Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (776.02 KB, 74 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ CẨM GIANG

KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC,
TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ CẨM GIANG

KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC,
TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành

: Luật hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số


: 8 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiêu cứu khoa học của riêng tôi.
Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn bảo đảm độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã
thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Học viện khoa học
xã hội Hà Nội.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Cẩm Giang


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP
NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN
NGHỊ KHỞI TỐ ............................................................................................. 7
1.1. Khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố ........................................................................................... 7
1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố ............................................................................... 11

1.3. Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt
động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố ....... 16
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ
TỘI PHẠM .................................................................................................... 22
VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ VÀ THỰC TIỄN TẠI TỈNH QUẢNG NAM ... 22
2.1. Quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .................................. 22
2.2. Thực trạng hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ..................... 32
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT VIỆC
TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ
KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ................ 50
3.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố.......................................................................... 50
3.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật về tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố .................................. 52
KẾT LUẬN .................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự


CQĐT

Cơ quan điều tra

CBĐT

Cán bộ điều tra

ĐTV

Điều tra viên

HĐXX

Hội đồng xét xử

KSV

Kiểm sát viên

KTV

Kiểm tra viên

VKS

Viện kiểm sát

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là giai đoạn
mở đầu cho các hoạt động tố tụng hình sự, là những căn cứ đầu tiên để Cơ quan
điều tra (CQĐT) và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra tiến hành kiểm tra, xác minh. Hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố có vai trị quan trọng trong cơng tác đấu tranh
phịng chống tội phạm bởi có tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố mới có căn cứ xác định được có hay khơng có tội phạm xảy ra,
trên cơ sở đó, Cơ quan có thẩm quyền quyết định khởi tố vụ án hay khơng khởi tố
vụ án hình sự. Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 đã ghi nhận Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có chức năng
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp, thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Với chức năng là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp, VKSND kiểm sát tính
hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt
động tư pháp. Một trong những hoạt động quan trọng của VKSND đó là kiểm sát

việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đây là
hoạt động đòi hỏi phải thận trọng, theo sát để nắm chắc việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT, đôn đốc CQĐT giải quyết
vụ án nhanh chóng, kịp thời, có hiệu quả và chính xác.
Trước sự thay đổi của các điều kiện kinh tế xã hội, tình hình tội phạm diễn biến
phức tạp, nhiều loại tội phạm mới xuất hiện, Nhà nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, hồn
thiện chính sách, pháp luật hình sự là một trong những phương hướng, nhiệm vụ

1


cơng tác cải cách tư pháp. Trên cơ sở đó, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
(BLTTHS năm 2015) có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/01/2018 đã có những quy
định mới về nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong hoạt động tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Những quy định trên cần được
nghiên cứu, làm rõ để áp dụng thống nhất trong thực tiễn.
Trong thời gian qua, hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố của VKSND tỉnh Quảng Nam đã đạt được những kết quả
nhất định. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy hoạt động này vẫn còn một số khó khăn,
vướng mắc trong thi hành pháp luật, hạn chế về năng lực, trình độ chun mơn của
một số cán bộ, Kiểm sát viên (KSV) chưa đáp ứng được yêu cầu công việc, mối
quan hệ phối hợp giữa CQĐT và Viện kiểm sát (VKS) vẫn chưa hiệu quả, đơi khi
cịn hình thức dẫn đến chất lượng giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố chưa cao, tội phạm ẩn cịn nhiều, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị,
trật tự xã hội của cả nước nói chung và tỉnh Quảng Nam nói riêng.
Vì vậy, việc nghiên cứu một cách có hệ thống những vấn đề lý luận, các quy
định của pháp luật và thực tiễn liên quan đến hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND để làm sáng tỏ về mặt

khoa học, trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị hồn thiện pháp luật và giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động này là rất cần thiết, có ý nghĩa về mặt pháp lý và
thực tiễn áp dụng. Từ những lý do trên, tác giả quyết định lựa chọn đề tài “Kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” làm đề tài luận
văn thạc sĩ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về đề tài tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố được công bố trên các sách, báo, tạp chí chuyên ngành và
một số luận văn thạc sĩ Luật học.
Có thể kể đến các bài viết, cơng trình nghiên cứu được đăng tải trên các tạo chí
như: Những vấn đề cơ bản về thực hành quyền công tố, kiểm sát việc giải quyết tố

2


giác, tin báo về tội phạm của tác giả Bùi Mạnh Cường, Tạp chí Kiểm sát số
19/2017; Vai trị, trách nhiệm của Viện kiểm sát trong giải quyết tin báo, tố giác tội
phạm thực trạng và một số giải pháp của ThS Nơng Xn Trường; Hồn thiện
pháp luật về hình sự và tố tụng hình sự giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và
kiến nghị khởi tố của tác giả Mai Thu Hằng, Báo Người đại biểu Nhân dân; Giải
pháp nâng cao chất lượng giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và chống oan, sai
của tác giả Đỗ Minh Tuấn;
Ngồi ra cịn có một số luận văn thạc sĩ nghiên cứu vấn đề kiểm sát việc giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố như: Luận văn thạc sĩ Luật học
của tác giả Nguyễn Trung Hiếu “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác tội phạm
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, (Hà Nội, năm
2017); Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Hà Thị Thu Phương “Kiểm sát hoạt
động tư pháp trong việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
theo Pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Yên Bái”, (Hà Nội, năm

2017); Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Trần Khánh Trường “Kiểm sát việc
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Kiên Giang”, (Hà Nội, năm 2017); Luận văn thạc
sĩ Luật học của tác giả Dương Tiến Mạnh “Kiểm sát việc giải quyết tin báo, tố giác
về tội phạm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam”, (Hà Nội, năm 2015).
Các cơng trình nghiên cứu trên đã phân tích, làm rõ được những vấn đề liên
quan đến hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm. Tuy
nhiên, chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu một cách hệ thống, tồn diện
dưới góc độ kiểm sát từ giai đoạn tiếp nhận đến giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 cũng
như chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về những kết quả đạt được,
những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam và đưa
ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, giải pháp nâng cao hiệu quả trong hoạt
động này.

3


Vì vậy, với tình hình nghiên cứu trên, một lần nữa khẳng định việc nghiên cứu
đề tài “Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố theo pháp luật tố tụng hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là
duy nhất và không trùng lặp với bất kỳ đề tài nào đã cơng bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực
tiễn kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố tại tỉnh Quảng Nam, luận văn đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật
và giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố;
- Nghiên cứu, phân tích quy định pháp luật tố tụng hình sự về việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và chức năng kiểm sát
hoạt động này của VKSND.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của VKSND tỉnh Quảng Nam, từ đó
phần tích, làm rõ những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của nó
trong thực hiện hoạt động này.
- Đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hoạt động kiểm sát cho Ngành kiểm sát tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 . Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật tố tụng hình
sự và thực tiễn áp dụng trong hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,

4


tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4.2 . Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có liên quan đến hoạt động kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Bên cạnh vấn
đề lý luận và quy định của pháp luật, luận văn còn nghiên cứu, đánh giá thực trạng
thực hiện quy định của pháp luật về việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố.

- Về địa bàn và thời gian khảo sát: Đề tài nghiên cứu thực tiễn thực hiện hoạt
động kiểm sát tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong phạm vi 05 năm (01/12/2013 – 30/11/2018),
không khảo sát ở các tỉnh, thành phố khác.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến
nghị khởi tố của VKSND.
Luận văn có sự kế thừa, tham khảo những kết quả nghiên cứu của các cơng
trình liên quan đến chức năng kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm
và kiến nghị khởi tố.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng các phương pháp như: Phương
pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương
pháp lịch sử cụ thể. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp: Phương
pháp so sánh, phương pháp thống kê…để làm rõ những vấn đề cần nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần nhận thức tồn diện, sâu sắc hơn về chức năng kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.

5


Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng để kiến nghị các cơ quan chức
năng hướng dẫn áp dụng pháp luật vào thực tiễn một cách thống nhất, đồng bộ,
nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo tội phạm và kiến
nghị khởi tố trong thời gian tới trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Bên cạnh đó, đây cịn là nguồn tài liệu nghiên cứu, tham khảo hữu ích cho các
nhà nghiên cứu khác, các cán bộ ngành Kiểm sát.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục từ viết tắt
luận văn gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và thực tiễn tại tỉnh Quảng
Nam
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của Viện kiểm sát nhân dân

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TIẾP NHẬN, GIẢI
QUYẾT TỐ GIÁC, TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM VÀ KIẾN NGHỊ KHỞI TỐ

1.1. Khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố
- Khái niệm tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có ý nghĩa quan trọng đối với
các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong công
tác phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và người phạm tội. Ở phương diện
điều tra khám phá tội phạm, tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố là những
thơng tin ban đầu, có ý nghĩa rất lớn đối với các cơ quan có thẩm quyền để xem xét
tính chất nghiêm trọng của sự việc, là căn cứ để CQĐT tiến hành các hoạt động
điều tra, xác minh theo luật định nhằm làm rõ tính có căn cứ và hợp pháp của các
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; mở ra một giai đoạn mới trong tố
tụng hình sự là giai đoạn điều tra vụ án hình sự thơng qua quyết định khởi tố vụ án.
BLTTHS năm 2003 quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội

phạm, kiến nghị khởi tố cịn khái qt. Vì vậy, để áp dụng đúng và thống nhất các
quy định về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố,
ngày 02/8/2013 liên ngành Bộ Công an, Bộ Quốc Phịng, Bộ Tài chính, Bộ Nơng
Nghiệp và phát triển nơng thôn, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao đã ban hành
Thông tư liên tịch số 06 hướng dẫn thi hành quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (TTLT
06/2013). Theo đó, tố giác tội phạm là những thơng tin về hành vi có dấu hiệu tội
phạm do cá nhân có danh tính, địa chỉ rõ ràng cung cấp cho cơ quan, cá nhân có
trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Tin báo về tội phạm là những thơng tin về hành
vi có dấu hiệu tội phạm trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc do cơ quan,
tổ chức cung cấp cho cơ quan, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết; Kiến
nghị khởi tố là việc các cơ quan nhà nước khi thực hiện nhiệm vụ của mình phát

7


hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm và có văn bản kiến nghị CQĐT xem xét khởi tố vụ án
hình sự [6].
Tuy nhiên, trên thực tế, tố giác về tội phạm không chỉ do công dân Việt Nam
cung cấp mà cịn do cá nhân là người nước ngồi cung cấp trong những trường hợp
họ bị xâm phạm tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm…trên lãnh thổ
Việt Nam. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập quốc tế ở nước ta ngày càng sâu
rộng, người nước ngoài đến Việt Nam lao động, làm việc, học tập, công tác, du
lịch…ngày càng nhiều. Nếu chỉ quy định công dân là chủ thể tố giác về tội phạm là
chưa đầy đủ. Đối với tin báo về tội phạm, nếu quy định do cơ quan, tổ chức cung
cấp hoặc trên phương tiện thơng tin đại chúng thơi thì chưa phù hợp. Thực tiễn áp
dụng cho thấy, ngồi cơ quan, tổ chức thì cá nhân cũng cung cấp rất nhiều thông tin
về vụ việc phạm tội mà mình biết cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Kế thừa các quy định của BLTTHS năm 2003 và TTLT 06/2013, BLTTHS năm
2015 đã quy định rõ khái niệm nguồn tin về tội phạm và khái niệm tố giác, tin báo

về tội phạm và kiến nghị khởi tố tại như sau [19, Điều 144]: Nguồn tin về tội phạm
gồm tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của cơ quan, tổ chức, cá nhân,
lời khai của người phạm tội tự thú và thông tin về tội phạm do cơ quan tiến hành tố
tụng trực tiếp phát hiện.
Tố giác về tội phạm là việc cá nhân trực tiếp phát hiện và tố cáo hành vi có dấu
hiệu phạm tội với cơ quan có thẩm quyền. Pháp luật tố tụng hình sự khơng hạn chế
chủ thể tố giác về tội phạm là công dân Việt Nam mà có thể là bất kỳ cá nhân nào.
Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân là những thơng tin về vụ việc có dấu hiệu
tội phạm do các cơ quan, tổ chức, cá nhân phát hiện hoặc cơ quan, tổ chức nhận
được tố giác, tin báo của cá nhân và chuyển cho CQĐT có thẩm quyền. Ngồi ra,
tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng cũng là một trong những căn cứ để
khởi tố vụ án hình sự.
BLTTHS đã quy định tất cả các cơ quan nhà nước đều có quyền kiến nghị khởi
tố [19, Điều 5]. Tuy nhiên, trong thực tiễn, các văn bản kiến nghị thơng thường là
của cơ quan Thanh tra, Tịa án. Đối với cơ quan Thanh tra: Trong quá trình thực

8


hiện nhiệm vụ thanh tra, nếu cơ quan Thanh tra phát hiện vụ việc có dấu hiệu tội
phạm, thì trong thời hạn 05 ngày, kể từ ngày phát hiện dấu hiệu tội phạm, phải
chuyển hồ sơ vụ việc đó và bản kiến nghị khởi tố đến CQĐT có thầm quyền để
xem xét khởi tố vụ án hình sự, đồng thời thông báo bằng văn bản cho VKS cùng
cấp biết. Đối với tòa án: Kiến nghị khởi tố được thể hiện bằng “Yêu cầu khởi tố
vụ án” của Hội đồng xét xử (HĐXX) [19, Điều 153]. Khơng phải Tồ án nói chung
mà chính HĐXX thơng qua việc xét xử tại phiên tịa phát hiện tội phạm có thể ra
Quyết định khởi tố vụ án hình sự hoặc yêu cầu VKS khởi tố vụ án hình sự [43].
Cơ quan nhà nước có thể là chủ thể của tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi
tố và việc phân biệt trường hợp nào cơ quan Nhà nước là chủ thể của tin báo về tội
phạm và trường hợp nào là chủ thể của kiến nghị khởi tố là rất cần thiết. Trong

trường hợp thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, xét xử... phát hiện hành vi có
dấu hiệu tội phạm thì thu thập hồ sơ, tài liệu liên quan, kèm theo văn bản kiến nghị
khởi tố gửi đến CQĐT, VKSND cùng cấp đề nghị khởi tố vụ án thì lúc này Cơ
quan nhà nước là chủ thể kiến nghị khởi tố [43].
Trường hợp thông qua công tác quản lý hoặc công tác khác, Cơ quan nhà nước
phát hiện vi phạm có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực mình quản lý thì cung cấp
thơng tin cho cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết thì lúc này Cơ quan
nhà nước là chủ thể tin báo về tội phạm.
Như vậy, tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu
hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền; Tin báo về tội phạm là thơng tin về vụ
việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có
thẩm quyền hoặc thơng tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến
nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị bằng văn bản và
gửi kèm theo chứng cứ, tài liệu liên quan cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có
thẩm quyền xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu của tội phạm.
Tóm lại: Tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là những nguồn tin về
tội phạm được pháp luật quy định do cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp bằng các
hình thức thơng tin khác nhau cho cơ quan có thẩm quyền xem xét và xử lý.

9


Qua các phân tích nêu trên, tác giả đưa ra khái niệm sau: Tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố là hoạt động đón nhận, kiểm tra,
xác minh nguồn tin về tội phạm của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp
luật để giải quyết vụ án hình sự.
- Khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố
Như đã đề cập trong phần mở đầu, VKSND có 02 chức năng đó là thực hành
quyền cơng tố, kiểm sát hoạt động tư pháp góp phần đảm bảo cho pháp luật được

chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất được quy định tại Điều 107 Hiến pháp 2013
và Đều 2 Luật Tổ chức VKSND năm 2014. Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt
động của VKSND để kiểm sát tính hợp pháp, giám sát trực tiếp các hành vi, quyết
định, hoạt động cụ thể của CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một
số hoạt động điều tra, Tòa án và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết
vụ án với mục đích nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và
thống nhất, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong
việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động; việc thi hành án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt
động tư pháp; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật [22].
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngơn ngữ học, thì “kiểm sát là kiểm tra, giám sát
việc chấp hành pháp luật của Nhà nước [39, tr.867]. Theo đó, “kiểm sát” là hoạt
động kiểm tra, giám sát, với đối tượng kiểm tra, giám sát là việc chấp hành pháp luật.
Theo quy định của pháp luật TTHS thì hoạt động “kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong TTHS” của Viện kiểm sát nhằm kịp thời phát hiện vi phạm pháp luật của
các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp
dụng những biện pháp theo quy định của BLTTHS hiện hành để loại trừ việc vi phạm
pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân này. Như vậy, kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng hình sự là hoạt động của VKSND để kiểm tra tính hợp pháp
của các hành vi, quyết định của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có

10


thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của cơ quan, tổ chức, cá
nhân khác theo quy định của pháp luật [12, tr.39].
Trên cơ sở sự phân tích trên có thể đưa ra khái niệm kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố như sau:
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị

khởi tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm tra tính hợp pháp của các
hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền, cá nhân, cơ quan, tổ chức
khác trong việc đón nhận, kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm để quyết định
khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự hay tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin
về tội phạm.
1.2. Đặc điểm của hoạt động kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm và kiến nghị khởi tố
- Chủ thể kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm là những hoạt
động chỉ do VKSND chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là các hoạt động có
tính quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh
và thống nhất [41].
Hiến pháp trao cho VKSND chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
“VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp” [21]. Kiểm sát
hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do cơ quan
quyền lực Nhà nước cao nhất là Quốc hội giao cho VKSND nhằm bảo đảm pháp
chế XHCN trong hoạt động tư pháp hình sự, tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do
của con người, góp phần đấu tranh phịng, chống tội phạm [42]. Chức năng này của
VKSND đã được quy định xuyên suốt từ Hiến pháp năm 1959 và Luật tổ chức
VKSND năm 1960. Theo đó, ngồi chức năng thực hành quyền cơng tố, VKS cịn
có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ, các
cơ quan khác thuộc Chính phủ, cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế,
tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân.

11


Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 vẫn khẳng định VKS là cơ quan
“bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, nhưng phạm

vi hoạt động đã có sự thu hẹp. Từ chỗ là nhân tố chính “bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”, thì nay hoạt động của VKS chỉ là
“góp phần” cho q trình đó mà thơi và mơ hình tổ chức cũng có sự thay đổi. Theo
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thì phạm vi hoạt động của VKS
chỉ còn “thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”.
Tuy qua các thời kì, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND có những
thay đổi nhưng về cơ bản Hiến pháp vẫn quy định cho VKSND hai chức năng đó là
chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Theo đó, khi tiến hành hoạt động kiểm sát, VKSND phải dựa trên các căn cứ pháp
lý tối thượng là Hiến pháp, BLHS, BLTTHS, Luật tổ chức VKSND và các văn bản
pháp luật khác có liên quan để xem xét, bảo đảm sự tuân theo pháp luật của các chủ
thể bị kiểm sát cũng như bảo đảm tính hợp pháp của chính các hoạt động kiểm sát
của VKSND.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức VKSND năm 2014 quy định về
chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp tại Khoản 1 Điều 4. Như vậy, kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố là một trong
những nội dung đầu tiên trong hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND
nhằm bảo đảm việc tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị
khởi tố được thực hiện đúng quy định của pháp luật.
- Đối tượng và phạm vi của hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm và kiến nghị khởi tố
Kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị
khởi tố là hoạt động phát hiện vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý vi phạm của các
cơ quan và người có thẩm quyền tiến hành các hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết nguồn tin ban đầu. Do
đó, hoạt động tn theo pháp luật trong q trình tiếp nhận, giải quyết tin báo, tố

12



giác về tội phạm, kiến nghị khởi tố của các cơ quan có thẩm quyền theo quy định
của BLTTHS là đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Phạm vi kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố được bắt đầu từ khi Cơ quan có thẩm quyền điều tra tiếp nhận tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đến khi ra một trong các quyết định hoặc
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự hoặc quyết định
tạm đình chỉ giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và ban hành
thông báo kết quả giải quyết theo quy định tại Khoản 4 Điều 145 BLTTHS.
Hệ thống pháp luật được sử dụng trong công tác kiểm sát tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trước hết đó chính là BLTTHS hiện
hành quy định về trình tự tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan đến việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và các văn bản quy phạm pháp
luật liên quan. Ngồi ra cịn có các quy định về nội dung như BLHS cũng đóng vai
trị quan trọng mà các chủ thể giải quyết cần phải tuân theo.
- Hình thức kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố
VKSND kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi tố thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát một cách liên tục, cụ thể và
trực tiếp đối với những hoạt động tố tụng của các chủ thể có thẩm quyền trong q
trình kiểm tra, xác minh các nguồn tin về tội phạm. Tính liên tục thể hiện ở chỗ
VKS thực hiện quyền kiểm sát từ khi Cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận nguồn tin,
phân loại, xác minh cho đến khi nhận được thông báo kết quả giải quyết tố giác, tin
báo và kiến nghị khởi tố. Tính cụ thể là việc VKS có quyền giám sát chi tiết, cụ thể
từng hoạt động tố tụng của Cơ quan có thẩm quyền một cách trực tiếp hoặc gián
tiếp [16]. VKS thực hiện quyền giám sát hoạt động điều tra của CQĐT một cách
trực tiếp như việc kiểm sát các hoạt động: Khám nghiệm hiện trường, Khám


13


nghiệm tử thi hoặc gián tiếp như phê chuẩn Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp
khẩn cấp, quyết định gia hạn tạm giữ… VKS thực hiện quyền giám sát hoạt động
điều tra của CQĐT từ trước đến nay vẫn được coi là một nguyên tắc trong tố tụng
hình sự nhằm xác định được hoạt động điều tra được thực hiện đúng hay sai, có
khách quan, đầy đủ khơng.
Để thực hiện chức năng hiến định quan trọng này, pháp luật tố tụng hình sự trao
cho VKS các quyền hạn nhất định trong hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin, đó là: Quyền giám sát, quyền yêu cầu, quyền hủy bỏ quyết định
trái pháp luật của CQĐT, quyền giải quyết tranh chấp về thẩm quyền.
- VKS thực hiện quyền giám sát thông qua hoạt động kiểm sát việc tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của CQĐT, cơ quan được
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Theo quy định của pháp luật,
CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra sau khi
tiếp nhận nguồn tin về tội phạm có trách nhiệm vào sổ tiếp nhận, ra quyết định giải
quyết nguồn tin về tội phạm và gửi cho VKS để thực hiện chức năng kiểm sát việc
tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Ngồi ra, CQĐT có trách nhiệm báo
cáo định kỳ việc tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm. Quyền giám sát của
VKS thể hiện rõ nhất trong việc kiểm sát các quyền năng và hành vi tố tụng của
CQĐT bằng việc nhất trí hoặc khơng nhất trí với CQĐT thơng qua việc phê chuẩn,
khơng phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ;
phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công
dân và các quyết định khác của CQĐT trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm
theo quy định.
- Trong quá trình kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, nếu
VKS phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm không đầy đủ, vi
phạm pháp luật thì yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số

hoạt động điều tra thực hiện việc tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải
quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ, đúng pháp luật; kiểm tra việc tiếp nhận, giải
quyết nguồn tin về tội phạm và thông báo kết quả cho VKS; cung cấp tài liệu liên

14


quan về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm;
khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm người vi phạm; đề ra yêu cầu kiểm
tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm
thực hiện; yêu cầu CQĐT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra khởi tố vụ án hình sự; yêu cầu thay đổi Điều tra viên (ĐTV), Cán bộ điều
tra (CBĐT). CQĐT có trách nhiệm phải thực hiện các yêu cầu, quyết định của
VKSND [19, Điều 160].
- Quyền hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT là một quyền năng đặc
biệt của VKS được pháp luật quy định. Trên thực tế, VKS chỉ thực hiện quyền
năng này khi đã thực hiện quyền giám sát, quyền u cầu nhưng khơng có hiệu quả
hoặc khi CQĐT không thể tự khắc phục được, BLTTHS quy định: Trong khi kiểm
sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, nếu thấy quyết định của CQĐT
trái pháp luật, VKS có quyền ra Quyết định hủy bỏ quyết định tạm giữ, quyết định
khởi tố vụ án hình sự, quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự, quyết định tạm đình
chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết định tố tụng khác trái pháp luật
của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động
điều tra [19, Điều 159].
- Chức năng kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm của VKS
cịn được thể hiện thơng qua việc giải quyết tranh chấp về thẩm quyền giải quyết
nguồn tin tội phạm; và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp
nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của BLTTHS.
Đây là các quyền độc lập của VKS nhưng có mối liên hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn
nhau. Vì nếu chỉ có quyền giám sát mà khơng có quyền hủy bỏ các quyết định trái

pháp luật của CQĐT thì quyền yêu cầu của VKS chỉ là hình thức; ngược lại, kết
quả thực hiện quyền giám sát là tiền đề để VKS thực hiện quyền yêu cầu, quyền
hủy bỏ. Không phải lúc nào VKS cũng thực hiện đầy đủ các quyền năng trên, nhất
là khi hoạt động điều tra đã tuân thủ các quy định của pháp luật thì VKS chỉ thực
hiện quyền giám sát đối với CQĐT; khi CQĐT tiến hành điều tra vụ án chưa đầy
đủ hoặc có hoạt động tố tụng khơng có căn cứ, VKS sẽ thực hiện cả quyền giám

15


sát, yêu cầu và hủy bỏ. Nhưng về mặt pháp lý, VKS cần có đầy đủ các quyền năng
trên mới có khả năng kiểm sốt trực tiếp, tồn diện và hữu hiệu hoạt động điều tra
vụ án hình sự của CQĐT, góp phần quan trọng làm cho hoạt động điều tra tuân thủ
các quy định của pháp luật, đồng thời phát huy được vai trò là cơ quan “quyết định
việc buộc tội”, tăng cường trách nhiệm công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để hạn chế oan, sai, bảo đảm quyền, lợi
ích của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong tố tụng hình sự theo quy định của pháp luật.
1.3. Mối quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt
động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2006, NXB Đà Nẵng, “mối quan hệ nghĩa là sự
gắn liền chặt chẽ, có tác động qua lại lẫn nhau về mặt nào đó giữa hai hay nhiều
sự vật với nhau” [14].
Mặc dù CQĐT và VKS có chức năng, nhiệm vụ khác nhau nhưng đều hướng
đến mục tiêu chung của hệ thống TTHS là chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội
phạm, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý cơng minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, không để lọt tội phạm, khơng làm oan người vơ tội, góp phần bảo vệ chế
độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân,
tổ chức, bảo vệ trật tự pháp luật XHCN. Để thực hiện được mục tiêu chung đó,
giữa CSĐT và VKSND phải có mối quan hệ tố tụng chặt chẽ. Quan hệ tố tụng giữa
CQĐT và VKS là mối quan hệ quan trọng trong tố tụng hình sự, là biểu hiện của

nguyên tắc phân cơng, phối hợp, kiểm sốt quyền lực nhà nước trong hoạt động tố
tụng hình sự [25]. Mối quan hệ này được hình thành ngay từ khi có tố giác, tin báo
về tội phạm và kiến nghị khởi tố, tồn tại trong tồn bộ q trình điều tra (kể cả điều
tra lại, điều tra bổ sung), nếu được vận hành tốt, nhịp nhàng, hiệu quả sẽ góp phần
bảo đảm việc phát hiện tội phạm, điều tra, xử lý các vụ án hình sự đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật, khơng để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm, tiết kiệm
thời gian, chi phí và vật chất trong hoạt động tố tụng hình sự.
Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm là mối quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau, phát sinh trong

16


quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan theo quy định
của pháp luật để hỗ trợ, tạo điều kiện cho nhau trong quá trình tiếp nhận, giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, đảm bảo việc phát hiện tội phạm,
điều tra, xử lý các vụ án hình sự kịp thời, công minh, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật, không để xảy ra oan, sai hoặc bỏ lọt tội phạm.
1.3.1. Nội dung mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong hoạt
động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Giữa CQĐT và VKS luôn tồn tại mối quan hệ quan trọng, phức tạp và đặc thù,
đó là mối quan hệ phối hợp với nhau và chế ước lẫn nhau trên cơ sở quy định của
pháp luật về chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan và mục tiêu tố tụng nói chung.
Mối quan hệ này xuất hiện và được cụ thể hóa trong q trình giải quyết các vụ án
cụ thể, bắt đầu từ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố.
Thể hiện qua quan hệ giữa Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT với Viện trưởng,
Phó Viện trưởng VKSND, giữa các ĐTV phân công thụ lý vụ án với KSV được
phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát vụ án.
- Nội dung quan hệ phối hợp: Mối quan hệ phối hợp giữa VKS và CQĐT trước
hết được thể hiện thông qua việc định kỳ thông báo cho nhau về tình hình tội

phạm và hoạt động của hai bên trong hoạt động tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; trao đổi trước với nhau về các quyết định khởi
tố, không khởi tố, quyết định gia hạn, tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin hay áp
dụng biện pháp ngăn chặn bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp hoặc quyết
định tạm giữ; xây dựng kế hoạch, chuẩn bị nội dung và phương pháp tiến hành
bảo đảm kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trong công tác phối hợp, VKS cũng như CQĐT phải tuân thủ nghiêm chỉnh các
quy định của BLTTHS, cân nhắc một cách tồn diện giữa u cầu chính trị, pháp
luật, nghiệp vụ để phối hợp với nhau trong hoạt động tiếp nhận và giải quyết tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, không cản trở hoặc làm chậm tiến độ
kiểm tra, xác minh nguồn tin. BLTTHS 2015 đã có sự phân công rõ ràng, rành
mạch về chức năng, nhiệm vụ giữa CQĐT và VKS trong tố tụng hình sự.

17


Vì tầm quan trọng của việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm,
kiến nghị khởi tố và sự phối hợp giữa CQĐT, Cơ quan được giao thực hiện một số
nhiệm vụ điều tra, VKS cần được duy trì thường xuyên, lâu dài, trên cơ sở quy định
rõ ràng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và hướng dẫn liên ngành. Theo
Thông tư liên tịch 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC quy
định việc phối hợp giữa cơ quan có thẩm quyền trong việc thực hiện quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố do Bộ trưởng Bộ Cơng an - Bộ Quốc phịng - Bộ Tài chính
- Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thôn - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (TTLT
01/2017), khi tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Cơ quan có thẩm quyền phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Tôn trọng và bảo vệ
quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; mọi tố
giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố phải được tiếp nhận đầy đủ, giải quyết
kịp thời theo trình tự, thủ tục của BLTTHS năm 2015 và quy định tại Thông tư liên

tịch này; chỉ những cơ quan và người có thẩm quyền giải quyết tố giác, tin báo về
tội phạm, kiến nghị khởi tố mới được tiến hành giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố; trong quá trình tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố, người có thẩm quyền phải nghiêm chỉnh thực hiện quy
định của pháp luật và chịu trách nhiệm về hành vi, quyết định của mình. Người làm
trái pháp luật trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm
hình sự; cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có
trách nhiệm thực hiện yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đã tố giác, báo tin về tội
phạm, kiến nghị khởi tố về việc giữ bí mật việc tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị
khởi tố, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của họ, người thân thích của họ khi bị đe dọa [5].
Như vậy, khái niệm phối hợp giữa VKS với CQĐT trong tố tụng hình sự là: Sự
liên kết theo chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm giữa VKS với CQĐT nhằm mục đích
phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý tội phạm theo đúng quy định của pháp luật.

18


- Nội dung mối quan hệ chế ước: Trong tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành
tố tụng cũng có hoạt động giám sát, chế ước với các hình thức, mức độ khác nhau.
Trong đó, VKS giám sát, yêu cầu, hủy bỏ các quyết định, hành vi khơng có căn cứ,
trái pháp luật của CQĐT và ĐTV nhằm đảm bảo việc tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố đúng pháp luật. VKS chế ước hoạt động điều
tra ngay từ khi CQĐT bắt đầu thực hiện các hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và được thực hiện trong suốt quá trình điều
tra vụ án. Để tạo cơ sở pháp lý cho VKS thực hiện vai trò “quyết định buộc tội”,
BLTTHS năm 2015 bổ sung cho VKS nhiều chức năng, nhiệm vụ mới, đặc biệt là
quy định VKS thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật ngay
từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố. Những

nhiệm vụ, quyền hạn được pháp luật trao cho VKS xét cho cùng là để VKS chủ
động nắm chắc và kiểm sát chặt chẽ toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, đưa ra
quyết định khởi tố vụ án hoặc khơng khởi tố vụ án chính xác, đúng tội, đúng pháp
luật, thuyết phục, hạn chế oan, sai ngay từ những giai đoạn đầu của tố tụng hình sự
[40].
Quyền cơng tố và kiểm sát việc tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị
khởi tố là quyền tự thân, xuất phát từ chức năng, vai trị, vị trí của VKSND trong
hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng. VKSND thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nhằm đảm
bảo việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin của CQĐT đúng đắn, tạo tiền đề cho những
hoạt động tố tụng sau này. Trong q trình thực hiện chức năng của mình, VKS
ln phải bám sát các hoạt động của CQĐT. Trong khi hoạt động kiểm tra, xác
minh ban đầu được tiến hành trên phạm vi rộng, nhiều nội dung tại nhiều thời điểm
khác nhau địi hỏi VKS phải có những hình thức phù hợp để thực hiện nhiệm vụ
của mình đồng thời cần đến sự hỗ trợ, tạo điều kiện từ phía CQĐT.
Tuy nhiên, quyền năng của VKS không phải là tuyệt đối đối với CQĐT. Trong
phạm vi quyền hạn của mình, CQĐT có thể thực hiện sự chế ước ngược lại đối với

19


VKS thông qua quyền kiến nghị, đề nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ
quan điểm đúng đắn trong giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Nếu giám sát là việc kiểm tra, theo dõi thì chế ước bao gồm cả kiểm tra, theo
dõi và thực hiện các biện pháp khác nhằm bảo đảm hoạt động được thực hiện đúng
quy định của pháp luật. Đối tượng của sự chế ước chính là quyết định, hành vi của
CQĐT và ĐTV trong quá trình tiến hành tố tụng, còn đối với những vấn đề khác
của CQĐT như: Tổ chức, bộ máy của CQĐT hoặc những hoạt động khác không
phải là tiến hành tố tụng (hành chính, dân sự, kỷ luật nội bộ...) thì khơng phải là đối
tượng chịu sự điều chỉnh của VKS.

Mối quan hệ giữa CQĐT và VKSND không chỉ tồn tại trong từng vụ án cụ thể
mà cịn cần được duy trì thường xuyên, lâu dài, trên cơ sở quy định rõ ràng chức
năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan và hướng dẫn liên ngành về tổ chức xây dựng
quan hệ giữa hai cơ quan trong tố tụng hình sự, đặc biệt trong việc tiếp nhận, giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
1.3.2. Ý nghĩa của mối quan hệ giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong
hoạt động tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố
Các chế định tố tụng hình sự khác nhau thì yếu tố phối hợp hoặc chế ước cũng
khác khau. Do đó, khi điều tra, thu thập chứng cứ, tài liệu chủ yếu có sự phối hợp
giữa CQĐT và VKS như: Khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi... để bảo
đảm CQĐT cần chủ động, nhanh chóng, kịp thời thu giữ các chứng cứ, tài liệu
chứng minh hành vi phạm tội của bị can. Nhưng khi thực hiện các biện pháp tố tụng
liên quan đến quyền con người thì việc chế ước rất chặt chẽ, như: Khởi tố bị can, bắt bị
can để tạm giam... địi hỏi phải có sự phê chuẩn của VKS trước khi thi hành.
Trong quá trình thực hiện mối quan hệ tố tụng này, CQĐT và VKS phải có sự
cân bằng, linh hoạt giữa phối hợp và chế ước, nhất là đối với VKS. Nếu VKS thực
hiện sự phối hợp khơng đúng với bản chất của nó hoặc chỉ phối hợp mà không chế
ước sẽ dẫn đến hiện tượng hữu khuynh, nể nang, né tránh hoặc phụ thuộc vào
CQĐT hoặc không kiên quyết đấu tranh bảo vệ chân lý, bảo vệ lẽ phải vì thiếu bản
lĩnh nghề nghiệp. Hậu quả dẫn đến những thiếu sót, vi phạm của CQĐT, ĐTV

20


×