Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Vấn đề thực hiện chính sách tôn giáo đối với đạo cao đài ở tây ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 107 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN PHƯC LỘC

VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI
ĐẠO CAO ĐÀI Ở TÂY NINH HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN PHƯC LỘC

VẤN ĐỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO ĐỐI VỚI
ĐẠO CAO ĐÀI Ở TÂY NINH HIỆN NAY

Ngành

: Chính trị học

Mã số

: 8.31.02.01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CHU VĂN TUẤN



HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên là Phan Phúc Lộc, người thực hiện Luận văn này.
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu riêng của tôi, kết quả nghiên cứu nêu
trong Luận văn là trung thực, chưa được ai công bố trong bất cứ cơng trình nào khác.
Những trích dẫn cần thiết trong Luận văn được tơi chú thích rõ ràng và trung thực.
Tác giả Luận văn

Phan Phúc Lộc


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học viên Cao học
tại Khoa Triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội tại Việt
Nam.
Đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến học Viện khoa học Xã hội, đã
tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng gởi lời cảm ơn đến quý thầy, cô giáo, những người phụ trách
Khoa Triết học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm quý báo trong
suốt thời gian tôi học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Chu Văn Tuấn, thầy đã tận tình chỉ dạy,
truyền đạt cho tơi những kiến thức, kinh nghiệm có giá trị, giúp tơi hồn thành Luận
văn này.
Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn tập thể, Chi bộ Ban Tôn giáo tỉnh Tây Ninh đã
giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi được học tập, tiếp cận và nghiên cứu các tài liệu
chun mơn trong q trình học tập. Xin cảm ơn!


Hà Nội, tháng 3 năm 2019
Học viên

Phan Phúc Lộc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÔNG TÁC QUẢN

LÝ NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO Ở TÂY NINH HIỆN NAY……………………..8
1.1. Khái quát về đạo Cao Đài trên địa bàn tỉnh Tây Ninh ................................................ 8
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của đạo Cao Đài .............................................. 8
1.1.2. Hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ của đạo Cao Đài ...........................................15
1.1.3. Thực trạng đạo Cao Đài ở Tây Ninh hiện nay .......................................................24
1.2. Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Tây Ninh hiện nay ..................................28
1.2.1. Tổ chức bộ máy ........................................................................................................28
1.2.2. Ưu điểm, hạn chế .....................................................................................................31
Tiểu kết chương 1 ...............................................................................................................36
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO ĐỐI VỚI
ĐẠO CAO ĐÀI Ở TÂY NINH HIỆN NAY ................................................................37
2.1. Khái quát chính sách tôn giáo đối với đạo Cao Đài ở Việt Nam hiện nay. .............37
2.2. Thành tựu và hạn chế của việc thực hiện chính sách tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở
tỉnh Tây Ninh hiện nay ….. ...............................................................................................41
2.2.1. Khái quát việc thực hiện chính sách tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở Tây Ninh
hiện nay ...............................................................................................................................41
2.2.2. Một số thành tựu, hạn chế .......................................................................................49
2.3. Những yếu tố tác động đến thực hiện chính sách tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở
Tây Ninh .............................................................................................................................51
2.3.1. Yếu tố chính sách, pháp luật do Đảng và Nhà nước đề ra ....................................51

2.3.2. Yếu tố tuyên truyền và chấp hành pháp luật ..........................................................52
2.3.3. Yếu tố tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước về công tác tôn giáo ............................53
Tiểu kết Chương 2 ..............................................................................................................54
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM THỰC HIỆN CÓ HIỆU
QUẢ CHÍNH SÁCH TƠN GIÁO ĐỐI VỚI ĐẠO CAO ĐÀI Ở TÂY NINH HIỆN
NAY ....................................................................................................................................55
3.1. Dự báo xu hướng phát triển của đạo Cao Đài ở Tây Ninh trong thời gian tới ........55


3.1.1. Những yếu tố tích cực tác động đến sự phát triển của đạo Cao Đài ở Tây Ninh
trong thời gian tới…………………………………………………………………………….55
3.1.2. Những yếu tố tiêu cực tác động đến sự phát triển của đạo Cao Đài ở Tây Ninh
trong thời gian tới…………………………………………………………………………….56
3.2. Một số kiến nghị ..........................................................................................................58
3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện các văn bản pháp luật làm cơ sở cho cơng tác quản lý nhà
nước và thực hiện chính sách tôn giáo đối với hoạt động của đạo Cao Đài Tây Ninh. 58
3.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy và đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu cho cơng
tác quản lý nhà nước và thực hiện chính sách tôn giáo đối với hoạt động của đạo Cao
Đài trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. .........................................................................................60
3.2.3. Tăng cường kiểm tra, xử lý vi phạm phục vụ cho công tác quản lý nhà nước và
thực hiện chính sách tơn giáo đối với hoạt động của đạo Cao Đài trên địa bàn tỉnh Tây
Ninh. ....................................................................................................................................63
3.2.4. Cần phát huy nguồn lực của tơn giáo nói chung, nguồn lực của Cao Đài nói riêng
trong phát triển kinh tế, xã hội, phát triển bền vững ở Tây Ninh hiện nay ....................64
3.3. Một số giải pháp cụ thể ...............................................................................................66
3.3.1. Thống nhất nhận thức của các ngành, các cấp về công tác quản lý nhà nước đối
với các hoạt động của đạo Cao Đài. .................................................................................66
3.3.2. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước về tơn giáo nói chung, đối với đạo Cao Đài nói
riêng.....................................................................................................................................68

3.3.3 . Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân tỉnh Tây Ninh kịp thời giải quyết những vấn đề
cấp bách về mặt tổ chức, nhân sự và cơ sở vật chất của đạo Cao Đài đồng thời đẩy
mạnh phát triển kinh tế, xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho quần
chúng tín đồ, nhất là ở vùng sâu vùng xa .........................................................................70
Tiểu kết Chương 3 ..............................................................................................................76
KẾT LUẬN .......................................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ANQG : An ninh quốc gia
ANTT : An ninh, trật tự
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CBCC: Cán bộ công chức
LLAN : Lực lượng An ninh
LLCA : Lực lượng Công an
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc
QLNN : Quản lý nhà nước
QLNV : Quản lý nghiệp vụ
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tơn giáo khơng chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn là một thực thể xã hội,
ra đời và phát triển hàng ngàn năm nay và sẽ tồn tại lâu dài cùng với lồi người. Trong
q trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị,
văn hố, xã hội, đến tâm lý, đạo đức, lối sống, tập quán của nhiều dân tộc, quốc gia.

Bên cạnh những đóng góp tích cực, tơn giáo cũng là vấn đề nhạy cảm, dễ bị lợi dụng.
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tơn giáo, các tơn giáo
đang có xu hướng phát triển mạnh. Sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo trong đó có đổi mới về tơn giáo là một quá trình lâu dài. Quản lý nhà nước đối với
tôn giáo là một nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cơng tác
tơn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12 tháng 3 năm 2003 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khố IX về cơng tác tơn giáo đã xác định: Một trong
các giải pháp chủ yếu của công tác tôn giáo là phải “Tăng cường quản lý nhà nước về
tôn giáo”. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn xác định công tác tôn giáo là vấn đề chiến
lược có ý nghĩa rất quan trọng trong q trình xây dựng và bảo vệ đất nước, vì tơn giáo
là nhu cầu tín ngưỡng của một bộ phận nhân dân khơng nhỏ, sẽ tồn tại lâu dài với quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với số lượng tơn giáo đơng có 804.604 tín
đồ các tơn giáo trên toàn tỉnh Tây Ninh, đặc biệt là đạo Cao Đài hiện nay có trên 2,5
triệu tín đồ trên tồn quốc [8, tr.1], để giải quyết nhu cầu tín ngưỡng chính đáng của
nhân dân, việc nghiên cứu, hoạch định chính sách và hồn thiện thể chế pháp luật về
cơng tác tơn giáo là một trong những yêu cầu cấp thiết trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, khẳng định quan điểm nhất quán của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân,
đây là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định.
Trong thời gian gần đây, bên cạnh những hoạt động tơn giáo lành mạnh, phát
huy mặt tích cực của tôn giáo, thực hiện tốt phương châm hành đạo vẫn cịn có hiện
tượng lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hành nghề mê tín dị đoan. Các thế lực thù địch
và phản động đã lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để tiến hành những hoạt động chống
1


đối, kích động tín đồ nhằm phá hoại khối đại đồn kết tồn dân tộc, gây mất ổn định
chính trị.
Tây Ninh là tỉnh biên giới, có nhiều tơn giáo, đặc biệt có Tịa Thánh Tây Ninh
là trung tâm tổ đình của đạo Cao Đài Tây Ninh, đóng tại huyện Hịa Thành. Hiện nay

Cao Đài Tây Ninh có khoảng 557.827 tín đồ trên tồn tỉnh [8, tr.2], tình hình tơn giáo
trong tỉnh khá phức tạp, công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở Tây Ninh đã được các
cấp, các ngành quan tâm và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Song, bên cạnh
đó vẫn cịn những tồn tại, hạn chế.
Từ lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Vấn đề thực hiện chính sách tơn giáo đối
với đạo Cao Đài ở Tây Ninh hiện nay’’ để làm đề tài Luận văn cao học chuyên ngành
Chính trị học. Thơng qua việc phân tích thực trạng tình hình tơn giáo, công tác quản lý
nhà nước về tôn giáo đối với đạo Cao Đài ở tỉnh Tây Ninh, nhằm đánh giá, phân tích
những thành tựu và bất cập của chính sách tơn giáo hiện nay, từ đó đề xuất những giải
pháp, kiến nghị, góp phần hồn thiện lý luận, đổi mới chính sách tơn giáo, khơi dậy và
phát huy các giá trị tích cực của đạo Cao Đài Tây Ninh, nhằm thực hiện tốt công tác
quản lý nhà nước về tơn giáo, góp phần ổn định an ninh, chính trị và phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Tây Ninh hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Các cơng trình về việc ban hành chính sách tơn giáo ở Việt Nam
Chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta được khẳng định trong phiên họp
đầu tiên của Chính phủ ngày 03/9/1945, với tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Tín
ngưỡng tự do và lương giáo đồn kết". Sau đó, Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp sửa
đổi năm 1959, Sắc lệnh 234/SL năm 1955 của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều khẳng định,
tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Các chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà
nước ở các giai đoạn tiếp theo đã động viên và tập hợp tín đồ, chức sắc tôn giáo trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đường lối đó đã chứng minh tính đúng đắn
trong thực tiễn góp phần đem lại thành cơng cho cách mạng Việt Nam hơn 7 thập kỷ
qua. Trước đây các triều đại phong kiến Việt Nam đều có chính sách đối với tôn giáo
và thiết lập mối quan hệ với tôn giáo, lịch sử đã để lại những bài học kinh nghiệm quý
2


báu cho chúng ta ngày hôm nay. Năm 1986, đất nước ta bước vào đổi mới toàn diện
trên các mặt của đời sống kinh tế, xã hội. Nhưng nói đến tôn giáo, phải đến năm 1990,
Đảng, Nhà nước ta mới có sự thay đổi, với nhận thức mới, quan điểm chủ trương mới

và những khung pháp lý mới để điều chỉnh các hoạt động tôn giáo. Cụ thể là các Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa VI, Nghị định số 69/HĐBT ngày 21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Chính phủ) đó là những dấu mốc quan trọng trong việc đổi mới công tác tôn giáo
của Đảng, Nhà nước ta về tơn giáo. Tại Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XI, Nghị quyết
đã chỉ rõ "Tiếp tục hồn thiện chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo phù hợp với
quan điểm của Đảng", tinh thần này đã được Nhà nước thể chế hóa thành pháp luật, tạo
hành lang pháp lý quan trọng để các tơn giáo hoạt động bình đẳng trước pháp luật. Có
thể nói việc thực hiện chính sách tôn giáo đối với đạo Cao Đài ở Tây Ninh trong những
năm qua là vấn đề được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm để kiện toàn hơn nữa vấn
đề an sinh xã hội cho các Chức sắc, tín đồ theo đạo Cao Đài Tây Ninh trong giai đoạn
hiện nay và những năm tiếp theo. Để thực hiện được những nhiệm vụ đó, cần có sự
phối hợp từ nhiều phía trong đó bao gồm: Nhà nước, cộng đồng xã hội và Chức sắc,
tính đồ để từ đó cùng tìm ra các giải pháp tối ưu khắc phục những hạn chế, yếu kém
của chính sách tơn giáo nhằm có sự điều chỉnh phù hợp với thực tiễn hiện nay.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu về Cao Đài, chính sách tôn giáo đối với Cao
Đài ở Việt Nam
Vấn đề tôn giáo đã được nhiều tác giả trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu
ở nhiều khía cạnh khác nhau. Cao Đài là một tôn giáo nội sinh, mặc dù ra đời muộn
nhưng nhanh chóng phát triển thành một tơn giáo lớn, đặc biệt là ở Nam Bộ, chính vì
thế đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu với những cơng trình khoa học tiêu biểu có liên
quan đến đạo Cao Đài Tây Ninh như sau:
+ Một số cơng trình nghiên cứu về Cao Đài Tây Ninh.
Phan Đức Dư (1994), Hoạt động của bọn phản động lợi dụng Cao Đài Tây
Ninh, Đề tài khoa học cấp Bộ, MS: 96-20-38. Đề tài nghiên cứu những hoạt động của
các đối tượng lợi dụng đạo Cao Đài Tây Ninh xâm phạm an ninh trật tự và từ đó làm
căn cứ để đưa ra những giải pháp nhằm đấu tranh với hoạt động này.
3



Phan Đức Dư (1998), Những giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo an ninh quốc gia
đối với Cao Đài Tây Ninh trong tình hình mới, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học an
ninh nhân dân, Hà Nội. Luận văn nghiên cứu những vấn đề phức tạp, có liên quan đến
an ninh quốc gia của đạo Cao Đài Tây Ninh, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm đảm
bảo an ninh quốc gia đối với đạo Cao Đài Tây Ninh trong tình hình mới.
Trần Xuân Thanh (1998), Đạo Cao Đài Tây Ninh – Thực trạng và giải pháp
nhằm đảm bảo an ninh quốc gia, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học an ninh nhân dân,
Hà Nội. Luận văn nghiên cứu những vấn đề phức tạp của đạo Cao Đài Tây Ninh như:
Lịch sử chống phá cách mạng, hoạt động đòi phục hồi tổ chức Hội thánh như trước
năm 1945, hoạt động lợi dụng đạo Cao Đài của các thế lực thù địch, vấn đề Cao Đài ly
khai…từ đó đưa ra những giải pháp nhằm đảm bảo an ninh quốc gia trong tình hình
mới.
Nguyễn Triều Phong (2013), Xây dựng và sử dụng mạng lưới bí mật trong đấu
tranh chống hoạt động lợi dụng đạo Cao Đài ở địa bàn tỉnh Tây Ninh, Luận văn thạc
sĩ, Học viện an ninh nhân dân. Luận văn nghiên cứu về công tác xây dựng và sử dụng
mạng lưới bí mật của lực lượng an ninh trong đấu tranh chống hoạt động lợi dụng đạo
Cao Đài Tây Ninh, qua đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cơng tác
này trong tình hình mới.
Tơ Thành Chung (2014), Công tác quản lý nghiệp vụ hệ đối tượng Cao Đài trên
địa bàn tỉnh Tây Ninh, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học an ninh nhân dân. Luận văn
tập trung nghiên cứu và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý
nghiệp vụ của lực lượng an ninh Công an tỉnh Tây Ninh đối với đối tượng thuộc diện
quản lý nghiệp vụ trong đạo Cao Đài trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
Những đề tài nêu trên chủ yếu nghiên cứu về công tác đấu tranh chống địch lợi
dụng đạo Cao Đài Tây Ninh xâm phạm an ninh quốc gia, hoặc một mặt công tác
nghiệp vụ của lực lượng công an đối với đạo Cao Đài như mạng lưới bí mật, quản lý
nghiệp vụ. Qua nghiên cứu cho thấy đến nay, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về
“Vấn đề thực hiện chính sách tôn giáo đối với đạo Cao Đài ở Tây Ninh hiện nay”.

4



3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích, làm rõ thực trạng thực hiện chính sách tơn giáo đối với
đạo Cao Đài ở Tây Ninh hiện nay, luận văn đề xuất các kiến nghị, giải pháp có tính khả
thi nhằm phát huy những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của việc thực hiện chính
sách tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở Tây Ninh trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Khái quát chung về đạo cao Đài ở Tây Ninh
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện chính sách tơn giáo đối với đạo Cao
Đài ở Tây Ninh hiện nay, chỉ ra những kết quả đạt được và những tồn tại, hạn chế,
những vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp có tính khả thi.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng thực hiện chính sách tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở Tây Ninh hiện
nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Tỉnh Tây Ninh
- Phạm vi thời gian: Từ năm 2009 đến năm 2018
- Phạm vi nội dung: Việc thực hiện chính sách tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở
Tây Ninh.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tôn giáo
và giải quyết vấn đề tôn giáo.
Ngoài ra, luận văn cũng sử dụng cách tiếp cận nghiên cứu đa ngành, liên ngành
khoa học xã hội và nhất là cách tiếp cận của chính trị học, tơn giáo học và khoa học

quản lý.
5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, Luận văn sử dụng các phương pháp như:
phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế, thống kê, mô tả, so sánh.
6. Ý nghĩa của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đây là luận văn đầu tiên nghiên cứu về chính sách tơn giáo và cơng tác quản lý
Nhà nước về tôn giáo trên địa bàn tỉnh Tây Ninh hiện nay, do vậy, luận văn góp phần
nêu lên được bức tranh tổng thể về hoạt động của đạo Cao Đài Tây Ninh, quy định của
pháp luật với hoạt động của các tổ chức tôn giáo như: Pháp lệnh, Luật, Nghị định và
các văn bản pháp luật liên quan khác, phân tích được những thành tựu, hạn chế và bài
học kinh nghiệm trong việc ban hành và thực thi chính sách tơn giáo nhìn từ phía chính
quyền địa phương và từ phía Giáo hội. Luận văn đã đưa ra các khái niệm, quan điểm
chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh Uỷ Tây Ninh về việc xây dựng và thực thi
chính sách tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở Tây Ninh hiện nay, mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước và Giáo hội, quan hệ quốc tế của các tổ chức tôn giáo ở tỉnh Tây Ninh trong
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và thời kỳ mở cửa hiện nay từ đó đề xuất một số giải
pháp trước mắt và lâu dài cho việc xây dựng và thực thi chính sách tơn giáo.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn phân tích và làm rõ những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân đạt
được trong quá trình xây dựng và thực thi chính sách tơn giáo ở Tây Ninh, nghiên cứu
tổng quan về đạo Cao Đài trên địa bàn Tây Ninh và những vấn đề lý luận của công tác
quản lý Nhà nước về tôn giáo đối với hoạt động của đạo Cao Đài. Dự báo tình hình có
liên quan đến cơng tác quản lý Nhà nước, qua đó đưa ra, đề xuất và luận giải những
giải pháp để hồn thiện chính sách tơn giáo riêng cho đạo Cao Đài và có một số kiến
nghị để thực hiện có hiệu quả chính sách tơn giáo ở Tây Ninh trong thời gian tới. Đề
tài: "Vấn đề thực hiện chính sách tôn giáo đối với đạo Cao Đài ở Tây Ninh hiện

nay" sẽ đóng góp phần nào những giải pháp tăng cường thực hiện chính sách tơn giáo
đối với đạo Cao Đài, giúp chính sách tơn giáo đi vào thực tiễn đạt hiệu quả.

6


Luận văn là một tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, học tập, giảng dạy,
công tác xây dựng chính sách, cơng tác quản lý Nhà nước về Cao Đài trên địa bàn Tây
Ninh nói riêng, cả nước nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính
của Luận văn được chia thành 3 chương.
- Chương 1: Khái quát chung về đạo cao Đài và công tác quản lý nhà nước về
tôn giáo ở Tây Ninh hiện nay
- Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở
Tây Ninh hiện nay.
- Chương 3: Một số kiến nghị, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách
tơn giáo đối với đạo Cao Đài ở Tây Ninh

7


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐẠO CAO ĐÀI VÀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
NHÀ NƢỚC VỀ TÔN GIÁO Ở TÂY NINH HIỆN NAY
1.1. Khái quát về đạo Cao Đài trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của đạo Cao Đài
Khái quát về địa bàn tỉnh Tây Ninh
Tây Ninh là tỉnh thuộc miền Đông Nam bộ. Dân số gần 1,2 triệu người có
đường biên giới dài 240 km giáp vương quốc Campuchia, có 02 cửa khẩu quốc tế, 04

cửa khẩu quốc gia và 07 đường tiểu ngạch; có diện tích đất tự nhiên 4.035,45 km2. Về
dân tộc thiểu số, tồn tỉnh có 22 dân tộc thiểu số, khoảng 17.661 người, chiếm 1,6%
dân số toàn tỉnh. Tỉnh Tây Ninh có địa giới hành chính gồm 09 huyện, thành phố, trong
đó có 05 huyện biên giới. Tỉnh Tây Ninh nằm trong khu vực Đơng Nam Bộ, phía Đơng
giáp tỉnh Bình Dương và Bình Phước, phía Nam và Đơng Nam giáp Thành Phố Hồ Chí
Minh và tỉnh Long An, phía Bắc và Tây Bắc giáp 2 tỉnh Svay Riêng và Kampong
Cham của Campuchia với 1 cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, hai cửa khẩu quốc gia là Sa
Mát và Phước Tân và nhiều cửa khẩu tiểu ngạch. Với vị trí địa lý nằm giữa các trung
tâm kinh tế - thương mại là Thành phố Hồ Chí Minh và phnơm Pênh (Campuchia),
giao điểm quan trọng giữa hệ thống giao thông quốc tế và quốc gia, thông thương với
các vùng kinh tế có nhiều tiềm năng phát triển, là điều kiện thuận lợi để tỉnh phát triển
kinh tế - xã hội.
Về tơn giáo, Tây Ninh có 05 tơn giáo chính, gồm Cao Đài; Phật giáo, Công
giáo, Tin lành, Islam giáo. Hiện nay, các tơn giáo ở Tây Ninh có khoảng 804.604 tín
đồ, 8.773 chức việc, hơn 2.000 chức sắc, chiếm gần 69% dân số tồn tỉnh, các tơn giáo
có khoảng gần 300 cơ sở thờ tự.
Cao Đài Tây Ninh hiện nay chiếm số lượng đơng nhất trong tỉnh, có trung tâm
tổ đình Tịa Thánh tọa lạc tại Thị trấn Hịa Thành, huyện Hịa Thành, tỉnh Tây Ninh,
hiện nay số lượng tín đồ chiếm đơng nhất trong tỉnh với khoảng 557.827 tín đồ, trong
đó: 1.773 chức sắc, 8.420 chức việc (chiếm khoảng 48% dân số trong tồn tỉnh), tại
Tây Ninh có 01 Ban Đại diện Hội thánh và 77 Họ đạo cơ sở với 128 cơ sở thờ tự (trong
8


đó: 77 Thánh thất và 53 Điện thờ). Đạo Cao đài Tây Ninh hoạt động tại 38/63 tỉnh,
thành phố trong cả nước. Trong đó, Hội thánh đã thành lập được 28 Ban Đại diện Hội
thánh tại các tỉnh, thành phố, với 407 Họ đạo cơ sở. Riêng Cao Đài Tây Ninh tại hải
ngoại có khoảng 30 cơ sở thờ tự, gần 30.000 tín đồ (đơng nhất là ở Mỹ với 22 cơ sở thờ
tự gần 20.000 tín đồ, cịn lại là ở Canada, Autralia, Pháp và Campuchia).
Ngồi ra, tỉnh có Cao Đài Ban Chỉnh đạo với khoảng 2.323 người (trong đó: 58

chức sắc, 60 chức việc, 06 cơ sở thờ tự (Thánh thất) và Pháp môn Cao Đài Chiếu minh
Tam thanh vơ vi (đây là phái tu chơn) có 02 cơ sở Nhà Đàn, với khoảng 485 tín đồ.
Nguồn gốc ra đời, quá trình hình thành và phát triển của đạo Cao Đài trên địa
bàn tỉnh Tây Ninh
+ Nguồn gốc ra đời
Theo Hiến chương Đại đạo Tam kỳ phổ độ, Tòa Thánh Tây Ninh, năm Đinh
Hợi – 2007 “Đạo Cao Đài là một tơn giáo độc thần”, có tính dung hợp, được chính
thức thành lập ở Việt Nam vào năm 1926, tên đầy đủ là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Danh từ "Cao Đài" theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao". Theo nghĩa bóng, được hiểu là
nơi cao nhất ở đó Thượng Đế ngự trị; cũng là tên viết tắt dành cho Thượng Đế, người
sáng lập ra toàn vũ trụ, có danh xưng đầy đủ là "Cao Đài Tiên Ơng Đại Bồ Tát Ma Ha
Tát". Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng Đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ .
Họ tin rằng tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài" trực
tiếp chỉ định. Ngay cả việc xây dựng Tồ Thánh Tây Ninh cũng có sự dẫn dắt của
"Đấng Thiêng Liêng" [21, tr.5].
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, thực dân Pháp tăng cường khai thác thuộc
địa Đông Dương để hàn gắn vết thương chiến tranh ở chính quốc bằng nhiều chính
sách kinh tế hà khắc. Trong đó chính sách cướp ruộng đất để lập đồn điền và tăng thuế
đã làm cho người nông dân Nam bộ bị bần cùng hoá, đời sống lầm than khổ cực. Giới
công chức, tư sản, địa chủ, thầy giáo, thầy tu bị chế độ thuộc địa chèn ép bế tắc trong
cuộc sống nên họ đã tìm đến thú chơi "xây bàn" theo kiểu thông linh học của người
phương Tây hoặc cầu cơ chấp bút theo truyền thống của người Việt. Trong thời gian
này ở Nam bộ liên tiếp xuất hiện nhiều phong trào đấu tranh chống Pháp. Từ các cuộc
9


khởi nghĩa vũ trang đến phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ, từ các tổ chức hội
kín chống Pháp như Thiên địa hội của Phan Xích Long đến các tổ chức đảng phái
chính trị được thành lập cơng khai như Công hội năm 1921, Đảng Lập hiến năm 1923,
Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội 1926. Tuy nhiên tất cả các cuộc khởi nghĩa, các

phong trào yêu nước của nhân dân Nam bộ đều bị thất bại và bị thực dân Pháp đàn áp
đẫm máu. Thất bại trong đấu tranh, bế tắc trong cuộc sống, người dân Nam bộ đã tìm
đến tín ngưỡng và tơn giáo để mong được che chở và giải thoát. Thực dân Pháp áp
dụng chế độ chính trị thuộc địa ở Nam bộ tương tự như ở chính quốc, vì vậy chính sách
đối với tôn giáo tại Nam bộ không khắt khe như ở Bắc bộ và Trung bộ. Đây là điều
kiện thuận lợi để một tôn giáo mới ra đời và phát triển. Nam bộ là vùng đất mới được
kiến lập (khoảng 300 năm), cư dân chủ yếu thuộc bốn nhóm người gồm: Người Việt từ
Bắc Trung kỳ vào, người Hoa từ Quảng Đơng, Phúc Kiến xuống, người Chăm và
người Khmer, trong đó người Việt chiếm đa số nên văn hóa, tín ngưỡng của người Việt
vẫn chiếm vị trí chủ đạo. Trong quá trình chung sống cộng cư và thâm nhập lẫn nhau
của các tộc người đã làm cho đời sống tín ngưỡng, tôn giáo ở Nam Bộ trở nên đa dạng
và phong phú, tạo tiền đề để tiếp nhận một tôn giáo mới. Thời kỳ này, Phật giáo, Nho
giáo và các tín ngưỡng truyền thống đang suy thối, các tơn giáo có nguồn gốc từ châu
Âu như Công giáo, Tin lành dưới con mắt của người Nam Bộ gắn liền với sự mất nước
và cuộc xâm lược của Pháp. Tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) vốn tồn
tại lâu đời trong quá trình hình thành cư dân Nam Bộ nay hồ nhập cùng trào lưu
“Thơng linh học" của người phương Tây đã tạo thành phong trào cầu cơ chấp bút và
được các nhóm Ngũ chi Minh đạo vốn có từ trước ở Nam bộ hưởng ứng tích cực. Có
thể nói, những bất lực trong cuộc sống hiện tại, sự suy vi của các tơn giáo đạo lí đương
thời đã tạo ra khoảng trống về tư tưởng, tín ngưỡng, kích thích nhu cầu tâm linh tôn
giáo của quần chúng nhân dân, đó là những điều kiện thuận lợi cho sự ra đời một tôn
giáo mới và đạo Cao Đài ra đời là sự phản ánh tất yếu của xã hội lúc ấy.
+ Quá trình hình thành và phát triển
Giai đoạn từ 1926 đến năm 1975

10


Đầu thế kỷ XX tư tưởng Tam giáo đồng nguyên (Phật, Lão, Nho) ở Việt Nam
có xu hướng yếu đi nhưng hoạt động của nhóm Ngũ chi Minh đạo (Minh sư, Minh lí,

Minh đường, Minh tân, Minh thiện) đã làm cho tư tưởng ấy hồi sinh. Cùng lúc đó,
phong trào Thông linh học phương Tây rất phát triển tại Nam bộ với những hình thức
“xây bàn” tương tự như tục cầu hồn của người Việt và cầu cơ của nhóm Ngũ chi Minh
đạo đã tạo thành phong trào cầu cơ, chấp bút gọi tắt là “cơ bút”. Trong các đàn cơ này
có hai nhóm chính hình thành đạo Cao đài.
- Nhóm thứ nhất do ơng Ngơ Minh Chiêu cầu cơ tại các đền, chùa theo truyền
thống cơ bút thuộc nhóm Ngũ chi Minh đạo. Lúc đầu, nội dung các đàn cơ chủ yếu là
xin bài thuốc chữa bệnh và hỏi về thế sự. Đến năm 1920 trong một lần cầu cơ Ngơ
Minh Chiêu đã gặp Đức Chí Tơn ( Ngọc Hồng Thượng Đế), sau đó đến năm 1924,
ơng Chiêu về Sài Gịn kết hợp với các ơng Vương Quan Kỳ, Đoàn Văn Bản, Võ Văn
Sang, Nguyễn Văn Hoài, trở thành những người đầu tiên thờ Đức Cao Đài.
- Nhóm thứ hai gồm các vị Cao Quỳnh Cư, Cao Hoài Sang, Phạm Cơng Tắc
(nhóm Cao - Phạm) tổ chức xây bàn cầu cơ theo kiểu Thông linh học phương Tây
nhằm mục đích giải trí, sau này mới sử dụng đại ngọc cơ của đàn Minh Thiện (thuộc
Ngũ chi Minh đạo). Theo hình thức cơ bút, ngày 19/12/1925, Đức Cao Đài đã thu nhận
các vị làm đệ tử.
Từ 1924 đến 1926, hai nhóm cơ bút nói trên hoạt động độc lập, đến ngày 01
tháng 01 năm Bính Dần (12/02/1926), trong một bài cơ Thượng Đế đã phán dạy hai
nhóm cơ bút thống nhất hình thành đạo Cao Đài, ơng Ngơ Minh Chiêu được thiên
phong phẩm vị Giáo tông đầu tiên của đạo. Ngày 9 tháng Giêng năm Bính Dần
(20/02/1926), cơ bút đã điểm tên những đệ tử đầu tiên của đạo gồm 12 vị thông qua bài
cơ như sau :
Chiêu Kỳ Trung độ dẫn Hoài sanh
Bản đạo khai Sang Quý Giảng thành;
Hậu Đức Tắc Cư Thiên địa cảnh
Huờn Minh Mân đáo thủ đài danh.

11



Ngày 23/8/Bính Dần (29/9/1926), một số vị chức sắc đứng đầu các đàn cơ và
tín đồ đã họp mặt tại nhà ông Nguyễn Văn Tường (phường Cầu Kho, quận 1 Sài Gịn)
thống nhất kí tên vào tờ khai đạo gửi chính quyền Pháp (gồm 28 vị kí tên đại diện cho
247 chức sắc tín đồ có mặt hơm đó). Đến ngày 15/10/1926(AL) những chức sắc thiên
phong đầu tiên của đạo Cao Đài đã tổ chức lễ khai đạo tại chùa Gị Kén tỉnh Tây Ninh
chính thức cho ra mắt đạo Cao Đài, với sự hiện diện của một số quan chức người Pháp
và người Việt. Sau khi hợp nhất hai nhóm cơ bút Chiêu - Kỳ và Cư - Tắc - Sang vào
đầu năm 1926, ông Chiêu đã từ chối nhận phẩm vị Giáo tông thiên phong mà hợp tác
cùng các ơng Võ Văn Sang, Nguyễn Văn Hồi và Lý Trọng Quí chủ trương hành đạo
theo hướng "Nội giáo tâm truyền”. Nhóm này chỉ thu nhận những người có căn duyên
tốt làm đệ tử, tổ chức nhiều nhà đàn, nhà tịnh và sau này hình thành phái Chiếu Minh.
Nhóm Cư - Tắc - Sang chủ trương hành đạo theo hướng phổ độ hay gọi là
“Ngoại giáo công truyền”, nhằm truyền bá đạo đến tất cả chúng sinh. Vì vậy, nhóm này
đẩy mạnh các hoạt động truyền giáo thông qua việc lập các đàn cơ, tuyên truyền phổ
biến các bài cơ và thu nhận những người có vị trí xã hội như công chức, tư sản, địa chủ,
quan chức, nghiệp chủ, trí thức nhằm mở rộng và phát triển lực lượng. Đến giữa năm
1926, đạo Cao đài đã thu hút được khoảng 10 ngàn người trong đó có đến 200 người là
trí thức, địa chủ, tư sản, cơng chức.
Sau ngày khai đạo, những chức sắc lãnh đạo Giáo hội Cao Đài tiến hành xây
dựng Toà thánh, phát triển các Thánh thất, điện thờ, xây dựng giáo lí, giáo luật, lễ nghi
và tổ chức Giáo hội. Trong hai năm 1926 - 1927, thông qua cơ bút đạo Cao Đài đã tập
trung xây dựng xong hai văn bản quan trọng qui định luật lệ, lễ nghi và tổ chức Giáo
hội là Pháp Chánh truyền và Tân luật. Vì vậy, đến năm 1930 hoạt động tại Toà thánh
dần dần được củng cố và đi vào nề nếp, những chức sắc thường trực đã thực hiện theo
đúng chức năng nhiệm vụ, các cơ sở đạo phát triển, tổ chức Giáo hội hình thành từ
Trung ương đến cơ sở theo 5 cấp hành chính đạo.
Từ 1931 đến 1934, mâu thuẫn giữa một số chức sắc Hiệp Thiên đài và Cửu
Trùng đài ngày càng nặng nề, tình hình nội bộ Giáo hội mất đồn kết ngày càng tăng,
một số chức sắc cao cấp bất đồng với Toà thánh đã tự hoạt động theo ý riêng, tiến hành
12



lập nhiều đàn cơ để lơi kéo tín đồ vốn rất ham mê cơ bút. Vì vậy, nội bộ chức sắc xuất
hiện tư tưởng ly khai khỏi Toà thánh như các ơng Nguyễn Văn Ca, Nguyễn Hữu
Chính, Trần Đạo Quang, Nguyễn Ngọc Tương, Lê Bá Trang. Trước tình hình ấy, ngày
28/8/1931, Hội thánh lập Toà Tam giáo lần thứ nhất xét xử 37 chức sắc từ Lễ sanh trở
lên, trong đó có những chức sắc lớn như Ngọc Chưởng pháp Trần Đạo Quang, Phối sư
Thái Ca Thanh, Bảo pháp Nguyễn Trung Hậu. Thời kì này đạo Cao Đài đã tập trung
xây dựng tổ chức bộ máy Giáo hội từ Trung ương đến cơ sở, hồn thiện giáo lí, giáo
luật, xây dựng cơ sở vật chất từ Toà thánh đến Thánh thất, điện thờ. Đây là thời kỳ đạo
Cao Đài hoạt động thống nhất về mặt tổ chức Giáo hội. Tuy nhiên, do mâu thuẫn nội
bộ và những bất đồng trong Hội thánh cộng với nạn cơ bút tràn lan nên nhiều chức sắc
đã tách khỏi Toà thánh về các địa phương lập ra các chi phái Cao Đài mới. Đây là giai
đoạn đạo Cao Đài phát triển thành nhiều chi phái hoạt động độc lập, đã có lúc lên đến
30 chi phái, nhưng các phái có bộ máy tổ chức Hội thánh hoàn chỉnh, đường hướng
hành đạo rõ ràng và có số lượng chức sắc tín đồ đơng, tồn tại đến nay chỉ cịn 10 Hội
thánh, 01 Pháp mơn tu hành và trên 20 cơ sở Cao Đài hoạt động độc lập ở các tỉnh,
thành phố.
Giai đoạn từ 1975 đến nay
Về căn bản, sau giải phóng, các sinh hoạt của tín đồ đạo Cao Đài diễn ra bình
thường ở gia đình và các thánh thất. Tuy nhiên, ở một số địa phương số tín đồ giảm
xuống rõ rệt vì một bộ phận Cao Đài hình thành trong chiến tranh, một số khác sống ở
các “châu vi đạo” gần các Tòa thánh, nay khơng cịn nhu cầu nhờ dựa vào đạo đã quay
lại với tín ngưỡng truyền thống hoặc trở về quê cũ làm ăn. Mặt khác, thực hiện nếp
sống văn hóa mới nên nhiều người bỏ đạo hoặc khơng nhận mình là người theo đạo
Cao Đài. Ở một số nơi, lực lượng phản động lợi dụng đạo Cao Đài luôn tìm cách chống
lại chính quyền cách mạng. Riêng ở Tây Ninh, những năm đầu sau giải phóng có nhiều
vụ án chống lại chính quyền cách mạng liên quan đến đạo Cao Đài, với sự xuất hiện
của những tổ chức phản động như “Mặt trận thống nhất toàn lực quốc gia” do Phạm
Ngọc Trảng đứng đầu, “Hội đồng Hòa giải quốc tế”, “Thiên Khai huỳnh đạo” do Đinh


13


Văn Phẩm, Bạch Hùng, Hồ Thái Bạch đứng đầu đã bị chính quyền xử lý bằng pháp
luật.
Vì những lý do nói trên, hầu hết bộ máy hành chính đạo của các chi phái Cao
Đài có lực lượng tín đồ, chức sắc đông, hoạt động trong phạm vi rộng đều tuyên bố giải
tán về tổ chức như Cao Đài Tây Ninh với Đạo lệnh 01/ĐL-CĐ, ngày 01 tháng 03 năm
1979 của Tịa thánh Tây Ninh giải tán hệ thống hành chính đạo, Cao Đài Ban Chỉnh
đạo với Châu tri số 901/CT-HT, ngày 15 tháng 08 năm 1985 cũng giải tán bộ máy tổ
chức, Cao Đài Tiên Thiên với Châu tri số 03/CT-HT ngày 25 tháng 08 năm 1987 giải
tán Hội thánh Cao Đài Tiên Thiên. Một số chi phái khác tuy khơng tun bố giải tán bộ
máy hành chính đạo nhưng hoạt động cầm chừng, giảm hiệu lực chỉ đạo cấp trên, cấp
dưới. Một số chi phái nhỏ mới hình thành trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ tự tan rã
hoặc nhập trở lại với các chi phái cũ để tồn tại.
Từ năm 1995 đến 2010 Nhà nước đã công nhận về tổ chức tôn giáo đối với 10
Hội thánh, một Pháp môn tu hành và 21 tổ chức Cao Đài hoạt động độc lập trong phạm
vi một tỉnh, thành phố. Sau khi được công nhận về tổ chức tôn giáo, các hệ phái Cao
Đài đã tích cực xây dựng, củng cố tổ chức giáo hội mới, theo mơ hình 2 cấp (cấp Trung
ương là Hội thánh; cấp xã, phường là Họ đạo), xây dựng Hiến chương và đường hướng
hành đạo gắn bó với dân tộc, kế thừa truyền thống của đạo, phù hợp với tình hình đất
nước. Việc thực hiện tổ chức giáo hội 2 cấp, không cơ bút được đơng đảo chức sắc, tín
đồ đạo Cao Đài đồng tình ủng hộ, bộ máy hành chính đạo gọn nhẹ, hoạt động dễ dàng
và phù hợp với truyền thống của một số phái Cao Đài như Ban Chỉnh đạo, Minh Chơn
đạo, Chơn lý. Các hoạt động tôn giáo liên quan đến “cơ bút” được thay thế bằng những
hình thức phù hợp như suy cử, bầu cử, công cử, xây dựng Hiến chương và đường
hướng hành đạo qua các kỳ Đại hội. Những vấn đề quan trọng của đạo được tập thể
chức sắc lãnh đạo Hội thánh (Ban Thường trực, Hội đồng Chưởng quản, Thường trực
Hội thánh) xem xét quyết định thông qua hoạt động của ba hội (Thượng hội, Hội thánh,

Hội nhơn sanh).
Đến nay, hoạt động của đạo Cao Đài từng bước đi vào nề nếp và tuân thủ pháp
luật. Đa số chức sắc các Hội thánh đã thích ứng với cơ chế hoạt động theo Hiến
14


chương và đường hướng hành đạo mới. Các lễ hội lớn trong đạo Cao Đài được duy trì
tổ chức hàng năm như Hội Yến Diêu Trì Cung, Kỷ niệm ngày khai đạo Cao Đài, Ngày
vía Đức Chí Tơn... của Cao Đài Tây Ninh thu hút hàng trăm ngàn chức sắc, tín đồ tham
dự. Các hội nghị, kỳ họp thường niên của Thượng hội, Hội thánh, Hội Nhơn sanh và
Đại hội nhiệm kỳ của các Hội thánh được tổ chức trang trọng, đúng pháp luật. Các Hội
thánh Cao Đài có quá trình hoạt động gắn bó với dân tộc đã tổ chức các cuộc giao lưu
hành đạo trên một số lĩnh vực tơn giáo như xuất bản Tạp chí Cao Đài, tham gia các
hoạt động nhân đạo, từ thiện xã hội, mở lớp bồi dưỡng giáo lý hạnh đường và đang tiến
tới mở trường đào tạo chức sắc, tổ chức các ngày lễ theo truyền thống của một số phái
Cao Đài nhằm giáo dục chức sắc, tín đồ phát huy tinh thần phụng đạo, yêu nước. Cơ sở
thờ tự, cơ sở tôn giáo của đạo Cao Đài được xây dựng, sửa chữa ngày càng khang
trang, đẹp đẽ có đủ tam đài thờ phượng Đức Chí Tơn. Việc xuất bản kinh sách và đồ
dùng việc đạo cũng được các Hội thánh quan tâm nhằm đáp ứng cơ bản nhu cầu sinh
hoạt tôn giáo của chức sắc, tín đồ.
1.1.2. Hệ thống giáo lý, giáo luật, giáo lễ của đạo Cao Đài
Giáo lý
Thế giới quan Cao Đài cho rằng vũ trụ bao gồm cả không gian và thời gian.
Không gian là vô cực trong đó có ngun Lý thiên nhiên và ngun Khí tự nhiên, là
Âm và Dương, dần dần ngưng kết với nhau thành một khối Đại Linh quang với đầy đủ
sự tốt đẹp gọi là Thái Cực, đây chính là Ngơi Chúa Tể của càn khôn vũ trụ. Thái cực
trọn lành, trọn tốt, tồn trí tồn năng, biến hố theo một hệ thống “Âm dương Thái cực
và Thái cực Âm dương” sinh hố ra mn lồi, mn vật (một sinh hai, hai sinh ba, ba
sinh vạn vật). Gọi là Ngun lí phóng phát (tức là chia ra và ban cho). Vạn vật sinh ra
phát triển và tiến hố theo vịng trịn để trở về nguồn gốc hoàn hảo, hoàn thiện tuyệt

đối. Gọi là nguyên lí vận hành châu lưu vũ trụ “nhất bản tán vạn thù, vạn thù qui nhất
bản” [21, tr.9 ]. Một bản thể Thái cực sinh ra vạn loài rồi từ vạn lồi qui về Thái cực .
Tóm lại vũ trụ quan Cao Đài nêu lên các nguyên lý nhất nguyên, nhất thể và hoàn
nguyên cho thấy sự vận hành của Đạo từ hư vô sinh ra vạn vật hữu hình rồi vạn vật hữu
hình tiến hố trở về hiệp cùng khối Đại linh quang tồn trí, tồn năng, là Thái cực.
15


Nhân sinh quan Cao Đài quan niệm con người là tiểu vũ trụ có cùng bản thể với đại vũ
trụ được sinh thành bởi cùng một nguyên nhân đầu tiên của tồn vũ trụ. Đó là Thái cực
[21, tr.12].
Thái cực sinh ra vạn vật và con người. Mỗi người được ban cho một điểm Tiểu
Linh quang có cùng bản tính, bản chất với Đại Linh quang. Giáo lý Cao Đài quan niệm
Trời và người có cùng bản thể, vì vậy Thượng Đế dạy: “Thầy là các con, các con là
Thầy”. Trong q trình tiến hố của vũ trụ thì vạn vật tiến hố dần dần đến lồi người
mới có đủ tam hồn là sinh hồn, giác hồn và linh hồn để tu luyện giải thốt.
Như vậy, con người có phần hồn và phần xác, Thượng Đế ban cho mỗi người
một Điểm Linh quang (gọi là Linh hồn) mượn xác phàm để xuống thế gian rèn luyện,
thử thách. Đạo Cao Đài quan niệm “thế gian là một trường thi công quả” và là nơi để
lập công bồi đức, để không ngừng tiến hoá theo 5 bậc: Nhân, Thần, Thánh, Tiên, Phật,
để đi đến sự hoà hợp với vũ trụ.
Khi con người chết đi thì linh hồn vẫn tồn tại và tiếp tục luân hồi để sống vào
kiếp khác, con người tiến hố là do linh hồn tiến hố. Vì vậy nếu tu luyện tốt, có nhiều
cơng đức tại thế sẽ được về cõi Bạch Ngọc kinh (Thiên đàng), nếu có nhiều tội lỗi thì
vướng mãi trong kiếp luân hồi sinh tử . Tuy vậy, đạo Cao Đài đưa ra khái niệm Đại ân
xá Kỳ ba, nghĩa là người có tâm cầu đạo dù chưa đắc quả tại thế, sau khi chết sẽ được
ân xá tiếp tục tu luyện ở cõi vô hình cho đến khi đắc vị, khỏi luân hồi. Như vậy, đạo
Cao Đài quan niệm Thượng Đế mở ra con đường cho nhân loại trở về với Thượng Đế.
Tôn chỉ của đạo Cao Đài là: “Tam giáo qui nguyên, Ngũ chi hiệp nhất” nhằm mục đích
phục hưng chân truyền, đây là đường lối căn bản cho nhơn sanh tu hành [22, tr.8]. Tam

giáo qui nguyên là thực hiện tôn chỉ của ba tôn giáo lớn (Phật, Nho, Lão) là Từ bi Công bằng - Bác ái.
Ngũ chi hiệp nhất là thống nhất 5 ngành đạo (Nhân đạo của Khổng Tử, Thần
đạo của Khương Tử Nha, Thánh đạo của Jesu, Tiên đạo của Lão Tử, Phật đạo của
Thích Ca) thể hiện 5 trình độ chuyển hố, tu tiến để đi đến giải thốt một cách tồn
diện của người tín đồ Cao Đài.

16


Mục đích của đạo Cao Đài nhằm hồn thiện con người và xây dựng xã hội bình
đẳng, về tâm linh được giải thốt khỏi vịng ln hồi sinh tử nghĩa là “Thế đạo đại đồng
và Thiên đạo giải thoát”. Đạo Cao Đài cho rằng từ khi có lồi người, Thượng Đế đã ba
lần cứu rỗi: Lần thứ nhất vào thời thượng cổ do các đấng Phục Hi, Moise làm Giáo
chủ, kì thứ hai do các đấng Thích ca, Lão Tử, Khổng Tử, Jesus Christ, Mohamet làm
Giáo chủ, kì thứ ba (Tam kì phổ độ) do Thượng Đế lập ra và trực tiếp làm Giáo chủ
trên tinh thần “tam giáo qui nguyên” và “hiệp nhất Ngũ chi” [49 ]. Giáo lí của đạo Cao
Đài đề cao tính thiêng liêng, sự huyền diệu của cơ bút, coi đó là phương tiện để
Thượng Đế trực tiếp dạy đạo mà không giao cho người thường như hai kỳ trước.
Giáo luật
Giáo luật của đạo Cao Đài được thực hiện theo Tân luật và Pháp Chánh truyền
(một số phái còn thực hiện theo Ngọc đế Chơn truyền Tân ước Tri nguyên). Pháp
Chánh truyền: Là bản Hiến pháp của đạo, bao gồm Pháp Chánh truyền Cửu Trùng đài
được Hội thánh lập ngày 16/10/1926(AL) và Pháp Chánh truyền Hiệp Thiên đài lập
ngày 13/1/1927 rồi thơng qua bằng hình thức cơ bút để quy định cơ cấu hành đạo và
thiết lập hàng giáo phẩm của Cửu Trùng đài và Hiệp Thiên đài:
Pháp chánh truyền Cửu Trùng đài gồm các nội dung:
+ Quyền hành chức sắc Cửu Trùng đài từ: Giáo tông, Chưởng pháp, Đầu sư,
Phối sư, Giáo sư, Giáo hữu, Lễ sanh, Chánh Trị sự, Phó Trị sự và Thông sự.
+ Đạo phục chức sắc Cửu Trùng đài: Từ phẩm Giáo tông, Chưởng pháp, Đầu
sư, Phối sư, Giáo sư gồm 2 bộ đại phục và tiểu phục. Đại phục mặc vào những ngày

đại lễ, có màu sắc theo phái (Thái màu vàng - Thượng màu xanh - Ngọc màu đỏ), đầu
đội mũ Bát quái tuỳ theo phẩm trật. Tiểu phục cũng may như đại phục nhưng đầu đội
khăn đóng có 9 lớp.
Từ phẩm Giáo hữu, Lễ sanh, Chánh Trị sự, Phó Trị sự và Thơng sự chỉ dùng 1
bộ áo màu trắng đội khăn đóng đen. Riêng Giáo hữu và Lễ sanh đội mũ trong những
ngày đại lễ. Tín đồ mặc áo trắng, đội khăn đóng đen.
+ Quyền hành chức sắc Nữ phái từ phẩm Đầu sư xuống đến Lễ sanh và chức
việc. Tuy nhiên, Nữ phái phải theo Nam phái mà hành đạo.
17


Về đạo phục Nữ phái mặc áo trắng và đội mũ theo phẩm trật.
Về tên gọi chức sắc, đạo Cao Đài qui định trong đời Giáo tông thứ nhất Thánh
danh chức sắc Cửu trùng đài nam phái lấy chữ Thanh, nữ phái lấy chữ Hương.
Pháp chánh truyền Hiệp Thiên đài gồm các nội dung về vị trí, chức năng, nhiệm
vụ và đạo phục chức sắc Hiệp Thiên đài được quy định từ phẩm Hộ pháp, Thượng
phẩm, Thượng sanh, Thập nhị Thời quân gồm 12 vị chức sắc chia thành 3 chi:
- Chi Pháp có Bảo pháp, Hiến pháp, Khai pháp, Tiếp pháp;
- Chi Đạo có Bảo đạo, Hiến đạo, Khai đạo, Tiếp đạo;
- Chi Thế có Bảo thế, Hiến thế, Khai thế, Tiếp thế;
và các chức sắc Tiếp dẫn đạo nhân, Bảo văn pháp quân, Bảo sanh quân.
Tân luật
Là luật của đạo Cao Đài do Hội Thánh lập ra (năm 1927) rồi thơng qua bằng
hình thức cơ bút. Tân luật gồm có ba phần :
Phần đạo pháp qui định như sau:
- Tổ chức hàng giáo phẩm Cửu Trùng đài gồm 9 phẩm: Giáo tông, Chưởng
pháp, Đầu sư, Phối sư, Giáo sư, Giáo hữu, Lễ sanh, chức việc, tín đồ và cách thăng
phẩm trật từ phẩm Lễ sanh đến Chưởng pháp phải được chức sắc cùng phẩm công cử,
(gọi là luật cơng cử), riêng phẩm Giáo tơng phải do tồn thể tín đồ cơng cử.
- Quan hệ giữa Hội thánh và nhân sanh nêu ra những quy định về người nhập

môn, các bậc tu hạ thừa, thượng thừa, việc lập họ đạo và sinh hoạt tại Thánh thất.
- Nhiệm vụ của tín đồ thực hiện theo Ngũ giới cấm và Tứ đại điều quy
- Ngũ giới cấm: Là năm điều cấm gồm cấm sát sinh, trộm cắp, tà dâm, uống
rượu quá độ, nói năng phải giữ lời.
- Tứ đại điều quy: Tuân theo lời dạy của bề trên, không kiêu ngạo, tiền bạc phân
minh, trung thực.
- Việc ban hành luật pháp đạo.
Phần Thế luật: Quy định phần đời, cách xử thế của người đạo Cao Đài để xây
dựng một xã hội đạo đức, an lạc bằng tình thương yêu đồng đạo theo tơn chỉ “Từ bi Cơng bình - Bác ái”.
18


×