như đảm bảo tính
có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng mà chủ thể bị kiểm sát thực hiện.
Về phạm vi công tác KSĐT: Phạm vi cơng tác KSĐT bắt đầu từ khi có

9


Quyết định khởi tố vụ án cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ vụ án
cho VKS đề nghị truy tố hoặc đình chỉ điều tra vụ án hình sự. Trước đây, có nhiều
quan điểm khác nhau về thời điểm bắt đầu công tác KSĐT, tuy nhiên về chúng tôi
thống nhất với quan điểm KSĐT bắt đầu từ khi khởi tố vụ án, mặc dù ngay từ giai
đoạn ban đầu giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố thì cơng
tác kiểm sát hoạt động tư pháp của VKS đã bắt đầu được thực hiện hoặc trong
trường hợp bắt quả tang, giữ người, bắt người… thì cơng tác kiểm sát ln được
thực hiện, bảo đảm cho hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng có căn
cứ và đúng pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm công tác KSĐT như sau:
KSĐT là chức năng hiến định của VKSND, theo đó VKS trực tiếp giám sát tất cả
hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các cơ
quan hữu quan khác trong giai đoạn điều tra nhằm đảm bảo cho pháp luật TTHS
được thực hiện một cách đúng đắn.

1.2.2. Nội dung công tác kiểm sát điều tra
Đây là những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của VKS trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự. Theo đó, các KSV, KTV thực hiện các hoạt động tố tụng trong phạm
vi nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, nhằm đảm bảo hoạt động điều tra của CQĐT
đúng trình tự, thủ tục của pháp luật TTHS và đảm bảo căn cứ chứng minh tội phạm,
người thực hiện hành vi phạm tội.
Vào thời điểm dự thảo Luật tổ chức VKSND được thảo luận tại kỳ họp thứ 7
Quốc hội khóa XII, có quan điểm cho rằng: “VKS với tư cách là chủ thể thực hiện
chức năng cơ bản của TTHS là chức năng buộc tội, cần giữ vai trò là cơ quan chỉ
đạo hoạt động điều tra. Ở đây cần hiểu đúng nội hàm “chỉ đạo hoạt động điều tra”
là chỉ đạo theo pháp luật, lấy pháp luật để hướng hoạt động điều tra theo đúng các
quy định, trình tự do luật định. Kiểm sát viên cần được giao quyền yêu cầu điều tra
viên phải tuân thủ đúng các quy định của pháp luật trong từng hoạt động điều tra
của mình. Điều này hoàn toàn khác với việc lãnh đạo, chỉ đạo của Thủ trưởng
CQĐT về hành chính tư pháp, về thực hiện chiến thuật, kỹ thuật điều tra đối với
điều tra viên…” [8].
Trong BLTTHS năm 2015 đang có hiệu lực cũng như Luật tổ chức VKSND
năm 2014 đã phần nào hiện thực hóa quan điểm trên. Cụ thể, trong giai đoạn điều

10


tra, thẩm quyền chính thuộc về CQĐT, tuy nhiên đặt dưới sự giám sát chặt chẽ của
VKS ở từng khâu, từng mảng hoạt động của những người tiến hành tố tụng thuộc
CQĐT. Nội dung cơng tác KSĐT chính là nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi
KSĐT, cụ thể như sau:
Thứ nhất, Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố, điều tra và lập
hồ sơ vụ án của CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra. Đây là sự kiểm tra, giám sát toàn diện nhất về mặt luật nội dung (vụ án
hình sự) cũng như các trình tự, thủ tục được quy định trong các hoạt động lấy lời

khai, đối chất, nhận dạng, khám xét, thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; khám nghiệm
hiện trường, khám nghiệm tử thi, xem xét dấu vết trên thân thể, thực nghiệm điều
tra; giám định và định giá tài sản và các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt khác.
Trong hoạt động này VKS có thể trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm sát thông qua
hồ sơ vụ án và các tài liệu, chứng cứ CQĐT thu thập chuyển cho VKS. Hầu hết các
quyết định và các hoạt động tố tụng này đều yêu cầu phải thơng báo cho VKS và có
mặt của KSV. Ví dụ trong hỏi cung bị can, trước khi hỏi cung bị can, ĐTV phải
thông báo cho KSV về thời gian, địa điểm hỏi cung. Khi xét thấy cần thiết, KSV
tham gia việc hỏi cung bị can (khoản 1 Điều 183 BLTTHS năm 2015) hoặc trong
hoạt động khám xét, Lệnh khám xét của những người có thẩm quyền ra lệnh khám
xét phải được VKS có thẩm quyền phê chuẩn trước khi thi hành (khoản 1 Điều 193
BLTTS năm 2015).
Thứ hai, Kiểm sát hoạt động TTHS của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến
nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố
tụng vi phạm pháp luật. Theo đó, với tất cả hoạt động tố tụng của người tham gia tố
tụng như tham gia lấy lời khai, khám nghiệm hiện trường, giám định, khám xét,
nhận dạng…, và các biện pháp tố tụng khác do pháp luật TTHS quy định đều chịu
sự kiểm sát của VKS, đảm bảo hoạt động tố tụng này phải đúng pháp luật. Đồng
thời, vai trò của VKS trong hoạt động này còn thể hiện ở việc ban hành các văn bản
yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý nghiêm minh
những người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật trong hoạt động TTHS.
Qua công tác KSĐT, khi phát hiện những vi phạm pháp luật trong TTHS hay
nói cụ thể hơn là các hành vi gây cản trở hoạt động TTHS của những người tham
gia tố tụng như các hành vi: Khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu sai sự thật;

11


làm giả, hủy hoại chứng cứ gây trở ngại cho việc giải quyết vụ việc, vụ án; từ chối
khai báo hoặc từ chối cung cấp tài liệu, đồ vật; hành vi xúc phạm danh dự, nhân

phẩm, uy tín của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; đe dọa, sử dụng vũ lực
hoặc có hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng của người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng;… VKS có quyền kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền áp dụng hình thức
xử lý thích hợp.
Thứ ba, giải quyết tranh chấp về thẩm quyền điều tra. Đây là trường hợp
thường xảy ra ở các vụ án mà tội phạm xảy ra ở nhiều nơi, dẫn đến tranh chấp về
thẩm quyền điều tra. Đối với trường hợp này, VKS có trách nhiệm căn cứ các quy
định về thẩm quyền điều tra, thực tế hồ sơ vụ án để giải quyết về thẩm quyền điều tra.
Thứ tư, yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra khi cần thiết. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
khi phát hiện sai phạm hoặc vấn đề chưa rõ liên quan đến việc tuân theo pháp luật
của các cơ quan này thì VKS có quyền ban hành văn bản yêu cầu cung cấp các tài
liệu nhằm phục vụ công tác kiểm sát điều tra.
Đây là quyền hạn của VKS nhằm đảm bảo chất lượng công tác KSĐT. Thực
tế một số hồ sơ vụ án, chưa đủ tài liệu, chứng cứ để VKS kết luận hoạt động tố tụng
đó đảm bảo đúng quy định pháp luật hay khơng. Ví dụ, qua cơng tác kiểm sát biên
bản ghi lời khai người làm chứng do CQĐT cung cấp, VKS phát hiện thời gian lập
biên bản cũng có hoạt động tố tụng khác trong vụ án khác đang diễn ra nhưng người
thực hiện lại cùng một ĐTV. Lúc này, VKS có quyền yêu cầu CQĐT cung cấp các
tài liệu, chứng cứ để làm rõ sai phạm này, nhằm có những biện pháp xử lý kịp thời.
Thứ năm, khi phát hiện việc điều tra không đầy đủ, vi phạm pháp luật thì
VKS yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra tiến hành hoạt động điều tra đúng pháp luật; kiểm tra việc điều tra và thông báo
kết quả cho VKS; cung cấp tài liệu liên quan đến hành vi, quyết định tố tụng có vi
phạm pháp luật trong việc điều tra.
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, ngồi quan điểm điều tra của CQĐT,
VKS có quyền ban hành yêu cầu điều tra và CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra phải thực hiện. Căn cứ trên hồ sơ vụ án và việc
theo dõi tiến độ giải quyết vụ án, khi phát hiện các vi phạm, thiếu sót về nội dung


12


cũng như về trình tự, thủ tục theo pháp luật TTHS, VKS thực hiện các quyền trên
nhằm đảm bảo tính đúng đắn trong việc giải quyết vụ án.
Thứ sáu, kiến nghị, yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra khắc phục vi phạm trong việc điều tra. Trên cơ sở kiểm
sát hồ sơ vụ án và các hoạt động tố tụng khác trong vụ án hình sự VKS tổng hợp
các vi phạm và ban hành văn bản gửi đến CQĐT có thẩm quyền giải quyết vụ án,
nhằm yêu cầu CQĐT khắc phục ngay các vi phạm này để việc giải quyết vụ án
đúng pháp luật.
Đây được xem là biện pháp tác động quan trọng của VKS đến CQĐT nhằm
khắc phục những vi phạm. Theo đó, cơng tác kiến nghị này có thể được tổng hợp thành
kiến nghị chung (với nhiều nội dung vi phạm ở một hoặc nhiều vụ án) hoặc những kiến
nghị riêng (ở từng hoạt động tố tụng, từng vụ án riêng biệt). Hoạt động này thể hiện rõ
nhất vai trò của VKS trong hệ thống cơ quan tư pháp ở Việt Nam và vị trí chủ đạo
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự và quá trình giải quyết toàn bộ vụ án
Thứ bảy, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra thay đổi ĐTV, Cán bộ điều tra, xử lý nghiêm minh ĐTV,
Cán bộ điều tra vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng. Trên cơ sở quy định của
pháp luật TTHS về thay đổi ĐTV, Cán bộ điều tra cùng với thẩm quyền yêu cầu
khắc phục các vi phạm trong TTHS, VKS thực hiện các quyền này và buộc CQĐT
có thẩm quyền giải quyết vụ án phải thực hiện.
Thứ tám, kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng
ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Trong hoạt động KSĐT, ngoài việc kiểm sát
đối với CQĐT, những người tiến hành tố tụng, VKS cịn thực hiện vai trị cơ quan
có trách nhiệm phòng ngừa tội phạm. Cụ thể khi nhận thấy những thiếu sót trong
cơng tác chỉ đạo, điều hành của các cơ quan hữu quan khác gây ảnh hưởng đến tình
hình tội phạm, gây mất an ninh trật tự địa phương thì VKS có quyền ban hành văn

bản u cầu cơ quan này có những biện pháp để khắc phục nhằm kịp thời ngăn chặn
tình hình tội phạm.
1.2.3. Đặc điểm của công tác kiểm sát điều tra
Trên cơ sở khái niệm và nội dung công tác KSĐT đã phân tích ở trên, có thể
rút ra một số đặc điểm chung và đặc trưng đối với công tác KSĐT như sau:
Thứ nhất, phạm vi công tác KSĐT được bắt đầu từ thời điểm vụ án được

13


khởi tố cho đến khi CQĐT kết thúc điều tra vụ án, chuyển hồ sơ vụ án cùng bản kết
luận điều tra và đề nghị truy tố cho VKS hoặc vụ án bị đình chỉ điều tra. Tùy theo
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội (theo phân loại tội
phạm), phạm vi công tác KSĐT cũng khác nhau theo quy định Bộ luật TTHS.
Theo chúng tôi, công tác KSĐT phát sinh khi công tác THQCT bắt đầu thực
hiện, mà cụ thể là khi VKS thống nhất với CQĐT về việc khởi tố vụ án, phê chuẩn
việc khởi tố bị can và các biện pháp ngăn chặn (tạm giam, bắt người bị giữ trong
trường hợp khẩn cấp…).
Thứ hai, xuất phát từ tính chất, chủ thể, đối tượng, nội dung của hoạt động
KSĐT, trên thực tế có thể thấy, hoạt động KSĐT được thể hiện qua nhiều hình thức
đa dạng, phong phú. Hình thức thực hiện hoạt động KSĐT có thể là hành vi trực
tiếp của KSV thông qua việc tham gia các hoạt động điều tra với tư cách người
kiểm tra, giám sát; hoặc là hành vi trao đổi trực tiếp giữa KSV và ĐTV (thể hiện
qua biên bản làm việc) hay là hoạt động trao đổi trực tiếp giữa VKS và CQĐT tại
các cuộc họp về đường lối xử lý, giải quyết vụ án; hoặc là ban hành các loại văn bản
sau khi xử lý thông tin về hoạt động điều tra vụ án hoặc trên cơ sở nghiên cứu hồ sơ
vụ án do CQĐT cung cấp, như: Kết luận kiểm sát trực tiếp, công văn yêu cầu cung
cấp tài liệu, chứng cứ; Yêu cầu điều tra; Kiến nghị khắc phục vi phạm trong giai
đoạn điều tra… Nhìn chung, xét về tính chất hoạt động KSĐT có thể phân chia hình
thức thể hiện cơng tác KSĐT là hình thức chủ động (khơng phụ thuộc vào hoạt

động điều tra, VKS chủ động tiến hành) và hình thức bị động (VKS khơng chủ động
tiến hành, phụ thuộc vào tài liệu điều tra của CQĐT).
Thứ ba, cùng với công tác THQCT trong giai đoạn điều tra thì cơng tác
KSĐT mang tính quyết định đến việc giải quyết đúng đắn vụ án. Xuất phát từ vai
trò của giai đoạn điều tra vụ án hình sự là thu thập các chứng cứ liên quan đến tội
phạm, người thực hiện tội phạm và những vấn đề khác liên quan đến vụ án, công tác
KSĐT sẽ giúp hoạt động điều tra của CQĐT được thực hiện đúng đắn, kịp thời chấn
chỉnh, khắc phục những vi phạm từ đó làm cơ sở để các giai đoạn truy tố, xét xử sau
đó đảm bảo đúng người, đúng tội đúng quy định của pháp luật TTHS.
Thứ tư, mục đích cơng tác KSĐT nhằm bảo đảm cho pháp luật TTHS được
chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Với vai trò là cơ quan bảo vệ pháp luật,
VKS thực hiện tất cả các quyền hiến định về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung

14


và KSĐT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng để đảm bảo pháp luật
được tuân thủ tuyệt đối, giữ vững lòng tin của người dân.
1.2.4. Ý nghĩa, vai trị của cơng tác kiểm sát điều tra
Ý nghĩa của công tác KSĐT: Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ đã phân tích
ở phần trên, cơng tác KSĐT sẽ đảm bảo tính khách quan trong thi hành pháp luật ở
lĩnh vực này trong giai đoạn điều tra. Cụ thể hơn, công tác KSĐT đảm bảo cho các
đạo luật của Quốc hội và các văn bản pháp luật khác của Nhà nước được chấp hành
nghiêm chỉnh, triệt để; không để xảy ra tình trạng tùy tiện trong thực thi pháp luật
và phải đảm bảo tất cả hành vi vi phạm pháp luật đều phải được phát hiện kịp thời,
xử lý nghiêm minh; kiên quyết không để lọt tội phạm [9].
Vai trị của cơng tác KSĐT : Để đảm bảo các hoạt động tố tụng, văn bản tố
tụng trong giai đoạn điều tra có căn cứ và hợp pháp, pháp luật TTHS yêu cầu
CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi, báo cáo
bằng văn bản cho VKS. Cùng với đó, VKS trực tiếp tham gia vào các hoạt động tố

tụng của CQĐT, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra. Chính
chức năng này của VKS đã góp phần nâng cao trách nhiệm của các cơ quan có thẩm
quyền điều tra. Đồng thời, chất lượng của công tác kiểm sát điều tra có tác động
quan trọng đến chất lượng giải quyết vụ án bảo đảm đúng người, đúng tội không bỏ
lọt tội phạm.
1.2.5. Mối quan hệ giữa công tác kiểm sát hoạt động điều tra và thực hành
quyền công tố trong giai đoạn điều tra.
Trước khi phân tích mối quan hệ giữa hoạt động KSĐT và THQCT trong giai
đoạn điều tra, chúng tôi đề cập đến khái niệm quyền công tố và THQCT.
Quyền công tố: Hiện nay, trong khoa học pháp lý có nhiều ý kiến khác nhau
về khái niệm này. Có ý kiến cho rằng: Quyền cơng tố là sự cáo buộc của Nhà nước
đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật [15]. Với tư cách là một quyền
năng của Nhà nước, quyền công tố được thực hiện trong tất cả quá trình giải quyết
các vi phạm pháp luật, bao gồm TTHS, tố tụng dân sự, tố tụng lao động, tố tụng
hành chính.
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng: Quyền cơng tố là quyền của Nhà nước
truy cứu TNHS và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội [27]. Như vậy, theo
quan điểm này, thì quyền cơng tố chỉ tồn tại trong lĩnh vực TTHS.

15


Theo quan điểm chúng tôi, trước hết quyền công tố là một loại quyền lực Nhà
nước (quyền lực công), ra đời và tồn tại cùng với sự ra đời và tồn tại của Nhà nước.
Trong đời sống xã hội cũng như trong lịch sử hình thành và phát triển của mình,
quyền cơng tố được hình thành trong mối quan hệ giữa Nhà nước và người thực
hiện hành vi phạm tội. Trong quan hệ đó, Nhà nước muốn trừng trị người phạm tội
để bảo vệ quyền, lợi ích của Nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân,
tổ chức khác, nhưng để muốn trừng trị người phạm tội thì Nhà nước cần có một
hành vi buộc tội họ. Từ đó theo chúng tơi, quyền cơng tố là việc Nhà nước sử dụng

quyền lực của mình truy cứu TNHS đối với người thực hiện hành vi phạm tội.
Từ những nội dung trên có thể hiểu quyền cơng tố là: Một loại quyền lực Nhà
nước, được Nhà nước giao cho VKS thực hiện việc truy cứu TNHS và buộc tội
người đã có hành vi bị coi là tội phạm, được thực hiện trong suốt quá trình giải
quyết vụ án.
Thực hành quyền cơng tố: Trong khoa học hình sự, việc xác định rõ khái
niệm THQCT có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn. Điều này có ý nghĩa quan
trọng trong giai đoạn hiện nay khi chúng ta tích cực triển khai thực hiện các Nghị
quyết của Đảng về cải cách bộ máy nhà nước, cải cách tư pháp. Ở nước ta, thuật
ngữ THQCT đã được các nhà làm luật ghi nhận và đề cập trong nhiều văn bản pháp
luật, đồng thời khái niệm này đã đồng hành trong suốt lịch sử TTHS Việt Nam từ
trước đến nay. Thế nhưng trong các văn bản pháp luật hình sự, TTHS của nước ta,
các nhà làm luật chưa ghi nhận một khái niệm THQCT.
Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014,
trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS có hai chức năng quan trọng là THQCT và
kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể hơn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự VKS
thực hiện đồng thời hai chức năng là THQCT và KSĐT. Đây là hai chức năng độc
lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện
hai chức năng này, VKS các cấp luôn quán triệt đường lối của công tác kiểm sát là
đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi phạm pháp luật trong hoạt
động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm
tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật;
không để lọt tội phạm đồng thời cũng không được làm oan người vơ tội, từ đó cho
thấy việc thực hiện đồng thời hai hoạt động THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp

16


trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự là mang tính khách quan [26]. Giữa hai
hoạt động này ln có mối quan hệ với nhau thể hiện ở các phương diện sau:

Thứ nhất. Nếu như công tác THQCT chính là việc căn cứ vào các quy định
pháp luật để buộc tội đối với người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật hình sự
[25] thì kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và KSĐT nói riêng là nhằm bảo đảm
việc xử lý vụ án trong giai đoạn điều tra đúng quy định pháp luật. Trên cơ sở kết
quả của hoạt động kiểm sát, VKS sẽ đảm bảo những chứng cứ trong hồ sơ vụ án
được thu thập đầy đủ và hợp pháp để buộc tội đối với người thực hiện hành vi phạm
tội. Do vậy, để công tác THQCT có căn cứ và hợp pháp thì địi hỏi chất lượng từ
công tác KSĐT phải đảm bảo.
Thứ hai. Việc thực hiện công tác kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiền
đề cho hoạt động THQCT được thực hiện một cách chính xác, nếu có sai sót, vi
phạm trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra
sẽ kéo theo sự vi phạm pháp luật của hoạt động THQCT. Tuy nhiên, trong giai đoạn
điều tra, khi hoạt động THQCT của VKS được thực hiện cũng sẽ làm tiền đề phát
sinh hoạt động kiểm sát.
Thứ ba, trong giai đoạn điều tra, chức năng THQCT bắt đầu thực hiện là tiền
đề phát sinh hoạt động kiểm sát. Lấy ví dụ: khi VKS phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ
trong trường hợp khẩn cấp sẽ làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động này, đồng thời bảo đảm việc bắt, giữ người đúng thời hạn.
Như vậy, giữa THQCT và KSĐT ln có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó hữu
cơ trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung và trong hoạt động điều tra nói riêng,
nhiệm vụ của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược
lại; kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia và
ngược lại.
1.3. Mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao tiến hành một
số hoạt động điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt động điều tra vụ án hình sự
1.3.1. Khái niệm
CQĐT, Cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra (gọi tắt là
CQĐT) và VKS, theo quy định pháp luật TTHS là những cơ quan tiến hành tố tụng,
có trách nhiệm thay mặt Nhà nước chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi
phạm tội khi có tội phạm xảy ra trong thực tế đời sống xã hội.


17


Quá trình giải quyết vụ án hình sự là một quá trình tố tụng bao gồm nhiều giai
đoạn kế tiếp nhau, từ giai đoạn khởi tố vụ án cho đến khi thi hành án. Mỗi giai đoạn
tố tụng gắn liền với trách nhiệm tố tụng khác nhau của những cơ quan tiến hành tố
tụng khác nhau. CQĐT và VKS về bản chất là hai cơ quan độc lập trong phạm vi
chức năng và nhiệm vụ của mình, về cả trong giai đoạn điều tra. Nhưng với yêu cầu
đặt ra là một mặt phải đấu tranh với tội phạm nhưng mặt khác phải đảm bảo tính
khách quan, tồn diện và đúng pháp luật trong việc thực hiện các hoạt động tố tụng
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đã làm phát sinh mối quan hệ TTHS đặc biệt
giữa CQĐT và VKS.
Như vậy, có thể nói mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong hoạt động điều tra
vụ án hình sự là mối quan hệ TTHS được phát sinh trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự.
1.3.2. Nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao tiến
hành một số hoạt động điều tra và Viện Kiểm sát
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, giai đoạn điều tra thể hiện rõ nhất mối
quan hệ giữa CQĐT và VKS. Theo đó, CQĐT và VKS vừa tiến hành các hoạt động
tố tụng độc lập, vừa có mối quan hệ trong từng chế định tố tụng. CQĐT có chức
năng, nhiệm vụ phát hiện tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án hình sự, cịn VKS có chức
năng, nhiệm vụ THQCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động điều tra
vụ án hình sự, bảo đảm hoạt động điều tra vụ án hình sự đúng người, đúng tội và
đúng pháp luật. Do vậy, CQĐT và VKS có phối hợp xun suốt tồn bộ q trình tố
tụng từ khi phát hiện tội phạm đến khi kết thúc điều tra vụ án hình sự. Để hiểu rõ hơn
nội dung mối quan hệ này, chúng tôi đề cập đến một số khía cạnh như sau:
Thứ nhất, mối quan hệ này được xem là một nguyên tắc hoạt động phối hợp
trong TTHS. Nguyên tắc này thể hiện bản chất của Nhà nước ta, đảm bảo cho cơng
tác đấu tranh phịng, chống tội phạm đạt được hiệu quả cao trên thực tế. Theo đó,

địi hỏi CQĐT tiến hành điều tra các vụ án hình sự đúng pháp luật, có hiệu quả,
đồng thời có trách nhiệm, nghĩa vụ cung cấp, phối hợp để VKS thực hiện chức năng
giám sát. Đối với VKS, đòi hỏi vừa phải thực hiện chức năng KSĐT đối với hoạt
động điều tra của CQĐT, đồng thời phải tạo điều kiện để CQĐT phát huy hiệu quả
điều tra trên thực tế và chính điều này sẽ phát huy quyền công tố của VKS.
Thứ hai, CQĐT và VKS phối hợp bằng nhiều cách thức, cấp độ, tần suất khác

18


nhau như: Phối hợp theo quy định của pháp luật (BLTTHS, Luật tổ chức CQĐT,
Luật tổ chức VKSND, các Thông tư liên tịch), các quy định giữa hai ngành, hai đơn
vị cùng cấp (quy chế, quy định phối hợp); phối hợp thường xuyên định kỳ theo
chương trình, kế hoạch hoặc đột xuất thơng qua việc giải quyết vụ án hình sự cụ
thể. Về chủ thể, có sự phối hợp giữa Lãnh đạo VKS với Lãnh đạo CQĐT hoặc giữa
ĐTV với KSV. Về hình thức phối hợp thơng qua văn bản hoặc trao đổi trực tiếp,
họp liên ngành...
Việc CQĐT và VKS có cơ chế phối hợp quy định từ Thơng tư liên tịch cho
đến các văn bản liên ngành cấp tỉnh, thành phố trở xuống vẫn đảm bảo việc thi hành
đúng các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời cụ thể hơn nữa các quy định này
để những người tiến hành tố tụng (người trực tiếp tham gia giải quyết vụ án) có
những cách thức phối hợp hiệu quả để tiến độ, chất lượng giải quyết vụ án cao hơn.
Sự phối hợp này không làm mất đi tư cách tiến hành tố tụng độc lập của hai cơ quan
mà trái lại hoạt động phối hợp có tác động tương hỗ, biện chứng để cùng đạt mục
đích cao nhất là điều tra vụ án đúng pháp luật và có hiệu quả.
Thứ ba, CQĐT và VKS phối hợp trong từng chế định TTHS, như: Trong việc
nắm, quản lý tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố; khởi tố vụ án, khởi tố
bị can; việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; việc điều tra thu
thập chứng cứ và lập hồ sơ vụ án; việc đình chỉ, tạm đình chỉ, kết thúc điều tra vụ
án cho đến từng biện pháp tố tụng cụ thể ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Trong

đó, CQĐT và VKS cùng có sự phối hợp chặt chẽ, bình đẳng về quyền, nghĩa vụ và
trách nhiệm; chất lượng, hiệu quả công tác phối hợp phụ thuộc chủ yếu vào sự tích
cực phối hợp của cả hai chủ thể này.
Thứ tư, Về mức độ, phối hợp cũng cần có cơ chế để bảo đảm sự phối hợp chặt
chẽ và hiệu quả, khắc phục tình trạng phối hợp mang tính hình thức, không hiệu
quả. Trong TTHS, mức độ của sự phối hợp tùy thuộc vào tính chất của hoạt động
TTHS ; đối với những hoạt động quan trọng và cần thiết phải có sự phối hợp chặt
chẽ giữa CQĐT và VKS như: Khám nghiệm hiện trường, tử thi, áp dụng, thay đổi
biện pháp ngăn chặn... địi hỏi phải có sự phối hợp nghiêm ngặt về thời gian và cách
thức phối hợp.
Quá trình thực hiện mối quan hệ tố tụng này địi hỏi mỗi chủ thể phải sử dụng
đúng mức và linh hoạt hai yếu tố phối hợp và chế ước, nhất là đối với VKS. Trong

19


quá trình tiến hành tố tụng, nếu VKS thực hiện sự phối hợp khơng đúng với bản
chất của nó hoặc chỉ phối hợp mà khơng có chế ước sẽ dẫn đến hiện tượng nể nang,
hữu khuynh, né tránh hoặc phụ thuộc vào CQĐT hoặc không kiên quyết đấu tranh
bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải vì thiếu bản lĩnh nghề nghiệp [19]. Hậu quả dẫn đến
những thiếu sót, vi phạm, của CQĐT, ĐTV không được VKS phát hiện, yêu cầu
khắc phục, bổ sung dẫn đến phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, vụ án bị đình chỉ hoặc
bị Tịa án tun khơng phạm tội.
Trong những năm gần đây, quan điểm lập pháp về “sự có mặt” hay nói cách
khác là sự cần thiết của việc trực tiếp tham gia của VKS trong các hoạt động tố tụng
càng thể hiện rõ hơn, thể hiện qua những quy định trong BLTTHS năm 2015. Điều
này càng khẳng định rõ vai trò duy nhất của VKS trong hệ thống các cơ quan nhà
nước về kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và KSĐT nói riêng. Chính từ u cầu
của quy định pháp luật, địi hỏi mối quan hệ cơng tác giữa CQĐT và VKS hay cụ
thể hơn là cách thức phối hợp phải ngày càng chặt chẽ, chuyên sâu, đảm bảo cao

chất lượng giải quyết vụ án hình sự.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Tóm lại, tại Chương 1 tác giả luận văn đã trình bày và làm rõ những vấn đề cơ
bản về giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Từ đó, xây dựng cơ sở để xác định những
nhận thức chung về hoạt động kiểm sát của VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự. Xuất phát từ việc làm rõ các thành tố cơ bản của công tác KSĐT từ các nội dung
như: Khái niệm, nội dung, đặc điểm, ý nghĩa, vai trị và mối quan hệ giữa cơng tác
THQCT và KSĐT, tác giả luận văn xây dựng nhận thức tổng quan về công tác
KSĐT. Đồng thời, cũng ở Chương 1 đã phân tích và làm rõ mối quan hệ giữa
CQĐT và VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Đây là phần lý thuyết cơ sở
rất quan trọng vì có sự liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong
công tác KSĐT, cùng với đó, khi làm rõ nội dung và bản chất của mối quan hệ này
sẽ là cơ sở để đưa ra những giải pháp, kiến nghị ở Chương 3 của Luận văn.
Làm rõ nội dung lý luận về KSĐT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự đồng
thời sẽ tạo tính định hướng, nhất quán trong nhận thức nghiên cứu ở Chương 2 của
Luận văn này.

20


×