Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.65 MB, 174 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ HOA

QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ
ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

Ngành: CNDVBC & DVLS
Mã số: 9229002
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Vũ Văn Viên
2. TS. Vũ Mạnh Toàn

Hà Nội, 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tác giả. Các
trích dẫn và số liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ
rõ ràng.

Tên tác giả

Nguyễn Thị Hoa


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của luận án ............................................................................. 1
2. Mục đích của luận án .................................................................................... 3
3. Nhiệm vụ của luận án .................................................................................... 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án ............................................. 4
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ................................ 4
6. Đóng góp mới và ý nghĩa khoa học của luận án ........................................... 5
7. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 5
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI .................................................................................................... 6
1.1. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về mối quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam.............................................. 6
1.2. Những cơng trình nghiên cứu về thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay ..................................19
1.3. Những cơng trình nghiên cứu về các giải pháp nâng cao hiệu quả giải
quyết hơn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................... 27
1.4. Những vấn đề đặt ra luận án cần giải quyết ............................................. 30
Kết luận chương 1 .......................................................................................... 32
Chương 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM............. 34
2.1. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị - cơ sở lý luận cho việc giải quyết
mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị................................... 34
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị ............................................................................. 54
Kết luận chương 2 .......................................................................................... 81


Chương 3. THỰC TRẠNG VÀ MÂU THUẪN TRONG GIẢI QUYẾT
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ

Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ........................................................................... 83
3.1. Thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay ............................................................ 83
3.2. Một số mâu thuẫn cơ bản liên quan tới đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị ở Việt Nam hiện nay ................................................................................... 96
Chương 4. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI
QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỔI MỚI KINH TẾ VÀ ĐỔI MỚI
CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .................................................... 115
4.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay .............................................................. 115
4.2. Giữ vững ổn định chính trị, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực
quản lý của Nhà nước trong quá trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.......................................................... 125
4.3. Tăng cường tổng kết thực tiễn đẩy mạnh đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị, giải quyết một cách có hiệu quả quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị ở Việt Nam hiện nay ............................................................... 142
Kết luận chương 4 ........................................................................................ 152
KẾT LUẬN .................................................................................................. 154
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 157


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Kinh tế và chính trị là hai loại hình hoạt động cơ bản nhất cho sự tồn tại
và phát triển của xã hội được tổ chức thành nhà nước. Kinh tế tồn tại và phát
triển trong một chế độ chính trị nhất định, làm cơ sở vật chất cho chế độ
chính trị đó; cịn chính trị bao giờ cũng được thiết lập trên nền tảng của một
chế độ kinh tế nhất định. Mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị quy định mọi
mối quan hệ khác của xã hội. Giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam hiện nay
có sự tương đồng về bản chất ở thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh,

dân chủ, công bằng, văn minh. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị là một nội dung cốt lõi của Đảng ta từ khi bắt đầu đổi
mới đến nay; được xác định là một trong chín mối quan hệ cơ bản (“Quan hệ
giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính
trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước và thị trường; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội;
giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ” [33, tr.80]) cần tiếp tục quán triệt và xử lý tốt trong thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mối quan hệ này biểu hiện tập
trung ở việc xây dựng, hoàn thiện mơ hình và thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa cùng một thể chế chính trị tương ứng đủ sức định
hướng cho sự phát triển của kinh tế.
Đại hội VIII (1996) của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định “quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là một trong những quan hệ cơ bản
mà thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra” [27, tr.75] và đòi hỏi phải được làm rõ
về mặt lý luận nhằm tiếp tục đưa thực tiễn đổi mới đi vào chiều sâu. Sau hơn
1


30 năm đổi mới, tuy đã đạt được những thành tựu quan trọng của q trình
đổi mới tồn diện đất nước nói chung, của q trình giải quyết quan hệ giữa
đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị nói riêng, song giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị vẫn còn nhiều bất cập, cần phải được nhận thức và giải
quyết một cách khoa học hơn trong bối cảnh hiện nay.
Về mặt nhận thức: xung quanh việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị hiện vẫn cịn tồn tại những quan điểm khác nhau.
Một số người đã tuyệt đối hóa vai trị của kinh tế trong quan hệ với chính trị,

xem nhẹ vai trị của chính trị, họ xem kinh tế thị trường là liều thuốc vạn năng
có thể chữa được bách bệnh và giải quyết được mọi vấn đề mà công cuộc đổi
mới đặt ra. Ngược lại, một số khác lại tuyệt đối hóa sức mạnh của các quyết
định chính trị, xem nhẹ vai trò của kinh tế. Một số người vẫn cho rằng kinh tế
thị trường và chủ nghĩa xã hội không thể dung hợp, theo họ, hoặc chấp nhận
kinh tế thị trường thì kinh tế phát triển, nhưng thể chế chính trị tương ứng sẽ
là chủ ghĩa tư bản. Một số khác lại cho rằng, khi chuyển sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với sự đa dạng hóa các hình thức sở hữu,
các thành phần kinh tế sẽ dẫn tới sự đa dạng hóa cơ cấu xã hội, đa dạng hóa
cơ cấu lợi ích, trong đó khơng chỉ có sự thống nhất, mà cịn có sự khác nhau,
thậm chí là mâu thuẫn nhau, do vậy, người ta cho rằng thích ứng với nền kinh
tế “đa ngun” phải là nền chính trị “đa ngun”, khơng thể duy trì mãi chế
độ lãnh đạo của một Đảng duy nhất.
Về mặt thực tiễn: có một thực tế dễ dàng nhận ra ở nước ta hiện nay: thứ
nhất, kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu
cầu và thực tế nguồn lực được huy động. “Chất lượng, hiệu quả và nâng suất
lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển
thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi trường” [33, tr.67]. Thứ
hai, đổi mới chính trị lại chậm hơn so với yêu cầu của đổi mới kinh tế. Theo
kết luận của Văn kiện Đại hội XII thì “Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi
mới kinh tế; năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa
2


ngang tầm nhiệm vụ” [33, tr.68]. Thứ ba, không chỉ chậm hơn so với kinh tế,
đổi mới trong lĩnh vực chính trị cũng bộc lộ những hạn chế mà nếu khơng kịp
thời khắc phục sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Đó là “tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là bộ máy hành chính nhà nước, có
q nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng
và hiệu quả hoạt động thấp. Chức năng và nhiệm vụ, thẩm quyền của nhiều cơ

quan còn chồng chéo” [29, tr.79].
Trong giai đoạn phát triển tiếp theo, thực tiễn đang địi hỏi phải đổi mới
chính trị với tốc độ nhanh hơn, tồn diện hơn, đồng bộ hơn, hài hịa hơn,
"cởi trói" để giải phóng các tiềm năng xã hội làm cho kinh tế phát triển
mạnh hơn, đời sống xã hội vận động nhanh hơn. Thử thách lớn nhất với
Đảng cầm quyền trong xây dựng đất nước là nhận thức, vận dụng quan hệ
giữa kinh tế và chính trị phù hợp với những đặc điểm dân tộc và bối cảnh
quốc tế. Xử lý mối quan hệ này như thế nào là thước đo tầm vóc của Đảng
cầm quyền về đối nội cũng như đối ngoại. Vì vậy, việc nghiên cứu để tiếp
tục làm rõ hơn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở nước
ta hiện nay nhằm tìm ra giải pháp đúng đắn, phù hợp thúc đẩy sự đổi mới
trên hai lĩnh vực này vẫn là vấn đề cấp bách, là địi hỏi của chính công cuộc
đổi mới nhằm hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”. Xuất phát từ những yêu cầu trên, nghiên cứu sinh chọn đề
tài: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện
nay làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.
2. Mục đích của luận án
Dựa trên việc luận chứng một cách khoa học quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hiện nay, thực
trạng giải quyết mối quan hệ này sau hơn 30 năm đổi mới, luận án đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị trong thời gian tới ở Việt Nam.

3


3. Nhiệm vụ của luận án
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể sau đây:
Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về quan hệ giữa kinh tế và chính

trị; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phân tích thực trạng giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến nay.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, phát triển kinh tế và giữ
vững ổn định chính trị ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận án là mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận án hướng trọng tâm vào nghiên cứu quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị trong thời kỳ đổi mới, từ năm 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở vận dụng
tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử; trong đó chủ yếu sử dụng một số phương pháp cơ
bản như: phương pháp lịch sử và logic, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa, phương pháp thống
kê....trong q trình nghiên cứu và thực hiện luận án. Ngồi ra, luận án còn

4


kế thừa một cách chọn lọc các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học
đi trước về vấn đề này.
6. Đóng góp mới và ý nghĩa khoa học của luận án

Đóng góp mới:
- Luận án góp phần làm rõ hơn những hạn chế và nguyên nhân của
những hạn chế trong giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam hiện nay.
- Luận án đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
vận dụng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
trong thời gian tới.
Ý nghĩa khoa học:
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình hoạch
định chính sách và chỉ đạo thực tiễn đổi mới kinh tế cũng như đổi mới chính
trị ở nước ta; đồng thời cũng là tài liệu tham khảo có giá trị trong nghiên cứu
và giảng dạy, cho sinh viên và những ai quan tâm đến vấn đề đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án
gồm 4 chương với 11 tiết.

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị nói chung, giữa đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam nói riêng là một trong những vấn đề lớn
(được xem là một trong chín mối quan hệ lớn cần được quán triệt và xử lý
tốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội), phức tạp, nhạy cảm nhưng
vô cùng quan trọng. Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn
đề này đã được cơng bố.
1.1. Những cơng trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về mối quan hệ

giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam
Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị được chủ nghĩa Mác - Lênin đề
cập chủ yếu trong các tác phẩm: “Phê phán cương lĩnh Gôta”; “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”; “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xơ viết”; “Kinh
tế và chính trị trong thời đại chun chính vơ sản”; “Bàn về thuế lương thực”;
“Bàn về chế độ hợp tác xã”…Thông qua các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin trên lĩnh vực kinh tế và chính trị đã phản ánh quan điểm và học
thuyết về các quy luật chi phối sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng hàng
hóa và dịch vụ trong xã hội lồi người qua các hình thái kinh tế - xã hội.
Thứ nhất, theo C.Mác, chính sự phát triển thị trường, hàng hóa cơng
nghiệp hóa và lập ra những đô thị đồ sộ, giai cấp tư sản đã nhanh chóng xóa
bỏ được tình trạng phân tán về tư liệu sản xuất và dân cư và tập trung hóa
nhanh chóng về mọi mặt. Xã hội tương lai thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa là
xã hội cộng sản chủ nghĩa. Xã hội đó “tổ chức theo nguyên tắc của chủ nghĩa
tập thể, dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất” [80, tr.33]. Xã hội mới
ra đời chưa có thể có đầy đủ ngay lập tức những đặc trưng mới về chính trị,
xã hội, mà phải trải qua một quá trình xây dựng từng bước, từ thấp đến cao, từ
6


chưa hoàn bị đến hoàn bị, tùy theo điều kiện phát triển của lực lượng sản xuất
và bản thân người lao động. Khắc phục những thiếu sót trong giai đoạn đầu
của xã hội mới bằng vai trò của nhà nước và của bản thân giai cấp tư sản, nhà
nước mới, một mặt ra sức bảo vệ chế độ mới về tư liệu sản xuất, mặt khác bảo
vệ sự bình đẳng trong lao động và phân phối sản phẩm.
Thứ hai, V.I.Lênin cho rằng, trong cuộc cách mạng tư sản, “nhiệm vụ
chủ yếu của quần chúng lao động là làm một công việc tiêu cực hoặc có tính
chất phá hoại” [62, tr.207]. Ngược lại, nhiệm vụ chủ yếu của cách mạng xã
hội chủ nghĩa, mà công nhân và nhân dân lao động do giai cấp công nhân lãnh
đạo là “một công tác tích cực nhằm thiết lập một mạng lưới các quan hệ tổ

chức, một mạng lưới cực kỳ phức tạp và tinh tế, bao trùm sự sản xuất và phân
phối một cách có kế hoạch các sản phẩm cần thiết cho đời sống của hàng triệu
con người. Một cuộc cách mạng như thế chỉ có thể được hồn thành thắng lợi,
nếu đa số nhân dân và trước hết là đa số những người lao động, chủ động tiến
hành một hoạt động sáng tạo có ý nghĩa lịch sử” [62, tr.207]. Sau khi giai cấp
cơng nhân giành được chính quyền, thì trọng tâm của đấu tranh cách mạng
phải chuyển sang lĩnh vực kinh tế. Theo V.I.Lênin, giai cấp công nhân đã
thiết lập được một kiểu nhà nước mới, kiểu Xơviết, nó tạo khả năng cho quần
chúng lao động và bị áp bức có thể tham gia hết sức tích cực và chủ động vào
công cuộc xây dựng xã hội mới.
Thứ ba, trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị, thì kinh tế là tính
thứ nhất, có ý nghĩa quyết định. Nói đến chủ nghĩa cộng sản là nói đến một
hình thái kinh tế xã hội cao nhất, tiến bộ nhất. C.Mác và V.I.Lênin đã từng
khẳng định, chủ nghĩa tư bản sở dĩ đánh bại chế độ phong kiến, vì nó là một
phương thức, một hình thái kinh tế xã hội cao hơn, tiến bộ hơn phương thức
sản xuất phong kiến, vì nó “đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy
dưới chế độ nông nô…chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại, và sẽ bị đánh bại
hẳn, vì chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều”
[63, tr.25]. Và chủ nghĩa xã hội sẽ đánh bại hoàn toàn và triệt để chỉ khi nào
7


tạo ra một năng suất lao động cao hơn, nhiều hơn so với phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Qua đó khẳng định tính tất yếu phải tồn tại nền q độ trong
thời đại chun chính vơ sản là sự cùng tồn tại lâu dài, đan xen và đấu tranh
trong suốt thời đại chun chính vơ sản giữa các thành phần kinh tế, mà nó
phát triển theo hướng xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, trong các tác phẩm của mình, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác - Lênin cũng đã làm rõ quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị,
trong đó kinh tế giữ vai trị quyết định; chính trị tác động trở lại bằng cách

lãnh đạo, định hướng, tạo động lực cho phát triển kinh tế. Kinh tế là cơ sở của
đời sống xã hội; sản xuất vật chất là cơ sở của nhà nước, pháp quyền và ý
thức xã hội; sở hữu tư nhân là cơ sở của xã hội đối kháng giai cấp; sở hữu xã
hội là cơ sở của xã hội xã hội chủ nghĩa. Khi phân tích mối quan hệ biện
chứng giữa kinh tế và chính trị, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, quan hệ
giữa kinh tế và chính trị là quan hệ biện chứng, chi phối các quan hệ khác
trong đời sống xã hội. Sự quyết định suy đến cùng của kinh tế đối với chính
trị thể hiện vai trị của cơ sở kinh tế, nguyên nhân, điều kiện và các quan hệ
giữa kinh tế đối với các hiện tượng chính trị. Vai trị tích cực của chính trị đối
với kinh tế thể hiện tập trung nhất vai trò của kiến trúc thượng tầng đối với cơ
sở hạ tầng; vai trị của đảng chính trị đối với xã hội.
Ở nước ta, mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có vị trí
rất quan trọng trong các mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm vững và
giải quyết tốt trong quá trình đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội. Việc nhận thức
và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là khâu đột phá
trong tư duy và thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp đổi mới của Đảng. Đảng ta ln
đặt mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị là mối quan hệ cơ bản trong quá
trình phát triển đất nước, ổn định chính trị để phát triển kinh tế, phát triển
kinh tế để giữ vững ổn định chính trị đã trở thành ngun tắc trong q trình
Đảng lãnh đạo tiến trình cách mạng nước ta. Vì vậy, Đảng ta đã khởi đầu
công cuộc đổi mới, bằng đổi mới toàn diện và sớm chú trọng giải quyết đúng
8


đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị. Quan hệ giữa kinh
tế và chính trị đã được Đảng Cộng sản Việt Nam cụ thể hóa trong các văn
kiện, Nghị quyết của Đảng, đặc biệt là thời kỳ đổi mới - từ năm 1986 đến nay:
- Trên thực tế, từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX,
đất nước ta đã lâm vào một cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội.
Và một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng chính là những

khuyết điểm trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị “là những sai
lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo
chiến lược và tổ chức thực hiện” [21, tr.26]. Nếu khơng có những yếu tố tác
động về chính trị, cơng cuộc đổi mới sẽ chỉ dừng lại ở đổi mới kinh tế - xã
hội, sẽ khơng có q trình kết hợp chặt chẽ và ngay từ đầu đổi mới kinh tế với
đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình tiếp theo
- Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi mới tư duy
chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại.
Khơng có sự đổi mới đó thì khơng có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã
đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới
kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật
chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng, củng cố niềm tin
của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Như
vậy, việc sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” đã phản ánh và đáp ứng yêu
cầu chuyển đổi từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp
sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Chế độ chính trị
của chúng ta là chế độ làm chủ của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng…Chúng ta không chấp nhận chủ nghĩa đa ngun chính trị, khơng để
cho các tổ chức chống đối chủ nghĩa xã hội ra đời và hoạt động, khơng coi
việc thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần là thực hiện chủ trương đa
nguyên về kinh tế” [22, tr.49].
- Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), “quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
9


đổi mới chính trị” là một trong những mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng
nắm vững và giải quyết tốt trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Trong những năm tới, cần “Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới
kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hồn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mở rộng dân chủ trong
Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương…” [32, tr.99 100]. Với quan điểm “Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì
mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh” [32, tr.99].
Như vậy, khi đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế
phát triển mạnh mẽ, đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện và
ngày càng nâng cao, ổn định chính trị được giữ vững, nghĩa là sức ép về phát
triển kinh tế khơng cịn gay gắt như trước, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn
diện, đồng bộ cả kinh tế, chính trị và văn hóa, bảo đảm sự phát triển hài hịa,
bền vững. Trên cơ sở đó, trong mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát phát triển đất
nước trong 5 năm tới, Đảng ta xác định: “Kế thừa và phát huy những thành
tựu, bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây, tiếp tục
thực hiện có hiệu quả các phương hướng, nhiệm vụ đúng đắn đã được đề ra
trong các Nghị quyết của Đảng, đồng thời đổi mới mạnh mẽ, tồn diện, có
bước đi phù hợp trên tất cả các lĩnh vực, nhất là giữa kinh tế và chính trị. Tiếp
tục đổi mới tư duy, hồn thiện các cơ chế, chính sách, tháo gỡ kịp thời những
khó khăn, vướng mắc nhằm khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực của đất
nước, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững” [33, tr.75-76].
Tóm lại, trong suốt q trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng ta đã
sớm ý thức được kết hợp ngay từ đầu và trong từng bước đi việc đổi mới kinh
tế và đổi mới chính trị. Đổi mới chính trị phải xuất phát từ địi hỏi của đổi mới
kinh tế, đổi mới kinh tế phải trên cơ sở của đổi mới chính trị.

10


Từ đó đến nay, đã có rất nhiều nhà khoa học, nhà chính trị quan tâm
nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Theo tác giả cơng
trình Quy luật xã hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta,

cho rằng “Toàn bộ sự phát triển xã hội bắt nguồn và dựa trên sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Quan hệ kinh tế trở thành trở lực của phát triển lực
lượng sản xuất thì nảy sinh cách mạng xã hội. Về thực chất, cách mạng xã
hội là q trình giải phóng lực lượng sản xuất khỏi những quan hệ kinh tế
cản trở nó. Và khi đã nắm được quyền lực nhà nước thì điều cơ bản sống
cịn của một chế độ chính trị là đưa lại một năng suất cao hơn chế độ chính
trị cũ” [137, tr.22 - 23].
Sau khi phân tích kinh tế chính trị khơng phải là kinh tế đơn thuần, hay
chính trị đơn thuần, kinh tế chính trị là kết hợp nhiều ngành, là tổng hợp của
kinh tế và chính trị, là xem xét kinh tế trong tiến trình phát triển của chính trị,
trong bài viết Một số vấn đề kinh tế và chính trị hiện nay, tác giả Nguyễn Chí
Trung nhận định: “Trên thực tế, Goobachop đã làm cho Đảng Cộng sản biến
chất trước khi xóa bỏ hồn tồn chế độ cộng hịa xã hội chủ nghĩa Liên Xơ,
làm cho mơ hình kinh tế Xơviết biến chất trước khi làm cho mơ hình ấy vấp
phải thất bại hồn tồn, làm cho qn đội và cơng an biến chất dẫn tới không
dám hành động bảo vệ cách mạng. Một mơ hình kinh tế sai lầm nhưng chính
trị vững chắc thì có thể sửa chữa được nhưng chính trị biến chất thì làm cho
kinh tế biến chất theo. Kinh tế biến chất lại thúc đẩy chính trị chao đảo. Chính
trị chao đảo dẫn đến sự sụp đổ chế độ” [151, tr.249 - 250].
Cùng quan điểm trên, tác giả Phạm Ngọc Quang trong bài viết Bài học
kinh nghiệm về việc xử lý mối quan hệ giữa cải tổ chính trị và cải cách kinh tế
trước đây khẳng định: “Khơng có một đường lối chính trị đúng đắn thì sẽ đưa
tồn bộ quá trình xây dựng kinh tế chệch khỏi định hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội để giải phóng triệt để con người. Bởi vì, có đường lối chính trị đúng đắn
cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng vật chất và tinh thần của nhân dân
trong nước, để thực hiện thắng lợi đường lối chính trị đã được xác định; việc
11


đổi mới hệ thống chính trị phải dựa trên thành quả đổi mới kinh tế và nhằm

đáp ứng đổi mới kinh tế; đổi mới chính trị nhằm tăng cường tính ổn định của
thể chế chính trị như là một tiền đề quan trọng cho sự phát triển kinh tế.
Ngược lại, sự tăng trưởng kinh tế được chỉ đạo bởi một định hướng chính trị
vững vàng lại trở thành cơ sở để củng cố thiết chế chính trị [108, tr.38].
Theo tác giả Lê Thanh Hà trong bài Quan điểm của C.Mác về mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị, thì “Giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện
chứng với nhau. Trong đó, quan hệ kinh tế, quan hệ sản xuất là những quan
hệ xã hội cơ bản, quyết định mọi quan hệ về chính trị, pháp luật, tư
tưởng…Giai cấp nào chiếm địa vị thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị
thống trị trong đời sống tinh thần của xã hội. Mâu thuẫn trong đời sống kinh
tế, xét đến cùng, quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
Cuộc đấu tranh trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng là biểu hiện của những mâu
thuẫn trong đời sống kinh tế” [40, tr.72].
Trong chương IV của cuốn Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Duy Quý cho
rằng: “Việc Đảng và Nhà nước ta xây dựng và thực hiện mô hình kinh tế
nhiều thành phần, đa dạng hơn nhiều loại hình sở hữu với vai trị chủ đạo của
kinh tế nhà nước, việc Nhà nước nắm trong tay những tư liệu sản xuất chủ
yếu, chi phối toàn bộ nền kinh tế - xã hội là những biểu hiện của việc vận
dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về chế độ sở hữu
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [113, tr.259]. Cùng nhận
định trên, các tác giả Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Tồn, Nguyễn Đình Hồ cho
rằng, trong q trình đổi mới, phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. “Tiến trình đổi mới căn bản mơ hình phát triển kinh tế trong suốt quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, đó là mơ hình kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Để thực hiện thành cơng sự nghiệp đổi mới thì
việc quan trọng vẫn là tiếp tục đổi mới tư duy. Phải đổi mới tư duy một cách
12



toàn diện và động bộ các mặt của đời sống xã hội đất nước” [37, tr.318]. Nói
cách khác, cùng với đổi mới tư duy kinh tế, phải đổi mới tư duy tồn diện các
mặt khác như chính trị, văn hóa, giáo dục, khoa học…trước hết là đổi mới tư
duy chính trị theo kịp đổi mới kinh tế và giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cùng với đổi mới tư duy lý luận, phải đổi mới tư duy thực tiễn. Chúng
ta phải đổi mới hệ thống chính trị một cách phù hợp với cơ sở kinh tế và giữ
vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng quan điểm trên, tác giả Vũ Trọng Dung trong cơng trình Chính
sách kinh tế mới của V.I.Lênin với chính sách phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng ta đã khẳng định chủ trương
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tức là
“Đảng ta đã thừa nhận nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là đặc trưng của
cơ cấu kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và đưa ra chủ trương
chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế nhiều thành phần” [18, tr.18].
Ngoài ra, các tác giả như Vũ Văn Phúc, Vũ Hữu Ngoạn…cũng đề cập
đến mối quan hệ giữa kinh tế là chính trị khi cho rằng trình độ xây dựng, quản
lý nhà nước, trình độ xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ảnh
hưởng trực tiếp đến những diễn biến kinh tế, đến những động lực phát triển
kinh tế. Trình độ phát triển kinh tế lại làm cơ sở vững chắc cho nền chính trị
mới [xem: 103].
Như vậy, dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, các nhà nghiên
cứu đã phân tích quan hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị, và khẳng định
rằng mọi sự phát triển xã hội đều bắt nguồn từ kinh tế và đều dựa trên cơ sở
của sự phát triển kinh tế, nhưng chính trị là yếu tố quan trọng nhất để phát
triển kinh tế. “Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải tìm mọi cách để đổi mới chính
trị, làm cho nó phù hợp với yêu cầu phát triển của kinh tế vừa định hướng cho
sự phát triển kinh tế. Mục tiêu cơ bản của đổi mới kinh tế là đưa đất nước
thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tạo tiền đề cho cơng nghiệp hóa.
Đây là vấn đề đặt ra cho luận án cần phải giải quyết” [94, tr.12].

13


Ở Việt Nam, về mặt ngữ nghĩa, “Đổi mới được hiểu là sự biến đổi cho
khác với trước, tiến bộ hơn trước, được Đảng xác định là nhằm kế thừa và
phát huy những thành quả và giá trị mà chủ nghĩa xã hội đã đạt được, thay
đổi, uốn nắn những quan điểm, nhận thức về chủ nghĩa xã hội chưa được xác
định đúng hoặc hiện nay không phù hợp với tình hình mới, sửa chữa những
sai lầm, khuyết điểm, đồng thời xây dựng những chính sách đổi mới, những
giải pháp đúng phù hợp với cuộc sống để đưa chủ nghĩa xã hội phát triển lên
một giai đoạn mới [22, tr.12].
Vấn đề đổi mới kinh tế, phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thu hút sự
quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Trong bài viết 20 năm đổi mới và sự hình
thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tác
giả Nguyễn Cúc nhận thấy sau 20 năm đổi mới đó là “Sự đổi mới từ nền tảng
kinh tế và đường lối chính trị đúng đắn. Nhờ ổn định chính trị mà đổi mới
kinh tế thuận dịng, ngược lại thành cơng về kinh tế là nền tảng bảo đảm ổn
định đổi mới hệ thống chính trị, quyết tâm đổi mới nhưng có bước đi thích
hợp và điều quan trọng hơn là càng đổi mới chuyển sang kinh tế thị trường,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội càng rõ hơn” [16, tr.13].
Cùng quan điểm trên, nhóm tác giả Đinh Thế Huynh, Phùng Hữu Phú,
Lê Hữu Nghĩa, Vũ Văn Viên, Nguyễn Viết Thông cho rằng, nhìn lại thực tiễn
30 năm đổi mới, có thể nhận rõ những bước tiến về lý luận đổi mới kinh tế
của Đảng là điểm cốt yếu, quan trọng nhất là xây dựng, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. “Đó là nền kinh tế thị trường được
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, hướng vào lợi ích
quốc gia - dân tộc, lợi ích của cộng đồng xã hội, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể. Nhà nước - doanh nhân, chủ doanh nghiệp (doanh
nhân) và người lao động. Định hướng xã hội chủ nghĩa là bảo đảm chính trị
cho phát triển kinh tế thị trường, trong đó có vai trị của thể chế, kế hoạch

điều tiết vĩ mô của Nhà nước pháp quyền, của dân chủ, bình đẳng trong sản
xuất kinh doanh và trước pháp luật cho mọi thành phần kinh tế” [59, tr.53].
14


Trong quá trình đổi mới đã làm xuất hiện nhiều nhân tố mới có vai trị
đầu tàu trong nhiều lĩnh vực của xã hội. Trong bài Một số vấn đề kinh tế - xã
hội trong thời kỳ qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, tác giả Vũ Hồng
Tiến đã tập trung làm rõ những quan điểm mới về lý luận và thực tiễn của một
số vấn đề đang được quan tâm giải quyết ở nước ta. Đó là phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu
và các thành phần kinh tế; thực hiện sự nghiệp cơng nghiêp hóa, hiện đại hóa,
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển dân số, mơi
trường, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Theo tác
giả, “dưới tác động của cơng cuộc đổi mới, với chính sách mở cửa, phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã thực sự mở ra một hướng
đi mới [xem: 122].
Thống nhất quan điểm trên, tác giả Hoàng Xuân Nghĩa cho rằng, “Đối
với Việt Nam, chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, việc giải quyết vấn đề tăng trưởng kinh tế với dân chủ, công bằng
và tiến bộ xã hội, đương nhiên có khác so với các nước. Chính đặc điểm kinh
tế, văn hóa, xã hội và truyền thống dân tộc ln đề cao giá trị “đồn kết và
tương thân tương ái”, với ý nguyện của Đảng và lòng dân cùng hướng về một
nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, tự do và hạnh phúc” sẽ có ảnh hưởng
quyết định đến cách xử lý mối quan hệ giữa tăng trưởng và công bằng xã hội”
[88, tr.177].
Theo tác giả Nguyễn Kế Tuấn “Sự đổi mới tư duy nhận thức về sở hữu
gắn liền với nhận thức đúng đắn hơn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa

và về nền kinh tế thị trường. Tính chất xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường hiện nay không phải thể hiện ở chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất dưới hai hình thức sở hữu tồn dân và sở hữu cao hay thấp,
mà chủ yếu thể hiện ở yêu cầu thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, huy
15


động các nguồn lực vào phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân,
bảo đảm công bằng và phát triển” [126, tr.166].
Bên cạnh đó, cịn có một số nhà khoa học đề cập đến vấn đề đổi mới
kinh tế, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Lê Quốc Lý “Đổi mới
tư duy lý luận về kinh tế của Đảng trong thời kỳ đổi mới” [xem: 69]; Nguyễn
Minh Thuyết “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa và
thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở nước ta” [xem: 143]; Vũ Văn Viên “Vấn
đề dân chủ trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay” [xem: 157]; Nguyễn Thế
Sang “Phát triển các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” [xem: 119]. Các bài viết này đã
đề cập đến bước phát triển đột phá trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà nước. Đó là nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo; phát
huy dân chủ trong kinh tế để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất đi đơi với nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích mọi người vượt lên
làm giàu hợp pháp, chính đáng, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo.
Tóm lại, tất cả các nghiên cứu trên có điểm chung giống nhau đều lấy thị
trường, cơ chế thị trường làm cơ sở cho hoạt động kinh tế. Cơ chế thị trường
được coi là điều kiện môi trường để thúc đẩy sự phát triển các yếu tố của nền
sản xuất, cịn Nhà nước có vai trị kinh tế nhất định trong việc khắc phục
những hạn chế của thị trường và đảm bảo công bằng xã hội. Hiện nay các nhà
khoa học đã thừa nhận: nền kinh tế hiện đại muốn phát triển phải dựa vào cả

cơ chế thị trường và sự quản lý của Nhà nước, quan điểm về “nền kinh tế hỗn
hợp” đang là cơ sở lý luận trong quản lý nhà nước.
Do tính nhạy bén và cực kỳ phức tạp của đổi mới chính trị, mỗi bước đi
vội vàng, thiếu chính chắn đều có thể gây ra những đảo lộn khôn lường, nên
Đảng ta ln lưu ý rằng việc đổi mới tư duy chính trị về chủ nghĩa xã hội
cũng như cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị cần phải đi
16


những bước đi thận trọng và vững chắc; cần phải bắt đầu từ giải quyết những
vấn đề cấp bách nhất và đã chín muồi; phải ln ln nhận thức được rằng đổi
mới chính trị, nhất là đổi mới tư duy chính trị, là cơ sở khởi phát cho việc
hoạch định đường lối, chính sách, kể cả đường lối đổi mới nói chung, cho nên
“nếu vội vã và đề ra sai lầm sẽ phải trả giá đắt, có khi khơng cứu vãn được”
[23, tr.71].
Mặc dù là một vấn đề khá phức tạp, nhạy cảm vì có liên quan đến chính
trị, nhưng do tầm quan trọng và do yêu cầu bức thiết của thực tiễn, nên đã thu
hút sự quan tâm đặc biệt của các nhà khoa học. Theo tác giả Lê Minh Thông
“Định hướng xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của đất nước hiện
nay và trong những năm tiếp theo địi hỏi hệ thống chính trị phải đóng vai trị
tích cực chủ động và sáng tạo với ý nghĩa, trong một chừng mực nào đó vượt
lên trình độ phát triển kinh tế, đi trước kinh tế để một mặt không bị lạc hậu
với sự phát triển nhanh của nền kinh tế, khơng trở thành một lực lượng kìm
hãm sự phát triển kinh tế. Mặt khác, phải chủ động đối phó với các tình huống
phức tạp bất lợi cho sự phát triển định hướng xã hội chủ nghĩa, trong quá trình
vận hành nền kinh tế thị trường và hội nhập ngày càng sâu rộng vào đời sống
quốc tế” [138, tr.204].
Cùng quan điểm trên, tác giả Phạm Ngọc Trâm cho rằng: “Đổi mới nội
dung và phương thức hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị của
Việt Nam đang trên đà phát triển theo hướng phát huy dân chủ nội bộ và

quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường quyền lực của các cơ quan dân cử,
nâng cao hiệu lực quản lý của các cơ quan nhà nước, củng cố Đảng đi đôi với
việc cải tiến sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đổi mới hệ
thống chính trị đã góp phần giữ vững được sự ổn định chính trị, chúng ta đặc
biệt coi trọng các biện pháp có hiệu quả nhằm phát huy cao nền dân chủ xã
hôi chủ nghĩa, thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân
[144, tr.306].

17


Trong đổi mới chính trị, khẳng định dân chủ và quyền làm chủ của nhân
dân với tư cách là mục tiêu và động lực của đổi mới và phát triển bền vững ở
nước ta, trong bài viết Dân chủ, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta, tác
giả Lê Quốc Lý cho rằng “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Tồn bộ hoạt
động của hệ thống chính trị ở nước ta khơng ngồi mục đích xây dựng và
từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hoạt động của hệ
thống chính trị bảo đảm cho dân chủ - quyền lực của nhân dân - được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở các cấp, trên tất cả các lĩnh vực đời sống của
xã hội nước ta” [71, tr.21]. Cùng nhận định trên, tác giả Nguyễn Phú Trọng
cho rằng hiện nay cách mạng ở nước ta đang có bước chuyển rất quan trọng:
từ kinh tế hiện vật tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, mở cửa giao lưu quốc tế, trong đó nhiệm vụ trọng tâm là từng
bước thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Cùng với q trình đó, phải thực hiện tốt dân chủ hóa xã hội, đổi mới
hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hồn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa [xem: 149].

Tác giả Vũ Hoàng Cơng cũng đồng tình với quan điểm trên khi cho rằng
“phát triển dân chủ bền vững nghĩa là tạo ra sự phát triển chung của đất nước
một cách ổn định, lâu dài và toàn diện. Sự phát triển của dân chủ phải là quá
trình vừa thiết lập các thể chế bảo đảm các quyền và tự do của nhân dân, vừa
đem lại sự hưởng thụ thực tế các quyền và tự do đó. Trong đó, đặc biệt là
hưởng thụ đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao. Và quá trình phát
triển dân chủ được đặt trên cơ sở của những thành quả của phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [14, 191-192].
Ngồi ra, cịn có các tác giả: Dương Xuân Ngọc “Nhận thức và thực hiện
đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
18


dân làm chủ trong điều kiện mới” [xem: 97]; Phạm Văn Đức “Thực hành dân
chủ - một phương thức nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
một Đảng lãnh đạo cầm quyền” [xem: 39]; Hồng Chí Bảo “Thực hành dân chủ
và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong đổi mới và hội nhập quốc tế ở
Việt Nam” [xem: 8]. Các bài viết đã làm rõ đổi mới hệ thống chính trị là yếu tố
quan trọng để thực hành và phát huy dân chủ ở nước ta hiện nay. Trong điều
kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội, nói tới chính trị thì trước hết là sự đảm bảo vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, hiệu lực quản lý của Nhà nước,
quyền làm chủ của nhân dân lao động trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Việc đổi mới hệ thống chính trị phải được sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
đây cũng là nhân tố bảo đảm xây dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong điều kiện hiện nay.
Như vậy, dù có nhiều quan điểm và nhận thức khác nhau trong vấn đề
đổi mới chính trị, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhưng hầu hết các
bài viết trên đều cho rằng: mục đích cuối cùng của việc đổi mới và xây dựng
hệ thống chính trị là nhằm thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.

1.2. Những cơng trình nghiên cứu về thực trạng giải quyết mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam từ khi đổi mới đến
nay
Trước yêu cầu bức xúc của công cuộc đổi mới, vấn đề quan hệ giữa đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều
nhà lý luận. Tác giả Dương Xuân Ngọc khẳng định “Thực chất của mối quan
hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là quan hệ giữa đổi mới nền kinh
tế với đổi mới nền chính trị (mà cơ bản là hệ thống chính trị) hướng tới tạo
lập một thể chế kinh tế - chính trị bảo đảm cho sự phát triển kinh tế, mở rộng
và phát huy dân chủ, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” [95, tr.88]. Cũng
theo tác giả để giải quyết có hiệu quả mối quan hệ này trong thực tiễn cần
phải giải quyết tốt các mối quan hệ thứ cấp, phản ánh tập trung nhất bản chất,
19


nội dung, xu hướng mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị:
“Quan hệ giữa xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa với xây dựng và hoàn thiện thể chế chính trị dân chủ xã hội
chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển kinh tế thị trường với bảo đảm định hướng
xã hội chủ nghĩa; quan hệ giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội…[95, tr.89].
Theo tác giả Vũ Văn Phúc, một trong những bài học kinh nghiệm được
Đảng ta xác định là “Kết hợp giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, trong
đó đổi mới kinh tế là hàng đầu, đồng thời đổi mới từng bước tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Có ổn định về chính trị mới có
điều kiện ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới tư duy kinh tế và đổi
mới tư duy chính trị gắn liền với nhau, tạo điều kiện và làm tiền đề cho nhau,
bảo đảm cho công cuộc đổi mới dù diễn ra trong những điều kiện vơ cùng khó
khăn nhưng vẫn tiến triển vững chắc” [103, tr.111]. Tác giả Nguyễn Phú
Trọng thì cho rằng “Mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có

vị trí rất quan trọng trong các mối quan hệ lớn cần đặc biệt chú trọng nắm
vững và giải quyết tốt trong quá trình đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, vì nó liên quan đến yếu tố kinh tế được xem như là nền tảng số một của sự
phát triển, đồng thời, liên quan đến chính trị là yếu tố nhạy cảm nhất, phức tạp
nhất trong đời sống xã hội” [148, tr.52].
Trong luận án tiến sĩ Quan hệ biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị ở nước ta hiện nay, tác giả luận án Lưu Thị Bích Thu cho rằng
để giải quyết có hiệu quả quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, thì phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trên lĩnh vực kinh tế. Đồng thời, theo tác giả, cần phải
giải quyết những mâu thuẫn liên quan đến đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị
ở nước ta hiện nay như: mâu thuẫn giữa khuynh hướng xã hội chủ nghĩa và
khuynh hướng tư bản chủ nghĩa của quá trình phát triển kinh tế thị trường
20


định hướng xã hội chủ nghĩa; mâu thuẫn giữa giữ vững độc lập, tự chủ với hội
nhập khu vực và quốc tế; mâu thuẫn giữa việc giải quyết cái đói, cái nghèo,
cái lạc hậu trước mắt với năng lực có hạn của nền kinh tế [xem: 141].
Ngồi ra, có nhiều tác giả như Hồng Chí Bảo, Dương Phú Hiệp,
Lương Đình Hải, Trần Văn Phòng, Lê Minh Quân cũng đã đề cập đến mối
quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là mối quan hệ cơ bản,
chi phối toàn bộ sự vận động của đời sống xã hội xuất phát từ vai trò của
kinh tế đối với sự phát triển xã hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội,
cũng như khả năng tác động trở lại của nhân tố chính trị đối với kinh tế và
đời sống xã hội [xem: 7]. “Trong mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị thì
chính trị (đường lối, chính sách) giữ vai trị quyết định đối với kinh tế (phát
triển kinh tế), chính trị lãnh đạo (định hướng, dẫn dắt) kinh tế trên cơ sở
nắm vững những quy luật tất yếu của kinh tế. Trong điều kiện kinh tế thị

trường, chính trị lãnh đạo, dẫn dắt kinh tế chủ yếu thống qua chính sách
(chính sách cơng)” [111, tr.14].
Bên cạnh đó, có nhiều cơng trình cũng đề cập đến các khía cạnh khác
nhau của quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Tác giả Phạm Văn Đức “Mối quan
hệ giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội nhìn từ biện chứng của sự tiến
hóa lịch sử, một số đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” [xem: 38]; Tác giả Nguyễn Gia Thơ “Mối quan hệ giữa
kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [xem: 140] ; Tác giả Vũ Văn Phúc “Mối quan hệ
giữa vai trò của thị trường với vai trò của Nhà nước trong thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” [xem: 106]; Tác giả Dương Phú Hiệp
“Sự đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường”
[xem: 51]. Các tác giả đã phân tích một số vấn đề cơ bản hiện nay trong giải
quyết quan hệ giữa kinh tế và chính trị ở Việt Nam: quan hệ giữa lợi ích kinh
tế và quyền lực chính trị; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay; mơ hình nhất nguyên chính trị ở nước ta hiện nay; tăng
21


×