Tải bản đầy đủ (.pdf) (276 trang)

Luận án Tiến sĩ Nghệ thuật: Hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (15.43 MB, 276 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Thị Quỳnh Mai

HOA VĂN TRANG TRÍ TRÊN LỤA VẠN PHÚC
(Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội, 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Nguyễn Thị Quỳnh Mai

HOA VĂN TRANG TRÍ TRÊN LỤA VẠN PHÚC
(Quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội)

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật
Mã số: 9210101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỒN THỊ TÌNH

Hà Nội, 2021


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận án tiến sĩ Hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc
(quận Hà Đơng, thành phố Hà Nội) là cơng trình do tơi nghiên cứu, thực
hiện. Những vấn đề nghiên cứu cùng những ý kiến tham khảo, tài liệu đều có
chú thích nguồn đầy đủ.
Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung trong luận án.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2021

Tác giả luận án

Nguyễn Thị Quỳnh Mai


ii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN............................................................................................i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ................................................................... iii

MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ

H I QU T VỀ HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA ........ 9

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................. 9
1.2. Cơ sở lý luận ........................................................................................ 20
1.3. Khái quát về hoa văn trang trí trên lụa .................................................. 34
Tiểu kết ........................................................................................................ 54
Chƣơng 2. IỂU HIỆN CỦA HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA VẠN
PH C .......................................................................................................... 56
2.1. Đề tài hoa văn trang trí ........................................................................ 56
2.2. Đồ án hoa văn trang trí ......................................................................... 92
2.3. Hình thức trang trí hoa văn ................................................................... 92
2.4. Kỹ thuật .............................................................................................. 106
Tiểu kết ...................................................................................................... 111
Chƣơng 3. LUẬN BÀN VỀ Đ C TRƢNG VÀ GI

TRỊ CỦA HOA VĂN

TRANG TR TR N LỤA VẠN PH C ................................................... 114
3.1. Hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc trong tương quan với lụa một số
vùng khác ở Việt Nam................................................................................ 114
3.2. Đặc trưng hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc .................................... 114
3.3. Giá trị văn hóa nghệ thuật của hoa văn trên lụa Vạn Phúc .................. 146
Tiểu kết ...................................................................................................... 162
KẾT LUẬN ............................................................................................... 164
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC ................................... 169
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 170

PHỤ LỤC ................................................................................................. 183


iii

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

GS.TS

:

Giáo sư Tiến sĩ

H

:

Hình

HVTT

:

Hoa văn trang trí

NCS

:

Nghiên cứu sinh


Nxb

:

Nhà xuất bản

PL

:

Phụ lục

Tr

:

Trang


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
1.1. Làng lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) là làng
nghề dệt lụa tơ tằm có truyền thống từ ngàn xưa. Lụa Vạn Phúc nổi tiếng cả
nước vì chất lượng bền, đẹp, được triều đình lựa chọn để may trang phục và
được người Pháp đánh giá là sản phẩm tinh xảo của xứ Đông Dương tại hội
chợ Marseille năm 1931. Với những đặc tính như; mềm, mịn, độ thấm hút mồ
hôi cao, lụa tơ tằm Vạn Phúc đã và đang đáp ứng hiệu quả về mỹ cảm cùng

khả năng tạo dáng, khả năng định hình cho mẫu trang phục trở nên đặc sắc và
phong phú. Lụa Vạn Phúc được coi là chất liệu đặc sắc, được nhiều người ưa
chuộng bởi tính thân thiện với mơi trường, đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con
người. Trang phục may bằng chất liệu lụa, khơng chỉ tơn vinh vóc dáng cơ thể
mà cịn thể hiện sự tinh tế, duyên dáng, ý nhị biểu hiện nét cổ điển truyền
thống của người Việt.
1.2. Hiện nay, lụa Vạn Phúc đã rất phát triển trong công nghiệp dệt xơ
sợi Việt Nam và được đánh giá cao trong các nhóm vật liệu ngành may. Một
trong những thành tố quan trọng tạo nên giá trị nghệ thuật, cũng là yếu tố
quyết định đến thẩm mỹ của lụa Vạn Phúc chính là HVTT. Chủng loại HVTT
trên lụa Vạn Phúc phong phú và đa dạng, được lấy từ kho tàng hoa văn truyền
thống của dân tộc ở các đề tài về thiên nhiên, cây cỏ, hoa lá, chim muông hay
đề tài về tứ linh, đề tài về chữ và nhóm hình học. Nhưng có sự sáng tạo chứ
khơng rập khn, nhằm phù hợp với kỹ thuật và chất liệu sợi dệt tạo hoa văn,
mang tính mỹ thuật đặc trưng của lụa, thể hiện sự cần mẫn, khéo léo của
người nghệ nhân đã làm nên những sản phẩm thủ công truyền thống đặc sắc.
Vì vậy, việc kế thừa và đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển HVTT trên lụa được
đặt ra như một nhu cầu cần thiết với những đổi mới liên tục của mẫu HVTT
trên trang phục hiện đại. Không chỉ trong quá khứ mà cho tới sau này, nghệ


2

thuật trang trí hoa văn trên bề mặt lụa Vạn Phúc đã và đang có ý nghĩa quan
trọng góp phần nâng cao giá trị sản phẩm hàng tiêu dùng của ngành công
nghiệp dệt may – thời trang nước ta.
Qua khảo sát thực địa cho thấy HVTT trên lụa Vạn Phúc đã sử dụng
phương thức nghệ thuật trang trí dân gian truyền thống, mang nét phóng
khống, mềm mại trong tương quan bố cục và phong cách tạo hình trên bề
mặt lụa. Nhưng điều này, chỉ nhận biết được qua sự hiện hữu của hoa văn trên

một số sản phẩm lụa đặc trưng, mà ít khi được quan tâm tới việc nó bắt nguồn
từ đâu, mang ý nghĩa và biểu tượng gì. Phải chăng HVTT trên lụa Vạn Phúc
là sản phẩm tiếp nối từ mỹ thuật trang trí truyền thống dân tộc và có cả yếu tố
mỹ thuật ngoại sinh. Đây là những vấn đề cần được nghiên cứu, cũng là lý do
để NCS thực hiện nội dung đề tài luận án.
1.3. Hiện nay, do điều kiện kinh tế, các hộ làm nghề dệt lụa, năng suất
lao động thấp, không gian nhỏ hẹp, công cụ giản đơn nên cũng làm hạn chế
sự phát triển của các mơ típ HVTT trên lụa, tình trạng trên phổ biến ở các
làng nghề Việt Nam nói chung và làng Vạn Phúc nói riêng. Đây cũng là nỗi lo
về sự “mai một” và thất truyền các hình thức trang trí trên sản phẩm tơ lụa
Việt Nam. Trong khi đó, các trào lưu mới, các phong cách, khuynh hướng
mới về trang phục đã cho ra đời nhiều hình thức trang trí cơng nghiệp phát
triển như in, thêu, vẽ bằng máy móc hiện đại. Trong bối cảnh giao lưu hội
nhập này, việc nghiên cứu, đánh giá về giá trị thẩm mỹ cũng như khẳng định
bản sắc dân tộc của sản phẩm tiêu dùng trên thị trường đang trở nên cấp thiết.
Từ tình hình đó, việc nghiên cứu hoa văn dưới góc độ mỹ thuật tạo hình trang
trí, hình thức biểu hiện cũng như giải mã biểu tượng hoa văn trên lụa Vạn
Phúc cũng là việc cần làm để phát huy ứng dụng vào đời sống đương đại.
Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, NCS lựa chọn đề tài nghiên
cứu về Hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà


3

Nội) làm luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật. Trên cơ
sở kế thừa những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, luận án làm rõ
tính chất trang trí của hoa văn để tìm ra nét đặc trưng và giá trị nghệ thuật của
HVTT trên lụa Vạn Phúc. Góp phần bổ sung cho phần tư liệu còn khuyết
thiếu vào kho tàng nghệ thuật trang trí hoa văn Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu biểu hiện của HVTT trên lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông,
thành phố Hà Nội) để làm rõ các đặc trưng và giá trị nghệ thuật của HVTT
trên lụa tơ tằm Vạn Phúc.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật của HVTT trên lụa Vạn
Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian: Được giới hạn tại làng lụa Vạn Phúc (quận Hà
Đơng, thành phố Hà Nội). Ngồi ra, luận án còn mở rộng đề cập tới việc so
sánh, đối chiếu đặc điểm, phong cách trang trí của hoa văn trên lụa ở một số
vùng khác để thấy được sự tương đồng và khác biệt về hình thức biểu hiện
của đề tài và đồ án trang trí.
Phạm vi thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài HVTT
trên lụa Vạn Phúc (quận Hà Đông, thành phố Hà Nội) từ năm 1986 đến nay
(2020). Đây là giai đoạn đổi mới của đất nước, HVTT trên lụa Vạn Phúc đã
có sự chuyển mình rõ nét về đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật của HVTT
trên lụa Vạn Phúc.


4

4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi 1: HVTT trên lụa Vạn Phúc được biểu hiện như thế nào thông
qua đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật?
Câu hỏi 2: Đặc trưng và giá trị nghệ thuật HVTT trên lụa Vạn Phúc,
được biểu hiện như thế nào so với HVTT trên lụa các vùng khác?
Câu hỏi 3: HVTT trên lụa Vạn Phúc, mang phong cách tạo hình dân
gian Việt Nam hay được tiếp biến từ văn hóa một số nước khác ở khu vực

phương Đông?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Giả thuyết 1: Hoa văn trên lụa Vạn Phúc được biểu hiện rất đa dạng và
đặc sắc thơng qua các đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật. Đường nét trang trí
khơng q rườm rà, phức tạp mà mềm mại, phóng khống và dứt khoát. Màu
sắc của hoa văn biến đổi linh hoạt, đa sắc, đa chiều nhờ vào những sợi tơ tằm
được dệt trên mỗi tấm lụa Vạn Phúc.
Giả thuyết 2: HVTT trên lụa Vạn Phúc tuy mang nhiều nét tương đồng
so với lụa ở các vùng miền khác, nhưng vẫn có những đặc trưng và giá trị
nghệ thuật riêng biệt mà không phải vùng nào cũng có. Điển hình là ở cách
sắp xếp các hoa văn trong đồ án trang trí mang giá trị về nghệ thuật, đã tạo
nên nét độc đáo của HVTT trên lụa Vạn Phúc, phù hợp với thẩm mỹ của dân
tộc.
Giả thuyết 3: HVTT trên lụa Vạn Phúc phần lớn mang đậm phong cách
tạo hình dân gian Việt Nam. Những đề tài trang trí truyền thống như hoa Sen,
hoa Cúc, hoa Mai, hoa Chanh… thường thấy xuất hiện ở kiến trúc, điêu khắc
trong nghệ thuật trang trí cổ của dân tộc. Căn cứ vào tình hình nghiên cứu thì
những hoa văn kể trên, được nhận định là các đề tài mẫu mực trong nghệ
thuật tạo hình trang trí của nghệ nhân cũng là người nghệ sĩ dân gian Việt


5

Nam. Bên cạnh đó, có sự giao lưu tiếp biến về tạo hình và nghệ thuật trang trí
của văn hóa một số nước khác ở phương Đông, làm nảy sinh thể loại mới, kỹ
thuật mới nhưng vẫn mang đậm phong cách nghệ thuật trang trí của người
Việt, phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng đương thời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu và phƣơng pháp tiếp cận
5.1. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu thứ cấp: Đây là phương

pháp cơ bản để luận án tiếp cận trực tiếp vấn đề nghiên cứu. Thông qua việc
thu thập tài liệu, thơng tin, cơng trình khoa học của các tác giả trong và ngồi
nước, từ đó chọn lọc những tài liệu chính thống, có nguồn gốc rõ ràng và khả
năng tin cậy cao. Nhằm nhận định thông tin tiếp cận một cách chính xác, để
khai triển luận án nghiên cứu mang tính khoa học logic hơn, làm cơ sở cho
những luận điểm được đặt ra trong nội dung của đề tài.
- Phương pháp điền dã: Qua điền dã tại thực địa đã giúp NCS thu thập,
xác minh các dữ liệu và thực hiện khảo sát, xem xét hiện vật, chụp hình, khảo
tả, làm bản rập.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Luận án thống kê các mẫu HVTT
trên lụa Vạn Phúc và so sánh sự khác biệt giữa các hoa văn đó với lụa ở các
vùng miền khác, có đối chiếu với mỹ thuật cổ Việt Nam. Từ đó xác định được
hoa văn nào mang giá trị truyền thống, yếu tố nào được hình thành trong quá
trình giao lưu tiếp biến. Nhìn nhận những vấn đề nảy sinh trong q trình
nghiên cứu HVTT cũng như phát hiện tính mới và đưa ra giả thuyết trong đề
tài luận án.
- Phương pháp phỏng vấn: NCS tìm hiểu, nghiên cứu và phỏng vấn,
đặt câu hỏi cho một số nghệ nhân ở làng nghề dệt đã sáng tác hoa văn, các
nhà thiết kế thời trang và người dệt trực tiếp trang trí hoa văn trên lụa, nhằm


6

xác minh dữ liệu nghiên cứu một cách khoa học, rõ ràng, minh bạch giúp luận
án thêm những cứ liệu hiện thực và tin cậy.
5.2. Phƣơng pháp tiếp cận
Phương pháp tiếp cận liên ngành: Luận án sử dụng và tham khảo những
thành tựu nghiên cứu của một số ngành khoa học có mối liên quan tới đề tài
như: địa lý, lịch sử, văn hóa, khảo cổ để làm sáng tỏ hơn đặc trưng nghệ thuật
của HVTT trên lụa Vạn Phúc giai đoạn 1986 đến nay (2020). Phương pháp

này có ưu thế tổng hợp tri thức của nhiều lĩnh vực dựa trên mối quan hệ qua
lại của các ngành để nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện và hệ thống hơn
cho luận án.
Ngồi ra, luận án cịn tiếp cận theo hướng nhân học biểu tượng. Mỗi
HVTT trên lụa Vạn Phúc đều mang giá trị biểu tượng riêng, được biểu hiện
như một thế giới quan sinh động, ẩn chứa trong đó những ước vọng về cuộc
sống, sự gắn bó giữa con người với thiên nhiên mà người đương thời muốn
gửi gắm thông qua tấm lụa Vạn Phúc. Người nghệ nhân làng lụa Vạn Phúc đã
sử dụng các biểu tượng hoa văn mang đậm kiểu thức cổ truyền dân tộc để đưa
vào trang trí cũng là phản ánh một phần quan điểm gu thẩm mỹ về cái đẹp,
một phần thể hiện tư tưởng giáo lý, tín ngưỡng tơn giáo của người Việt. Mối
quan tâm của đề tài cũng chính là nghiên cứu, giải mã nội dung, ý nghĩa chứa
đựng bên trong mỗi biểu tượng HVTT trên lụa Vạn Phúc.
6. Những đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
Về phương diện lý luận và lịch sử mỹ thuật: Đề tài là cơng trình nghiên
cứu chun biệt theo hướng tiếp cận nghệ thuật học, thông qua việc nghiên
cứu HVTT trên lụa Vạn Phúc mang giá trị về lịch sử, văn hóa tạo nên nét đặc
trưng riêng biệt trong HVTT Việt Nam. Đề tài đóng góp bổ sung tư liệu vào
kho tàng mỹ thuật dân gian Việt Nam.


7

Đối với nghệ thuật tạo hình: Luận án là cơng trình nghiên cứu chuyên
sâu về HVTT trên lụa Vạn Phúc, trên cơ sở làm rõ các đặc trưng và giá trị
nghệ thuật được biểu hiện thông qua đề tài, đồ án, hình thức và kỹ thuật. Từ
đó làm cơ sở tham khảo và phát huy giá trị mỹ thuật dân gian cho mỹ thuật
ứng dụng hiện nay. HVTT trên lụa Vạn Phúc giai đoạn 1986 đến nay (2020),
mang đến những giá trị thẩm mỹ nhất định, những đặc trưng riêng không thể

lẫn với các sản phẩm lụa ở các vùng miền khác.
Với di sản văn hóa: Đề tài chỉ ra được những đặc trưng và giá trị văn
hóa nghệ thuật sâu sắc, biểu hiện ở một số hoa văn chứa đựng tính dân tộc,
tính truyền thống quy tụ trong một bố cục trang trí trên lụa mang phong cách
tạo hình gần gũi với nghệ thuật dân gian. HVTT trên lụa đã vượt qua giá trị
hàng hóa đơn thuần, khẳng định được giá trị thẩm mỹ thông qua sản phẩm lụa
đặc sắc.
Về giáo dục thẩm mỹ: Góp phần nhận thức được những giá trị về nghệ
thuật, giá trị văn hóa của cha ơng, có tiếp thu và kế thừa kho tàng mỹ thuật
truyền thống. Giáo dục thẩm mỹ có vai trị quan trọng nhằm biểu đạt tư duy
và bồi đắp kiến thức về cái đẹp thông qua các đặc trưng về HVTT, yếu tố tạo
hình cùng các đồ án trang trí trên lụa Vạn Phúc. Khơi dậy niềm đam mê yêu
thích nghệ thuật trang trí truyền thống của dân tộc.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận án góp phần bổ sung kiến thức về lý luận mỹ thuật cho các nhà
sáng tác hoa văn nói chung và HVTT trên lụa nói riêng, các nhà nghiên cứu,
các giảng viên, sinh viên, học viên, nghiên cứu sinh chuyên ngành mỹ thuật
ứng dụng. Cũng như người làm việc và công tác trong lĩnh vực văn hóa nghệ
thuật, lĩnh vực nghiên cứu vật liệu dệt may. Nhằm bảo tồn, phát huy giá trị
nghệ thuật truyền thống ứng dụng vào đời sống đương đại.


8

Luận án góp phần bổ khuyết cho những khoảng trống về nghiên cứu lý
luận cũng như hệ thống hóa tư liệu về HVTT trên lụa Vạn Phúc, mang tính
trực quan hữu ích cho mỹ thuật ứng dụng nói chung và chuyên ngành thiết kế
thời trang nói riêng.
7.


ết cấu của luận án

Luận án ngoài phần mở đầu (8 trang), kết luận (5 trang), tài liệu tham
khảo (12 trang), phụ lục (87 trang), nội dung luận án được kết cấu 3 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát
về hoa văn trang trí trên lụa (47 trang).
Chương 2: Biểu hiện hoa văn trang trí trên lụa Vạn Phúc (58 trang).
Chương 3: Luận bàn về đặc trưng và giá trị văn hóa nghệ thuật của hoa
văn trang trí trên lụa Vạn Phúc (50 trang).


9

Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHI N CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
H I QU T VỀ HOA VĂN TRANG TR TR N LỤA
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Hướng nghiên cứu về lụa tiếp cận từ lịch sử
Theo nhận định của các nhà nghiên cứu đi trước cho rằng: nguồn gốc ra
đời của vải lụa ở nước ta có từ thời Hùng Vương, nhưng nghiên cứu về lụa thì
đến thế kỷ XV mới bắt đầu. Đã có nhiều nhà nghiên cứu phân tích, đánh giá
về vải lụa ở các khía cạnh khác nhau, trong đó có các nhà nghiên cứu thời kỳ
đầu như Nguyễn Trãi, Ngô Sỹ Liên, Lê Quý Đôn… Mỗi tác giả lại đề cập ở
các khía cạnh liên quan tới chất liệu, màu sắc, kỹ thuật dệt, lịch sử hình
thành… Qua tổng hợp các dạng tài liệu, NCS phân định theo trình tự về mặt
thời gian như sau:
Trong Dư Địa Chí [104] Nguyễn Trãi viết năm 1435, ơng đã nói đến
các phường thợ dệt được lụa như Thụy Chương, Nghi Tàm thuộc Hà Nội hay
ấp Mao Điền, Bất Bể thuộc Hải Dương; ấp Hội Am thuộc Hải Phịng. Ở
những ấp nhỏ ấy, có các phường thợ tài giỏi đã dệt được loại vải nhỏ mặt, mịn

màng thường đựng vào hộp tre để tiến cống, đó là loại lụa mềm mại, óng ả.
Năm 1697, Ngơ Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư (quyển II)
[48] về triều Lý Thái Tông, nhà vua đã cho gọi những người thợ giỏi ở các địa
phương về kinh đơ dạy cho cung nữ dệt lụa, gấm, vóc. Số lượng lụa, là, gấm
vóc của ta thời bấy giờ đã đạt đến mức có thể thay thế tồn bộ gấm vóc phải
mua hàng năm của nhà Tống. Điều này đã khẳng định bước ngoặt quan trọng
cho sự phát triển vải lụa tơ tằm biểu hiện cho tinh thần tự lập tự cường mạnh
mẽ của triều đình và nhân dân ta thời bấy giờ. Đây cũng là cơ sở xác định sự
phát triển về mặt hàng lụa ở nước ta đã mang bản sắc riêng từ thời Lý.


10

Tiếp đến, cuốn Vân đài loại ngữ [22] của Lê Quý Đôn viết năm 1773
đã nêu:
Đất Việt, đất Giao là xứ nóng, ni tằm nhiều hơn nơi khác, một
năm ni đến 8 lứa... Tằm (tàm) là loại dương, thích ấm ráo, ghét
ẩm thấp… Đó là: Bát bối tàm, Nguyên trân tàm ươm vào tháng Ba;
Thái tàm ươm vào tháng Tư; Nguyên tàm ươm vào tháng Năm; Ái
tàm ươm vào tháng Sáu; Hàn trân tàm ươm vào tháng Bảy; Tứ xuất
tàm ươm vào tháng Chín; Hàm tàm ươm vào tháng Mười [22, tr.
209].
Năm 1777, Lê Quý Đôn viết tiếp trong Kiến văn tiểu lục [23] như sau:
“Huyện Từ Liêm và Huyện Đan Phượng, thuộc phủ Quốc Oai có nhiều bãi
trồng dâu, nhân dân chăm lo việc chăn tằm, dệt cửi. Các xã Hà Hội, Thiên
Mỗ, Ỷ La, Trung Thụy và Đại Phùng có tài dệt lụa, trìu, lĩnh, là” [23, tr.
337].
Dựa vào các nhận định trên cho thấy sự phát triển của vải lụa đến thời
Lê đã ghi dấu ấn mạnh trong diễn trình lịch sử về sự phát triển của sản phẩm
lụa tơ tằm Việt Nam.

Năm 1954, P. Huard et M. Durand trong Connaissance du VietNam
[135] đã đề cập đến những vấn đề xung quanh con người Việt Nam thông qua
các lễ hội, nghệ nhân, đời sống xã hội, chiến tranh, nông dân…, đặc biệt tác
giả đã nhắc đến vấn đề ăn mặc và trang phục. Trong nghiên cứu của mình, P.
Huard et M. Durand nói về chất liệu dùng để may trang phục triều đình thời
phong kiến Việt Nam chủ yếu là lụa mềm, bóng và nhiều màu sắc sinh động.
Đây thực sự là những ghi chép quý cho hướng nghiên cứu tiếp cận dưới góc
độ lịch sử của luận án. Tuy nhiên trong toàn bộ nghiên cứu, một phần rất quan
trọng để làm nên giá trị thẩm mỹ của sản phẩm lụa lại chưa được tác giả quan
tâm đến đó là HVTT. Đối tượng nghiên cứu chỉ xoay quanh đến chất liệu


11

trang phục mà chưa mở rộng đến các yếu tố nghệ thuật trang trí trên sản phẩm
đặc trưng này.
Sử quán triều Nguyễn đã ghi lại tình hình cả nước ta trong Đại Nam
nhất thống chí (tập 4) năm 1971 [70] đó là khơng có tỉnh nào khơng dệt vải
lụa, thậm chí cịn ghi chép được đến 5 loại vải, 4 loại lụa, 3 loại sợi, 3 loại
lĩnh, 3 loại trừu, 3 loại the và một số loại nhiễu, gấm, bông, tơ khác. Cuốn
sách còn nêu:
Lụa trắng sản ở các huyện Đan Phượng, Tiên Phong, Yên Lãng,
Phúc Thọ có hộ chuyên nghiệp; duy có lụa ở Chu Chàng và Cổ Đơ
thuộc huyện Tiên Phong là tốt hơn cả. The thổ có tên là the Đại
La… Vải của xã Vân ở huyện Yên Lạc, sợi nhỏ dày và trắng hơn
các huyện khác [70, tr. 245 - 246].
Cuốn sách đã đề cập đến sự phát triển của chủng loại lụa thông qua
việc cải tiến khung dệt. Tức là, người thợ dệt đã nghiên cứu chuyển chiếc
khung cửi đạp chân thành khung cửi giật tay, nhằm nâng cao sản xuất và phát
triển mặt hàng lụa trong cả nước.

Trong tập sách Nghề đẹp quê hương (1977) [110] của tác giả Trần Lê
Vân cũng nói đến đình làng Cổ Đơ có thờ Hồng Phủ Thiếu Hoa – Bà tổ nghề
trồng dâu nuôi tằm dệt lụa như sau:
Hùng Định Vương sinh ra một Mỵ nương tên là Hồng Phủ Thiếu
Hoa, có tên Mơ Nhâm, lại có tên hiệu là Mô Nhĩ. Khi lớn tuổi, mỵ
nương theo Loa Tổ học nghề. Học được nghề, mỵ nương về dạy
dân trồng dâu, ni tằm, dệt lụa… Năm 32 tuổi, Hồng Phủ Thiếu
Hoa xin cho vua cha cho nàng đi chơi thăm nhiều nơi xa gần, vua
ưng cho. Đến làng nào, nàng cũng dạy dân nuôi tằm, cấy lúa…
[110, tr.7].


12

Sau này bà được tôn thờ là vị tổ nghề lụa. Tập sách cũng nói về thời
Hùng Vương, dân chăm việc nơng tang, ni tằm từ rất sớm. Có trồng dâu
ni tằm thì chắc hẳn phải có ươm tơ dệt lụa, thời kỳ này xuất hiện nhiều vị
“tổ nghề”. Trong nghiên cứu của mình, Trần Lê Vân cũng đưa ra các vị “tổ
nghề” như sau: Làng Vạn Phúc thờ bà tổ nghề tên là Lã Thị Nga, bà sống
khoảng thế kỷ VII - VIII rất giỏi dệt lụa, sa, the và đã truyền dạy cho dân làng
Vạn Phúc, sau này dân làng nhớ công lao của bà nên đã phong bà là Thành
Hồng làng. Làng La Khê hiện nay cịn đền thờ tổ phường “canh cửi” (dệt
vải). Trong đền La Khê có tấm bia khắc tên mười vị “tổ sư”, từ phương xa
đến nhập tịch và truyền nghề dệt lụa cho dân làng (Theo gia phả họ Nguyễn ở
La Khê). Mười vị “tổ sư” ấy nhập tịch làng vào thời Lê Trung Hưng. Làng
Phùng Xá (Hà Tây) thờ trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan (1528 - 1613) bởi
ơng có cơng cải tiến nghề dệt lụa.
Tiếp nối nghiên cứu về lụa là cơng trình Những bàn tay tài hoa của cha
ơng (1988) [17] của hai tác giả Phan Đại Doãn và Nguyễn Quang Ngọc đã chỉ
ra rất rõ về lịch sử hình thành và phát triển của vải lụa làng Vạn Phúc. Nội

dung nghiên cứu tập trung đề cập đến những mốc tiêu biểu trong quá trình
phát triển của chất liệu lụa tơ tằm thông qua các triều đại phong kiến Việt
Nam. Ngồi ra, nghiên cứu cịn bàn về vải tơ lụa trong thời cận đại. Đây được
coi là nguồn tư liệu quý, giúp ích cho NCS trong việc luận giải các vấn đề cơ
bản của đối tượng nghiên cứu trong đề tài luận án của NCS.
Cuốn Tinh hoa nghề nghiệp cha ông (1998) [117] của Bùi Văn Vượng
lại bàn về nghề dệt từ thời Đông Sơn, phong Kiến cho đến thế kỷ XIX. Tài
liệu bước đầu phân tích tổng hợp số lượng dọi xe sợi rất lớn thời Đông Sơn.
Sự phân bố của chúng trong các di chỉ khảo cổ học thuộc văn hóa Đơng Sơn
cũng như di chỉ Phùng Nguyên trước đó. Tập trung với mật độ cao tại một số
địa điểm như làng Vạc (Thái Hòa, Nghệ An) tới 200 chiếc dọi xe sợi. Sự kiện


13

ấy dường như xác nhận quan điểm cho rằng, nghề dệt tơ lụa thời Đông Sơn đã
rất phát triển theo hướng chun mơn hóa ở các trung tâm sản xuất. Tác giả
đã có sự so sánh, đối chiếu và đưa ra các dẫn chứng liên quan đến quá trình
sản xuất lụa ở từng vùng. Dựa vào cơng trình tổng hợp này, luận án có thể đối
chiếu để tìm ra nét đặc trưng riêng của lụa Vạn Phúc so với lụa ở các vùng
khác. Cơng trình có đối tượng khảo sát lớn xuyên suốt nhiều thời kỳ nên việc
đi sâu vào tính trang trí trên lụa khơng được nhắc tới. Vì vậy, luận án sẽ tiếp
tục nghiên cứu, làm rõ và bổ sung những đặc điểm của HVTT trên lụa.
Cơng trình Làng nghề, phố nghề Thăng Long - Hà Nội (2000) [122]
của hai tác giả Trần Quốc Vượng và Đỗ Thị Hảo nghiên cứu về sự phát triển
của các làng nghề Thăng Long, Hà Nội qua các thời kỳ. Cơng trình có nhắc
đến làng dệt lụa tơ tằm Vạn Phúc và nhấn mạnh sự biến đổi của làng nghề kéo
theo những ảnh hưởng đến chất liệu tơ tằm. Vì thế, luận án tiếp tục nghiên
cứu sự ảnh hưởng đó có dẫn tới sự thay đổi các yếu tố tạo hình trang trí trên
lụa Vạn Phúc khơng?

Trong Lịch sử Việt Nam (2008) [62], Nxb Khoa học Xã hội cũng đã
nêu sơ lược vào những thế kỷ đầu công nguyên, tổ tiên ta đã nuôi tằm với
năng suất cao: một năm tám lứa kén… Thế kỷ XVII, cả vùng đất ven sông
Đuống, khi ấy là nhánh chính của sơng Hồng, do có sự giao lưu buôn bán với
một số trung tâm kinh tế lớn mới được hình thành mà trở nên sầm uất. Các
làng thủ công, phường thủ công xuất hiện ở nhiều nơi. Trong sách có nêu sơ
lược như sau: Thăng Long, Sơn Tây ở Đàng Ngồi, Thuận Hóa ở Đàng Trong
là nơi tập trung nhiều làng dệt có truyền thống lâu đời, đặc biệt là nghề dệt lụa
tằm tang. Lúc này, các hộ nghề dệt lụa trong nhân dân được phát triển và
nhân rộng. Các khâu về kỹ thuật như chọn tơ, se tơ, nhuộm tơ được chú trọng
nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm lụa tơ tằm. Hàng năm, số lượng tơ lụa
mềm mại, óng ả được chuyển ra Đàng Ngồi lên đến hàng nghìn tạ. Như vậy,


14

có thể thấy rằng vào thế kỷ XVII, các sản phẩm lụa tơ tằm đã có bước tiến
mới cả về số lượng và chất lượng.
Trong cuốn Trang phục Thăng Long Hà Nội (2010) [98] của nhà
nghiên cứu Đồn Thị Tình đã đưa ra một luận điểm đáng chú ý có liên quan
trực tiếp đến đề tài đó là: đời Lê có hồng phương ty, bạc phương ty; đời
Nguyễn có bát ty, trừu nam, nam đại (loại hàng dệt tơ dày). Tác giả nhận
định, từ thời Lý “Những người thợ đã dệt được đủ các loại gấm, vóc, lụa,
đoạn... nhiều màu, có họa tiết trang trí đặc sắc, khơng những được sử dụng
trong nước mà còn làm vật cống phẩm cho triều đình phương Bắc” [98, tr.
24]. Đến thời Nguyễn “đã có thêm nhiều mặt hàng mới, riêng Hà Nội có tơ,
bông, lụa trắng, lụa vân, trừu nam, lĩnh hoa, là, the hoa, the mình băng, sa hoa
nhỏ..., với nhiều màu sắc” [98, tr. 184]. Từ những luận điểm trên, tác giả đã
khẳng định về sự phong phú và đa dạng của các loại lụa tơ tằm Việt Nam.
Đây là những sản phẩm dệt tồn tại qua nhiều thế kỷ, nhưng ở mỗi thời kỳ mỗi

vùng miền khác nhau lại có những tên gọi riêng.
Trong hướng nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ lịch sử cịn có cơng trình
Tổng quan về nghề và làng nghề truyền thống Việt Nam (tập 1) [29] của
Trương Minh Hằng đã bàn đến làng nghề dệt và đưa ra cái nhìn tồn cảnh về
nghề tằm tang, ươm tơ dệt lụa của người Việt cổ. Một số bài báo trên các tạp
chí khoa học của các nhà nghiên cứu, phê bình viết về sản phẩm lụa, nhưng
chỉ dừng lại ở nghiên cứu làng nghề, nghiên cứu văn hóa, một số thành cơng
hay vấn đề bảo tồn mà chưa đề cập tới quá trình hình thành và phát triển, dấu
ấn lịch sử, điểm mới hay yếu tố cốt lõi hình thành nên giá trị thẩm mỹ của vải
lụa. Đó là các bài nghiên cứu: “Mấy ý kiến về nghề thủ công cổ truyền ở nước
ta” [58] của tác giả Lâm Bá Nam; “Nghề gấm vẫn cịn có cái tên” (1989) của
Quách Vinh [116].


15

Như vậy qua một số cuốn sách, cơng trình chun khảo, bài viết, những
nội dung và cơ sở lý luận của các tài liệu trên đã giúp NCS có cái nhìn tổng
quan hơn về sản phẩm tơ lụa Việt Nam. Qua đó, khẳng định mốc thời gian,
lịch sử hình thành của sản phẩm lụa có từ khi nào? Cũng như mong muốn
phân giải được quá trình phát triển của chất liệu lụa tơ tằm Việt Nam qua các
giai đoạn lịch sử.
1.1.2. Hướng nghiên cứu hoa văn trang trí tiếp cận từ mỹ thuật
Trong quá trình nghiên cứu để thực hiện cho nội dung của đề tài, mục
đích tìm hiểu phân tích HVTT dưới góc độ mỹ thuật được coi là phần then
chốt quan trọng trong việc giải mã các vấn đề của luận án.
Theo các học giả đi trước, những nghiên cứu về lụa đã xuất hiện vào
những năm 30 của thế kỷ XV. Nhưng nghiên cứu về HVTT trên lụa thì chỉ
mới bắt đầu từ thế kỷ XX. Trong đó phải kể đến cơng trình Nghề dệt cổ
truyền ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam (1999) [57] của tác giả Lâm Bá Nam.

Cơng trình đã nêu “Hoa văn trên các sản phẩm dệt chủ yếu là hoa văn trên sản
phẩm tơ lụa với nhiều loại khác nhau” [57, tr.111]. Đáng lưu ý là tác giả đã
căn cứ vào hình dáng, ý nghĩa của hoa văn để đánh giá, phân loại và thống kê
các nhóm HVTT trên lụa thành 3 nhóm đề tài như sau: thứ nhất đề tài động
vật, thứ hai là đề tài thực vật và thứ ba là nhóm đề tài đồ vật/ hình học/ mơ
phỏng. Nhận thấy, đây là cơng trình nghiên cứu đầu tiên có liên quan về tính
thẩm mỹ của lụa tơ tằm Việt Nam. Mặc dù phần dẫn chứng về HVTT còn khá
“khiêm tốn”. Nhưng cơng trình vẫn là nguồn tư liệu đáng quý cho NCS trong
việc hệ thống và phân loại các nhóm HVTT cũng như xác định cụ thể tên gọi
một số chủng loại hoa văn đặc trưng. Từ đó có sự so sánh đối chiếu sang lụa
Vạn Phúc, giúp ích cho quá trình nghiên cứu đề tài luận án.
Trong Hoa văn trang trí thơng dụng [56] của tác giả Hồng Minh với
hơn 1000 mẫu hoa văn được chọn lọc qua đồ dùng, vật dụng trong cuộc sống


16

hàng ngày của con người. Từ hoa văn cây cỏ thiên nhiên, chim mng đến
hình tượng con người, cho thấy sự phong phú đa dạng về HVTT, điều này
giúp NCS có thêm cơ sở để đối chiếu tư liệu và hệ thống HVTT trong luận án.
Tiếp nối nghiên cứu về HVTT là cuốn Tổng hợp hoa văn rồng phượng
(2003) [1] của tác giả Thái Dịch An đã chỉ rõ về hoa văn truyền thống Việt
Nam cũng như giải quyết các vấn đề trong quá trình nghiên cứu HVTT trên
lụa. Qua các tư liệu này, giúp NCS hiểu thêm một số loại hình, kiểu thức cũng
như xác định tên gọi của hoa văn nói chung. Từ đó có sự so sánh với HVTT
trên bề mặt lụa Vạn Phúc một cách khách quan nhất.
Năm 2003, một trong những nghiên cứu về hoa văn mang tính tổng hợp
và chuyên biệt là cuốn Hoa văn Việt Nam [10] của Nguyễn Du Chi, Nxb Mỹ
thuật. Đây được coi là cơng trình nghiên cứu cơng phu về HVTT qua các thời
kỳ lịch sử. Tác giả còn lý giải sự phát triển của nghệ thuật trang trí và biểu

tượng của các hoa văn trong đời sống xã hội. Cơng trình là cuốn tài liệu hữu
ích trong việc nghiên cứu bước đầu về HVTT của NCS. Từ hoa văn khắc
vạch trên đá, xương, đất sét để tạo nên những đường song song hoặc hình kỷ
hà hay hoa văn động vật, thực vật. Cho đến hoa văn trên gốm như đan, chải,
thừng… thời tiền sử. Hoa văn kỷ hà, gấp khúc, chấm dải, bọ gậy, hình học..
thời sơ sử và các đề tài linh thiêng về tứ linh, phật giáo, hiện thực nửa đầu
thời phong kiến. NCS quan tâm đến sự xuất hiện trùng nhau của một số
HVTT trong Hoa văn Việt Nam trên lụa Vạn Phúc. Đây cũng là vấn đề nghiên
cứu của đề tài nhằm tìm hiểu các HVTT trên lụa Vạn Phúc có kế thừa kho
tàng hoa văn của dân tộc hay được tiếp biến từ văn hóa một số nước ở khu
vực Phương Đơng? Vì vậy, luận án sẽ tiếp tục đi sâu phân tích, đối chiếu và
so sánh cũng như phân định một cách khách quan hơn trong quá trình nghiên
cứu.


17

Vào năm 2003, tác giả Cao Thị Bích Hằng với luận văn thạc sỹ Hoa
văn lụa tơ tằm (Hà Đông – Vạn Phúc) và các giải pháp trang trí trên trang
phục Việt Nam [27] đã khái quát được đặc điểm lụa tơ tằm và các sản phẩm
sản xuất từ tơ tằm. Nghiên cứu nêu ra được các dạng hoa văn trên lụa tơ tằm
có sự phân tích mang tính lý luận. Đây được coi là bước đầu nghiên cứu tập
trung về HVTT trên lụa dưới góc độ mỹ thuật. Điểm nổi bật của cơng trình là
đưa ra được các giải pháp áp dụng HVTT lụa tơ tằm trên trang phục phụ nữ
Việt Nam. Chính điểm này, đã gợi mở để NCS có thể hình dung được kết quả
của việc thiết kế hoa văn trên lụa tơ tằm hiện nay với các mẫu hình được sáng
tác nhằm áp dụng vào trang phục cũng như quan điểm nghiên cứu. Tuy nhiên,
giá trị nghệ thuật và hình thức trang trí như bố cục, hình, đường nét và màu
sắc thì chưa được tác giả quan tâm nhiều. Cơng trình dừng lại ở việc bàn về
một số hoa văn điển hình và ý nghĩa của các hoa văn đó, mà chưa đề cập tới

các đồ án HVTT trên lụa tơ tằm. Các bản vẽ, hình chụp hoa văn vẫn cịn hạn
chế và sơ sài. Vì vậy, đây sẽ là hướng mới để luận án tiếp tục đi sâu, làm rõ
và bổ sung những đặc điểm HVTT trên lụa Vạn Phúc.
Cơng trình Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt (2011)
[6] của tác giả Trần Lâm Biền, đã nghiên cứu tổng hợp về hoa văn từ thời tiền
sử cho đến giai đoạn tự chủ, từ hoa văn cây cỏ, hình tượng con người đến các
biểu tượng về lực lượng tự nhiên và triết học hay linh vật trang trí trên các di
tích lịch sử. Tác giả nhận định:
Nghiên cứu về “hoa văn Việt Nam” cũng là tìm về một mạch nguồn
bản sắc văn hóa Việt Nam, qua đó phản ánh được tính chất xun
suốt, đa dạng trong thống nhất của lịch sử và văn hóa Việt Nam.
Cội nguồn của hoa văn Việt Nam bắt nguồn từ thời tiền sử và sơ sử,
cách đây hàng chục ngàn năm với sự có mặt của những nét vẽ
người xưa trên đồ gốm cổ [6, tr.11].


18

Và nhấn mạnh việc “tiếp cận với hoa văn, nhất là về mặt ý nghĩa là tiếp
cận một khía cạnh mang tính cốt lõi về bản sắc văn hóa Việt Nam” [6, tr.14].
Sau đó tác giả kết luận “Suy cho cùng tới nay vẫn còn thiếu tài liệu tổng hợp
và phân tích về hoa văn, nhất là ở lĩnh vực ý nghĩa” [6, tr.16]. Như vậy, với
mục tiêu nghiên cứu riêng của tác giả, cuốn sách đã cung cấp được những tư
liệu và kiến thức cần thiết cho các nhà nghiên cứu, người yêu nghệ thuật tạo
hình dân tộc cổ truyền. Cuốn sách là nguồn tư liệu tham khảo có ích cho NCS
khi nghiên cứu về HVTT dưới góc nhìn mỹ thuật. Dựa vào cơng trình này,
giúp NCS có cái nhìn tổng quan hơn về HVTT và tình hình nghiên cứu của đề
tài trong hệ thống trang trí mỹ thuật truyền thống của người Việt.
Năm 2013, tác giả Triệu Thế Hùng xuất bản cuốn Hình tượng thực vật
trong nghệ thuật tạo hình của người Việt [34], cuốn sách lựa chọn một số

hình tượng thực vật tiêu biểu trong các cơng trình kiến trúc cổ, các tác phẩm
điêu khắc làm đối tượng nghiên cứu và xác định hệ thống lý luận liên quan
đến hình tượng nghệ thuật. Cuốn sách đưa ra những dấu ấn nghệ thuật đặc
sắc, mang tính tiếp biến ở từng thời kỳ lịch sử cũng như giải mã những thơng
điệp ẩn chứa trong mỗi hình tượng thực vật. Qua tư liệu này, cho thấy mỗi
HVTT trong nghệ thuật tạo hình đều có lịch sử hình thành, tồn tại, biến đổi và
mất đi. Nhờ đó mà hoa văn thực vật đã trở thành một trong những cứ liệu
quan trọng để NCS đối sánh với hoa văn thực vật trong trang trí lụa Vạn
Phúc. Cơng trình giúp ích cho NCS trong việc khái lược về nhóm hoa văn
thực vật và chỉ ra giá trị của hoa văn thực vật mang tính xun suốt trong nền
mỹ thuật Việt Nam.
Ngồi các tư liệu trên, ở hướng nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ mỹ
thuật, cịn có các sách Nghiên cứu biểu tượng – Một số hướng tiếp cận lý
thuyết [25] của Đinh Hồng Hải hay Thế giới biểu tượng trong di sản văn hóa
Thăng Long – Hà Nội [7] của Trần Lâm Biền và Trịnh Sinh cũng giúp cho


19

NCS trong việc giải quyết yếu tố nội hàm, ý nghĩa của các nhóm HVTT trên
bề mặt lụa nói chung. Cũng như giải mã một số biểu tượng HVTT trong đồ án
trang trí trên lụa Vạn Phúc nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu của luận án.
Trong quá trình nghiên cứu và thu thập tài liệu, NCS nhận thấy có một
vấn đề, đó là HVTT trên lụa Việt Nam được các nhà nghiên cứu đề cập muộn
và ít hơn. Thường ở dạng bài viết ngắn, các tiểu mục, tạp chí, kỷ yếu như “Hà
Tây quê lụa. Một nét văn hóa làng nghề” [96] của Đồn Thị Tình trong Kỷ
yếu Hội thảo (2004) hay “Làng nghề quê lụa với văn hóa du lịch” [99] của
Đồn Thị Tình trong Hội thảo - Giá trị văn hóa, du lịch của sản phẩm làng
nghề truyền thống Việt Nam (2012).
Nhìn chung, qua một vài tài liệu nghiên cứu về trang trí hoa văn và hoa

văn truyền thống đã cho thấy, nguồn tư liệu về hoa văn là rất lớn, nhưng các
tư liệu viết về HVTT trên lụa lại khơng có nhiều. Đặc biệt chưa có cơng trình
nào nghiên cứu một cách chun sâu và hệ thống về giá trị thẩm mỹ của
HVTT trên lụa Vạn Phúc. Đa số các nghiên cứu này được nhắc đến thông qua
việc lồng ghép về làng nghề dệt vải, dệt lụa truyền thống, hay việc bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hoặc chỉ đưa ra tên gọi và ý nghĩa của một
số HVTT điển hình. Yếu tố tạo hình của các đồ án trang trí hoa văn trên lụa
chưa được các tác giả đặt thành đối tượng nghiên cứu riêng. Các tài liệu như:
Hoa văn Việt Nam, Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt,
Hình tượng thực vật trong nghệ thuật tạo hình của người Việt… đã định
hướng tiếp cận nghiên cứu dưới góc độ mỹ thuật nhưng chưa mang tính
chun sâu để làm rõ giá trị nghệ thuật của HVTT trên lụa. Bên cạnh đó là
các cơng trình Nghề dệt cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, Hoa văn lụa
tơ tằm (Hà Đông – Vạn Phúc) và các giải pháp trang trí trên trang phục Việt
Nam, đã cung cấp một số nội dung liên quan đến vấn đề HVTT trên lụa tơ
tằm. Một số bài viết còn hạn chế về mặt dung lượng nên chưa cung cấp được


20

nhiều thơng tin và đi sâu vào phân tích những yếu tố tạo hình trên bề mặt lụa
để thấy được giá trị nghệ thuật, giá trị thẩm mỹ của chất liệu đó. Vì vậy, đây
sẽ là khoảng trống gợi mở tính mới cho NCS tiếp tục nghiên cứu.
Ngồi ra, luận án sử dụng nguồn tư liệu chính là q trình điền dã làng
nghề, khảo sát thực tế các sản phẩm lụa cịn lại trong bảo tàng, di tích, lưu giữ
tại đình làng Vạn Phúc. Từ đó đối sánh, phân tích với các sản phẩm lụa hiện
nay, để rút ra kết quả minh chứng cho nội dung nghiên cứu của đề tài luận án.
Như vậy, tất cả những tài liệu mà NCS thu thập được ở các mức độ khác
nhau, đều rất có ích trong việc cung cấp thơng tin, tri thức về một lĩnh vực
hay khía cạnh nào đó đặc trưng trong trang trí lụa Vạn Phúc, nổi bật là HVTT.

Trên cơ sở tham khảo tài liệu các tác giả, nhà nghiên cứu, nhà phê bình nhằm
mục đích hồn thành mục tiêu đề ra của đề tài luận án.
1.2. Cơ sở lý luận của đề tài
1.2.1. Khái niệm cơ bản và thuật ngữ liên quan
1.2.1.1. Khái niệm cơ bản
- Khái niệm hoa văn:
Hoa văn xuất hiện rất sớm với những di chỉ bằng đá, xương và đất sét.
Từ thời tiền sử, con người đã phát hiện ra những dấu tích hoa văn dưới dạng
hình kỷ hà đơn giản. Theo dịng thời gian, hoa văn ngày càng trở nên đa dạng,
phong phú và phức tạp hơn. Trong Đại từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý có
đưa ra định nghĩa về hoa văn như sau: “Hoa văn là hình trang trí có tính đặc
thù của các dân tộc người, thường vẽ, dệt, khắc, chạm, trên đồ vật như hoa
văn trên trống đồng, hoa văn thổ cẩm…” [124, tr. 265].
Theo định nghĩa trong Từ điển Bách khoa Việt Nam (2003) ,“Hoa văn
là mô-tuýp trang trí rất phong phú đa dạng có thể là hình hoa lá cách điệu,
hoặc hình chữ triện” [39, tr. 318]. Trong đó mơ típ được hiểu như cơng thức


×