Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

Luận văn kinh tế triển vọng để thành phố hồ chí minh trở thành trung tâm tài chính quốc tế​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (785.05 KB, 57 trang )

01
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

THÁI NGỌC CHÂU

TRIỂN VỌNG ĐỂ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRỞ THÀNH TRUNG TÂM TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành Phố Hồ Chí Minh – Năm 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

THÁI NGỌC CHÂU

TRIỂN VỌNG ĐỂ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRỞ THÀNH TRUNG TÂM TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Chuyên ngành : Tài chính – Ngân hàng (hướng ứng dụng)
Mã số : 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN KIM CƯƠNG

Thành Phố Hồ Chí Minh - Năm 2019



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu của tơi dưới sự hướng dẫn
của người hướng dẫn khoa học là TS. Trần Kim Cương. Trong Luận văn có sử dụng,
trích dẫn một số ý kiến, quan điểm khoa học của một số tác giả. Các thơng tin này đều
được trích dẫn nguồn cụ thể, chính xác và có thể kiểm chứng. Các số liệu, thơng tin
được sử dụng trong Luận văn là hoàn toàn khách quan và trung thực, được đúc kết từ
quá trình học tập và kết quả nghiên cứu trong thực tiễn của tác giả.
Tôi cũng chân thành cảm ơn sự quan tâm tạo điều kiện của nhà trường, gia đình,
sự giúp đỡ có hiệu quả của bạn bè và các đồng nghiệp, trong suốt quá trình học tập và
viết Luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi tới các Giáo sư, Tiến sĩ, các nhà khoa học, các bạn đồng
nghiệp lời cảm ơn sâu sắc nhất.

Tác giả

Thái Ngọc Châu


MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1
1

2. Mục tiêu nghiên cứu:

4


3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

4

4. Những đóng góp mới của đề tài

5

5. Kết cấu của đề tài

5

B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHUNG PHÂN TÍCH VỀ TRUNG TÂM TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
1.1. Khung lý thuyết về Trung tâm Tài chính Quốc tế:

6
6
6
6

1.1.1. Lý thuyết về Trung tâm Tài chính Quốc tế:

6

1.1.2. Phân loại các Trung tâm Tài chính Quốc tế

7


1.1.3. Vai trị của Trung tâm Tài chính Quốc tế

9

1.2. Một số Trung tâm Tài chính lớn trên thế giới

11

1.2.1. New York

11

1.2.2. London

12

2.2.3. Singapore

12

1.2.4. Thượng Hải

13

1.3. Các điều kiện để một đơ thị trở thành Trung tâm Tài chính Quốc tế
14
1.3.1. Yếu tố về năng lực cạnh tranh

17


1.3.2. Yếu tố cơ sở hạ tầng

19


CHƯƠNG 2
20
THỰC TRẠNG VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ TP. HCM TRỞ THÀNH MỘT
TRUNG TÂM TÀI CHÍNH CỦA KHU VỰC VÀ THẾ GIỚI
20
2.1. Yếu tố về năng lực cạnh tranh
20
2.2. Yếu tố về cơ sở hạ tầng

35

2.3. Yếu tố về tài chính cơng nghệ (Fintech)

37

CHƯƠNG 3:
40
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ ĐỂ GĨP PHẦN PHÁT
TRIỂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRỞ THÀNH TRUNG TÂM TÀI
CHÍNH KHU VỰC VÀ QUỐC TẾ.
40
3.1. Kiến nghị về thể chế và chính sách
40
3.2. Kiến nghị phát triển thị trường tài chính


40

3.3. Kiến nghị về sự phát triển chung của Thành phố

42

C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO:

44


DANH MỤC BẢNG VÀ HÌNH
Hình 1 : Xếp hạng top 7 các trung tâm tài chính quốc tế trên thế giới

14

Bảng 1. 1: Cách tiếp cận chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu – GCI 4.0: 12 trụ cột,
được chia thành 4 nhóm
18
Bảng 1. 2: Các yếu tố cần thiết để đánh giá năng thực cạnh tranh để hình thành Trung
tâm
Tài chính Quốc tế
19
Hình 2. 1: Chỉ số năng lực cạnh tranh của Thành phố Hồ Chí Minh năm 2018 25
Hình 2. 2: Cơ cấu nhu cầu nhân lực theo trình độ nghề trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh quý 4 năm 2018 và quý 1 năm 2019
35
Hình 2. 3: Các công ty Fintech tại Việt Nam năm 2019

40
Hình 2. 4: Tăng trưởng mạnh nhất về thanh tốn qua di động tại Việt Nam và các
nước Trung Âu năm 2018-2019
42


TĨM TẮT
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh hiện đang quan tâm và hướng tới việc xây
dựng Trung tâm Tài chính Quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, để Thành
phố có thể thực hiện được điều đó, đòi hỏi cần phải hội tụ các yếu tố cần thiết, từ thể
chế, chính sách, mơi trường kinh doanh đến cơ sở hạ tầng, nhân sự và cơng nghệ.
Chính vì thế, tác giả thực hiện nghiên cứu này nhằm phân tích các nội dung liên quan
về Trung tâm Tài chính Quốc tế. Luận văn nghiên cứu sử dụng hai nhóm yếu tố chính
là yếu tố về năng lực cạnh tranh và yếu tố về cơ sở hạ tầng trong nghiên cứu thực
nghiệm về xây dựng một Trung tâm Tài chính Quốc tế ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ để
phân tích. Kết quả nghiên cứu cho thấy Thành phố tuy có tiềm năng phát triển thành
Trung tâm Tài chính Quốc tế khi có vị trí địa lý thuận lợi nhưng vẫn cịn một danh
sách dài các vấn đề cần giải quyết. Cụ thể, Thành phố cần quan tâm, cải thiện khung
pháp lý, thể chế để thu hút các định chế tài chính lớn vào hoạt động, cải thiện cơ sở hạ
tầng, giao thông và vấn đề giáo dục để thu hút nhân tài trong và ngoài nước. Ngoài ra,
phát triển hệ thống tài chính tại Thành phố là tiêu chí quan trọng để xây dựng một
Trung tâm Tài chính Quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, nghiên cứu
cũng có đưa ra các kiến nghị liên quan về thể chế và chính sách, giải pháp phát triển
hệ thống tài chính cùng với các giải pháp hỗ trợ chính quyền Thành phố.

Từ khóa: Trung tâm Tài chính Quốc tế (IFC), thị trường tài chính.


SUMMARY


The authority of Ho Chi Minh City is interested and driving to build an
International Financial Center in the city. However, for The City to realize it, there
are many necessary elements accounted, from the institutions, policy, business
environment to infrastructure, man-power and technology. Therefore, this study is
to analyze all related content of International Financial Center. The research thesis
is based on two (2) main elements, which are the competing capability and the
infrastructure, in the experimental study of building the International Financial
Center in Istanbul – Turkey to analyze. The result of the research shows that
although The City has a potential to be an International Financial Center due to its
geographical location, there is still a long list of issues to be solved. Specifically,
The City needs to be focus and improve the juridical and institutional framework to
attract the activity from big financial institutions, to improve the infrastructure, the
traffic and educational issues to attract domestic and international talents.
Moreover, developing the financial system of The City is an important criteria to
build The International Financial Center in Ho Chi Minh City. Besides, the study
also share some recommendations related to institutions and policy, development
solutions for financial system and supporting solutions to the authority of The City.


1

A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Với mục tiêu đưa đất nước trở thành một quốc gia phát triển trong tương lai,
việc hình thành một Trung tâm Tài chính Quốc tế là điều không thể thiếu bởi trên
thế giới, các quốc gia phát triển đều xây dựng các Trung Tâm Tài chính Quốc tế
theo chuẩn mực Quốc Tế, với quy mơ tồn cầu như London, New York, hay với
quy mô khu vực như Singapore, Thượng Hải, Tokyo...ở Châu Á, Frankfurt, Paris,
Amsterdam ở Châu Âu, Chicago ở Bắc Mỹ. Hơn thế nữa, tài chính là một trong
những ngành dịch vụ chủ yếu hiện nay góp phần quan trọng trong sự phát triển kinh

tế, cung cấp nhiều ngành nghề, dịch vụ, được coi là phần tất yếu trong cuộc sống
hiện đại bao gồm các ngân hàng, bảo hiểm, các quỹ đầu tư, giao dịch phái sinh, thị
trường ngoại hối, thanh toán, kế tốn, quản lý tài chính… khơng chỉ gói gọn trong
nước mà ngày càng rộng rãi với các tổ chức quốc tế, các giao dịch nước ngoài. Do
vậy, đã từ lâu Thành phố Hồ Chí Minh đã được chính quyền Trung Ương xác định
việc xây dựng và phát triển thành một Trung tâm Tài chính cả nước và từng bước
trở thành Trung tâm Tài chính Khu vực từ 15 năm trước. Trong Hội thảo gần đây
của Chính phủ được tổ chức ngày 17 tháng 07 năm 2019 về việc “Xây dựng Thành
phố Hồ Chí Minh thành trung tâm tài chính khu vực và quốc tế”, TS. Trần Du Lịch,
thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ đã khẳng định lại chủ
trương xây dựng đã có từ lâu nhưng đến nay vẫn chưa thể thực hiện được, cụ thể là:
Năm 2002, Nghị quyết 20/BCT của Bộ chính trị về Thành phố đã xác định
việc xây dựng và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành Trung tâm Tài chính
của cả nước và từng bước thành trung tâm tài chính của khu vực Asean.
Tháng 12/2005, Đại hội Đảng thành phố lần thứ 9 xác định rằng thị trường
tài chính là một trong 9 nhóm ngành dịch vụ chủ lực của Thành phố.
Năm 2006, UBND Thành phố đã giao cho Viên Kinh tế Thành phố xây
dựng đề án “Phát triển thị trường tài chính trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
đến năm 2010, tầm nhìn 2020” và đã được báo cáo cho UBND Thành phố trong
năm 2006.
Năm 2007, QĐ số 128/2007/QĐ- TTg của Thủ tướng đã phê duyệt Đề án
phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020 định hướng


2
Thành phố Hồ Chí Minh trở thành trung tâm tài chính- ngân hàng tầm cỡ cả nước
và khu vực.
Năm 2018, QĐ số 3113/QĐ-UBND UBND Thành phố đã thành lập Ban chỉ
đạo, Ban biên tập soạn thảo “Chương trình phát triển thị trường tài chính trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2010, tầm nhìn 2020 tiếp tục xác định

“việc từng bước trở thành trung tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa
học cơng nghệ của đất nước và khu vực Đông Nam Á.”
Hiện nay, theo tin từ Sở Kế hoạch và Đầu tư, Thành phố đang triển khai hai
nhiệm vụ cùng một lúc là lựa chọn nhà đầu tư để thực hiện dự án tại hai lô đất
thuộc khu chức năng số 1 trong khu đô thị mới Thủ Thiêm (quận 2) và xây dựng
Đề án phát triển Thành phố Hồ Chí Minh thành Trung tâm Tài chính Quốc tế do
cơng ty Đầu tư tài chính nhà nước TPHCM (HFIC) phối hợp với các sở-ngành đề
xuất tham mưu cho UBND Thành phố.
Vào ngày 24/05/2019, Đoàn cán bộ cấp cao của Thành phố Hồ Chí Minh
cũng đã đến Đức để làm việc với đại diện Thành phố Frankfult (Đức) về kinh
nghiệm để thực hiện kế hoạch xây dựng Trung tâm Tài chính Quốc tế tại Thành
phố.
Có thể thấy, mọi chủ trương từ Chính phủ cũng như mối quan tâm của
Thành phố đều hướng đến việc phát triển và xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh
trở thành một Trung tâm Tài chính của quốc gia, hướng đến khu vực và thế giới.
Điều này là bởi vì tiềm năng của Thành phố về sức mạnh kinh tế, tài chính, dịch
vụ, cơng nghiệp và sản xuất. Với lối sống có nền văn hóa và lịch sử lâu đời, hơn
nữa cịn là Thành phố quốc tế, Thành phố đáp ứng sự mong đợi của mọi người
đến từ nhiều quốc gia khác nhau. Trong kỷ nguyên công nghệ mới này, cạnh
tranh giữa các thành phố cũng đỡ cởi mở hơn và rõ ràng là thành phố ngày càng
có xu hướng cạnh tranh và tiếp thị thành phố như những địa điểm hấp dẫn để đầu
tư vào.
Thành phố Hồ Chí Minh là một đô thị đặc biệt với dân số gần 9 triệu người
có hộ khẩu thường trú, đơng nhất cả nước hiện nay, là trung tâm vùng kinh tế
trọng điểm phía nam, một khu vực được đánh giá năng động, phát triển và đóng
góp nhiều nhất vào tổng thu ngân sách của nước ta, là đầu mối giao thông của cả


3
nước, có cảng biển quốc tế nối liền trực tiếp với các nước trong khu vực. Thành

phố Hồ Chí Minh trong năm 2018 có GDP 1,33 triệu đồng, chiếm 25% tổng sản
lượng quốc gia, một phần ba giá trị sản xuất công nghiệp, tạo ra 16% tổng kim
ngạch xuất khẩu, 33,4% kim ngạch nhập khẩu và thu hút lượng
FDI lên đến 7,07 tỷ USD cao nhất của cả nước. Ngoài ra, Thành phố tiếp
tục là địa phương thu ngân sách lớn nhất cả nước, ước đạt 369.621 tỷ đồng,
chiếm tỷ trọng 27,21% tổng thu ngân sách cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh
cũng là trung tâm về tài chính, ngân hàng lớn nhất của cả nước với mật độ tập
trung của các định chế tài chính trên địa bàn thành phố lớn nhất cả nước, Thành
phố là trụ sở của các Ngân hàng lớn nhất và các công ty tài chính có vốn đầu tư
nước ngồi, Sở giao dịch chứng khốn Thành phố Hồ Chí Minh HOSE. Thị
trường chứng khốn tại TP. HCM ln khẳng định vị trí và tầm quan trọng vượt
trội, chiếm hơn 90% giá trị thị trường cổ phiếu cả nước.
Với các lợi thế và tiềm năng đang có, việc định hướng xây dựng một Trung
tâm Tài chính Quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh là điều cần thiết, khách quan
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển khơng chỉ riêng của Thành phố mà cịn đối với
sự tăng trưởng chung của cả nước. Điều này cũng đã được thể hiện trong quyết
định “Phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội Thành phố Hồ Chí
Minh đến năm 2020, tầm nhìn 2025” của Thủ tướng Chính phủ, trong đó xác
định mục tiêu phát triển: “Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh văn minh, hiện đại,
với vai trị đơ thị đặc biệt, đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa,
đóng góp ngày càng lớn đối với khu vực và cả nước; từng bước trở thành trung
tâm lớn về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học – cơng nghệ của đất nước và
khu vực Đơng – Nam Á”. Cùng với đó, thế giới đang dần chuyển mình, có một
sự thay đổi lớn khi có sự can thiệp của cơng nghệ 4.0 vào, và tài chính là ngành
chịu ảnh hưởng lớn từ cuộc cách mạng công nghệ này. Do vậy, việc tập trung
nguồn thơng tin, dịch vụ tài chính để có thể tiếp cận dễ dàng và chất lượng hơn
trong việc quản lý tài chính, thanh tốn trong nước và quốc tế,.. là hết sức cần
thiết hiện nay. Dự án tuy đã bắt đầu được khởi xướng từ 15 năm trước nhưng đến
nay vẫn chưa thực hiện được do chưa có một định hướng xây dựng và phát triển
rõ ràng để phù hợp với xu hướng tồn cầu về tài chính. Do đó, để có thể thực



4
hiện được dự án này, địi hỏi quốc gia nói chung cũng như Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng phải hiểu rõ đặc điểm, thể chế, chính sách và định hướng mơ hình
Trung tâm Tài chính Quốc tế riêng của quốc gia. Đây là một quá trình hết sức
phức tạp, khó khăn và lâu dài, cẩn có sự nghiên cứu cụ thể và lời khuyên, góp ý
từ các chuyên gia, tổ chức tài chính, nhà nghiên cứu, doanh nghiệp có kiến thức
nhất định trong lĩnh vực tài chính, cơng nghệ hiện đại.
Nhận thức được tiềm năng, sức mạnh về kinh tế, xã hội của Thành phố Hồ Chí
Minh cũng như sự quan tâm và mong muốn của Chính quyền Thành phố trong việc
xây dựng một Trung tâm Tài chính tầm Khu vực và Quốc tế ở Thành phố, vì thế,
tác giả đã thực hiện đề tài mang tên “Triển vọng để Thành phố Hồ Chí Minh trở
thành Trung tâm Tài chính Quốc tế ”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu được thực hiện cụ thể nhằm những mục đích sau:
Xây dựng khung phân tích về Trung tâm Tài chính Quốc tế. Thế nào là một
Trung tâm Tài chính Quốc tế; Để một đô thị hoặc một thành phố trở thành Trung
tâm Tài chính Quốc tế thì cần hội tụ những yếu tố gì, và cấu thành cấu trúc ra sao;
Các quốc gia và các thành phố nếu sở hữu các Trung tâm Tài chính Quốc tế thì sẽ
có những lợi ích đối với nền kinh tế và đất nước.
Luận văn nghiên cứu sẽ tiến hành khảo sát các yếu tố đó trong điều kiện và
bối cảnh của Thành phố Hồ Chí Minh hiện tại.
Thơng tin nghiên cứu được, tác giả sẽ đúc kết các bài học kinh nghiệm và sẽ
đưa ra một số kiến nghị và giải pháp để Thành phố Hồ Chí Minh có thể xây dựng
một Trung tâm Tài chính mang tầm cỡ Khu vực và Quốc tế trong tương lai.
3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu tập trung nghiên cứu các thể chế, chính sách cùng các
điều kiện cần hội tụ để Thành phố Hồ Chí Minh trở thành Trung tâm Tài chính vào

một năm nào đó trong tương lai. Nghiên cứu này chỉ thực hiện trong phạm vi phân
tích những điều kiện nào Thành phố Hồ Chí Minh đang có và những gì cần có để
xây dựng được Trung tâm Tài chính ở Thành phố chứ sẽ khơng đi sâu phân tích
riêng vào một điều kiện kinh tế cụ thể nào như kinh tế hoặc là ngân sách của Thành
phố.


5
4. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn nghiên cứu trình bày một số kiến nghị nhằm phát huy những điểm
mạnh và lợi thế của Thành phố, ngoài ra đưa ra một số giải pháp, đề xuất để Thành
phố khắc phục điểm yếu và phát triển nhằm mục đích từng bước xây dựng Trung
tâm Tài chính Quốc tế.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu gồm 3 chương.
Chương 1: Khung phân tích về Trung tâm Tài chính Quốc tế.
Chương 2: Thực trạng về các điều kiện để Thành phố Hồ Chí Minh trở thành
một Trung tâm Tài chính mang tầm Khu vực và Quốc tế.
Chương 3: Một số giải pháp, đề xuất và kiến nghị.


6
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHUNG PHÂN TÍCH VỀ TRUNG TÂM TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
1.1. Khung lý thuyết về Trung tâm Tài chính Quốc tế
1.1.1. Lý thuyết về Trung tâm Tài chính Quốc tế
Khái niệm về một Trung tâm Tài chính Quốc tế (International Financial
Center) thường được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Ở đây, tác giả xin trình

bày một vài khái niệm về Trung tâm Tài chính Quốc tế được sử dụng trong các luận
văn nghiên cứu trước đây.
Kindleberger (1974) cho rằng “ Một IFC là rất cần thiết không chỉ giúp cân
bằng thông qua thời gian tiết kiệm và đầu tư của các tổ chức, cá nhân và giúp
chuyển vốn từ những người tiết kiệm tới những người đầu tư, mà cịn giúp thực hiện
thanh tốn và chuyển tiền giữa các nơi. Các ngân hàng và các Trung tâm Tài chính
thực hiện thực hiện chức năng thanh tốn và các chức năng khác như cho vay…
Những chức năng chuyên biệt của thanh toán quốc tế, cho vay hoặc vay nước ngồi
thì được thực hiện hiệu quả nhất tại một nơi Trung tâm, mà Trung tâm này là nơi
chuyên về thanh tốn giữa các vùng trong nước.” Ơng ấy khơng đề cập đến ảnh
hưởng của vị trí địa lý, mà cho rằng, “ Một IFC cung cấp chức năng với chun
mơn cao về cho vay ở nước ngồi, phục vụ như cơ quan thanh toán giữa các quốc
gia. Các định chế như ngân hàng, nhà môi giới, đại lý, những những tổ chức tài
chính thành lập chi nhánh ở các trung tâm như vậy.” Ơng ấy cũng khơng đề cập đến
khả năng của mạng lưới máy tính và đó được xem như là định nghĩa của ông về một
IFC.
Dựa trên nghiên cứu của Kindleberger (1974), đã có nhiều nghiên cứu thực
nghiệm về Trung tâm Tài chính Quốc tế. Thuật ngữ Trung tâm Tài chính Quốc tế
(International Financial Center), viết tắt là IFC đã được một số nhà nghiên cứu sử
dụng trước đây, như Johnson (1976), Heenan (1977), Reed (1981), Gorostiaga
(1984), Jones (1992) và Cassis (2016) cho rằng Trung tâm Tài chính Quốc tế (IFC)
là một trung tâm mà tại đó diễn ra một lượng giao dịch tài chính với khối lượng và
sự đa dạng đáng kể.


7

Johnson (1976), cho rằng “Có sự phân biệt giữa các Trung tâm Tài chính
Quốc tế như London, NewYork với các Trung tâm Tài chính Khu vực như Hồng
Kong, Singapore, Panama. Các Trung tâm Tài chính Khu vực có được vai trò từ sự

kết hợp gần gũi về địa lý với các quốc gia mà khách hàng hoạt động và sự an tồn
và dễ dàng hoạt động của các cơng ty con, chi nhánh và đại lý của các ngân hàng
nước ngồi có trụ sở chính nằm trong IFC chứ khơng phải tạo ra khách hàng ở các
khu vực khác thông qua quy mô quốc gia và sức mạnh quốc tế của chính họ và năng
lực của các ngân hàng quốc gia của chính họ trong kinh doanh tài chính quốc tế. Họ
chủ yếu là nơi đặt trụ sở cho các tổ chức tài chính nước ngồi thấy thuận tiện khi
đặt văn phịng ở đó, thu hút các doanh nghiệp tài chính nước ngồi thành lập các
cơng ty con để có thể hoạt động hiệu quả.”
Trong đó, (Reed, 1981) cho rằng: “Các Trung tâm Tài chính Quốc tế có sự tập
trung hóa: Những đơ thị và thành phố có các tổ chức tài chính, dịch vụ tập trung có
khả năng làm giảm lượng giao dịch và vốn qua các dịch vụ tài chính và vốn giữa
nền kinh tế trong quốc gia của họ và các quốc gia khác. Một IFC sẽ được coi là có
các sàn giao dịch chứng khốn lớn, thị trường vốn, tổ chức tài chính và là nơi đặt
trụ sở chính của các ngân hàng trung ương, các cơ quan quản lý.” (Cassis &
Bussiere, 2005) định nghĩa rằng: “ Một Trung tâm Tài chính Quốc tế là một nhóm
các nhà cung cấp dịch vụ tài chính phục vụ các yêu cầu của một khu vực, một lục
địa, hoặc, hơn hết, trên toàn thế giới, hoặc là một địa điểm trung tâm nơi các giao
dịch tài chính của một khu vực được điều phối và rõ ràng.”
1.1.2. Phân loại các Trung tâm Tài chính Quốc tế
Có nhiều cách tiếp cận về việc phân loại các IFC trên thế giới đã được sử dụng
trong các nghiên cứu trước đây, cụ thể là:
Johnson (1976) đã phân biệt sự khác biệt giữa “Trung tâm Tài chính Khu vực
(Regional Financial Center) RFC là Trung tâm có vai trị quan trọng bởi vị trí địa lý
của họ gần so với các khách hàng của Trung tâm Tài chính và sự thuận lợi và hoạt
động dễ dàng của các chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Trung tâm Tài chính
này” so với “Trung tâm Tài chính Tồn cầu (Global Financial Center) mà có vai trị
như là nơi thu hút các tổ chức tài chính, các ngân hàng, công ty bảo hiểm cho một
bộ phận khách hàng đáng kể trên thế giới.”



8
Gorostiaga (1984) đã cố gắng phân loại IFC bằng cách sử dụng các mơ hình
thuộc địa của quốc gia. “Một mặt, các IFC truyền thống như London, New York,
Frankfurt, Zurich, v.v.là những IFC đã phát triển trên cơ sở vốn trong nước từ các
khoản tiết kiệm địa phương và tiền phát sinh từ thương mại quốc tế. Các IFC này
đóng vai trò là ngân hàng cho các nước thuộc địa của họ và là nơi ký gửi của các
khoản cần gửi của các quốc gia phụ thuộc tại các thành phố lớn này. Mặt khác, các
IFC sau này như Hồng Kơng, Bahamas, Bahrain, Panama và Singapore có nguồn
gốc gần hơn và thường được đặt tại các quốc gia mới nổi. Họ thiếu tự chủ tài chính,
và thường là phần mở rộng của các trung tâm truyền thống, nhưng hoạt động ở các
múi giờ khác nhau.”
Theo Reed (1981), “Các Trung tâm Tài chính Quốc gia là những trung tâm
tăng cường đáng kể cơ sở hạ tầng tài chính và khả năng của họ bằng cách thu hút
các tổ chức tài chính, nhưng thường không phải là trụ sở của các ngân hàng hoạt
động quốc tế lớn. So với các Trung tâm Tài chính Quốc gia, các Trung tâm Tài
chính Quốc tế có số lượng ngân hàng nước ngồi tương đối lớn hơn và nhiều nơi là
trụ sở của các ngân hàng lớn hoạt động quốc tế. Các trung tâm vượt khỏi tầm cỡ
quốc gia là ưu việt hơn trong tài chính, truyền thơng và quản lý. Đó là những nơi
quản lý số lượng lớn tài sản và nợ phải trả, hợp tác chặt chẽ với số lượng lớn các tập
đồn cơng nghiệp lớn, và thu hút và tạo ra thông tin và ý tưởng, cuối cùng thiết lập
các quy tắc hoạt động và tổ chức chi phối các hoạt động quốc tế.”
Một cách tiếp cận khác để phân loại là tập trung vào các chức năng do IFC
cung cấp. Park (1989) đã phân loại các IFC tùy theo việc họ hành động chủ yếu như
một nguồn chính hoặc là điểm đặt của các loại quỹ, ông phân biệt như sau:
Các Trung tâm Tài chính Quốc tế chính (primary centers) (ví dụ: Ln Đơn,
New York và Tokyo) có liên quan đến việc thu thập và phân phối tiền trên toàn thế
giới.
Các Trung tâm Tài trợ (funding centers) (ví dụ: Bangkok, Brussels, Seoul và
Singapore) cung cấp dịch vụ trung gian tài chính hướng nội hơn.
Các Trung tâm Thu thập (collection centers) (ví dụ: Amsterdam, Jakarta và

Kuala Lumpur) cung cấp dịch vụ trung gian tài chính bên ngồi.


9
Các Trung tâm đặt vị trí (booking centers) (ví dụ, Quần đảo Bahamas và
Cayman) tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập và phân phối tiền của người
không cư trú.
Nghiên cứu của (Tansu Yıldırım và Andrew Mullineux, 2015) đối với thành
phố Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng phân loại các IFC như sau:
Trung tâm Tài chính tồn cầu (Global International Financial Center):
London và NewYork được coi là những GIFC duy nhất, với truyền thống lâu đời,
lãnh đạo và vô cùng quan trọng trong các hoạt động cho vay ngân hàng xuyên
quốc gia, giao dịch chứng khoán quốc tế, phát hành trái phiếu quốc tế, giao dịch
ngoại hối, giao dịch phái sinh hàng đầu toàn cầu. Đây là các Trung tâm có vai trị
kết nối các tổ chức tài chính với các khách hàng trên toàn cầu, với sự tập trung
vốn và tài chính khổng lồ, sự hiệu quả và an tồn ở mức cao nhất.
Trung tâm Tài chính khu vực (Regional International Financial Center):
Theo (Johnson, 1976) thì RIFC phân biệt với GIFC bởi Trung tâm Tài Chính
Khu vực xuất phát từ vai trị của nó có vị trí địa lý gần với các khách hàng ở các
Quốc gia khác mà hợp tác với nó. Số lượng và tổ chức tin tưởng đầu tư vào các
Trung tâm này có xu hướng ngày càng tăng ở mức độ khu vực và Quốc tế.
Nhóm thứ ba khơng phải là Trung tâm Tài chính tồn cầu cũng như khu
vực, nhóm này chỉ bao gồm các khu vực kinh tế đô thị ở các quốc gia.
1.1.3. Vai trị của Trung tâm Tài chính Quốc tế
Bằng việc tiếp cận nguồn thông tin từ Ngân hàng Nhà nước, tác giả xin đúc
kết vai trò của Trung tâm Tài chính Quốc tế là vơ cùng quan trọng khơng chỉ đối
với ngành tài chính mà cịn đối với nền kinh tế quốc gia, cụ thể là:
Đối với ngành tài chính:
Việc tập trung các định chế tài chính tại một chỗ sẽ giúp cho việc tiếp cận
thông tin được dễ dàng và các tổ chức có thể có được thông tin đa dạng, chất

lượng, mà các thông tin được xem là vơ cùng quan trọng nhất trong tài chính, do
đó sẽ tăng thêm năng lực cạnh tranh đối với các tổ chức có thể khai thác các
thơng tin ấy.
Các Trung tâm Tài chính Quốc tế thường sẽ là nơi thu hút được nguồn nhân
lực chất lượng cao đến làm việc. Chính điều này sẽ làm giảm bớt chi phí đào tạo


10
chất lượng cao, chi phí tuyển dụng, làm tăng năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt
động của các công ty trong khu vực Trung tâm Tài chính.
Tuy việc phát triển công nghệ thông tin đến thời điểm hiện tại đã phát triển
rất cao, nhưng việc gặp gỡ và làm việc với nhau trực tiếp vẫn giữ một vị trí rất
quan trọng vì khi gặp gỡ và tiếp xúc thì mối quan hệ giữa các tổ chức, các cá
nhân trong lĩnh vực tài chính sẽ trở nên sâu sắc hơn.
Các tổ chức trong lĩnh vực tài chính rất đa dạng như Ngân hàng, công ty bảo
hiểm, quỹ đầu tư, công ty chứng khốn,.. cùng với đó là vơ vàn dịch vụ như thanh
toán, cho vay, tư vấn thuế, tư vấn luật, chứng khoán, kế toán, kiểm toán, ngoại
hối,… Những dịch vụ này đòi hỏi rất nhiều thời gian làm việc trực tiếp giữa khách
hàng và các tổ chức. Do vậy, một Trung tâm Tài chính Quốc tế tập trung các tổ
chức này về một nơi sẽ giúp giảm bớt nhiều chi phí cho cả các khách hàng và cả các
cơng ty trong khu vực Trung tâm Tài chính.
Cuối cùng, một Trung tâm Tài chính Quốc tế sẽ giúp các cơng ty dễ dàng so
sánh được khả năng hoạt động và quản lý của mình với các cơng ty khác, từ đó
góp phần tạo động lực phát triển hơn.
Đối với nền kinh tế:
Các cơng việc liên quan đến tài chính rất đa dạng, đòi hỏi nhiều nhân lực
với năng lực cao cùng với mức thù lao tương xứng. Ngoài số tiền lương nhận
được, những nhân viên trong ngành tài chính cịn có thể sử dụng năng lực chun
mơn để kiếm thêm thu nhập bằng việc đầu tư chứng khoán, hưởng cổ tực doanh
nghiệp,…

Ngành tài chính được xem là ngành đóng góp cho tăng trưởng kinh tế
nhiều. Thống kê cho thấy các quốc gia có hệ thống tài chính phát triển nhất là các
quốc gia tăng trưởng nhanh nhất. Mà Trung tâm Tài chính Quốc tế là một nền
tảng quan trọng của tài chính khu vực đó, thì cũng góp phần khơng nhỏ vào sự
phát triển nền kinh tế. Theo (Fairlamb, 1999), người ta đã ước tính rằng 7 phần
trăm GDP của Anh có nguồn gốc từ 1 triệu nhân viên trong lĩnh vực tài chính
làm việc trong một dặm vng bao gồm Trung tâm Tài chính của thành phố.
Theo chuyên gia Nguyễn Thế Phong đến từ viện chiến lược Ngân hàng, nguồn
thu thuế của lĩnh vực tài chính cũng thường lớn hơn so với các ngành công nghiệp


11
khác. Khu vực tài chính ở Anh vào năm 2010-2011 đóng góp 63 tỷ bảng, chiếm
12% tổng doanh thu thuế ở Anh và Trung tâm Tài chính góp 40% trong tổng doanh
thu thuế ấy.
Các Trung tâm Tài chính ngồi vai trị dẫn vốn đầu tư nước ngồi vào nước
cịn góp phần dẫn nguồn vốn thừa thãi ra nước ngoài. Các doanh nghiệp trong
nước phát triển sẽ thúc đẩy tạo ra nhiều giá trị gia tăng , đóng góp vào sự phát
triển chung của nền kinh tế.
1.2. Một số Trung tâm Tài chính lớn trên thế giới
London và NewYork vốn là hai Trung tâm Tài chính Quốc tế Tồn cầu, giữ
vai trị quan trọng trong hệ thống tài chính của thế giới. Sau này, một số Trung tâm
Tài chính nằm ở khu vực châu Á/ Thái Bình Dương cũng vươn lên và phát triển
nhanh chóng từ tầm Khu vực sang tầm Quốc tế như Hong Kong, Singapore,
Thượng Hải, Tokyo...
Hình 1 : Xếp Hạng Top Bảy Các Trung Tâm Tài Chính Quốc Tế Trên Thế Giới

Nguồn: GFCI 26 rank- longfinance.net

1.2.1. New York

NewYork là một nhà lãnh đạo tồn cầu với vai trị là Trung tâm Tài chính
Quốc tế. NYSE là thị trường chứng khoán lớn nhất của Hoa Kỳ dành cho các
doanh nghiệp trưởng thành. NASDAQ là sàn giao dịch lớn thứ hai của nước cho
các doanh nghiệp mới và đang tăng trưởng. Các thị trường trái phiếu, đặc biệt là


12
thị trường trái phiếu chính phủ rất phát triển và thanh khoản rất cao. Hơn nữa,
các giấy tờ thương mại do các tập đoàn phát hành ngắn hạn là một công cụ tiền tệ
quan trọng khác ở Hoa Kỳ. (The economist Inteligence Unit, 2013a). Giao dịch
ngoại hối bao gồm giao ngay, hợp đồng kỳ hạn, hoán đổi ngoại hối và các giao
dịch khác. Sàn giao dịch chứng khoán quốc tế (ISE) là nhà giao dịch quyền chọn
cổ phiếu lớn nhất cũng hoạt động tại Hoa Kỳ, ISE còn sở hữu EUREX, một sàn
giao dịch phái sinh hàng đầu toàn cầu. (The economist Inteligence Unit, 2013a).
NewYork cũng là nới có sàn giao dịch hàng hóa NewYork, đây là sàn giao dịch
hàng hóa tương lai lớn nhất.
1.2.2. London
London là một trong những Trung tâm Tài chính Quốc tế hàng đầu trên thế
giới và là Trung tâm Tài chính lớn nhất ở Châu Âu. (The city of London, 2011).
London là một IFC có truyền thống lâu đời, có vai trị quan trọng cho hoạt động
cho vay ngân hàng xuyên quốc gia, giao dịch chứng khốn nước ngồi, phát hành
trái phiếu quốc tế, giao dịch ngoại hối. Hệ thống ngân hàng Anh được tập trung
hóa và hệ thống ngân hàng Anh đã thu hút mạnh mẽ các ngân hàng nước ngồi
nhờ vai trị hàng đầu và lâu dài của London là một Trung tâm Tài chính Quốc tế.
Thị trường vốn London vốn phát triển nhất và lớn nhất châu Âu, đây cũng là một
trung tâm quan trọng đối với các công ty niêm yết nước ngoài, kinh doanh trái
phiếu quốc tế và vốn chủ sở hữu nước ngoài. London cũng là trung tâm hàng đầu
thế giới về IPO, năm 2011, 10% số IPO trên toàn thế giới được huy động từ sở
giao dịch chứng khốn London. Giao dịch hàng hóa là một phần quan trọng của
ngành tài chính London và London tổ chức hai sàn giao dịch phái sinh chiếm

khoảng 15% giao dịch hàng hóa tồn cầu (The City of London, 2011).
Bên cạnh đó, một tỷ lệ lớn giao dịch kim loại quý diễn ra trên thị trường
OTC ở London. London cũng là một địa điểm chính cho giao dịch phái sinh
OTC. (The Economist Intelligence Unit, 2013). Thị trường ngoại hối được đặt
tên là Euro ở London là lớn nhất thế giới.
2.2.3. Singapore
Singapore đã trở thành Trung tâm Tài chính của Khu vực và Quốc tế, hiện
chỉ xếp sau NewYork và London. Trong quá trình phát triển, Singapore đã trải


13
qua sự gia tăng và phát triển thành Trung tâm Tài chính mạnh mẽ nhất trong khu
vực. Vị thế hiện có của Singapore được thể hiện qua các xếp hạng.
• Thị trường ngoại hối lớn thứ ba thế giới về giá trị giao dịch, chỉ sau Anh
và Mỹ.
• Trung tâm phái sinh lãi suất OTC lớn nhất châu Á.
• Sở giao dịch chứng khốn quốc tế hóa lớn nhất châu Á, đồng thời là
thị trường ủy thác đầu tư bất động sản (REIT) lớn nhất châu Á trừ Nhật.
• Thị trường trao đổi nhân dân tệ hải ngoại lớn nhất ngồi Trung Quốc và
Hồng Kơng.
• Trung tâm quốc tế lớn về thu xếp phát hành nợ quốc tế, trung tâm quản lý
tài sản và bảo hiểm châu Á.
Singapore có hệ thống ngân hàng vốn hóa tốt, mức thanh khoản cao, nợ xấu
thấp chỉ ở mức khoảng 1% trong tất cả các khoản vay vào năm 2012. Singapore
có thế mạnh là một trung tâm tiền tệ khu vực và là nơi ký gửi tài sản an tồn cho
những người giàu có ở khắp châu Á, do vậy, Singopre được hưởng lợi từ dòng
tiền mà trước đây vốn được gửi tại các Trung tâm Tài chính khác, ví dụ như là
Thụy Sĩ (The Economist Intelligence Units, 2013s). Thị trường tài chính, nghĩa là
thị trường trong nước về chứng khoán, phái sinh và tiền tệ rất phát triển, phục vụ
cho toàn bộ châu Á. Thị trường đồng đô la châu Á (Asian Dollar Market) do các

ngân hàng nước ngoài chi phối hoạt động tại Singapore, tương đương với thị
trường Eurodollar (Eurodolla Market), các trung gian liên ngân hàng xuyên biên
giới và các khoản vay khi ngân hàng (The Economist Intelligence Unit, 2013s).
1.2.4. Thượng Hải
Thượng Hải là một vùng nội địa vốn giàu có tại Trung Quốc, với tốc độ
tăng trưởng cao do đầu tư nước ngoài (FDI) nhiều. Đặc biệt, FDI mang lại vốn
quốc tế, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý dẫn đến năng suất cao. Các cơng ty
nước ngồi khi cạnh tranh với các công ty trong nước giúp mang lại hiệu quả nhờ
cải thiện các tiêu chuẩn hoạt động, quản trị, xúc tác cho sự tăng trưởng kinh tế.
Thượng Hải dù vậy cũng sẽ không thể trở thành Trung tâm Tài chính nếu
khơng có sự hỗ trợ chính sách từ Chính phủ Trung ương. Năm 1990, nhà nước
Thượng Hải cho mở quận Lujiazui là khu tài chính đầu tiên của quốc gia, ban


14
hành các ưu đãi về thuế, hỗ trợ các vấn đề liên quan như đào tạo nhân viên và
dịch vụ Viza cấp tốc. Do vậy, các tổ chức trong và ngoài nước đã thành lập các
chi nhánh tại khu tài chính này. Thượng Hải cũng thành lập các thị trường tài
chính đa dạng như giao dịch tương lai, trao đổi ngoại tệ và cho vay liên Ngân
hàng. Do được hưởng lợi mạnh mẽ từ chính sách nhà nước, Thượng Hải đã thu
hút được rất nhiều các MNCs thành lập trụ sở tại đây, bao gồm nhiều ngân hàng
nổi tiếng như Citibank, HSBC, Standard Chartered…, góp phần đưa vào chun
mơn quản lý tiên tiến, mở rộng hình ảnh của khu vực. Sàn giao dịch chứng khoán
Thượng Hải (SSE) vào cuối năm 2012 là sàn giao dịch lớn thứ hai sau Tokyo về
vốn hóa thị trường. Tuy nhiên, là một thị trường mới nổi, thị trường chứng khoán
Thượng Hải cũng rất biến động. Thượng Hải cũng phải chịu nhiều vấn đề như
khung pháp lý kém phát triển và thể chế thị trường yếu kém. Mặt khác, thị trường
phái sinh ngoại trừ giao dịch hàng hóa thì kém tinh vi hơn các nền kinh tế phát
triển khác và các đối thủ cạnh tranh.
1.3. Các điều kiện để một đô thị trở thành Trung tâm Tài chính Quốc tế

Có rất nhiều đề xuất khác nhau trong việc xác định các yếu tố quyết định
năng lực cạnh tranh trở thành Trung tâm Tài chính của Thành phố, như Lee và
Schmidt-Marwede (1993) đề cập đến thị trường tài chính và cơ sở hạ tầng của
thành phố; Theo Frost and Spence (1993), để nâng cao thành phố cần có một mơi
trường thích hợp. Từ đó, cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ mang lại lợi thế cạnh tranh
cho thành phố, từ giao thông đến phương tiện. Castells (1996) lại bổ sung công
nghệ thông tin và chất lượng cuộc sống vào danh sách, trong khi đó, Yeung,
Poon, Perry (2001) đề cập đến các biến số của nước chủ nhà, bao gồm các ưu đãi
và chính sách của Chính phủ. Cai và Sit (2003) lại định nghĩa sáu chiều, từ hệ
thống kinh tế, chính trị đến hình ảnh của Thành phố trong mắt các khách hàng,
đối tác quốc tế, được coi là khả năng thu hút các tổ chức quốc tế đến một thành
phố.
Năm 2015, Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum - WEF) đã
sử dụng Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index GCI) như một công cụ dùng để đo lường các yếu tố liên quan đến kinh tế vi mô
và vĩ mô của đất nước đến năng lực cạnh tranh của các nước ấy. Tuy nhiên, trong


15
bối cảnh công nghệ phát triển mạnh mẽ, năm 2018, Diễn đàn kinh tế thế giới đã
có cách tiếp cận mới, chú trọng đến sự tăng trưởng trong dài hạn, do đó, chỉ số
này được đổi thành Chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0. (Global
Competitiveness Index 4.0). Chỉ số này quyết định các yếu tố có ảnh hưởng đến
năng lực cạnh tranh của một quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài
hạn, dựa trên 12 trụ cột (động lực) chính gồm 98 yếu tố thành phần được đánh
giá trên thang điểm từ 0-100 cho 140 quốc gia trên thế giới.
BẢNG 1. 1: CÁCH TIẾP CẬN CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH TOÀN CẦU – GCI
4.0: 12 TRỤ CỘT, ĐƯỢC CHIA THÀNH 4 NHĨM

Tạo mơi trường kinh
doanh thuận lợi


Thị trường

Trụ cột 1: Thể chế

Trụ cột 7: Thị trường hàng hóa

Trụ cột 2: Cơ sở hạ tầng

Trụ cột 8: Thị trường lao động

Trụ cột 3: Ứng dụng CNTT

Trụ cột 9: Thị trường tài chính

Trụ cột 4: Ổn định kinh tế
vĩ mô
Nguồn nhân lực

Trụ cột 10: Quy mô thị trường
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo

Trụ cột 5: Y tế

Trụ cột 11: Năng động trong kinh doanh

Trụ cột 6: Kỹ năng

Trụ cột 12: Năng lực đổi mới sáng tạo
Nguồn: Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu năm 2018


Dựa trên nghiên cứu về các yếu tố để Istanbul trở thành Trung tâm Tài chính
của Thổ Nhĩ Kỳ, Kế hoạnh và chiến lược thành lập một IFC được mô tả qua 10 loại,
đó là: Thể chế pháp lý; Tăng cường đa dạng hóa các sản phẩm tài chính; Thực hiện
chế độ thuế suất hiệu quả; Cải thiện cơ sở pháp lý; Khắc phục cơ sở hạ tầng của
thành phố; Nâng cao cơ sở hạ tầng Công nghệ; Thành lập tổ chức liên quan đến dự
án; Phát triển nguồn vốn nhân lực; Xây dựng hình ảnh của Thành phố; Theo dõi kế
hoạch.
Theo nghiên cứu của Tansu Yıldırım và Andrew Mullineux (2015), thành phố
Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ được khảo sát và tiến hành nghiên cứu thực nghiệm để xây


16
dựng Trung tâm Tài chính Quốc tế để đánh giá năng lực trở thành trung tâm tài
chính, cần phân tích các yếu tố được phân loại thành hai nhóm lớn như sau:
BẢNG 1. 2: CÁC YẾU TỐ CẦN THIẾT ĐÁNH GIÁ NĂNG LỰC CẠNH TRANH ĐỂ

HÌNH THÀNH TRUNG TÂM TÀI CHÍNH QUỐC TẾ

Yếu tố về năng lực cạnh tranh

Yếu tố về cơ sở hạ tầng

Mơi trường kinh doanh: (c1)
• Cơ chế
• Điều kiện thuận lợi cho kinh

Dịch vụ cơng cộng và Mơi
trường
xã hội: (i1)


doanh

Điều kiện kinh tế: (c2)



Giáo dục



Y tế



An ninh



Tiện nghi đơ thị

Tài ngun cho mạng lưới kinh



Ổn định chính trị

doanh: (i2)




Chính sách thuế





Thị trường tài chính

Giao thơng đơ thị 
Hàng khơng



Khơng gian văn phịng



Chỗ ở



Hệ thống viễn thơng, cơ sở

hạ tầng cơng nghệ
Địa điểm kinh doanh: (c3)


Vốn nhân lực




Vị trí địa lý



Hình ảnh Thành phố đối với

quốc tế
Nguồn: tác giả tổng hợp từ nghiên cứu thực nghiệm ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.


17
1.3.1. Yếu tố về năng lực cạnh tranh
Để hình thành Môi trường kinh doanh (c1) cần phải ổn định về cơ chế và
tạo điều kiện thuận lợi cho việc kinh doanh và Điều kiện kinh tế (c2) bao gồm
việc ổn định chính trị, chính sách thuế hợp lý và thị trường tài chính hiệu quả.
Mơi trường pháp lý trở thành một thành phần quan trọng trong khả năng
cạnh tranh của thành phố cho một dự án phát triển IFC thành cơng. Các nước cần
có hệ thống pháp lý tốt, nhưng không cần phải quá mạnh mẽ về quy định. Việc
quá quy định có thể dẫn đến một mơi trường kinh doanh an toàn nhưng lại hạn
chế cơ hội của các tổ chức tiềm năng.
Begg (1999) ủng hộ lập luận rằng mơi trường kinh doanh có liên quan đến
cơ sở hạ tầng thành phố có chứa các yếu tố nằm ngồi tầm kiểm sốt của cơng ty.
Những yếu tố này có ảnh hưởng đáng kể đến sự thu hút của thành phố vì sự ảnh
hưởng của chúng đến việc dễ dàng trong kinh doanh, bao gồm việc truy cập vào
thị trường toàn cầu, khách hàng, nhà cung cấp, sự thuận lợi trong việc cấp phép,
tính linh hoạt của thị trường.
Điều kiện kinh tế là yếu tố tiếp theo ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, nó
là tổng hợp hiệu quả kinh tế của thành phố. Các doanh nghiệp và thị trường tài

chính có thể hoạt động trong điều kiện ổn định và khơng thích sự bất ổn trong
kinh doanh. Ngồi sự ổn định, tình hình chính trị ổn định và khả năng đáp ứng,
sự quan tâm của chính phủ là những yếu tố chính, vì một dự án IFC có thể mất
nhiều năm để hoàn thành, kế hoạch và chiến lược xây dựng dù ở cấp thành phố
nhưng cũng cần sự quan tâm ở cấp quốc gia.Tuy nhiên, (Heenan, 1997) cho rằng
cam kết xây dựng IFC đòi hỏi sự quan tâm của cả cộng đồng, bao gồm khu vực
tư nhân, công cộng, cơng đồn và thậm chí là các tổ chức tôn giáo. Các hoạt động
kinh tế trên thế giới từ những năm 1980 đã chuyển từ các cơ sở sản xuất sang các
trung tâm tài chính, dịch vụ, nơi tồn cầu hóa đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ.
Các GIFC và RIFC trên thế giới cũng có quy mơ tài chính và sự thanh khoản rất
lớn, giúp các nhà đầu tư dễ dàng tham gia và rời khỏi thị trường. Cassis (2006)
nhận thấy tầm quan trọng của các sản phẩm đa dạng trong việc làm cho Trung
tâm Tài chính trở nên hấp dẫn trong mắt nhà đầu tư. Thuế là yếu tố thứ ba trong
Điều kiện kinh tế duy nhất có tác động trực tiếp đến lợi nhuận bất kì tập đồn nào


×