Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Tài liệu Tổng quan về Bảo hiểm xã hội doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.2 KB, 9 trang )

Chương I Tổng quan về bảo hiểm
I. Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm.
Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất, con người luôn có nguy
cơ gặp phải rủi ro vì những nguyên nhân khác nhau: bão lụt, hạn hán,
ốm đau, bệnh tật, tai nạn… Mỗi khi gặp phải rủi ro thường gây nên
những hậu quả khó lường làm ảnh hưởng đến đời sống sản xuất và
sức khỏe con người. Lúc nào con người cũng tìm cách bảo vệ chính
bản thân và tài sản của mình trước những rủi ro trong cuộc sống cũng
như trong sản xuất.
Khi cuộc sống và sản xuất ngày càng phát triển thì nhu cầu an toàn
cũng được con người ngày càng quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt là khi
khoa học kỹ thuật và công nghệ phát triển, một mặt đã làm tăng năng
suất lao động và tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc sống con người,
nhưng mặt khác nguy cơ gặp rủi ro của con người cũng ngày càng
nghiêm trọng. Để đối phó với rủi ro và khắc phục hậu quả, tổn thât,
lúc này con người đã tìm ra nhiều cách thức khác nhau để phòng vệ.
Theo quan điểm của các nhà quản lý rủi ro những cách thức này
thể hiện chủ yếu ở 2 nhóm biện pháp là kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi
ro.
- Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm biện pháp tránh
né rủi ro, ngăn ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro.
+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng phổ biến trong cuộc
sống. Mỗi cá nhân, mỗi tổ chức đều có thể lựa chọn những biện pháp
thích hợp để né tránh rủi có thể xảy ra nhằm loại trừ nguy cơ dẫn đến
bị tổn thất. Tuy vậy, trong cuộc sống mà nhất là cuộc sống hiện đại
như ngày nay, biện pháp này rất khó thực hiện và thậm chí không thể
thực hiện được.
+ Ngăn ngừa rủi ro: Là biện pháp khá chủ động bằng cách thực
hiện các hành vi và hành động cụ thể mà các cá nhân và tổ chức đưa
ra nhằm giảm mức độ thiệt hại khi gặp rủi ro.
1


+ Giảm thiểu tổn thất: Khi rủi ro đã xảy ra vẫn có thể có các biện
pháp làm giảm thiểu thổn thất như dùng bình cứu hỏa trong hỏa hoạn,
cấp cứu người bị thương,…
- Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm chấp nhận rủi ro và
bảo hiểm.
+ Chấp nhận rủi ro: Là biện pháp mà con người tự chấp nhận tổn
thất khi gặp phải rủi ro, điều đó cũng có nghĩa là họ tự bảo hiểm. Ví
dụ như: lập quỹ dự trữ, dự phòng để bù đắp tổn thất khi gặp phải rủi
ro. Hoặc khi rủi ro đã xảy ra, người ta có thể vay mượn tiền bạc để
khắc phục hậu quả.
+ Bảo hiểm: Là biện pháp chuyển giao rủi ro rất có hiệu quả.
Nhiều người cùng có khả năng gặp phải rủi ro đóng góp tiền bạc để
hình thành quỹ bảo hiểm và quỹ này được dùng chủ yếu vào mục
đích bồi thường hoặc chi trả khi một hay một số người tham gia đóng
góp gặp phải rủi ro, tổn thất.
Trong số các biện pháp trên, biện pháp bảo hiểm là phổ biến và có
hiệu quả nhất. Bởi vì hậu quả của rủi ro thông qua bảo hiểm sẽ được
phân tán cho nhiều người cùng gánh chịu. Hơn nữa, bảo hiểm không
chỉ thuần túy là sự chuyển giao, sự chia sẻ rủi ro, mà nó còn là sự
giảm thiểu rủi ro, giảm thiểu tổn thất, thông qua các chương trình
quản lý rủi ro được phối hợp giữa cá nhân, các tổ chức kinh tế- xã hội
với các tổ chức bảo hiểm.
Thực tế cho thấy, bảo hiểm ra đời là một đòi hỏi khách quan của
cuộc sống và sản xuất. Xã hội càng phát triển và văn minh thì hoạt
động bảo hiểm cũng ngày càng phát triển và trở nên không thể thiếu
được đối với mỗi cá nhân, tổ chức và mỗi quốc gia.
II. Bản chất của bảo hiểm:
2.1 Khái niệm:
Bảo hiểm có nhiều khái niệm khác nhau tùy thuộc vào góc độ nhìn
nhận.

2
- Dưới góc độ tài chính: Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài
chính nhằm phân phối lại những chi phí mất mát không mong đợi.
- Dưới góc độ pháp lý: Bảo hiểm là một nghiệp vụ, qua đó một bên
là người được bảo hiểm chấp nhận trả một khoản tiền (phí bảo hiểm
hay đóng góp bảo hiểm) cho chính mình hoặc cho một người thứ ba
khác để trong trường hợp rủi ro xảy ra sẽ được trả một khoản tiền bồi
thường từ một bên khác là người được bảo hiểm, người chịu trách
nhiệm đối với toàn bộ rủi ro, đền bù những thiệt hại theo Luật Thống
kê.
- Dưới góc độ kinh doanh bảo hiểm: Bảo hiểm là một cơ chế, theo
cơ chế này, một người, một doanh nghiệp hay một tổ chức chuyển
nhượng rủi ro cho công ty bảo hiểm, công ty đó sẽ bồi thường cho
người được bảo hiểm các tổn thất thuộc pham vi bảo hiểm và phân
chia giá trị thiệt hại giữa tất cả những người được bảo hiểm.
Dựa trên các khái niệm đó, người ta đưa ra khái niệm chung nhất
về bảo hiểm, khái quát được các loại hình bảo hiểm (BHTM, BHXH,
BHTN và BHYT): “Bảo hiểm là một hoạt động dịch vụ tài chính,
thông qua đó một cá nhân hay một tổ chức có quyền được hưởng bồi
thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm nếu rủi ro hay sự kiện bảo hiểm
xảy ra nhờ vào khoản đóng góp phí bảo hiểm cho mình hay cho
người thứ ba. Khoản tiền bồi thường hoặc chi trả này do một tổ chức
đảm nhận, tổ chức này có trách nhiệm trước rủi ro hay sự kiện bảo
hiểm và bù trừ chúng theo quy luật thống kê”
2.2 Bản chất của bảo hiểm:
Mục đích của BH là góp phần ổn định cuộc sống và sản xuất cho
những người tham gia và kiến tạo nguồn vốn để phát triển kinh tế và
xã hội của đất nước. Chính vì vậy, bản chất của bảo hiểm là quá
trìnhp hân phối lại tổng sản phẩm quốc nội giữa những người tham
gia BH nhằm đáp ứng nhu cầu về tài chính phát sinh khi rủi ro hay sự

kiện bảo hiểm xảy ra với đối tượng bảo hiểm. Tuy nhiên phân phối
3
trong BH chủ yếu là phân phối không đều và phần lớn không mang
tính bồi hoàn trực tiếp.
Ngoài ra, bản chất của BH còn được thể hiện ở các khía cạnh cụ
thể sau:
- Rủi ro và sự tồn tại của rủi ro là nguồn gốc của BH. Rủi ro theo
nghĩa thông dụng là biến cố gây thietj hại và không mong đợi. Để đối
phó với rủi ro, con người luôn phải tìm cách phòng vệ. Trong BH
hiện đại, ngoài rủi ro còn có các sự kiện liên quan đến bảo hiểm như
sự kiện sinh đẻ của lao động nữ, người đến tuổi nghỉ hưu,…
- Cơ chế chuyển giao rủi ro trong BH được thực hiện giữa bên
tham gia BH và bên BH thông qua các cam kết BH. Theo cơ chế này,
bên tham gia phải nộp phí BH và bên BH cam kết bồi thường hay chi
trả tiền bảo hiểm khi đối tượng bảo hiểm hay người được bảo hiểm
gặp phải rủi ro hay sự kiện BH.
- Phí BH mà bên tham gia nộp cho bên BH phải được thực hiện
trước khi rủi ro hay sự kiện BH xảy ra. Ngược lại, khoản tiền mà bên
BH trả cho bên tham gia hay cho người thứ ba chỉ được thực hiện sau
khi sự kiện BH hay rủi ro xảy ra gây tổn thất.
- Việc san sẻ rủi ro, bù trừ tổn thất trong BH được bên BH tính
toán và quản lý dựa vào số liệu thống kê rủi ro và tình hình tổn thất,
cũng như quỹ BH mà họ thiết lập được dựa trên nguyên tắc số đông
bù số ít.
- BH là một hoạt động dịch vụ tài chính chứ không phải là hoạt
động sản xuất. Chính vì vậy, lợi ích của các bên phải được luật hóa
cụ thể và vai trò quản lý của NN là rất quan trọng, không thể thiếu.
III- Sự ra đời và phát triển của BH (bỏ)
IV. Vai trò kinh tế và xã hội của BH.
4.1. Vai trò kinh tế.

BH nói chung và các loại hình BH nói riêng đều mang lại những
lợi ích kinh tế- xã hội thiết thực. Xét về mặt kinh tế, BH có những vai
trò lớn sau:
4
- Góp phần ổn định tài chính và đảm bảo cho các khoản đầu tư.
+ Ổn định về thu nhập nếu tham gia BHXH hay BHTN.
+ Ổn định về tài chính nếu tham gia BHYT hay BHTM
Bởi vì: Khi rủi ro hay sự kiện BH xảy ra với các đối tượng BH,
nếu bị tổn thất, các cơ quan hay doanh nghiệp BH sẽ trợ cấp hoặc bồi
thường kịp thời để người tham gia nhanh chóng khắc phục hậu quả,
ổn định cuộc sống sản xuất, làm cho sản xuất kinh doanh phát triển
bình thường. Hiện nay, khi không có sự đảm bảo của BH thì các chủ
đầu tư, nhất là các ngân hàng liên quan sẽ không dám mạo hiểm đầu
tư vốn cho dự án. Bởi vậy, BH là một hoạt động kích thích đầu tư.
- BH là một trong những kênh huy động vốn rất hữu hiệu để đầu
tư phát triển kinh tế- xã hội.
Các cơ quan và DN BH thu phí BH trước khi rủi ro và sự kiện BH
xảy ra với đối tượng BH. Giữa thời điểm xảy ra rủi ro do tổn thất và
thời điểm chi trả hoặc bồi thường luôn có khoảng cách, có thể kéo dài
nhiều năm nhất là trong BHTN và BHXH. Bởi vậy số phí thu được
phải dựa vào dự trữ, dự phòng vả phải đem đầu tư để thu lãi trong sự
quản lý chặt chẽ để đảm bảo quyền lợi cho người tham gia BH. Hơn
nữa, các loại hình BHTN, BHXH ngày càng phát triển nhanh chóng,
số phí thu được tồn tích ngày càng lớn. Điều đó càng khẳng định
thêm vai trò huy động vốn để đầu tư của toàn ngành BH là vô cùng
quan trọng đối với các nền kinh tế.
- BH góp phần ổn định và tăng thu cho ngân sách đồng thời thúc
đẩy phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước.
Với các loại quỹ BH ngày càng tăng do người tham gia đóng góp,
các cơ quan, DN BH sẽ trợ cấp hoặc bồi thường kịp thời cho họ để ổn

định đời sống và sản xuất, nếu đối tượng BH gặp phải rủi ro hay sự
kiện BH. Vì vậy NSNN không phải chi tiền để trợ cấp cho các thành
viên, các DN khi gặp rủi ro. Mặt khác, hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực BHTM còn có trách nhiệm đóng góp vào NS thông qua các
loại thuế mà các DNBH phải nộp. Và cũng trong hoạt đông này, mối
quan hệ quốc tế giữa các DNBH ngày càng được mở rộng thông qua
5

×