Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.39 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG SINH

VAI TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ


HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ HỒNG SINH

VAI TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TS. VÕ KHÁNH VINH


HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “ Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi, dưới sự hướng dẫn khoa học của GS-TS Võ Khánh Vinh. Các số liệu ghi
trong luận văn là có thật, kết quả nghiên cứu là trung thực.Tơi hồn tồn chịu
trách nhiệm về kết quả nghiên cứu và tính trung thực của luận văn .

Tác giả luận văn

Lê Hồng Sinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ VAI
TRÒ NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH
SỰ .............................................................................................................................9
1.1. Khái niệm người bào chữa ..............................................................................9
1.2. Vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..............14
1.3. Lịch sử hình thành và phát triển địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố
tụng hình sự Việt Nam .........................................................................................25
1.4. Những yếu tố tác động đến vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều
tra vụ án hình sự ...................................................................................................26
Chương 2: THỰC TRẠNG VAI TRỊ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG
GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH......................................................................................................................30
2.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trị của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự .........................................................30
2.2. Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự về vai trị
của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại Thành phố Hồ Chí

Minh trong bốn năm ( 2015-2018). .....................................................................31
2.3. Thực trạng tác động đến việc thực hiện quy định của pháp luật Tố tụng hình
sự về vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự tại thành


phố Hồ Chí Minh .................................................................................................42
2.4. Vai trị của người bào chữa là luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
của một số nước trên thế giới ...............................................................................51
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA NGƯỜI BÀO
CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ...........................59
3.1. Hồn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về địa vị pháp lý của
người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự........................................59
3.2. Hồn thiện tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về
địa vị pháp lý của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự ..........67
3.3. Các giải pháp khác ........................................................................................68
KẾT LUẬN ............................................................................................................72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT


: Cơ quan điều tra

CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

KSV

: Kiểm sát viên

LSBC

: Luật sư bào chữa

NBC

: Người bào chữa

NBBT

: Người bị buộc tội

TPHCM

: thành phố Hồ Chí Minh

TTHS

: Tố tụng hình sự


VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng số liệu về số lượng luật sư và tổ chức hành nghề luật sư trên địa bàn
cả nước trong bốn năm ( 2015 - 2018 ).
Kết quả khảo sát hoạt động bào chữa của luật sư thuộc Đồn Luật sư thành
phố Hồ Chí Minh trong bốn năm ( 2015 - 2018 ).


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ quyền con người luôn là nhiệm vụ quan trong của nhà nước Xã hội
Chủ nghĩa ở nước ta, ngày nay nhiệm vụ này càng quan trọng hơn bao giờ,trong
bối cảnh lịch sử Việt nam đang tiến hành công cuộc đổi mới, hội nhập sâu rộng
cùng bạn bè trong khu vực và trên thế giới. Song song với nhiệm vụ phát triển
kinh tế Đảng và Nhà nước ta chú trọng xây dựng một nhà nước pháp quyền ” của
dân, do dân, vì dân”, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo cho việc phát
triển các quyền tự do, dân chủ của công dân. Quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là quyền cơ bản quan trọng của cơng dân khi tham gia vào q
trình tố tụng. Đảm bảo quyền bào chữa luôn là nguyên tắc Hiến định được thể chế
hoá từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013. Đặc biệt trong giai đoạn

điều tra vụ án hình sự thì việc bảo đảm quyền bào chữa thì càng có ý nghĩa quan
trọng đối với người bị tạm giữ, bị can. Điều tra là giai đoạn trước truy tố trong quá
trình tiến hành tố tụng hình sự, chính vì vậy quyền bảo đảm cho quyền bào chữa
trong giai đoạn điều tra sẽ giúp cho việc gỡ tội, chứng minh sự vơ tội, làm giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị tạm giữ, bị can. Đồng thời bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của các đối tượng này. Quy định của pháp luật về tư
cách người bào chữa với người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là
khác nhau. Mặc dù vậy, nội dung của Hiến pháp năm 2013 quy định: vai trò người
bào chữa tham gia tố tụng với tư cách nào, ở giai đoạn tố tụng nào đều có ý nghĩa
to lớn trong việc bảo vệ công lý, bảo đảm cho các hoạt động tố tụng được tiến
hành khách quan, đúng pháp luật.
1


BLTTHS năm 2015 là quan điểm, tư tưởng xuyên suốt quá trình xây
dựng,vận hành của cơ chế, trình tự tố tụng hình sự, là nền tảng cho các chủ thể tiến
hành và tham gia tố tụng thực hiện đúng chức năng, quyền hạn, nghĩa vụ của mình,
nhằm bảo đảm mục tiệu, nhiệm vụ của tố tụng hình sự phù hợp với điều kiện lịch sử,
cụ thể của Việt Nam.Trong các giai đoạn tiến hành tố tụng có nhiều đụng chạm,có
thể dẫn đến việc hạn chế quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của cơng dân,
nên địi hỏi giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải có sự tham gia của người bào chữa
để các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng tuân thủ đúng pháp luật và
các nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Những năm gần đây,tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta trong lĩnh vực
hình sự diễn biến phức tạp về tính chất và mức độ. Tuy nhiên, chất lượng công tác
cải cách tư pháp vẫn chưa đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong đời sống xã hội, còn
bộc lộ nhiều yếu kém, như bỏ lọt tội phạm, làm oan sai người vô tội; xâm phạm
đến các quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội và công dân,gây
nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bị kết án oan, người thân của họ và cho xã hội.
Đây chính là điều kiện để bảo đảm tính hiện thực của quyền con người, quyền

công dân, bảo đảm sự cân bằng, minh bạch và lành mạnh giữa các lợi ích trong
mối quan hệ giữa Nhà nước với con người, công dân, cá nhân và phù hợp với các
công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên.
Tố tụng hình sự nhằm giải quyết vụ án hình sự mà mục tiêu là đấu tranh
phòng và chống tội phạm. Trong hoạt động ấy đã hình thành một bên nhân danh
nhà nước, gồm có: Cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng gồm cơ quan tiến hành
2


tố tụng và cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Cơ quan tiến hành tố tụng là: Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát; Tòa án. Như
vậy, phạm vi chủ thể của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao hàm cả cơ
quan tiến hành tố tụng trong đó.
Một bên thực hiện việc buộc tội đối với bị can, bị cáo còn bên kia thực hiện
chức năng gỡ tội (gọi chung là người bào chữa bao gồm: Luật sư, BCVND,
TGVPL ...). Trong hoạt động tố tụng, đều có chung một mục đích là làm rõ sự thật
của vụ án, chính xác, khách quan, nhanh chóng và xử lý cơng minh, kịp thời mọi
hành vi phạm tội, đảm bảo xét xử đúng người đúng tội, không để lọt tội phạm,
không làm oan người vơ tội.
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 và Nghị
quyết số 49/NQ-TW ngày 2-6-2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Hoạt động bào chữa, vai trị của người bào chữa là khơng thể thiếu và cần phải
được phát huy có hiệu quả. Việc nghiên cứu cơ sở lý luận, thực tiễn để làm sáng tỏ
các hoạt động trong quá trình tố tụng hình sự, thơng qua vai trị của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra VAHS là cần thiết và cấp bách.
Vì lý do đó tác giả chọn đề tài: “Vai trị của người của người bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thanh phố Hồ Chí
Minh“ để làm luận văn Thạc sĩ của tác giả .
2. Tình hình nghiên cứu :

Tác giả chọn đề tài “Vai trò của người của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thanh phố Hồ Chí Minh“ trong luật
thực định Việt nam.
3


Thơng qua đó tìm ra những tồn tại, hạn chế về mặt thự tiễn so với quy định
của pháp luật tố tụng hình sự, chỉ ra đượng những nguyên nhân của vấn đề, từ đó
nêu ra những giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Qua đó nhằm bảo đảm quyền bào chữa cho
người bị tạm giữ, bị can trong giai đoạn điều tra. Tạo điều kiện cho các đối tượng
này để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước cơ quan tiến hành tố tụng
và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu :
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn, bản chất, nội dung về vấn đề vai trò của người bào chữa trong
giai đoạn điều tra VAHS. Đồng thời nêu ra những bất cập của các quy định trong
BLTTHS, các cơ quan THTT trong hoạt động giai đoạn điều tra VAHS và những
bất cập về vai trò của người bào chữa trong thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh, thơng qua đó đề xuất những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động
vai trò của người bào chữa nhằm hướng tới xây dựng một nền tố tụng hình sự Viêt
nam thực sự cơng bằng, dân chủ góp phần thực hiện q trình cải cách tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt ra là:
Nghiên cứu cơ sở lý luận của hoạt động của các cơ quan THTT trong hoạt động
giai đoạn điều tra VAHS và vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra:
Khái niệm, đặc điểm, điều kiện, yêu cầu, ý nghĩa; Cơ sở pháp lý quy định về vai
trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu :
4



Từ những nội dung trên tìm hiểu về vai trị của người bào chữa trong giai
đoạn điều tra VAHS trong thực tiễn áp dụng theo luật định hiện hành,trên cơ sở
kết quả nghiên cứu và những đánh giá về thực trạng tranh hiện nay, luận văn đề
xuất một số giải pháp về vai trò của người bào chữa nhằm nâng cao hiệu quả vai
trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS ở nước ta trước yêu cầu cải
cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu tập trung ở đề tài ” Vai trò của người của người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự”theo quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 ( BLTTHS ) và Thông tư 70/2011/TT/BCA ngày 10 tháng 10
năm 2011 của Bộ trưởng Bộ công an quy định chi tiết thi hành các quy định của
Bộ luật tố tụng hình sự liên quan đến việc bảo đảm quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự và một số van bản Quy phạm pháp luật khác.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu, phân tích làm rõ nguyên tắc bảo đảm quyền bào
chữa trong giai đoạn điều tra, các biện pháp bảo đảm quyền bào chữa trong giai
đoạn điều tra. Một số tồn tại, hạn chế trong thực tiễn bảo đảm quyền bào chữa đến
từ phía cơ quan điều tra, người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can. Nguyên nhân
và giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự.
Để cho hoạt động của người bào chữa có hiệu quả thì nhiều vấn đề cả về
5


pháp lý, lý luận và thực tiễn cần phải được làm rõ,đó là vấn đề lớn.Trong phạm vi
của một luận văn thạc sĩ không thể xem xét và giải quyết hết mọi vấn đề mà chỉ
dừng lại nghiên cứu một vấn đề: “Vai trò của người của người bào chữa trong

giai đoạn điều tra vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh“
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp luận nghiên cứu
Vận dụng quan điểm Duy vật biện chứng của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, tinh thần, nội dung nghị quyết các thời kỳ đại hội của Đảng
Cộng sản Việt Nam để giải quyết các vấn đề đặt ra trong luận văn.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp nghiên cứu: Phân tích luật viết, phân tích, so
sánh, tổng hợp, liệt kê, thống kê số liệu .Dựa vào việc nghiên cứu các văn bản
pháp luật trong lịch sử tố tụng hình sự Việt Nam. Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp
luật hiện hành trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Về lý luận:
Thông qua nội dung nghiên cứu trong luận văn góp một phần vào việc
hồn chỉnh thêm những qui định hiện hành trong pháp luật tố tụng hình sự về vai
trị của người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS để hướng tới yêu cầu trọng
tâm của cải cách tư pháp theo tinh thần của Nghị Quyết 49/NQ-TW của Bộ chính
trị về cơng cuộc cải cách tư pháp cho đến năm 2020.

6


6.1. Về thực tiễn:
Thông qua những kiến nghị cụ thể trong luận văn hy vọng góp một phần
vào hoạt động của người bào trong các giai đoạn tố tụng hình sự , đặc biệt là vai
trò người bào chữa trong giai đoạn đầu của tố tụng: “giai đoạn điều tra vụ án hình
sự” nhằm nâng cao hiệu quả theo tinh thần cải cách tư pháp của Bộ chính trị.
Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, trong các giai đoạn tố tụng
hình sự, thì giai đoạn khởi tố, điều tra là giai đoạn dễ xâm phạm quyền con người
nhất. Vì vậy, trong giai đoạn này, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành

nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình điều tra vụ án, bảo đảm bất cứ hành vi
phạm tội nào xâm phạm đến quyền con người đều phải được phát hiện, xử lý
trước pháp luật và các hoạt động điều tra. Vai trò của người bào chữa rất cần thiết,
để đảm bảo các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can
được tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục các chữ viết tắt, bảng biểu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử pháp luật về vai trò người bào
chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Chương 2: Thực trạng vai trị của người bào chữa trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm vai trò của người bào chữa là Luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
7


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ PHÁP LUẬT VỀ VAI TRÒ
NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm người bào chữa
1.1.1. Khái niệm người bào chữa
Vấn đề định nghĩa người bào chữa: xung quanh khái niệm này có nhiều ý
kiến khác nhau, cho rằng “Người bào chữa là người tham gia tố tụng để giúp đỡ
tòa án” hay“Người bào chữa là người giúp đỡ tòa án trong việc xác định các tình
tiết cần thiết về vụ án để cuối cùng tịa án ra một bản án có căn cứ pháp luật”,
thậm chí có quan điểm cịn cho rằng. Người bào chữa tham gia tố tụng là nhằm để

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội, chứng minh sự vô tội
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo.
Những người khơng được bào chữa gồm: Người dịch thuật, người định giá
tài sản, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đã bị kết án chưa được
xóa án tích, người đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai
nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc ( khoản 4 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình
sự 2015).
1.1.2. Khái niệm người bào chữa là luật sư
Hoạt động tham gia tố tụng/tranh tụng của Luật sư luôn gắn liền với hoạt
động xét xử, thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước; ảnh hưởng trực tiếp đến tự
do, tài sản, các quyền nhân thân, thậm chí cả tính mạng của khách hàng.
Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Toà án là độc
9


lập, công khai, các bên (bên buộc tội và bên gỡ tội) trong vụ án hình sự. Đối với
VAHS, Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc
tội, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị
khởi tố hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, đương sự. Luật sư
tham gia tố tụng VAHS xác định tư cách tố tụng một cách độc lập, có các quyền
và nghĩa vụ tương ứng theo quy định tại các luật, bộ luật tố tụng liên quan.
Khái niệm người bào chữa là luật sư như sau:“ Tham gia tố tụng là hoạt
động của luật sư trong việc cung cấp dịch vu pháp lý với tư cách người bào chữa,
người đại diện hoặc người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho khách hàng“. Hoạt
động tố tụng của Luật sư là hoạt động có tính đối kháng cao, đặc biệt là này ln
diễn ra trong không gian và thời gian theo quy định tại các luật, bộ luật tố tụng
liên quan. [20, tr. 26].
1.1.3. Sự khác nhau giữa người bào chữa là luật sư với người bào chữa khác
Tính chất của nghề Luật sư:
Hiến pháp năm 2013 có những tác động lớn và quan trọng đến vai trị, vị trí

của luật sư trong xã hội, trong hệ thống chính trị và trong hoạt động nghề nghiệp.
Điều 3 của Luật luật sư (sửa đổi năm 2012) quy định như sau : “Hoạt động nghề
nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ cơng lý, các quyền tự do, dân chủ của công
dân... Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Luật sư là một nghề tự do được xã hội tôn trọng,hoạt động độc lập, chịu
trách nhiệm cá nhân. Uy tín và thương hiệu của mỗi luật sư là cơ sở quan trọng
nhất để luật sư phát triển nghề nghiệp và đóng góp cho xã hội. Nó gắn liều uy tín
10


và danh dự nghề nghiệp. Luật sư là một nghề dịch vụ có tính đặc thù vì có liên
quan đến quyền và lợi ích của khách hàng và pháp luật của Nhà nước - các cơ
quan THTT, các cơ quan nhà nước khác. Vì vậy luật sư một mặt phải bảo vệ
quyền lợi tốt nhất cho khách hàng, mặt khác phải ứng xử và phối hợp với các cơ
quan nhà nước để cùng nhau góp phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ pháp chế. Nghề luật
sư va chạm với nhiều mặt trái xã hội, những vấn đề kinh tế và thể chế xã hội. Luật
luật sư: “ Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn,điều kiện hành nghề theo quy định của
Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức “.
Tiêu chuẩn người hành nghề luật sư: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc.... Nghề luật sư trước hết là một nghề luật, nền tảng hoạt động phải dựa trên
pháp luật và các quy chế trách nhiệm nghề nghiệp. Pháp luật về luật sư được coi là
hệ thống các quy phạm pháp luật xác định vị trí, vai trị của luật sư trong xã hội,
quy định các quyền và nghĩa vụ của luật sư trong hành nghề, phạm vi quản lý nhà
nước đối với hoạt động luật sư, tính tự quản trong tổ chức nghề nghiệp... Trong
lĩnh vực tố tụng, luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hình
sự...[23]
Năm 2018 số luật sư thành viên của cả nước là: 13.081 luật sư, số luật sư

hoạt động chuyên về tham gia tố tụng chiếm đa số so với các luật sư hoạt động
chuyên về tư vấn pháp luật cũng như cung cấp các dịch vụ pháp lý khác. Việc luật
sư tham gia tố tụng không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị
cáo, quyền được bảo vệ lợi ích hợp pháp của các đương sự, mà còn giúp các cơ
quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, sai lầm, hạn chế oan
11


sai, làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Về người bào chữa là Bào chữa viên nhân dân:
Đây là một diện chủ thể mang tính đặc thù vai trị người bao chữa là Bào
chữa viên nhân dân ở Việt Nam, được hình thành trong bối cảnh cuộc kháng chiến
chống Pháp (theo Sắc lệnh 69-SL ngày 18 tháng 6 năm 1949). Theo Nghị định số
01 ngày 12 tháng 1 năm 1950 của Bộ Tư pháp thì điều kiện trở thành bào chữa
viên chỉ bao gồm: người có quốc tịch Việt Nam, ít nhất 21 tuổi, hạnh kiểm tốt và
chưa can án, được Chánh án lựa chọn (hàng năm).
BLTTHS năm 2015 quy định: Bào chữa viên nhân dân là công dân Việt
Nam từ 18 tuổi trở lên, trung thành với Tổ quốc, có phẩm chất đạo đức tốt, có kiến
thức pháp lý, đủ sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, được Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hoặc tổ chức thành viên của Mặt trận cử tham gia bào
chữa cho người bị buộc tội là thành viên của tổ chức mình. Bào chữa viên nhân
dân tham gia tố tụng để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong 2
trường hợp sau:
Thứ nhất: nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ khơng
mời người bào chữa thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đề nghị Mặt trận
tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành
viên của tổ chức mình (điểm c khoản 2 điều 76 BLTTHS 2015).
Thứ hai: Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của mặt
trận tự cử Bào chữa viên nhân dân tham gia TTHS. Theo quy định tại khoản 4
điều 75 BLTTHS năm 2015, Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên

của Mặt trận có quyền và trách nhiệm tự cử Bào chữa viên nhân dân tham gia
12


TTHS để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức
mình.” [11].
Về người bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý:
Trợ giúp pháp lý theo BLTTHS năm 2015: Trợ giúp viên pháp lý là một
dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý theo quy định.
Do tính chất của vụ việc trợ giúp pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp
pháp của người được trợ giúp pháp lý và không thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương
mại, nên TGPL là trách nhiệm của Nhà nước. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt trong
việc thực hiện, tổ chức thực hiện TGPL, khuyến khích tạo điều kiện để MTTQVN
và các tổ chức thành viên, các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác tham gia thực hiện
( Điều 8 Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017).
Về người bào chữa là “ người đại diện hợp pháp “
Là người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là bố mẹ
đẻ, bố mẹ nuôi, người đỡ đầu, anh, chị em ruột và những người theo quy định của
pháp luật đối với bị can bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về
thể chất hoặc tinh thần.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can... nếu tham gia bào
chữa thì họ cũng có những quyền như người bị tạm giữ, bị can...
Đối với Pháp nhân Thương mại: BLTTHS năm 2015 quy định người bị
tạm giữ, bị can là người hoặc Pháp nhân“Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi
tố về hình sự. Quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân được thực hiện thông
qua người đại diện theo pháp luật của pháp nhân theo quy định của Bộ luật này”;
13


Pháp nhân thương mại :Với tư cách là chủ thể của pháp luật tố tụng hình sự, pháp

nhân thơng qua người đại diện theo pháp luật có quyền và nghĩa vụ tham gia đầy
đủ vào các giai đoạn tố tụng hình sự được quy định tại Điều 434 Bộ luật tố tụng
hình sự. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật.

1.2. Vai trò của người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
1.2.1. Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Vai trị người bào chữa là tổng hịa các hành vi tố tụng hướng tới bãi bỏ sự
buộc tội và xác định bị can khơng có lỗi hoặc nhằm làm giảm nhẹ trách nhiệm của
bị can”,“Bào chữa trong tố tụng hình sự khơng chỉ là tổng hồ các hành vi tố tụng
hướng tới việc bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm mà còn là tổng hồ
các mối quan hệ tố tụng nhằm tới mục đích làm cho tình trạng của người bị buộc
tội tốt hơn và bảo đảm các quyền và lợi ích của người đó trong vụ án.
1.2.2. Sự khác nhau giữa vai trị người bào chữa trong giai đoạn điều tra
VAHS với vai trò người bào chữa trong giai đoạn khác :
Vai trò người bào chữa giai đoạn tranh tung trong tố tụng hình sự : Kiểm sát
viên khi luận tội phải căn cứ vào những chứng cứ,tài liệu đồ vật đã được kiểm tra
tại phiên toà và ý kiến của bị cáo , người bào chữa và những người tham gia tố
tụng khác tại phiên tồ. Người bào chữa có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng
cứ, tài liệu và những lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những
chứng cứ buộc tội, gỡ tội. Mơ hình tố tụng hình sự thẩm vấn hiện nay ở Việt nam,
cho phép mở rộng khả năng tranh tụng ( người bào chữa ), đối kháng giữa một
14


bên buộc tội và một bên gỡ tội. Đề cao vai trị của Tồ án như một trọng tài khách
quan là hoàn toàn phù hợp với chủ trương nêu trong Nghị quyết số 08-NQ/TW và
NQ số 49-NQ/TW của Bộ chính trị Đảng Cộng sản Việt nam khố IX.
Phát huy tính kế thừa của Bộ Luật Tố tụng hình sự Việt nam qua các thời
kỳ, khái quát chung về vai trò người bào chữa như sau:
”Quyền bào chữa là trong những quyền cơ bản và đặc trưng của mỗi

công dân, bảo đảm quyền bào chữa trong tố tụng hình sự là nguyên tắc quan
trọng của tố tụng hình sự xã hội chủ nghĩa.Việc thực hiện nguyên tắc quyền
bào chữa không những thể hiện tính dân chủ mà cịn thể hiện tính nhân đạo
xã hội chủ nghĩa trong hoạt động tư pháp xã hội chủ nghĩa. “Người bào chữa
trong tố tụng hình sự là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vơ tội hoặc
làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội, giúp người bị buộc
tội về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thơng qua
đó góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
1.2.3. Mối quan hệ giữa vai trò và địa vị pháp lý của Luật sư trong giai
đoạn điều vụ án hình sự
Bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho các đương sự là một trong những hoạt
động quan trọng, và trong nhiều trường hợp là quy định bắt buộc khơng thể thiếu
trong q trình giải quyết vụ án hình sự, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng
của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bị hại; người có quyền, nghĩa vụ liên
quan trong vụ án hình sự. Thực tiễn cho thấy, khơng phải người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, đương sự nào cũng có khả năng tự bào chữa, tự bảo vệ quyền lợi hợp pháp
cho mình. Để thực hiện được tốt nhiệm vụ bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp
15


cho người bị tạm giữ, bị can... bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, người bào chữa
cần được tham gia vào giai đoạn điều tra VAHS. Điều 74 Bộ luật Tố tụng hình sự
2015 quy định như sau: Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can.
Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi
người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ
tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ.
Vai trò người bào chữa trong giai đoạn điều tra VAHS là việc dùng lý lẽ ,
đưa ra tài liệu, chứng cứ để xác định tình trạng vơ tội hoặc làm giảm nhẹ trách
nhiệm của bị can... trong giai đoạn điều tra của vụ án.Với tính chất là một giai
đoạn quan trọng trong quá trình tố tụng, giai đoạn điều tra là giai đoạn quan trọng

của tố tụng hình sự, nhằm thu thập, củng cố, đánh giá chứng cứ để làm sáng tỏ sự
thật khách quan của vụ án bởi theo quy định của BLTTHS.
1.2.4. Các nguyên tắc cơ bản trong Bộ luật TTHS:
Đặc điểm chung của mơ hình tố tụng hình sự tồn tại 3 chức năng cơ bản:
Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Sự ra đời của Nghị
quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị khóa XI đã đặt cơ sở quan
trọng cho việc tiếp tục đổi mới và cải cách tư pháp. Hoạt động tố tụng hình sự,
nhất là giai đoạn điều tra VAHS được quan tâm hàng đầu trong vấn đề cải cách tư
pháp không chỉ tại Việt Nam mà còn cả ở các nước trên thế giới. Mục tiêu là bảo
đảm việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh oan sai cho người vô
tội gắn với việc đảm bảo quyền con người. Trong quá trình hình thành và phát
triển của pháp luật Việt Nam, các nhà nghiên cứu và lập pháp quan tâm đến pháp
điển hoá chế định các nguyên tắc cơ bản nhằm bảo đảm quy định về nguyên tắc
16


cơ bản đúng nghĩa là những tư tưởng chỉ đạo cho việc xây dựng và thực hiện Bộ
luật TTHS, trên cơ sở bổ sung một số nguyên tắc Hiến pháp năm 2013.
Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định 26 nguyên tắc cơ bản, trong đó có 03
nguyên tắc liên quan trực tiếp đến việc khẳng định, nâng cao vi thế, vai trị của
người bào chữa trong TTHS đó là:”Ngun tắc suy đốn vơ tội”- Đ13 - BLTTHS
năm 2015: “ Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được
chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết
tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng
tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị
buộc tội khơng có tội“. Khoản 2 Điều 14 Cơng ước về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966 của Liên hơp quốc (Việt Nam gia nhập ngày 24 tháng 9 năm 1982)
quy định : “Người bị cáo buộc là phạm tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho
tới khi hành vi phạm tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”. Điều 72

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) thể hiện tư tưởng suy đốn vơ
tội qua nội dung quy định : “khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tồ án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 9- Điều 10 Bộ
luật TTHS năm 2003 ghi nhận tư tưởng về suy đốn vơ tội, trách nhiệm chứng
minh tội phạm thuộc về các cơ quan THTT. Bị can, bị cáo có quyền nhưng khơng
buộc phải chứng minh là mình vơ tội .Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy
định “ Người bị buộc tội”. [19]
1.2.5. Các chức năng cơ bản trong Bộ luật TTHS:
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định tại Điều 16 “ Bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội ...”.
17


×