Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Phòng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam tại tây nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (736.49 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NHƯ HUY

PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM
TRONG TRẠI GIAM TẠI TÂY NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VÕ NHƯ HUY

PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM
TRONG TRẠI GIAM TẠI TÂY NGUYÊN

Chuyên nghành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số
:
838.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGHIÊM XUÂN MINH

HÀ NỘI, năm 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Tác giả luận văn

VÕ NHƯ HUY


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH
TÁI PHẠM ................................................................................................................7
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tái phạm ......................................................7
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của phòng ngừa tái phạm ................................................10
1.3. Cơ sở của phòng ngừa tái phạm .........................................................................17
1.4. Nội dung và biện pháp phịng ngừa tình hình tái phạm .....................................24
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM
TRONG TRẠI GIAM KHU VỰC TÂY NGUYÊN .............................................31
2.1. Tình hình phạm nhân vi phạm Nội quy và phạm tội mới trong trại giam ở Tây
Nguyên ......................................................................................................................31
2.2. Thực trạng tổ chức lực lượng phòng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam ở
Tây Nguyên ...............................................................................................................36
2.3. Thực trạng triển khai, áp dụng các biện pháp phịng ngừa tình hình tái phạm
trong trại giam ở Tây Nguyên ...................................................................................41
2.4. Nhận xét đánh giá về hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam
ở Tây Nguyên ............................................................................................................49
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA TÌNH

HÌNH TÁI PHẠM TRONG TRẠI GIAM Ở TÂY NGUYÊN THỜI GIAN TỚI57
3.1. Dự báo hoạt động phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam ở Tây Nguyên
thời gian tới ...............................................................................................................57
3.2. Các giải pháp phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam ở Tây Nguyên
thời gian tới ...............................................................................................................62
KẾT LUẬN ..............................................................................................................74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
ANQG

An ninh quốc gia

ANTT

An ninh trật tự

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CAND

Cơng an nhân dân


CTVBM

Cộng tác viên bí mật

CSBM

Cơ sở bí mật

PN

Phạm nhân

THAHS

Thi hành án hình sự

THAHS&HTTP

Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp

TTATXH

Trật tự an toàn xã hội

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trại giam là nơi chấp hành hình phạt của người bị kết án tù có thời hạn, tù
chung thân. Người đang chấp hành án tại các trại giam được gọi là phạm nhân.
Trong thời gian chấp hành hình phạt tù ở trại giam, phạm nhân bị quản lý giam giữ
nghiêm ngặt, chặt chẽ. Bị cách ly với xã hội nhằm làm mất đi khả năng tiếp tục
phạm tội của họ, ngăn chặn những hậu quả xấu mà họ có thể gây ra cho người khác,
cho xã hội; giáo dục họ trở thành người có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, có ích cho xã hội, đồng thời răn đe đối với người
có ý định phạm pháp. Điều đó thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước ta đối với người phạm tội bị kết án phạt tù; một mặt đề cao tính
nghiêm minh của pháp luật, mặt khác giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích
cho xã hội.
Phần lớn phạm nhân khi chấp hành án ở trại giam đã nhận rõ tội lỗi, thật sự
ăn năn và quyết tâm học tập, cải tạo tiến bộ để được hưởng chính sách khoan hồng
của Đảng và Nhà nước, để sớm được trở về đồn tụ với gia đình, hịa nhập với xã
hội. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều phạm nhân ngoan cố, không chịu từ bỏ ý định phạm
tội của mình, khơng đồng ý với phán xét của cơ quan bảo vệ pháp luật nên tìm
mọi cách để chống lại công tác quản lý giam giữ của trại giam. Họ không chịu lao
động, không tiếp thu sự giáo dục của cán bộ quản lý trại giam, vi phạm Nội quy
trại giam và nguy hiểm hơn đã thực hiện hành vi phạm tội trong trại giam. Thậm
chí có nhiều phạm nhân cịn dụ dỗ, lơi kéo phạm nhân khác cùng phạm tội. Bên
cạnh đó, cịn có một số phạm nhân tuy bề ngoài tỏ ra chấp hành tốt Nội quy trại
giam nhưng bên trong họ lại ngấm ngầm chống phá. Lợi dụng mọi sơ hở trong
công tác quản lý giam giữ của cán bộ trại giam để thực hiện hành vi phạm tội, nhất
là những phạm nhân phạm các tội về trật tự an toàn xã hội, phạm nhân phạmcác
tội về ma túy, phạm nhân có nhiều tiền án, tiền sự. Có những vụ phạm nhân phạm
tội trong q trình chấp hành án phạt tù để lại hậu quả rất nặng nề, gây thiệt hại
1



lớn về người và tài sản như: Cướp súng, công cụ hỗ trợ, tấn công cán bộ để trốn
trại, giết người, cố ý gây thương tích, tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy
trong trại giam…
Trại giam Gia Trung, Đăk Trung, Đăk Tân thuộc Cục Cảnh sát quản lý trại
giam, Cơ sở giáo dục bắt buộc, Trường giáo dưỡng - Bộ Cơng an. Tính đến tháng
12 năm 2018 các Trại giam khu vực Tây Nguyên đang quản lý tổng số 4.445
phạm nhân, trong đó số phạm nhân nam là 4.225, phạm nhân nữ là 220 phạm
nhân, phạm nhân phạm tội xâm phạm ANQG, liên quan đến ANQG là 28 phạm
nhân. Ở đây tập trung quản lý giam giữ các phạm nhân phạm các tội về TTATXH,
có nhiều tiền án, tiền sự, đối tượng nguy hiểm. Trong những năm qua, công tác
quản lý giam giữ, giáo dục phạm nhân tại đã đạt được những kết quả đáng ghi
nhận, số lượng phạm nhân được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, đặc xá
luôn ở mức cao. Công tác quản lý giam giữ phạm nhân được chấn chỉnh và tổ
chức thực hiện nghiêm túc theo Luật THAHS năm 2010. Tuy nhiên, với số lượng
phạm nhân quá lớn đã gây nhiều khó khăn cho cơng tác quản lý giam giữ, giáo
dục phạm nhân. Tình hình phạm nhân vi phạm nội quy, phạm tội ở các Trại giam
ở Tây Nguyên trong những năm qua vẫn còn xảy ra thường xuyên. Từ năm 2015
đến 2018 có 596 phạm nhân vi phạm Nội quy trại giam, trong đó có 31 trường hợp
bị truy tố. Cụ thể, năm 2015 có 12 trường hợp phạm nhân phạm tội mới trong trại
giam, năm 2016 có 12 trường hợp phạm nhân phạm tội mới trong trại giam; năm
2017 có 04 trường hợp phạm nhân phạm tội mới trong trại giam; năm 2018 có 03
trường hợp phạm nhân phạm tội mới trong trại giam. Tình hình phạm nhân phạm
tội ở các Trại giam trên địa bàn Tây Nguyên có diễn biến rất phức tạp, tuy số
phạm nhân vi phạm pháp luật có giảm nhưng thủ đoạn ngày càng tinh vi và liều
lĩnh, đe dọa đến sự ổn định và an toàn của trại giam.
Phạm nhân phạm tội trong trại giam do những nguyên nhân cơ bản như: Số
lượng phạm nhân lớn và có xu hướng tăng, ý thức chấp hành bản án, Nội quy trại
giam và các quy định của pháp luật của phạm nhân chưa cao; cán bộ, chiến sĩ ở
các trại giam còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ nên gặp nhiều khó khăn

2


trong thực hiện nhiệm vụ được giao; cơ sở vật chất, cơng cụ hỗ trợ, phương tiện
kỹ thuật cịn thiếu, hiệu quả của một số hoạt động nghiệp vụ (điều tra cơ bản,
xây dựng, sử dụng CTVBM, khai thác phạm nhân, kiểm sốt cơng khai…) chưa
cao. Do vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng ngừa phạm nhân
phạm tội trong các trại giam nói riêng và đấu tranh phịng chống tội phạm nói
chung cần phải nghiên cứu cả trên hai phương diện lý luận và thực tiễn hoạt
động phòng ngừa phạm nhân phạm tội trong các trại giam, đây là một địi hỏi hết
sức cấp bách. Vì vậy, tơi chọn luận văn “Phịng ngừa tình hình tái phạm trong
trại giam tại Tây Nguyên” để nghiên cứu là có tính cấp thiết cao cả về lý luận và
thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong thời gian qua đã có một số cơng trình khoa học và bài viết liên quan đến
vấn đề phòng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam, như:
Nguyễn Đức Nam,“Thực trạng và giải pháp phòng ngừa phạm nhân trốn trại ở trại
giam Xuyên Mộc”. Khóa luận tốt nghiệp Đại học CSND, 2006.
Nguyễn Văn Sơn, “Hoạt động phòng ngừa phạm nhân phạm tội trong các trại
giam thuộc Bộ Công an”. Luận án Tiến sĩ, 2013.
Nguyễn Minh Thu,“Hoạt động phòng ngừa tội phạm do phạm nhân gây ra tại
các trại giam thuộc Bộ Công an quản lý khu vực miền Đông Nam Bộ”. Luận văn
thạc sĩ, 2011.
Vũ Đức Trung,“Thực trạng phạm nhân phạm tội trong các trại giam khu vực
phía Nam và giải pháp phòng, chống của lực lượng Cảnh sát trại giam”. Đề tài
khoa học cấp Bộ, 2011.
Trần Văn Tỵ,“Hoạt động của lực lượng Cảnh sát trại giam trong phòng ngừa
tội phạm trốn khỏi nơi giam”. Luận án Tiến sĩ, 2010.
Ngô Đức Việt,“Hoạt động phòng ngừa tội phạm cố ý gây thương tích do
phạm nhân gây ra tại các trại giam khu vực miền Đông Nam bộ - Bộ Công an”.

Luận văn Thạc sĩ luật học, 2010.
Các cơng trình trên nghiên cứu cụ thể về các hành vi phạm tội của phạm nhân,
3


với phạm vi rộng về không gian. Cho đến nay chưa có một cơng trình khoa học nào
nghiên cứu về phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam tại Tây Ngun. Do
đó, đây là ln văn hồn tồn mới và khơng trùng lặp với bất kỳ một cơng trình
khoa học nào trước đây cũng như hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thực trạng hoạt động phịng ngừa tình hình phạm
nhân tái phạm tội trong thời gian chấp hành án ở trại giam, từ đó đề xuất các giải
pháp góp phần nâng cao hiệu quả phịng ngừa tình hình tái phạm tội của phạm nhân
ở các trại giam trên địa bàn Tây Nguyên nói riêng, các trại giam thuộc Bộ Cơng an
nói chung.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn tập trung thực hiện những nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ lý luận về hoạt động phòng ngừa phạm nhân phạm tội, tái
phạm tội các trại giam thuộc Bộ Công an.
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ tình hình, đặc điểm có liên quan đến hoạt động
phịng ngừa tình hình tái phạm do phạm nhân thực hiện ở các Trại giam khu vực
Tây Nguyên.
- Nghiên cứu, khảo sát thực trạng hoạt động phòng ngừa tình hình tái phạm do
phạm nhân thực hiện của cán bộ, chiến sĩ ở các Trại giam khu vực Tây Nguyên.
- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động phịng
ngừa tình hình tái phạm ở các Trại giam khu vực Tây Nguyên trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận và thực tiễn phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại
giam thuộc khu vực Tây Nguyên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về chủ thể: Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động phòng ngừa tình
4


hình phạm nhân tái phạm của cán bộ, chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ ở các trại giam
thuộc khu vực Tây nguyên.
- Phạm vi về thời gian: Thời gian khảo sát từ năm 2015 đến hết năm 2018
- Phạm vi về không gian (địa bàn nghiên cứu): Trại giam Gia Trung, Đăk
Trung, Đăk Tân - Cục C10 - Bộ Công an.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước ta về thi hành án phạt tù cũng như dựa trên những quy định về
nghiệp vụ của Ngành Công an trong công tác quản lý giam giữ, giáo dục phạm
nhân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
- Phương pháp thống kê, phân tích, đánh giá.
- Phương pháp tổng hợp, so sánh đối chiếu.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Xét về nội dung: Luận văn nghiên cứu phòng ngừa tái phạm trong phạm vi
chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
6.1. Ý nghĩa thực tiễn

- Luận văn tập trung nghiên cứu làm rõ thực trạng hoạt động phòng ngừa tình
hình tái phạm ở trại giam Gia Trung, Đăk Trung, Đăk Tân - Cục C10 - Bộ Công an.
Đây là vấn đề hoàn toàn mới mà từ trước cho đến nay chưa tiến hành sơ kết, tổng
kết một cách đầy đủ, cụ thể và chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu về hoạt
động này.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động
5


phịng ngừa tình hình tái phạm ở trại giam Gia Trung, Đăk Trung, Đăk Tân - Cục
C10 – Bộ Công an.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phịng ngừa tình hình tái phạm.
Chương 2: Thực trạng phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam ở Tây
Nguyên.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tái phạm trong
trại giam ở Tây Nguyên thời gian tới.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỊNG NGỪA
TÌNH HÌNH TÁI PHẠM
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của tái phạm
Trong các nghiên cứu ở nước ngoài, từ "tái phạm" trong tiếng Anh
(recidivism) và tiếng Pháp (récidive) đều có nguồn gốc từ một từ trong tiếng Latin
là "recidivus" nên có nghĩa khá tương tự như tái phạm trong tiếng Hán hàm chứa từ

"tái" (再) có nghĩa là "lại" và từ "phạm" (犯) có nghĩa là "xâm phạm". Một thuật
ngữ khác gần với tái phạm hình sự (hay có thể tạm coi là tái phạm tội) hơn thường
được sử dụng trong tiếng Anh là "reoffending". Vì thế, quan niệm về tái phạm trong
các nghiên cứu nước ngoài cũng tương đối rộng, đơi khi chỉ hàm nghĩa về tái phạm
hình sự nhưng cũng thường ám chỉ các các dạng tái phạm khác [7].
TS.G.V Đa - Scốp đã trình bày: "Tái phạm là một khái niệm pháp lý và rất có
ý nghĩa trong tội phạm học… Tái phạm là phạm tội từ hai lần trở lên - kẻ tái phạm
là kẻ phạm tội mới trong khi án tích về tội cũ chưa được xóa bỏ”. Nhà tội phạm học
Mỹ Michael D. Maltz cho rằng "Người tái phạm là người sau khi mãn hạn tù (vì đã
thực hiện một tội phạm) khơng hồn lương mà thay vào đó họ lặp lại lối ứng xử cũ
và tiếp tục phạm tội". Như vậy, khái niệm này tương đối gần gũi với khái niệm tái
phạm trong lĩnh vực hình sự ở Việt Nam.
Trong những nghiên cứu ở Việt Nam, thuật ngữ "tái phạm" xuất hiện thường
xuyên. Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học thì tái phạm là: "Phạm lại tội
cũ, sai lầm cũ". Từ điển Việt Nam của tác giả Thanh Nghị trình bày đơn giản: "Tái
phạm là phạm tội lần nữa" , còn theo từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh
thì: "Tái phạm là phạm tội lần thứ hai". Tái phạm còn là một hiện tượng được nhiều
ngành luật trong hệ thống pháp luật quan tâm điều chỉnh, trong đó với mỗi ngành
luật khác nhau, cách thức quy định về vấn đề tái phạm lại có những điểm khác
nhau. Cụ thể:
Dưới góc độ pháp luật hình sự, tại Điều 49, BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung
7


năm 2009) vấn đề tái phạm đã được xác định rõ ràng: "Tái phạm là trường hợp đã
bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm
trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do vô ý". Điều 53 BLHS năm 2015 quy định rõ
"Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành
vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý". Với căn cứ trên, TS. Nguyễn Văn Hoàng

đưa ra quan điểm: "Tái phạm tội là hành vi phạm tội của những người mà trước đó
đã có hành vi phạm tội đã bị kết án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý
hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do vô ý" [8]. Luật xử lý vi
phạm hành chính năm 2012, Khoản 5 Điều 2 cũng quy định rõ: "Tái phạm là việc
cá nhân, tổ chức đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi
là chưa bị xử lý vi phạm hành chính... mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành chính
đã bị xử lý". Luật lao động năm 2012 tại Khoản 2, Điều 122 lại quy định: "Tái
phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà
chưa được xóa kỷ luật".
Về quan điểm cá nhân, tác giả cho rằng tái phạm là trường hợp đã bị kết án về
một tội mà lại phạm tội mới.
Tái phạm theo các quy định của pháp luật và quan điểm của các tác giả nêu
trên đã thể hiện sự lặp lại của hành vi với những dấu hiệu khác nhau.
Như vậy tái phạm tội có những đặc trưng sau:
- Tái phạm là hành vi phạm tội, nên có đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm như
tính trái pháp luật hình sự, tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi, tính có lỗi và tính
chịu hình phạt. Trong tội phạm học, tái phạm là một hiện tượng đặc biệt của tội phạm
nên có thể nghiên cứu một cách độc lập. Hiện tượng tái phạm trong tội phạm học là
một hiện tượng mang tính "hiện thực" chứ khơng đơn thuần mang tính "pháp lý" như
được nghiên cứu trong khoa học luật hình sự. Tuy nhiên, dù mang tính hiện thực hay
pháp lý thì tái phạm vẫn có đầy đủ các nội dung của dấu hiệu tội phạm. Vì vậy, nội
dung này hồn tồn giống với nội dung của tái phạm trong pháp luật hình sự.
- Người thực hiện hành vi phạm tội bị coi là tái phạm là người mà trước đó bị
8


Tòa án kết án nhưng lại phạm tội mới đủ yếu tố xử lý hình sự. Ở đặc trưng này cần
phải hiểu rõ: Người tái phạm chính là những người đã phạm tội trước đó lại phạm
tội tiếp, khơng phân biệt: Đã xóa án tích hay chưa xóa án tích, là lỗi cố ý hay vơ ý
và tội phạm ít nghiêm trọng hay nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Điều này cho

thấy sự khác biệt giữa khái niệm tái phạm trong tội phạm học với khái niệm tái
phạm trong pháp luật hình sự chính là: Trong tội phạm học khơng nhất thiết phải
quan tâm tới yếu tố án tích, hành vi lỗi và tính chất tội phạm mà chỉ cần thực hiện
hai lần hành vi thỏa mãn cấu thành tội phạm là được coi là tái phạm tội.
Với đặc trưng trên, có thể thấy giữa phạm tội nhiều lần với tái phạm giống ở
chỗ chủ thể đã nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, có nghĩa rằng chủ thể đó phạm
tội từ hai lần trở lên. Song phạm tội nhiều lần khác tái phạm ở hai phương diện:
Một là, hành vi của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của hai tội phạm trở lên mà
những tội ấy quy định tại cùng một điều hoặc một khoản của điều luật. Cịn tái
phạm thì hành vi phạm tội sau này có thể là phạm vào một tội mới khác với tội đã
phạm trước đó; hai là, phạm tội nhiều lần khác tái phạm là người thực hiện hành vi
phạm tội chưa bị kết án. Còn tái phạm tội tuy cũng nhiều lần phạm tội, nhưng đã bị
kết án về tội trước đó và tội sau tái phạm có thể là một tội khác.
Đối với phạm nhiều tội thì phạm nhiều tội khác tái phạm ở chỗ người phạm tội
chưa bị xét xử, chưa bị kết án về tội nào trong số các tội ấy. Đối với khái niệm tình
trạng tái phạm tội, khái niệm tái phạm là chỉ hành vi phạm tội của những người mà
trước đó đã bị kết án nhưng lại phạm tội mới đủ các yếu tố xử lý hình sự (bao gồm
cả trường hợp đã xóa án tích và chưa xóa án tích). Cịn tình trạng tái phạm tội là
phản ánh tổng thể toàn bộ tình hình tái phạm tội, cơ cấu của tình trạng tái phạm tội
trong một giai đoạn, thời điểm nhất định, diễn biến của toàn bộ các trường hợp tái
phạm tội đã xảy ra trong một giai đoạn nhất định.
Vì vậy, khi nghiên cứu tái phạm dưới góc độ một hiện tượng, tội phạm học sẽ
xem xét nó như một khía cạnh mang tính chuyên sâu về tội phạm và phải dựa trên
các lý thuyết cơ bản về tội phạm cũng như các lý thuyết riêng biệt mang tính chất
chuyên sâu và phản ánh được các đặc điểm riêng của hiện tượng này dưới cả góc độ
9


pháp lý lẫn thực tiễn.
1.2. Khái niệm và ý nghĩa của phòng ngừa tái phạm

1.2.1. Khái niệm phòng ngừa tái phạm
Phòng ngừa tái phạm tội thực chất cũng là một bộ phận, một nội dung của hoạt
động phòng ngừa tội phạm nói chung. Do đó, các nội dung của hoạt động phịng
ngừa tái phạm tội được hình thành dựa trên nền tảng, các yêu cầu và đặc điểm của
hoạt động phòng ngừa tội phạm.
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm cho rằng: "Hoạt động phòng ngừa tái phạm đối với
người đã chấp hành xong bản án hình sự là hình thức phịng ngừa cá biệt của các
biện pháp phòng ngừa tội phạm" [21]. TS. Nguyễn Văn Hồng cũng cho rằng:
"Phịng ngừa tái phạm thực chất là một bộ phận, một nội dung của hoạt động
phịng ngừa tội phạm nói chung" [8]. Vì dưới góc độ tội phạm học thì phịng ngừa
tội phạm là tổng hợp các biện pháp có quan hệ tác động lẫn nhau, được tiến hành
bởi các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm
và hạn chế, loại trừ những nguyên nhân phát sinh tội phạm.
Trong các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi, các tác giả thường khơng tìm
đến một định nghĩa phức tạp về phòng ngừa tái phạm mà chỉ dừng lại ở việc hiểu nó
theo ngữ nghĩa thơng thường. Chẳng hạn, tác giả Peter Joyce nói đến phịng ngừa
tái phạm như một chức năng hướng tới việc tối thiểu hóa nguy cơ tái phạm trong
tương lai. Hay một tác giả khác quan niệm phòng ngừa tái phạm là việc giúp người
phạm tội ngừng những hành vi bạo lực và tội phạm.
Trong lý luận tội phạm học gần đây bắt đầu đã đề cập đến những nhận thức cơ
bản về phịng ngừa tái phạm. Hoạt động đó địi hỏi phải thông qua hàng loạt các
biện pháp trên cơ sở phát huy vai trò, sự quan tâm của cộng đồng kết hợp với sự
kiểm tra, giám sát của xã hội. Mục tiêu của phịng ngừa tái phạm là cảm hóa, giáo
dục khơng để cho những người đã bị kết án có hành vi tái phạm, khắc phục loại trừ
nguyên nhân, điều kiện của tái phạm tội.
Trên cơ sở các phân tích trên, phòng ngừa tái phạm được hiểu là: Phòng ngừa
tái phạm là việc áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau như biện pháp nhà
10



nước, biện pháp xã hội, biện pháp nghiệp vụ hướng tới việc thủ tiêu nguyên nhân và
điều kiện tái phạm tội, giúp đỡ những người đã có hành vi phạm tội và đã bị kết án
trở thành người lương thiện nhằm từng bước ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi tái phạm
trong xã hội.
Với khái niệm trên, khi hình dung về phịng ngừa tái phạm, cần cân nhắc tới
một số khía cạnh quan trọng như sau:
- Về chủ thể: Có thể thấy chủ thể thực hiện phòng ngừa tái phạm tương đồng
với chủ thể phịng ngừa tội phạm. Đó có thể là các cơ quan nhà nước, cá nhân có
thẩm quyền, các tổ chức xã hội dân sự, cá nhân và đặc biệt là chính bản thân người
phạm tội hay có thể nói là hầu hết các chủ thể pháp lý trong xã hội. Tuy nhiên, tái
phạm là một hiện tượng đặc biệt của tội phạm nên chủ thể phòng ngừa quan trọng
và trước hết phải là các cơ quan tiến hành tố tụng, cơ quan thi hành án, gia đình và
cơ quan, chính quyền địa phương trong việc giáo dục, cải tạo, đào tạo nghề, tạo việc
làm cho người đã chấp hành xong hình phạt…
- Về khách thể: Phịng ngừa tái phạm hướng tới việc giảm thiểu sự phát sinh
của hiện tượng này. Mục tiêu của nó khơng chỉ dừng lại ở việc bảo vệ khách thể là
các phạm nhân có nguy cơ tái phạm trong trại giam mà cịn ở chỗ bảo đảm TTXH,
tinh thần thượng tôn pháp luật bởi sự tái phạm có tính nguy hiểm hơn rất nhiều so
với hành vi phạm tội thơng thường. Ngồi ra, tái phạm cịn được nhìn nhận như một
hiện tượng xã hội. Vì vậy, có tác giả đã khẳng định phịng ngừa tái phạm: "Là một
mục tiêu xã hội, không chỉ là một mục tiêu cá nhân”.
- Về đối tượng phòng ngừa: Xuất phát từ khái niệm tái phạm nên đối tượng
phịng ngừa tái phạm có đặc điểm riêng biệt. Đó chính là những người đã có hành vi
phạm tội và đã bị kết án. Ví dụ: người chấp hành xong án phạt tù, mãn hạn tù, đặc xá
trở về địa phương, người đang chấp hành các hình phạt khác tại địa phương như cải
tạo không giam giữ, án treo, quản chế..., người đang chấp hành án trong trại giam...
1.2.2. Khái niệm phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam
Phịng ngừa tội phạm nói chung, phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại
giam nói riêng là một việc làm rất quan trọng và cần thiết không chỉ đối với các cơ
11



quan thực thi pháp luật mà cịn có ý nghĩa to lớn đối với toàn xã hội. Nghiên cứu
vấn đề này khơng chỉ có ý nghĩa quan trọng trên phương diện lý luận mà còn rất
thiết thực cho những đòi hỏi của thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt
động thi hành án phạt tù ở nước ta.
Các trại giam thuộc Cục C10 - Bộ Công an là một trong những địa bàn trọng
điểm về ANTT, hoạt động phịng ngừa tình hình tái phạm ở các trại giam là rất cần
thiết và quan trọng đối với mục tiêu bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH.
Phạm nhân là đối tượng bị quản lý giam giữ, giáo dục ở trại giam rất đa dạng
và phức tạp, có những đối tượng đã từng phạm tội rất nghiêm trọng và đặc biệt
nghiêm trọng, xâm phạm đến ANQG & TTATXH. Trong quá trình chấp hành án
phạt tù ở trại giam, phần lớn phạm nhân đã nhận rõ tội lỗi do mình gây ra, quyết
tâm học tập cải tạo để sớm được trở về gia đình và cộng đồng xã hội. Tuy nhiên,
bên cạnh đó cịn khơng ít những phạm nhân chưa nhận thức rõ tội lỗi của mình,
chưa thấy hết được tác hại do hành vi phạm tội của mình đã gây ra cho xã hội nên
cịn cố tình chống đối, vi phạm. Thậm chí có nhiều phạm nhân cịn dụ dỗ, lơi kéo
phạm nhân khác cùng phạm tội. Bên cạnh đó, cịn có một số phạm nhân tuy bề
ngồi tỏ ra chấp hành tốt Nội quy trại giam nhưng bên trong họ lại ngấm ngầm
chống phá. Lợi dụng mọi sơ hở trong công tác quản lý giam giữ của cán bộ trại
giam để thực hiện hành vi phạm tội, nhất là những phạm nhân phạm các tội về trật
tự an toàn xã hội, phạm nhân phạm các tội về ma túy, phạm nhân có nhiều tiền án,
tiền sự. Có những vụ phạm nhân phạm tội trong quá trình chấp hành án phạt tù để
lại hậu quả rất nặng nề, gây thiệt hại lớn về người và tài sản như: Cướp súng,
công cụ hỗ trợ, tấn công cán bộ để trốn trại, giết người, cố ý gây thương tích,
tàng trữ, mua bán trái phép chất ma túy trong trại giam…
Trên cơ sở các phân tích trên, phịng ngừa tình hình tái phạm được hiểu là:
Phịng ngừa tình hình tái phạm ở trại giam là việc cơ quan trại giam và người có
thẩm quyền áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau như biện pháp phòng
ngừa xã hội, biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ theo quy định của pháp luật hướng

tới việc thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện tái phạm tội của phạm nhân đang chấp
12


hành án ở trại giam, nhằm ngăn chặn, không để họ tiếp tục phạm tội, tái phạm,
đồng thời tạo điều kiện cho họ rèn luyện cải tạo, sớm được hưởng chính sách khoan
hồng của Nhà nước và trở thành người chấp hành tốt các quy tắc của cuộc sống xã
hội khi tái hòa nhập cộng đồng.
Đặc điểm của phòng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam:
- Về chủ thể: Chủ thể phịng ngừa tình hình tái phạm là các Đội nghiệp vụ và
các Phân trại trực thuộc trại giam. Trong đó, các cán bộ giữ vai trị nịng cốt trong
phịng ngừa tình hình tái phạm là: Cán bộ Trinh sát, trực trại, quản giáo, Cảnh sát bảo
vệ; nhưng cũng có cán bộ thực hiện nhiệm vụ này một cách gián tiếp như cán bộ giáo
dục, hồ sơ. Tuy nhiên, quản lý giam giữ, giáo dục phạm nhân là nhiệm vụ chung của
trại giam nên tất cả cán bộ, chiến sĩ trại giam đều có trách nhiệm trong hoạt động
phịng ngừa tình hình tái phạm.
- Về khách thể: Chính là các phạm nhân đang chấp hành án tại trại giam có
nguy cơ tái phạm tội trong q trình chấp hành án và tái hòa nhập cộng đồng.
- Về đối tượng phòng ngừa: Xuất phát từ khái niệm trên cho thấy đối tượng
phòng ngừa ở đây là các phạm nhân đang chấp hành án tại các trại giam, đây là đối
tượng duy nhất và đặc biệt của cơng tác phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại
giam.
1.2.3. Chủ thể và mối quan hệ phối hợp giữa các chủ thể phòng ngừa tình
hình tái phạm trong trại giam
- Chủ thể trong phịng ngừa tình hình tái phạm ở trại giam:
* Ban giám thị: Trực tiếp ban hành các chương trình kế hoạch về phịng ngừa
tình hình tái phạm cũng như chỉ đạo, giám sát, chấn chỉnh…các chủ thể thực hiện
hoạt động này
* Đội trinh sát: Tham mưu cho Giám thị và trực tiếp tiến hành các hoạt động
nghiệp vụ theo quy định của pháp luật để phát hiện, ngăn chặn và đấu tranh với các

hành vi vi phạm Nội quy trại giam, vi phạm pháp luật do phạm nhân thực hiện.
* Đội Giáo dục và hồ sơ: Tham mưu cho Giám thị và phối hợp với các đội
nghiệp vụ khác, cơ bản là Cảnh sát quản giáo tiến hành các hoạt động giáo dục phạm
13


nhân, làm chuyển biến nhận thức ở họ, nhất là những phạm nhân ngoan cố, chống đối
và có ý định thực hiện hành vi vi phạm Nội quy trai giam vi phạm pháp luật, từ đó
đẩy mạnh phong trào đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn phạm nhân phạm tội mới.
Phối hợp với các đội nghiệp vụ khác đảm bảo tổ chức thực hiện đầy đủ chế độ chính
sách của nhà nước đối với phạm nhân, giải thích, phổ biến cho phạm nhân nắm rõ các
quy định của pháp luật về nội dung này, không để các đối tượng chống đối lợi dụng
để đòi yêu sách, chống đối và dẫn đến thực hiện hành vi vi phạm trong trại giam.
Phối hợp với các đội nghiệp vụ trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật cho phạm
nhân nhằm ngăn ngửa nguy cơ tái phạm.
* Đội Cảnh sát bảo vệ - cơ động: Tham mưu cho Giám thị và trực tiếp tiến
hành các hoạt động tuần tra, canh gác, dẫn giải phạm nhân. Ngăn chặn phạm nhân
móc nối với đối tượng bên ngồi hoặc đối tượng từ bên ngoài vận chuyển đồ vật cấm,
công cụ phương tiện phạm tội vào khu giam để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật;
phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm của phạm nhân.
* Đội Cảnh sát quản giáo: Trực tiếp quản lý phạm nhân trong tất cả các hoạt
động thi hành án. Nắm chắc tình hình phạm nhân về mọi mặt, phối hợp với các đội
nghiệp vụ tổ chức hoạt động lao động, học tập cho phạm nhân và giáo dục phạm nhân
từ bỏ hành vi vi phạm pháp luật; chủ động cải tạo trở thành người có ích cho xã hội,
trang bị cho phạm nhân các kĩ năng sống để tái hòa nhập cộng đồng là giảm nguy cơ
tái phạm trong phạm nhân.
* Đội tham mưu: Tham mưu cho Giám thị về việc cơ cấu, điều động bố trí cán
bộ trong trại giam nhằm phát huy tối đa sức mạnh tổng hợp các cán bộ chiến sĩ, các
đội nghiệp vụ, thực hiện tốt nhiệm vụ tổ chức thi hành án phạt tù, trong đó có tổ chức
thực hiện tốt việc phịng ngừa, ngăn chặn phạm nhân phạm tội mới cũng như giáo

dục để phòng ngừa phạm nhân tái phạm khi ra trại.
* Đội Kế hoạch, hướng nghiệp, dạy nghề và xây dựng: Tham mưu cho Giám thị
và trực tiếp phối hợp với các đội nghiệp vụ tổ chức hoạt động hướng nghiệp, dạy nghề
cho phạm nhân, trong đó có tính tốn sự phù hợp về lao động cho phạm nhân nghiện,
chuẩn bị tái hòa nhập cộng đồng. Tổ chức xây dựng, bảo đảm cơ sở vật chất cho hoạt
14


động giam giữ, giáo dục và nhất là tổ chức cai nghiện cho phạm nhân, góp phần thực
hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống tội phạm do phạm nhân thực hiện trong trại giam và
phịng ngừa tình trạng tái phạm khi phạm nhân hết án tái hòa nhập cộng đồng.
* Đội Y tế và bảo vệ mơi trường: Có nhiệm vụ tham mưu cho Giám thị và tổ
chức các hoạt động chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh cho phạm nhân, phòng ngừa
các trường hợp các đối tượng ngoan cố, chống đối trong trại giam lợi dụng chế độ
khám, chữa bệnh cho phạm nhân để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Phối hợp
các đội nghiệp vụ để tuyên truyền giáo dục cho số phạm nhân nghiện ma túy, giúp họ
cai nghiện và từ bỏ ma túy, góp phần giảm nguy cơ tái phạm tội cho phạm nhân.
- Quan hệ phối hợp giữa các chủ thể trong phịng ngừa tình hình tái phạm:
Phịng ngừa phạm nhân phạm tội trong trại giam, cũng như phịng ngừa tình
hình tái phạm của phạm nhân được tiến hành thường xuyên, liên tục trong suốt
quá trình quản lý giam giữ, giáo dục phạm nhân ở trại giam. Trên cơ sở chủ thể
phịng ngừa tình hình tái phạm có thể thấy rằng, trong q trình thực hiện nhiệm
vụ, các lực lượng trực tiếp phòng ngừa phạm nhân phạm tội cũng như phịng ngừa
tình hình tái phạm phải thường xuyên phối hợp chặt chẽ với các bộ phận nghiệp vụ
khác trong trại giam để trao đổi, cung cấp thơng tin phục vụ hoạt động phịng ngừa
tình hình tái phạm.
Bên cạnh đó, để đảm bảo an tồn trại giam và đề phịng phạm nhân móc nối
với đối tượng bên ngoài thực hiện âm mưu chống phá trại giam, các trại giam còn
phải phối hợp với các cơ quan chính quyền địa phương, các đơn vị Cơng an, Qn
đội, quần chúng nhân dân nơi các trại giam đóng quân để nắm chắc tình hình xung

quanh trại giam. Ngồi ra, khi có yêu cầu lực lượng Cảnh sát trại giam phải tích
cực phối hợp với các lực lượng nghiệp vụ khác thuộc lực lượng CAND để đấu
tranh phòng chống tội phạm.
1.2.4. Ý nghĩa của phòng ngừa tái phạm tội
Phòng ngừa tái phạm có những ý nghĩa nổi bật sau:
- Phịng ngừa tái phạm có ý nghĩa quan trọng trong việc quản lý, giáo dục, cảm
hóa những người đã từng bị kết án hướng tới con người lương thiện nói riêng và xã
15


hội con người nói chung. Bởi người đã từng bị kết án là những người đã có hành vi
vi phạm pháp luật, có tư tưởng đi ngược với lợi ích xã hội nên thông qua việc quản
lý, giáo dục, cảm hóa sẽ cung cấp các số liệu, tài liệu về những đặc điểm, nguyên
nhân, điều kiện, mục đích dẫn đến hành vi lệch chuẩn của họ nhằm giúp Nhà nước
có cơ sở xây dựng, hoạch định, điều chỉnh các chính sách phát triển kinh tế - xã hội,
các chính sách giáo dục, cải tạo đến những người chấp hành xong án phạt tù trở về
địa phương, người đang chấp hành bản án tại địa phương hoặc trong các trại giam...
Việc quản lý, giáo dục, cảm hóa tốt sẽ góp phần làm cho tình hình ANTT, kỷ cương
xã hội được tơn trọng, giữ vững và là cơ sở tạo niềm tin cho nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước, pháp luật và các chủ thể quản lý xã hội để tiến tới cơng cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Phịng ngừa tái phạm có ý nghĩa quan trọng trong cơng tác quản lý xã hội
góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Phòng ngừa tái phạm là một hoạt động mang
tính xã hội cao bởi đây là việc thực hiện các chính sách xã hội vì con người, giáo
dục, cảm hóa con người. Phịng ngừa tái phạm tội sẽ hạn chế thấp nhất những thiệt
hại do tái phạm gây ra, nhất là những thiệt hại về kinh tế. Điều này thể hiện ở những
chi phí mà Nhà nước phải bỏ ra cho các hoạt động giáo dục, cải tạo và tái hịa nhập
cộng đồng, chi phí trong q trình thi hành án. Và sẽ thật sự có ý nghĩa tích cực nếu
nó được đầu tư vào các hoạt động an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề về cơ sở vật
chất hạ tầng, tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống vật chất tinh thần người dân.

Bên cạnh đó, phòng ngừa tái phạm cũng sẽ giúp cho việc khai thác, phát huy và sử
dụng được tiền năng, sức lực lao động nhằm phát triển kinh tế cũng như xây dựng
cộng đồng dân cư an toàn. Thực tế cho thấy, đây chính là nguồn lực lao động to lớn
trong xã hội, phần lớn người đã từng bị kết án thường khơng có việc làm hoặc việc
làm khơng ổn định, đang trong độ tuổi lao động. Vì vậy, giải quyết tốt chính sách
việc làm, khuyến khích, ðộng viên các cõ quan, doanh nghiệp, tổ chức xã hội quan
tâm, tiếp nhận, giúp đỡ tạo điều kiện cả về vốn và nghề sẽ khai thác được tiềm năng
này trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước, xóa bỏ nguyên nhân và điều
kiện tái phạm.
16


- Phịng ngừa tái phạm có ý nghĩa nghiệp vụ sâu sắc đối với các chủ thể phòng
ngừa. Do đối tượng phịng ngừa có những đặc trưng riêng nên các chủ thể phòng
ngừa phải tiến hành các biện pháp nghiệp vụ chuyên môn theo chức năng, nhiệm vụ
để nắm vững tâm tư, nguyện vọng, tình hình diễn biến các hoạt động trong từng
thời gian, kịp thời phát hiện những mối quan hệ phức tạp, có biểu hiện nghi vấn tái
phạm tội và vi phạm pháp luật, ngăn ngừa tình trạng tái phạm tội từ đó góp phần
giữ vững ANTT. Cơ quan tiến hành tố tụng tiến hành các hoạt động điều tra, truy
tố, xét xử để làm rõ hành vi, đối tượng, phương thức, hậu quả để có bản án răn đe.
Cơ quan thì hành án, gia đình, chính quyền địa phương tổ chức quản lý, theo dõi,
giúp đỡ, cảm hóa nhằm nâng cao nhận thức hướng tới người lương thiện; đồng thời
tạo điều kiện cho người bị kết án tái hòa nhập với cộng đồng.
1.3. Cơ sở của phòng ngừa tái phạm
1.3.1. Cơ sở lý luận của phòng ngừa tái phạm
C. Mác và Ph.Ăng - ghen trong những nghiên cứu của mình đã nêu lên tư
tưởng cho rằng phương hướng cơ bản nhất của đấu tranh phòng, chống tội phạm là
hoạt động phòng ngừa. Điểm xuất phát là phải tổ chức lại xã hội, thực hiện tốt chính
sách xã hội vì con người, giáo dục con người mới trong xã hội, giải phóng con
người ra khỏi các thói xấu của những hình thái kinh tế - xã hội cũ thì sẽ giải phóng

tận gốc rễ ngun nhân làm phát sinh tội phạm. Không thể loại trừ tội phạm bằng
con đường cải cách những mặt riêng rẽ của xã hội, mà chỉ bằng con đường thay đổi
toàn bộ hệ thống các quan hệ xã hội, cải tạo những quan hệ xã hội bóc lột thành
quan hệ xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
Là người kế thừa học thuyết, V.I Lênin đã phát triển học thuyết phòng ngừa xã
hội của C. Mác và Ph.Ăng - ghen thành cơ sở lý luận cho cuộc đấu tranh phòng
chống tội phạm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa. V.I. Lênin chỉ rõ: "Trong lý tưởng
của chúng ta khơng có chỗ cho bạo lực của con người", và cho rằng muốn phòng
ngừa tội phạm trong điều kiện xã hội chủ nghĩa thì phải tăng cường cơng tác giáo
dục và nâng cao đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân, tạo điều kiện cho việc thủ
tiêu tội phạm. Đây là một quá trình phức tạp, lâu dài, gay go và đầy gian khổ nên
17


V.I. Lênin nhấn mạnh: "Sẽ rơi vào chủ nghĩa không tưởng nếu nghĩ rằng sau khi lật
đổ Chủ nghĩa tư bản, người ta có thể làm việc ngay trong xã hội mà không cần một
chuẩn mực pháp luật nào…"
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều
kiện cụ thể ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho lý luận
về đấu tranh phòng chống tội phạm ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra:
"Phịng ngừa tội phạm ở Việt Nam phải được coi là nhiệm vụ của tồn xã hội. Phải
đề phịng và ngăn chặn những hoạt động phạm pháp khác của bọn trộm cướp và
những phần tử tội phạm khác". Người cũng thấy được sức mạnh to lớn của quần
chúng nhân dân trong đấu tranh phịng chống tội phạm, đến mức độ: "Cơng an có
bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn đến năm bảy vạn thì lực lượng ấy vẫn cịn ít
lắm... Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành cơng nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành
cơng ít, giúp đỡ ta hồn tồn thì thắng lợi hồn tồn". Chủ tịch Hồ Chí Minh cho
rằng khi tội phạm xảy ra thì phải tìm mọi cách hạn chế, khơng để cho tội phạm, tái
phạm tội tái diễn gây ra tội ác cho xã hội.
Về nguyên nhân, điều kiện của tội phạm, GS.TS. Đào Trí Úc chỉ ra ngun

nhân và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là những mâu thuẫn của những
quá trình xã hội, theo GS.TS Võ Khánh Vinh, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm được hiểu là: "Hệ thống các hiện tượng xã hội tiêu cực trong hình
thái kinh tế - xã hội tương ứng quyết định sự ra đời của tình hình tội phạm như là
hậu quả của mình" [19]. Tập thể tác giả của trường Đại học Luật Hà Nội cũng cho
rằng: "Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là tập hợp những ảnh
hưởng, quá trình xã hội trực tiếp làm phát sinh tình hình tội phạm"
Như vậy, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể được các nhà khoa
học tiếp cận thông qua cơ chế tâm lý xã hội của hành vi phạm tội hay nói cách khác
rằng: "Tình huống, hồn cảnh cụ thể dù có thuận lợi đến đâu đi chăng nữa cũng
không thể làm phát sinh tội phạm nếu như ở một người cụ thể trước đó chưa hình
thành (khơng có) những phẩm chất cá nhân tiêu cực".
Bên cạnh đó, lý luận phịng ngừa tái phạm đã chỉ ra rằng phòng ngừa tái phạm
18


có thể thực hiện được dưới hai mức độ: Phịng ngừa tình hình tội phạm nói chung,
phịng ngừa tội phạm cụ thể. Liên quan đến vấn đề này, GS.TS Võ Khánh Vinh đã
cho rằng: "Các biện pháp phòng ngừa chung hướng đến việc khắc phục hoặc làm
mất hiệu lực các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm nói chung (trong
cả nước và trong một địa bàn" [18]. TS. Nguyễn Mạnh Kháng cho rằng: "Khi căn
cứ vào mục tiêu phịng ngừa (theo tính chất) của tội phạm thì phịng ngừa tội phạm
cụ thể có thể là phịng ngừa chung, phòng ngừa một loại tội, phòng ngừa tội phạm
cụ thể" . Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
cũng nêu: "Căn cứ vào phạm vi, mức độ tác động của biện pháp thì có những biện
pháp phịng ngừa chung, biện pháp phịng ngừa loại tội phạm và biện pháp phòng
ngừa tội phạm cụ thể". Như vậy, về mặt lý luận phòng ngừa tội phạm mà cụ thể là
các biện pháp phòng ngừa tình hình tội phạm, loại tội phạm đã được nhiều nhà khoa
học thừa nhận. Bản chất phòng ngừa tội phạm nêu ở trên cho thấy vấn đề quan
trọng, mang tính quyết định đến phòng ngừa tái phạm là xác định nguyên nhân và

điều kiện của tái phạm.
Phòng ngừa tái phạm khơng chỉ dựa vào tình hình tội phạm và phân tích những
nguyên nhân và điều kiện của tái phạm mà còn phải dựa vào thực trạng phòng ngừa
tái phạm trên địa bàn. Thực trạng này bao gồm thực trạng tổ chức, phối hợp lực
lượng; thực trạng giáo dục, cải tạo phạm nhân và quản lý tại xã, phường, trị trấn dân
cư; thực trạng triển khai, áp dụng các biện pháp phòng ngừa trong thực tế và trong
những năm gần đây. Sau khi đánh giá thực trạng phòng ngừa, các chủ thể phịng
ngừa sẽ dự báo tình hình trong tương lai, từ đó kiến nghị các biện pháp nhằm tăng
cường các hoạt động phòng ngừa, nâng cao hiệu quả của hoạt động phòng ngừa tái
phạm tội trong thời gian tới. Những vấn đề lý luận vừa trình bày ở trên là cơ sở để
tác giả xây dựng những biện pháp phòng ngừa tái phạm
1.3.2. Cơ sở pháp lý của phòng ngừa tái phạm tội
Phịng ngừa tái phạm tuy khơng có văn bản quy phạm riêng điều chỉnh nhưng
cũng đã được đề cập trong một số văn bản pháp luật của Nhà nước như: Hiến pháp
2013, BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và BLHS năm 2015, BLTTHS
19


năm 2003 và BLTTHS năm 2015, Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự năm
2015, Luật Tổ chức VKSND năm 2014, Luật đặc xá năm 2007, Luật thi hành án
hình sự năm 2010… Cụ thể:
Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nhà nước được tổ chức và hoạt động
theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật…". Điều
11 Hiến pháp quy định: "Mọi hành vi chống lại độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều bị nghiêm
trị".
Điều 4 BLHS năm 2015 quy định về các cơ quan Cơng an, Kiểm sát, Tồ án,
Tư pháp, Thanh tra và các cơ quan hữu quan khác có: "Trách nhiệm thi hành đầy đủ
chức năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan khác của
Nhà nước, tổ chức, cơng dân đấu tranh phịng ngừa và chống tội phạm".

Điều 5 BLTTHS năm 2015 quy định cơ quan nhà nước: "Trong phạm vi trách
nhiệm của mình áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm, phối hợp với cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc đấu tranh phịng, chống tội phạm". Đối
với tổ chức, cơng dân: "Có quyền và nghĩa vụ phát hiện, tố giác, báo tin về tội
phạm; tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm".
Ngày 06/9/2012, Thủ tưởng Chính phủ đã phê duyệt Quyết định số 1217/QĐTTg về chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2012 2015 nhằm tăng cường cơng tác phịng ngừa tái phạm tội trong tình hình mới.
Quyết định 1217 nêu rõ mục tiêu: "Hàng năm, giảm từ 2% đến 3% tỷ lệ tái phạm
tội trong số phạm nhân được đặc xá, mãn hạn tù…". Đây được coi mà một mục tiêu
đã được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm để kiềm chế và làm giảm sự gia tăng của tội
phạm, nhất là tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, tái phạm tội, khơng
để tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, bảo đảm ANQG, giữ gìn
TTATXH trong mọi tình huống, tạo mơi trường lành mạnh, phục vụ có hiệu quả
nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên, hạnh phúc
của nhân dân. Quyết định 1217 thực hiện từ năm 2012 đến năm 2015 đã gặt hái
được nhiều thành công, nhiều mục tiêu đặt ra vượt định mức ban đầu. Tận dụng lợi
20


×