Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Quan niệm của i kant về chủ thể tiên nghiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 181 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ HỒNG NHUNG

QUAN NIỆM CỦA I. KANT
VỀ CHỦ THỂ TIÊN NGHIỆM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ HỒNG NHUNG

QUAN NIỆM CỦA I. KANT
VỀ CHỦ THỂ TIÊN NGHIỆM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 9.22.90.01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. NGUYỄN VŨ HẢO

HÀ NỘI - 2021


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các trích dẫn
và tài liệu được sử dụng trong luận án có nguồn gốc và xuất xứ rõ ràng. Kết quả
nghiên cứu của luận án chưa được cơng bố qua bất cứ cơng trình nghiên cứu khoa
học nào.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2021
NGƯỜI CAM ĐOAN

VŨ THỊ HỒNG NHUNG


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng cảm ơn Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học
xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho tơi học tập và nghiên cứu; xin bày tỏ
lịng biết ơn sâu sắc tới các thầy giáo, cô giáo khoa Triết học và các khoa, phòng,
ban của Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đã
tận tình giảng dạy, giúp đỡ tơi trong q trình học tập, nghiên cứu, hồn thành luận
án này.
Tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã tạo
điều kiện giúp tơi hồn thành luận án này.
Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến GS.TS. Nguyễn Vũ
Hảo - người đã tận tình giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu và
hồn thành luận án.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2021
Tác giả luận án

Vũ Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................... 1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .............................................................................. 7
1.1. Các cơng trình nghiên cứu trong và ngoài nước về những điều kiện, tiền đề ra
đời quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm .................................................... 7
1.2. Các cơng trình nghiên cứu về triết học I. Kant và quan niệm của I. Kant về
chủ thể tiên nghiệm ..................................................................................................... 15
1.3. Các cơng trình nghiên cứu về những giá trị và hạn chế của quan niệm về chủ
thể tiên nghiệm trong triết học I. Kant ...................................................................... 26
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình tổng quan và những vấn đề
luận án tập trung làm rõ .............................................................................................. 30
Chƣơng 2: NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
CỦA I. KANT VỀ CHỦ THỂ TIÊN NGHIỆM ............................................................................32
2.1. Những điều kiện lịch sử - xã hội và tiền đề khoa học cho sự hình thành quan
niệm về chủ thể tiên nghiệm trong triết học I. Kant ................................................ 32
2.2. Những tiền đề tư tưởng hình thành quan niệm về chủ thể tiên
nghiệm trong triết học I. Kant.............................................................................. 41
2.3. Vài nét khái quát về cuộc đời và các tác phẩm của I. Kant ........................... 58
Chƣơng 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG QUAN NIỆM CỦA I. KANT
VỀ CHỦ THỂ TIÊN NGHIỆM......................................................................................... 64
3.1. Chủ thể tiên nghiệm - đối tượng của triết học duy tâm tiên nghiệm của I. Kant .......... 65
3.2. Chủ thể nhận thức tiên nghiệm trong triết học I. Kant..................................... 73
3.3. Chủ thể đạo đức tiên nghiệm trong triết học I. Kant ........................................ 99
3.4. Chủ thể thẩm mỹ tiên nghiệm trong triết học I. Kant .................................... 119
3.5. Mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức tiên nghiệm, chủ thể đạo đức tiên
nghiệm và chủ thể thẩm mỹ tiên nghiệm................................................................ 129
Chƣơng 4: NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA QUAN NIỆM
VỀ CHỦ THỂ TIÊN NGHIỆM TRONG TRIẾT HỌC I. KANT........................... 134
4.1. Những giá trị trong quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm.............. 134
4.2. Những hạn chế trong quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm .......... 140
4.3. Những ảnh hưởng của quan niệm về chủ thể tiên nghiệm trong triết học

I.Kant ......................................................................................................................... 146
KẾT LUẬN .......................................................................................................................... 162
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CƠNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN.......................................................................................... 164
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 165
PHỤ LỤC: CÁC THUẬT NGỮ ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN ............. 174
PHỤ LỤC: BẢN CHỈ DẪN TÊN NGƢỜI ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN... 175


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lúc sinh thời, Ph. Ăngghen đã từng nhấn mạnh: “... một dân tộc muốn đứng
vững trên đỉnh cao của khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận” [72, tr.
489]. “Nhưng tư duy lý luận chỉ là một đặc tính bẩm sinh dưới dạng năng lực của
người ta mà thôi. Năng lực ấy cần phải được phát triển hoàn thiện, và muốn hồn
thiện nó thì cho tới nay, khơng có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết
học thời trước” [72, tr. 487].
Nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước hay nghiên cứu lịch sử triết học,
trước hết là đánh giá một cách khoa học các trào lưu triết học, vai trò của chúng
trong sự phát triển tư tưởng nhân loại, là cơng việc có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to
lớn. Nắm rõ điều kiện ra đời, hình thành và phát triển, nhất là vạch ra bản chất, nêu
rõ những ưu điểm và cả khuyết điểm cùng xu hướng vận động biến đổi của các trào
lưu triết học cho phép chúng ta từng bước tiếp thu được những giá trị quý giá, khắc
phục những hạn chế, tác động trái chiều với tiến trình lịch sử của chúng. Với ý
nghĩa như vậy, nghiên cứu lịch sử triết học cổ điển Đức nói chung và triết học I.
Kant nói riêng cũng khơng phải ngoại lệ.
Triết học cổ điển Đức từ những thập kỷ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế
kỷ XIX không chỉ là một trong ba nguồn gốc lý luận cho sự ra đời của chủ nghĩa
Mác nói chung và triết học Mác nói riêng, mà cịn có những ảnh hưởng mạnh mẽ và
sâu sắc tới nền triết học đương đại, trong đó, với tư cách là người sáng lập triết học

cổ điển Đức, I. Kant được xem là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại có những
ảnh hưởng khơng nhỏ. Nhiều vấn đề mà I. Kant đặt ra đã được các đại biểu như
Fichte, Schelling, Hegel kế thừa và phát triển, mà về sau, nó đã được C. Mác tiếp
thu trên tinh thần phê phán, “lọc bỏ”, tạo nên cuộc cách mạng trong lịch sử triết
học. Không chỉ thế, nhiều vấn đề trong triết học I. Kant cịn có ảnh hưởng dài lâu
tới nền triết học phương Tây hiện đại thế kỷ XX, trong đó có vấn đề về chủ thể tính,
do I. Kant khởi xướng từ lập trường của chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm
(Transzendentaler Idealismus). Nhiều triết gia phương Tây hiện đại đã coi I. Kant là
người thầy, là bậc tiền bối, là “cội nguồn cảm hứng” của mình khi xây dựng nên
những trào lưu, trường phái triết học hiện đại vô cùng phong phú, đủ màu sắc trong
thế kỷ XX, nhất là hiện tượng học Huserl và chủ nghĩa hiện sinh. Trong số các vấn
đề đó, nổi bật là về chủ thể tiên nghiệm (Transzendentales Subjeckt)1 - một vấn đề
1

Thuật ngữ “chủ thể tiên nghiệm” được I. Kant sử dụng xuất phát từ tiếng Đức “Transzendentales Subjeckt”.
Ở Việt Nam trước năm 2004, thuật ngữ này được nhiều nhà khoa học sử dụng theo nghĩa là chủ thể tiên
nghiệm. Sau năm 2004, thuật ngữ này được một số nhà khoa học dùng là “chủ thể siêu nghiệm”.

1


cốt lõi của triết học của I. Kant. Chủ thể tiên nghiệm là khái niệm dùng để chỉ con
người chủ thể có trước kinh nghiệm, độc lập với kinh nghiệm và không thể cảm
nhận được bằng các giác quan, khác với chủ thể kinh nghiệm là chủ thể gắn liền
với kinh nghiệm, với thể xác và tâm hồn (với các yếu tố vật lý và tâm lý) của con
người, có thể cảm nhận bằng cảm tính. Ở I. Kant, chủ thể tiên nghiệm được coi là
có những năng lực đặc trưng chỉ cho con người gắn liền với chân, thiện, mỹ - một
chủ đề quan trọng, thể hiện tính chất độc đáo của triết học I. Kant và đồng thời là
một trong những vấn đề vơ cùng khó và phức tạp, do đó, cịn ít được đề cập, phân
tích sâu trong các cơng trình triết học ở Việt Nam.

Có thể nói, với hệ thống triết học khá đồ sộ mà tập trung chủ yếu trong các tác
phẩm thời kỳ phê phán, I. Kant đã có những đóng góp quan trọng cho triết học cổ
điển Đức nói riêng và lịch sử triết học thế giới nói chung. Theo I. Kant, nhiệm vụ
hàng đầu của triết học là xác định bản chất con người, hướng vào việc giải quyết
những vấn đề của cuộc sống và hoạt động thực tiễn của con người. Triết học cần đem
lại cho con người nền tảng thế giới quan và vạch ra những nguyên tắc cơ bản của
cuộc sống vì lý tưởng nhân văn. Trong đó, quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên
nghiệm có thể coi là bước tiến lớn trong việc đề cao vai trị của lý tính con người,
nghiên cứu con người với tư cách là chủ thể hoạt động tích cực trong mối quan hệ với
tự nhiên và xã hội, tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tư tưởng triết học
phương Tây, để từ đó về sau các trào lưu triết học đều ít nhiều xoay quanh những
những vấn đề mà I. Kant đã đặt ra.
Ở Việt Nam, việc giảng dạy triết học I. Kant đã được đưa vào chương trình
từ bậc đại học và sau đại học. Mặc dù có khơng ít các nhà nghiên cứu viết về triết
học của I. Kant, tuy nhiên, cho đến nay, việc nghiên cứu triết học I. Kant một cách
toàn diện và số người thật sự am hiểu sâu sắc về triết học của ơng khơng phải nhiều.
Đặc biệt, như đã nói ở trên, quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm là một
vấn đề khó và phức tạp, do đó, cịn ít được đề cập, phân tích sâu trong các cơng
trình triết học ở Việt Nam và chưa được nghiên cứu một cách hệ thống và chuyên
sâu. Trong khi đó, trên thế giới hiện nay, triết học I. Kant vẫn đang là nguồn cảm
hứng lớn lao cho khơng ít các nhà nghiên cứu; số lượng khá lớn các công trình
nghiên cứu về ơng vẫn đều đặn xuất hiện hàng năm, và trong các kỳ đại hội triết học
thế giới hai thập kỷ trở lại đây, triết học của ông vẫn thường xun nằm trong
chương trình nghị sự. Chính vì vậy, đối với những người nghiên cứu, giảng dạy triết
học Mác, việc nghiên cứu sâu sắc và có hệ thống triết học cổ điển Đức nói chung,
triết học I. Kant nói riêng, sẽ giúp cho việc hiểu sâu hơn khơng chỉ nội dung mà cả
2


cách thức được các nhà sáng lập triết học Mác đã kế thừa và vượt qua nền triết học

đó như thế nào. Đặc biệt, nghiên cứu thành công quan niệm của I. Kant về chủ thể
tiên nghiệm khơng chỉ góp phần nâng cao vị thế của tư duy lý luận triết học, mà còn
đưa ra những gợi ý thiết thực nhằm khẳng định vai trò của con người với tư cách là
chủ thể của mọi hoạt động nhận thức và thực tiễn. Bởi lẽ, nghiên cứu vấn đề này
không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ, nắm chắc được quan niệm của I. Kant về chủ thể
tiên nghiệm, mà điều quan trọng hơn nữa là nó giúp ta tăng cường được năng lực tư
duy lý luận - năng lực rất cần thiết cho những người nghiên cứu và giảng dạy triết
học. Cùng với đó, việc nghiên cứu sâu quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên
nghiệm sẽ giúp chúng ta đánh giá được cơng lao, đóng góp, tính độc đáo cũng như
những hạn chế của I. Kant trong dòng chảy triết học của nhân loại nói chung và
hiểu rõ được sự kế thừa, từ nền tảng những suy tư của ông về chủ thể, mà một số
trào lưu triết học phương Tây hiện đại đã “chỉnh lý” I. Kant ra sao, từ đó, chuyển
hướng để xác định lại đối tượng và phương pháp nghiên cứu triết học như thế nào.
Điều này, góp phần khắc phục tính chất đóng kín, giáo điều của tư duy triết học
trước đây, góp phần bổ khuyết những chủ đề cần được tiếp thu có chọn lọc, để tiếp
tục góp phần vào tiến trình đổi mới, giảng dạy, nghiên cứu triết học nói chung, triết
học Mác nói riêng ở Việt Nam.
Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, bên cạnh việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền
thống của riêng của người Việt, chúng ta cần phải tiếp thu một cách có chọn lọc những
thành tựu của nền văn minh phương Tây trong đó có giá trị của những tư tưởng triết học
của I. Kant. Có thể khẳng định rằng, xét từ góc độ này, việc nghiên cứu sâu sắc triết học I.
Kant nói chung và quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm nói riêng có ý nghĩa lý
luận và thực tiễn sâu sắc, vì chính những khám phá có giá trị trong quan niệm của I. Kant
về con người nói chung và về chủ thể tiên nghiệm nói riêng đã góp phần khơng nhỏ giúp
chúng ta có thể nhìn nhận rõ hơn về vai trị, vị trí và những năng lực tiềm tàng của con
người Việt Nam với tư cách là những chủ thể trong công cuộc xây dựng, đổi mới đất nước.
Đồng thời, đây còn là con đường hữu hiệu nhất giúp chúng ta có thể tiếp cận với hệ giá trị
văn hóa tinh thần của nền văn minh phương Tây, để từ đó hướng chúng ta sống và hành
động theo các giá trị cốt lõi của cuộc sống, cũng như đưa ra những gợi ý thiết thực nhằm
nâng cao ý thức trách nhiệm của con người trong bối cảnh cuộc sống có nhiều biến động

hiện nay. Kế thừa những thành tựu của các trào lưu triết học đối lập trước đó (chủ nghĩa
duy kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý), I. Kant đã đưa ra quan niệm rất độc đáo về chủ thể
tiên nghiệm, trong đó con người được xem xét khơng chỉ với tư cách là chủ thể nhận thức
3


tiên nghiệm, chủ thể đạo đức tiên nghiệm và chủ thể thẩm mỹ tiên nghiệm. Từ đây, lần đầu
tiên trong lịch sử triết học, I. Kant đã đưa ra một quan niệm khá tồn diện trong tính chỉnh
thể về con người, trong đó con người khơng chỉ được luận giải từ góc độ lý luận (nhân học
tư biện) với các giá trị Chân, Thiện, Mỹ, mà cịn được phân tích dưới góc độ thực tiễn
(nhân học thực tiễn) với các giá trị thực tiễn mang tính nhân loại.
Với những lý do nêu trên, nghiên cứu sinh chọn “Quan niệm của I. Kant về
chủ thể tiên nghiệm” làm đề tài nghiên cứu cho Luận án Tiến sĩ của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
Mục đích của luận án: Mục đích của luận án là phân tích, làm rõ quan niệm
của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm, từ đó đưa ra những đánh giá về những giá trị và hạn
chế cũng như những ảnh hưởng của quan niệm này đối với lịch sử triết học phương
Tây sau ông.
Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận án
thực hiện những nhiệm vụ sau:
Một là: phân tích những điều kiện, tiền đề cơ bản cho sự hình thành quan
niệm I. Kant về chủ thể tiên nghiệm;
Hai là: phân tích một cách có hệ thống, làm rõ quan niệm của I. Kant về
chủ thể tiên nghiệm, đặc biệt về cấu trúc và các năng lực cơ bản của chủ thể nhận
thức tiên nghiệm, chủ thể đạo đức tiên nghiệm và chủ thể thẩm mỹ tiên nghiệm;
Ba là: đưa ra nhận xét, đánh giá về những giá trị và hạn chế của quan niệm
về chủ thể tiên nghiệm trong triết học I. Kant cũng như một số nhận định về
những ảnh hưởng của quan niệm này đối với lịch sử triết học phương Tây sau ông.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án: là nội dung cơ bản trong quan niệm

của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm
Phạm vi nghiên cứu của luận án: Luận án giới hạn chủ yếu ở việc
nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chủ thể tiên nghiệm trong các tác phẩm
trong triết học I. Kant thời kỳ phê phán “Phê phán lý tính thuần túy”, “Phê phán
lý tính thực hành”( hay cịn gọi là Phê phán lý tính thực tiễn”), “Phê phán năng
lực phán đốn”.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về
lịch sử triết học. Đồng thời, luận án cũng kế thừa những thành quả của các cơng
trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài trong thời gian gần đây.
4


4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa vào phương pháp mácxít trong nghiên cứu lịch sử triết học.
Bởi lẽ đây là phương pháp luận có thể giải quyết hợp lý nhất những vấn đề mà lịch
sử triết học đặt ra đồng thời làm rõ những vấn đề của tư tưởng triết học như: trào
lưu tư tưởng triết học, cá nhân nhà tư tưởng,... giải thích các mối quan hệ giữa: tư
duy và tồn tại, bản thể luận và nhận thức luận, cá nhân và xã hội,… Do vậy sẽ làm
sáng tỏ mối quan hệ giữa quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm với tồn tại
xã hội nước Đức và Tây Âu cuối thế kỷ XVIII đầu XIX, chỉ ra những giá trị, hạn
chế và những ảnh hưởng của quan niệm này của I. Kant đối với lịch sử triết học
phương Tây sau ơng.
Ngồi ra luận án cịn sử dụng một số các phương pháp khác như: phương
pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích
và tổng hợp, phương pháp so sánh…
5. Đóng góp của luận án
Luận án là cơng trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống và tương
đối toàn diện về quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm, kết quả nghiên cứu

của luận án có đóng góp các điểm mới về mặt học thuật, lý luận như sau:
Thứ nhất, luận án đã góp phần phân biệt các nghĩa khá phức tạp của hệ
thuật ngữ trong triết học I. Kant như “tiên nghiệm”, “siêu nghiệm”, “thường
nghiệm” (hay “kinh nghiệm”), “siêu việt”, “thông giác” giúp chúng ta hiểu lại
chúng trong tiếng Việt khác so với một số cách hiểu và dịch chúng trước đây.
Thứ hai, luận án đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung cơ bản
của quan niệm về chủ thể tiên nghiệm trong triết học I. Kant như: làm sáng tỏ
những tư tưởng của I. Kant về cấu trúc và năng lực của chủ thể nhận thức tiên
nghiệm, chủ thể đạo đức tiên nghiệm, chủ thể thẩm mỹ tiên nghiệm.
Thứ ba, luận án đưa ra những đánh giá về những giá trị và hạn chế cũng
như những ảnh hưởng của quan niệm về chủ thể tiên nghiệm trong triết học I.
Kant đối với sự phát triển của lịch sử triết học.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án được hồn thành sẽ góp phần làm sáng tỏ những tư tưởng của I.
Kant về cấu trúc và năng lực của chủ thể nhận thức tiên nghiệm, chủ thể đạo đức
tiên nghiệm, chủ thể thẩm mỹ tiên nghiệm, từ đó đưa ra những đánh giá về
những giá trị và hạn chế của quan niệm trên đối với sự phát triển của lịch sử triết
học sau ông.
5


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học, nghiên
cứu sinh chuyên ngành Triết học.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ góp phần hưởng ứng cơng tác đổi mới
nghiên cứu lý luận theo chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận án
gồm 4 chương và 15 tiết.


6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu trong và ngồi nƣớc về những điều kiện,
tiền đề ra đời quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm
Trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu
về triết học cổ điển Đức nói chung và về triết học I. Kant nói riêng dưới các góc độ
khác nhau, trong đó có một số cơng trình cũng đã giới thiệu khái quát hoặc đề cập
đến những điều kiện, tiền đề ra đời triết học I. Kant nói chung và quan niệm của I.
Kant về chủ thể tiên nghiệm.
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu giới thiệu khái qt về những điều kiện kinh
tế, chính trị, xã hội cho sự ra đời quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu ở Việt Nam
Trước hết là các cơng trình nghiên cứu là sách, giáo trình có thể kể đến một số
các cơng trình như sau:
“Lịch sử Triết học cổ điển Đức” của Bùi Thị Thanh Hương và Nguyễn Đình
Trình [48]
Đây là một cơng trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về lịch sử triết học cổ
điển Đức. đã đi sâu vào phân tích những đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội nước
Đức thời kỳ này. Cụ thể, nước Đức từ khi thành lập (năm 843) ln ở trong tình
trạng phong kiến phân tán trầm trọng. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX,
đất nước này vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu - một liên bang gồm 31 tiểu
vương quốc tách biệt nhau và 4 thành phố tự trị. Liên bang Đức nằm trong tình
trạng bị chia cắt về hành chính, tiền tệ, quan thuế. Tồn bộ quyền lực ở trong tay
giai cấp phong kiến của từng vương quốc. Xét về mặt kinh tế, do quan hệ sản xuất
phong kiến chiếm địa vị chủ yếu đã khiến cho giai cấp quý tộc phong kiến cũng trở

thành giai cấp nắm quyền thống trị về kinh tế và trở thành giai cấp giữ địa vị thống
trị về chính trị, chi phối mọi hoạt động trong nước. Mặc dù vậy, mầm mống của
kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện và phát triển trong mọi ngành kinh tế, các
công trường thủ cơng hình thành từ thế kỷ XVI. Xét về mặt tư tưởng và chính trị thì
các giai cấp ở Đức đều bộc lộ những tiêu cực hoặc hạn chế, trong đó, giai cấp quý
tộc phong kiến giữ địa vị thống trị trong bộ máy cai trị. Tiếp tục truyền thống cấu
kết chặt chẽ giữa hoàng đế Đức với các thế lực tơn giáo, tiêu biểu là Giáo hồng,
các triều đình phong kiến Đức, đặc biệt là triều đình vua Phổ ngoan cố, tăng cường
7


quyền lực của chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến, trở thành một trở ngại to lớn
đối với sự phát triển kinh tế và xã hội Đức. Giai cấp tư sản Đức ra đời và phát triển
cùng sự phát triển của công, thương nghiệp, mục tiêu của họ là chống lại chế độ
quân chủ phong kiến và thống nhất đất nước, tạo nên thị trường dân tộc Đức. Song,
do phân bố rải rác ở các lãnh địa phong kiến tách biệt nhau, họ đã không thống nhất
được giai cấp mình thành một giai cấp có sức mạnh về kinh tế và tổ chức. Các tác
giả cũng đưa ra một điểm mới xuất hiện trong thời kỳ này ở nước Đức, đó là trong
nước Đức đã bắt đầu có một sự xuất hiện phong trào dân tộc mạnh mẽ do sự chuyển
biến về kinh tế và chính trị. Phong trào dân tộc này diễn ra bởi tinh thần phản kháng
của quần chúng nhân dân, của các nhóm tư sản cấp tiến đối với chế độ phong kiến
và chuyên chế, với nội dung là dân chủ tư sản. Biểu hiện cao nhất của phong trào
dân tộc là, ngay sau khi Napoléon bị thất bại ở Nga, thì quần chúng nhân dân và
những phần tử tư sản tiên tiến nhất đã vũ trang nổi dậy chống lại quân đội xâm lược
của Napoléon đưa ra yêu sách phải có hiến pháp và thống nhất nước Đức [Xem: 48,
tr. 6 - 9]. Thông qua cơng trình này, tác giả luận án có thể dễ dàng hiểu được tiền đề
lý luận đã hình thành nên quan niệm về chủ thể nhận thức trong triết học I. Kant.
“Triết học đạo đức của I. Kant và ảnh hưởng của nó đối với triết học Đức
thế kỷ XIX” của Ngơ Thị Mỹ Dung [15]
Trong cơng trình này tác giả đã trình bày khái qt hồn cảnh ra đời triết học

I. Kant trong đó thực tiễn lịch sử - xã hội vương quốc Đức (Deutsches Reich) trong
những thế kỷ XVII - XVIII là một quốc gia phong kiến nông nghiệp lạc hậu với hai
đặc điểm nổi bật là sự chia cắt về chính trị và sự lạc hậu về kinh tế, thực tiễn vương
quốc Đức thời bấy giờ được Ph. Ăngghen đánh giá là thời kỳ yếu hèn nhất của lịch
sử dân tộc Đức.
Bên cạnh cơng trình nói trên, thuộc loại này có thể kể đến một số các cơng
trình nghiên cứu khác như: Lịch sử triết học: Triết học cổ điển Đức, của Viện Hàn
Lâm khoa học Liên Xô [116]; Triết học Imanuin Cantơ (I. Kant) của Nguyễn Văn
Huyên [46]; Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui chủ biên [121]; Học thuyết phạm
trù trong triết học I. Kant của Lê Công Sự [100]; Bản thể luận trong Triết học cổ
điển Đức của Nguyễn Chí Hiếu [35].
Về luận án tiến sĩ, có thể kể đến một số các cơng trình như sau:
“Đạo đức học của I. Kant và những giá trị, hạn chế của nó” của Vũ Thị Thu
Lan [61]
Cũng cùng mục đích làm rõ những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành triết
học I. Kant song tác giả Vũ Thị Thu Lan lại đi sâu vào trình bày những ảnh hưởng
8


của nền Văn hóa Tây Âu cận - hiện đại đến tư tưởng đạo đức I. Kant đặc biệt là sự
ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý và quan niệm về văn hóa. Khi phân tích về những
đặc điểm của văn hóa Tây Âu thời kỳ này tác giả đã chỉ rõ đặc tính quan trọng nhất
đó là sự sùng bái quá mức tư duy lý tính và đề cao vai trò của mỗi bộ phận trong
giới tự nhiên. Bên cạnh đó tác giả cũng dành sự quan tâm khơng nhỏ đến những đặc
điểm của triết học Khai sáng với các đại biểu tiêu biểu như Locke, Rousseau,
Didorot… mà điểm nhấn nổi bật cho triết học này là việc đề cao phổ biến tri thức,
khoa học như là phương pháp cơ bản cho việc tự hoàn thiện của mỗi con người
trong xã hội. Đây cũng là phương pháp giáo dục đúng đắn cho nhận thức của mỗi
con người trong xã hội.
Ngồi ra cịn có một số luận án tiến sỹ cũng đề cập đến những điều kiện kinh

tế, chính trị, xã hội cho sự hình thành triết học I. Kant như: Quan điểm triết học về
lịch sử của I. Kant của Nguyễn Thị Hảo [29]; Chủ thể nhận thức trong triết học I.
Kant và ý nghĩa hiện thời của nó của Nguyễn Vân Hạnh [23].
Về luận văn thạc sĩ có đề cập đến những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
cho sự ra đời quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm có thể kể đến một số
cơng trình tiêu biểu như sau:
“Quan niệm của I. Kant về bản chất của nhận thức trong tác phẩm phê phán lý
tính thuần túy” của Hà Huy Tuấn [110]
Cũng giống như nhiều cơng trình nghiên cứu khác, tác giả đã đi sâu vào trình
bày khái quát điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa, tư tưởng, khoa học ở châu Âu lúc
bấy giờ. Đó là từ thế kỷ XVI-XVIII, Tây Âu thực hiện những bước đi quan trọng
chuyển đổi phương thức sản xuất phong kiến sang phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa. Nếu cách mạng tư sản Hà Lan báo hiệu thời kỳ Trung cổ đã suy tàn, thì cách
mạng tư sản Anh là cuộc cách mạng đầu tiên có ý nghĩa lớn đối với q trình hình
thành tư bản chủ nghĩa trên phạm vi châu Âu và thế giới. Cách mạng công nghiệp ở
Anh: xuất hiện máy móc cơ khí, là sự nhảy vọt từ lao động thủ cơng sang lao động
bằng máy móc, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội, làm phân hoá giai cấp, thay
đổi nhận thức của con người. Cách mạng công nghiệp là biến cố kinh tế quan trọng
nhất trong đời sống kinh tế - xã hội lúc bấy giờ; còn các cuộc cách mạng tư sản mở
đường cho sự phát triển của hiện thực xã hội và các tư tưởng tiến bộ. Các cuộc cách
mạng đó ảnh hưởng rộng đến các phong trào giải phóng ở các nước châu Âu, trong
đó có nước Đức, với xu hướng: chống chủ nghĩa phong kiến và hệ tư tưởng tôn giáo;
phát triển hệ tư tưởng tư sản mang tính chất tiến bộ thời bấy giờ, đòi trả lại cho con
người những quyền cơ bản. Tuy nhiên, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu diệt hoàn
9


tồn về mặt chính trị: nước Đức hãy cịn là một nước nửa phong kiến bị phân hoá cả
về kinh tế lẫn chính trị, tàn tích của chế độ nơng nơ, phường hội, tình trạng cát cứ của
các lãnh chúa, tồn tại nhiều quốc gia nhỏ phụ thuộc lẫn nhau trong nhà nước quân

chủ Phổ... đã kìm hãm sự phát triển tư bản chủ nghĩa ở Đức. Trong bối cảnh xã hội
Đức có trình độ lạc hậu hơn nhiều so với một số nước phát triển tư bản chủ nghĩa đi
đầu ở Tây Âu, triết học I. Kant là sự khai phá tiến bộ trên lĩnh vực tư tưởng, được coi
là "lý luận Đức của cuộc cách mạng tư sản Pháp" [Xem: 110, tr.12 - 14].
Tác giả Vũ Thị Hải trong “Một số quan điểm đạo đức cơ bản của Aristotle
và I. Kant” [22] lại có cách tiếp cận khác khi nhận định bối cảnh lịch sử cho sự hình
thành triết học I. Kant nói chung và tư tưởng của ông về nhận thức luận, đạo đức
học… chính là thời đại mà châu Âu đang tiến lên mạnh mẽ trên con đường tư bản
chủ nghĩa và làm cách mạng trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa tinh
thần. Trong khi nước Đức vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu, vẫn mòn mỏi
trong đống đổ nát và suy tàn. Trong bối cảnh đó, nền văn hóa tinh thần của châu Âu
và nước Đức vẫn phát triển rực rỡ với những thành tựu quan trọng. Tiêu biểu nhất là
phong trào Khai sáng với mục đích giải phóng con người khỏi sự nơ dịch tâm hồn
và thể xác, giúp lồi người được tự do, bình đẳng, bác ái. Triết học I. Kant được
hình thành và phát triển trong bối cảnh văn hóa đó, Đặc biệt quan niệm của ông về
con người với tư cách là chủ thể của hoạt động đạo đức là sự tích hợp những quan
điểm đạo đức từ cổ đại cho đến thời đại của ơng, trong đó phải kể đến: đạo đức học
Epiquya, đạo đức học Khắc kỷ, đạo đức học Kitô giáo và những quan điểm đạo đức
thời Cận đại.
Như vậy, có thể thấy rằng, các tác giả của những cơng trình trên đều thống
nhất nhận định về bối cảnh lịch sử ở các nước Tây Âu như Italia, Anh, Pháp… vào
cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Về cơ bản, các tác giả, đều nhận định ở châu
Âu lúc bấy giờ, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập đem lại một nền sản xuất phát
triển chưa từng có trong lịch sử tỏ ra ưu việt hơn hẳn so với tất cả các chế độ xã hội
trước đó. Trong khi đó, ở nước Đức vẫn cịn trong tình trạng lạc hậu cả về kinh tế
lẫn chính trị: Về kinh tế bị ràng buộc bởi quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu; về
chính trị, nước Đức vẫn là một nước phong kiến già nua dưới sự trị vì của vua
Friedich Winhem II; về tư tưởng, hệ tư tưởng thần học giữ vị trí thống trị. Trên cơ
sở đó, các tác giả đều có chung nhận định, tình hình kinh tế, chính trị và tư tưởng
trên đã cản trở nước Đức phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa. Đây là một

trong những thời kỳ chậm phát triển nhất trong lịch sử nước Đức.

10


* Các cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu trong nước như đã kể trên, cịn có khá
nhiều các cơng trình nghiên cứu giới thiệu khái quát về những điều kiện kinh tế,
chính trị, xã hội cho sự ra đời quan niệm của I. Kant về chủ thể tiên nghiệm ở các
nước trong và ngồi khu vực, trong đó có thể kể đến:
“Kant and The Critique of Pure Reason (Kant và tác phẩm “Phê phán lý tính
thuần túy)” của Sebastian Gradner [131]
Khi nghiên cứu tư tưởng triết học của I. Kant dưới góc độ nhận thức luận,
tác giả đã đi sâu vào phân tích bối cảnh phát triển văn hóa Tây Âu cận đại mà phê
phán là một trong những đặc điểm nổi bật trong đời sống văn hóa tinh thần Tây Âu
Cận đại. Tác giả cũng nhấn mạnh, văn hóa Tây Âu dưới sự phát triển như vũ bão
của cách mạng tư sản mở đầu là cách mạng tư sản ở Hà Lan (thế kỷ XVI) là tiếng
chng chính thức đầu tiên của lịch sử báo hiệu sự xuất hiện và cũng đánh dấu sự
suy tàn của chế độ phong kiến. Bên cạnh đó, gắn liền với sự xuất hiện và lớn mạnh
của lực lượng chính trị mới trong xã hội là yêu cầu phê phán tất cả những gì cản trở
nó, là sự luận chứng cho tính chính đáng của những lợi ích tư sản trong sự đối lập
với lợi ích phong kiến. Ban đầu, đối tượng của sự phê phán là những biểu hiện trần
tục của những đối tượng siêu nhiên vẫn được hệ tư tưởng phong kiến bảo vệ như
thơ ca, các cơng trình kiến trúc gắn với nhà thờ… Sau đó, sự phê phán chuyển dần
sang những tín điều Thiên Chúa, cơ sở của nó trong Kinh Thánh và nhà thờ - chỗ
dựa của nhà nước phong kiến nhằm hướng quan hệ giữa nhận thức của con người
với tự nhiên thoát khỏi mọi cái trung gian thần thánh, thiết lập cơ sở cho nhận thức
của con người là dựa tri thức khoa học thực nghiệm và tri thức có được nhờ tư duy
khoa học (tư duy lý tính) [Xem: 131, tr. 26 - 34].
“Kant’s Transcendental and Metaphysical Idealism (Chủ nghĩa duy tâm tiên

nghiệm và siêu hình học của Kant)” của Michael J. Olson [143]
Khi phân tích về hồn cảnh lịch sử nước Đức, Michael J. Olson lại có cách
tiếp cận khác. Tác giả nêu khái quát hai sự kiện kinh tế, chính trị nổi bật trong thời
kỳ này là cuộc cách mạng công nghiệp Anh và cách mạng tư sản Pháp để từ đó làm
rõ ảnh hưởng của chúng tới phong trào giải phóng ở các nước châu Âu như: chống
lại hệ tư tưởng phong kiến, phát triển hệ tư tưởng tư sản. Đồng thời, tác giả cũng
phân tích tính khơng triệt để của các cuộc cách mạng tư sản dẫn đến sự hình thành
các mâu thuẫn xã hội và xu hướng thỏa hiệp về chính trị giữa giai cấp tư sản và các
11


thế lực phong kiến mà nơi có biểu hiện rõ nhất chính là nước Đức.
1.1.2. Những cơng trình nghiên cứu có liên quan đến các tiền đề khoa học
tự nhiên và các tiền đề tư tưởng triết học cho sự hình thành quan niệm của I.
Kant về chủ thể tiên nghiệm
* Những cơng trình nghiên cứu về tiền đề khoa học tự nhiên cho sự hình
thành quan niệm về chủ thể tiên nghiệm trong triết học I. Kant
Giáo trình “Lịch sử Triết học” do Nguyễn Hữu Vui chủ biên [121]
Đây là một cơng trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về lịch sử triết học
phương Tây từ cổ đại tới hiện đại, trong đó có triết học cổ điển Đức nói chung và
triết học I. Kant nói riêng. Trong phần viết về hoàn cảnh ra đời và những đặc điểm
của triết học cổ điển Đức trong đó có triết học I. Kant, các tác giả đã phân tích khá
sâu sắc khoa học tự nhiên, do sự thôi thúc của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, đạt
được những bước tiến khổng lồ ở thế kỷ XVII, XVIII, đến giai đoạn này vẫn tiếp
tục chứng kiến sự ra đời của những phát minh quan trọng. Chẳng hạn như nhà hóa
học người Pháp - Antoine Laurent de Lavoisier, bằng một loạt thí nghiệm tỉ mỉ, có
độ chính xác cao, đã tìm ra khí ơxy trong khơng khí trộn lẫn với các chất khi cháy,
mở đầu việc khám phá rằng nhiệt, khai sáng, điện và tính mn vẻ của thế giới đều
là những hình thức khác nhau của tồn tại vật chất. Khoa học về điện đã chứng minh
bản chất của dòng điện là sự tương tác giữa dòng điện - và dòng điện dương để tạo

ra dòng điện thống nhất. Cùng với phát hiện hiện tượng điện phân (quá trình điện và
quá trình hóa có mối liên hệ chặt chẽ) là việc khám hiện ra tế bào của Antonie
Philips van Leeuwenhoek- nhà khoa học người Hà Lan.v.v. Các phát minh của khoa
học tự nhiên, một cách ngẫu nhiên, lại càng chứng tỏ tính chất biện chứng vốn có
của thế giới, nó chỉ ra rằng mọi sự vật hiện tượng, quá trình trong thế giới khơng
những vận động khơng ngừng mà cịn ln liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau. Thực tế đó địi hỏi một cách nhìn mới về các hiện tượng tự nhiên, thôi thúc
phương pháp tư duy biện chứng ra đời thay thế cho phương pháp siêu hình của thời
kỳ trước [Xem: 121, tr. 373]. Chính những thành tựu khoa học tự nhiên này đã góp
phần khơng nhỏ cho I. Kant tiến hành cuộc cách mạng Copernicus trong triết học.
“Học thuyết phạm trù trong triết học I. Kant” của Lê Cơng Sự [100]
Trong cơng trình này, tác giả lại có cách tiếp cận vấn đề này dưới góc độ
khái lược lịch sử phát triển lâu dài của khoa học tự nhiên từ thời cổ đại với hàng
loạt đóng góp quan trọng của các nhà triết học tự nhiên như: Định lý về tam giác
vuông của Pitago, các tiên đề về hình học phẳng của Euclid … Thời kỳ Phục hưng -

12


Cận đại, tác giả đề cập đến những ảnh hưởng của các phát minh như: Thuyết Nhật
tâm của N. Copernicus, hệ tọa độ trong toán học của R. Descartes và G. Leibnitz.
Trên cơ sở đó, tác giả đã phân tích và chỉ ra những tác động, ảnh hưởng của những
phát minh trên tới sự hình thành triết học I. Kant nói chung và quan niệm của I.
Kant về chủ thể tiên nghiệm nói riêng: “Những thành tựu mà khoa học tự nhiên đạt
được đã đem đến cho I. Kant quan niệm mới về sức mạnh và khả năng trí tuệ cho
con người trong nhận thức và cải tạo thế giới” [100, tr. 42].
“Đạo đức học I. Kant và những giá trị, hạn chế của nó” của Vũ Thị Thu Lan [61]
Trong cơng trình này, tác giả chủ yếu trình bày về ảnh hưởng và ý nghĩa của
Thuyết nhật tâm do nhà bác học N. Copernicus, những tri thức khoa học tự nhiên
của I.Newton, định luật bảo tồn và chuyển hóa năng lượng của nhà bác học

M.V.Lomonosov và những chứng minh hóa học bác bỏ quan niệm về sự tồn tại của
một loại vật chất đặc biệt: chất cháy không trọng lượng (Flogiston) của nhà hóa học
người Pháp A.L.Lavoisei, phát minh về cấu tạo của nguyên tố hóa học của Dunton
.v.v. đến triết học đương thời trong đó có triết học I. Kant. Đặc biệt, tác giả nhấn
mạnh những ảnh hưởng quan trọng mà các thành tựu khoa học tự nhiên kể trên đối
với I. Kant khi ông thực hiện cuộc cách mạng Copernicus mang tính chất bước
ngoặt trong triết học ở phương diện đòi hỏi một phương pháp nhận thức mới cho
con người trong việc nghiên cứu về thế giới cả về tự nhiên và xã hội.
* Những cơng trình nghiên cứu về tiền đề tư tưởng cho sự hình thành quan
niệm về chủ thể tiên nghiệm trong triết học I. Kant
“Lịch sử triết học phương Tây” của Nguyễn Tiến Dũng [18]
Đây là một cơng trình nghiên cứu tương đối đầy đủ về lịch sử triết học
phương Tây từ cổ đại tới triết học cổ điển Đức. Mỗi tác giả được trình bày riêng rẽ,
nhưng người đọc vẫn nhìn thấy được một hệ thống xuyên suốt và sự kế thừa lẫn
nhau giữa các triết gia. Do vậy tác giả luận án có thể dễ dàng hiểu được tiền đề lý
luận đã hình thành nên quan niệm về chủ thể tiên nghiệm trong triết học I. Kant.
“Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-XIV - Triết học Imanuin Cantơ (I.
Kant)” của Nguyễn Văn Huyên [46]
Tác giả chỉ giới thiệu chứ không đi sâu vào phân tích những tư tưởng của các
nhà triết học tiền bối của triết học cổ điển Đức như: nhà triết học - toán học người
Pháp - R. Descartes, nhà vật lý học người Anh I. Newton, các nhà triết học Đức - G.
Leibnitz….
“Triết học cổ điển Đức” của Lê Công Sự [101]
Cuốn sách nghiên cứu ba triết gia lớn của triết học cổ điển Đức: I. Kant,
13


Hegel, Feuerbach. Trong đó I. Kant đóng vai trị là “thủy tổ” của dịng triết học này.
Cơng trình được trình bày khá ngắn gọn nhưng rất sâu sắc về các vấn đề cơ bản
trong triết học của I. Kant, làm rõ những khám phá mới độc đáo cũng như những

hạn chế của nhà triết học này trên các mặt: triết học lý luận, triết học thực tiễn, triết
học về con người, nhân bản học.
“Vấn đề bản thể luận trong Triết học duy tâm cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII
- nửa đầu thế kỷ XIX” của Nguyễn Chí Hiếu [34]
Khác với tác giả Nguyễn Văn Hun, trong cơng trình này, Nguyễn Chí Hiếu
đã dành dung lượng khá lớn (19 trang từ 45 - 63) để phân tích những tiền đề tư
tưởng quan trọng cho sự hình thành triết học cổ điển Đức nói chung, triết học I.
Kant nói riêng trong đó có quan niệm của ơng về chủ thể tiên nghiệm. Tác giả đặc
biệt nhấn mạnh đến vai trò của chủ nghĩa duy lý R. Descartes, đơn tử luận G.
Leibnitz và bản thể luận C. Wolff, trong đó tác giả đã luận giải khá kỹ lưỡng mệnh
đề Cogito, ergo sum của Descartes.
Bên cạnh những nhận định nói trên, trong cơng trình Chủ thể nhận thức
trong triết học của I. Kant và ý nghĩa hiện thời của nó” [23], tác giả Nguyễn Vân
Hạnh cũng đã phân tích rất chi tiết những tiền đề tư tưởng triết học có ảnh hưởng
đến Triết học I. Kant như: ảnh hưởng của chủ nghĩa duy lý R. Descartes, những tư
tưởng triết học của C. Wolff. Ngồi ra, căn cứ vào mục đích nghiên cứu của mình,
tác giả cịn phân tích thêm ảnh hưởng của tư tưởng triết học D. Hume, triết học
Khai sáng Pháp, học thuyết chính trị - xã hội của J.J. Rousseau…. đối với sự hình
thành triết học I. Kant. Tác giả nhận định rằng: “I. Kant đã tiếp thu quan điểm duy
lý - quan điểm tuyệt đối hóa vai trị của lý tính từ R. Descartes; niềm tin vào sức
mạnh của tư duy, sự cần thiết sử dụng lý tính, nguyên tắc duy lý từ C. Wolff; lập
trường đề cao địa vị xã hội của khoa học và giáo dục, tri thức; tư tưởng về tự do của
triết học Khai sáng Pháp, tư tưởng chính trị - xã hội của J.J. Rousseau; chủ nghĩa
hoài nghi của D. Hume. Tất cả những thành tựu triết học đó được I. Kant sử dụng
để hình thành quan điểm triết học lịch sử của mình” [23, tr. 80].
Trong “Chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm trong nhận thức luận của I. Kant”
của Khuất Duy Dũng [17], tác giả lại chủ yếu đi vào làm rõ ảnh hưởng của bối cảnh
phát triển văn hóa và triết học cận đại, biểu thị những đặc điểm của một chặng đường
phát triển tinh thần và văn hóa của Tây Âu đến triết học I. Kant. Tác giả cho rằng,
triết học I. Kant có mối liên hệ nội tại và chịu ảnh hưởng lớn của văn hóa châu Âu

thời Cận đại nhất là phong trào Khai sáng đại diện tiêu biểu là Jean - Jacques
Rousseau (1712 -1778). Tác động của phong trào Khai sáng vượt ra khỏi khuôn khổ
14


của thời đại mà các nhà Khai sáng hoạt động, minh chứng rõ nét là toàn bộ thế kỷ
XIX đã diễn ra dưới các khẩu hiệu khải hoàn của những tư tưởng Khai sáng. Các nhà
Khai sáng coi sự phổ biến tri thức, khoa học và giáo dục là phương tiện cơ bản để
hoàn thiện con người và xã hội. Tác giả cũng nhận định rất rõ quan niệm về bản thân
văn hóa như là giới tự nhiên thứ hai (giới tự nhiên mới do con người sáng tạo ra)
cũng quan trọng như giới tự nhiên thứ nhất. Đồng thời, tác giả cũng khẳng định: nếu
như văn hoá cổ đại và trung cổ hình thành theo ngun tắc thích nghi với tự nhiên, thì
văn hố cận đại hình thành trên ngun tắc sáng tạo tự nhiên. Chính ngun tắc này
có tác dụng định hướng thường xuyên hoạt động của con người vào việc tạo cái mới,
đồng thời giúp con người tích lũy những sản phẩm vật chất và tinh thần ngày càng
nhiều hơn. Do đó, có thể thấy rằng văn hóa Tây Âu thời kỳ Cận đại đã đi đầu trong
việc đề cao tính tích cực cũng như sức mạnh sáng tạo văn hóa của con người với tư
cách là chủ thể. Và như vậy, chính sự phát triển nội tại của văn hóa châu Âu thời kỳ
Cận đại đã quy định thái độ phê phán của nó đối với các thời đại trước. Ở thời Cận
đại, việc phê phán tư tưởng thời trung cổ bằng bầu nhiệt huyết của lý tính thể hiện ở
hai mặt: Một mặt, thời Trung cổ được coi là thời đại đen tối và cuồng tín tơn giáo. Vì
vậy, khơng ít thành tựu của văn hóa trung cổ đã bị loại bỏ. Mặt khác, văn hóa cận đại
vẫn chịu sự tác động của xu hướng tự phê phán dựa trên việc giữ lại những mối liên
hệ với quá khứ mà triết học I. Kant là ví dụ điển hình cho xu hướng này. Cách tiếp
cận trên cũng được thể hiện trong cơng trình “Quan niệm của I. Kant về “vật tự nó”
của Nguyễn Thị Hải Yến [122].
1.2. Các cơng trình nghiên cứu về triết học I. Kant và quan niệm của I.
Kant về chủ thể tiên nghiệm
1.2.1. Các nghiên cứu về triết học I. Kant
Như đã nói ở trên, việc giảng dạy triết học I. Kant ở Việt Nam đã được đưa

vào chương trình từ bậc đại học và sau đại học. Tuy nhiên, không phải ngay từ đầu
triết học I. Kant đã thu hút được sự chú ý của các nhà nghiên cứu. Trước năm 1975,
chúng ta thấy có một số tác giả đề cập đến I. Kant - người sáng lập nền triết học cổ
điển Đức.
Cơng trình mang tên “Triết học I. Kant” của Nguyễn Đình Thi (Nxb Tân
Việt xuất bản, năm 1942) có lẽ là tài liệu sớm nhất ở Việt Nam đã trình bày triết học
I. Kant dưới dạng phổ thơng. Trong tác phẩm này các tư tưởng triết học của I. Kant
như nhận thức luận, cái tiên nghiệm, vật tự nó, thuyết hai thế giới… mới được trình
bày một cách khái quát.
Tiếp đó, trong thời gian từ 1955 - 1957, giáo sư Trần Đức Thảo đã thực hiện
15


những bài giảng về những tư tưởng Triết học trước Mác, trong đó có tư tưởng triết
học của I. Kant, tại Đại học Sư phạm Hà Nội. Bài giảng của ông đã được tập hợp và
xuất bản thành cuốn “Lịch sử tư tưởng trước Mác” [105]. Trong cơng trình này, tác
giả Trần Đức Thảo đã dành nhiều sự ưu ái cho I. Kant. Đặc biệt, tác giả đã trình bày
các tư tưởng của phép biện chứng theo cấu trúc tác phẩm “Phê phán lý tính thuần
túy”. Đây là những đánh giá đúng đắn và khách quan đối với triết học I. Kant. Tuy
nhiên, xét một cách tổng thể thì nội dung và bản chất của triết học I. Kant mới dừng
lại ở mức độ khái lược.
Năm 1962, cơng trình “Lịch sử triết học: Triết học cổ điển Đức” [116] do Viện
Hàn Lâm khoa học Liên Xô biên soạn được dịch ra tiếng Việt và được nhà xuất bản Sự
thật, Hà Nội xuất bản. Trong cơng trình này các tác giả đã phân tích khá chi tiết tư
tưởng triết học của các nhà triết học cổ điển Đức trong đó có I. Kant (được dịch là
Căng). Đặc biệt các nhà nghiên cứu đã tập trung làm rõ các tư tưởng về lý luận nhận
thức, phép biện chứng tiên nghiệm, lôgic học của I. Kant.
“Triết học Kant” của Trần Thái Đỉnh [19]
Năm 1974, ở miền Nam, Nhà xuất bản Văn Mới đã xuất bản cơng trình Triết
học Kant của tác giả Trần Thái Đỉnh (cuốn sách này được Nhà xuất bản Văn hóa

Thơng tin tái bản năm 2005). Với kiến thức triết học và nguồn tài liệu phong phú, tác
giả đã đề cập và phân tích khá tồn diện hệ thống triết học của I. Kant thời kỳ phê
phán. Theo tác giả, triết học I. Kant thời kỳ phê phán đã vạch rõ giới hạn của lý tính
con người nhằm chứng tỏ ranh giới của những gì con người có thể biết và không thể
biết, rằng không thể sử dụng tri thức kinh nghiệm để đạt tới đối tượng của siêu hình
học, rằng khơng thể có siêu hình học theo kiểu một khoa học thực nghiệm, mà chỉ có
thể có khoa học siêu hình xây dựng trên lý tính thực tiễn, tức lý tính đạo đức mà thơi.
Theo Trần Thái Đỉnh, khi phê phán lý tính thuần túy, I. Kant khơng nhằm phá hủy
siêu hình học mà, trái lại, nỗ lực xây dựng một siêu hình học mới; và cho rằng, mục
đích chủ yếu của triết học I. Kant thời kỳ này là trả lời câu hỏi: “theo khả năng tri
thức của con người thì có thể có khoa học siêu hình khơng? Nghĩa là trả lời cho câu
hỏi: con người có thể có tri thức về những thực tại siêu hình như linh hồn và Thượng
đế không”?
“Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-XIV - Triết học Imanuin Cantơ (I.
Kant)” của Nguyễn Văn Huyên [46]
Cùng với quá trình đổi mới tư duy lý luận, việc nghiên cứu sâu sắc lịch sử tư
tưởng triết học trong đó có lịch sử triết học phương Tây ngày càng được quan tâm
và có những bước phát triển nhất định. Trong xu hướng chung đó, nghiên cứu triết
16


học cổ điển Đức nói chung và di sản triết học của I. Kant nói riêng ngày càng thu
hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong đó có Nguyễn Văn
Hun. Trong cơng trình nghiên cứu “Triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII-XIV Triết học Imanuin Cantơ (I. Kant)”, tác giả đã phân tích khá sâu những nội dung,
đặc điểm cơ bản của triết học I. Kant. Tác giả chỉ rõ cơ sở lý luận của bước ngoặt
cách mạng trong triết học mà I. Kant thực hiện, đó là sự dung hịa giữa chủ nghĩa
duy kinh nghiệm và chủ nghĩa duy lý trong triết học thời bấy giờ. Tác giả cũng chỉ
ra những nguyên nhân dẫn đến việc I. Kant quan niệm về “vật tự nó” và thuyết bất
khả tri là: tính chất đặc biệt phức tạp của mối quan hệ giữa tư tưởng và hiện thực;
hạn chế của khoa học thời I. Kant và thuyết động lực, một quan niệm phổ biến khi

đó, coi nguyên nhân đầu tiên của vật chất và vận động là “lực vận động” hay vật tự
do bí ẩn nào đó đằng sau các sự vật.
Cơng trình “I. Kant - Người sáng lập nền triết học cổ điển Đức” của tập thể
tác giả Viện Triết học [117]
Trong cơng trình này đã tập hợp những bài viết về những nội dung chủ yếu
của triết học I. Kant, trong đó có nhiều bài viết đã ít nhiều đề cập đến vấn đề cấu
trúc và năng lực của chủ thể tiên nghiệm, chẳng hạn: “Cái tiên nghiệm trong triết
học I. Kant” của tác giả Phạm Minh Lăng;“Quan niệm của I. Kant về tính tích cực
của chủ thể nhận thức” của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn; “Học thuyết về antinomia
và lôgic tiên nghiệm của I. Kant” của tác giả Vũ Văn Viên; “Về học thuyết phạm
trù trong triết học I. Kant” của tác giả Lê Công Sự; “Tư tưởng đạo đức trong những
tác phẩm thời kỳ đầu của I. Kant. Mối quan hệ đạo đức - thẩm mỹ” của tác giả
Nguyễn Văn Huyên; “Siêu hình học I. Kant - học thuyết về các mối quan hệ” của
tác giả Đặng Hữu Tồn; “Vị trí của mỹ học I. Kant trong lịch sử mỹ học trước Mác”
của Đỗ Huy…
“Triết học cổ điển Đức - Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học” của
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại Học Quốc gia Hà Nội [12]
Năm 2004, nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của I. Kant, Hội thảo Quốc tế:
Triết học cổ điển Đức - Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học diễn ra từ 21 22/ 12/2004 tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội. Kết quả của Hội thảo lớn này đã được in thành Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế
năm 2006. Trong cuốn Kỷ yếu này đã tập hợp 50 bài tham luận liên quan đến vấn
đề nhận thức luận và đạo đức học của các nhà triết học cổ điển Đức, khẳng định giá
trị cơ bản của nhận thức luận và đạo đức học của các nhà triết học cổ điển Đức, nhất
là triết học I. Kant, phân tích ảnh hưởng của triết học cổ điển Đức đối với sự hình
17


thành triết học Mác và các trào lưu triết học phương Tây hiện đại khác sau này,
khẳng định sự cần thiết của việc nghiên cứu lịch sử triết học cổ điển Đức nói riêng
và lịch sử triết học nói chung. Trong số các bài tham luận này, phải kể đến các bài

viết như: “Quan niệm của I. Kant về bản chất của nhận thức và ý nghĩa của nó” của
tác giả Vũ Văn Viên; “Thực chất “cái siêu việt” của lý tính trong lý luận nhận thức
của I. Kant và tư tưởng của ông về một nền triết học khoa học” của tác giả Phạm
Văn Chung; “Lý luận nhận thức của I. Kant thời kỳ “phê phán” - giá trị và hạn chế”
của tác giả Trần Văn Phòng; “Đạo đức học của I. Kant và ý nghĩa hiện thời của nó”
của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn; “Triết học đạo đức của I. Kant và ảnh hưởng của
nó đối với nền triết học phương Tây” của tác giả Ngô Thị Mỹ Dung…
Cơng trình Đâu là căn ngun tư tưởng? hay con đường triết lý từ I. Kant
đến Heidegger của Lê Tôn Nghiêm [83]
Trong cơng trình này, tác giả đã phân tích rất tỉ mỉ những chú giải của
Heidegger về triết học I. Kant trong tác phẩm nổi tiếng I. Kant và vấn đề siêu hình
học (1929). Heidegger nhìn thấy ý nghĩa sâu xa của Phê phán lý tính thuần tuý là ở
chỗ I. Kant đã triển khai ra tính hữu hạn trong tri thức con người, như nền tảng
không những cho bản thể luận mà cịn cho cả siêu hình học. Nhưng, Heidegger cịn
đi xa hơn I. Kant khi coi tính hữu hạn ấy phát nguyên từ trí tưởng tượng siêu
nghiệm và lược đồ (niệm thức) của thời gian tính. Đây cũng là chủ đề chính của bài
viết "Thay lời giới thiệu: Triết học và về tính hữu hạn" của Bùi Văn Nam Sơn nhân
tái bản cuốn sách trên của tác giả Lê Tơn Nghiêm.
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu chun khảo trên là một số cơng trình
của các tác giả nước ngoài đề cập trực tiếp hay gián tiếp về triết học cổ điển Đức nói
chung và triết học của I. Kant nói riêng đã được dịch sang tiếng Việt. Chẳng hạn như:
Lịch sử phép biện chứng cổ điển Đức do Đỗ Minh Hợp dịch và hiệu đính [118], Lơgic
học biện chứng của E.V. Ilencơv [49] cũng đã ít nhiều đề cập đến vấn đề nhận thức
luận và khả năng nhận thức của chủ thể.
Đặc điểm chung của các nghiên cứu này là tập trung làm rõ những nội dung
chủ yếu trong triết học của I. Kant như: lý luận nhận thức, triết học thực tiễn, triết
học tôn giáo và quan niệm của I. Kant về nhân học…
1.2.2. Các cơng trình nghiên cứu về quan niệm của I. Kant về chủ thể
tiên nghiệm
Liên quan trực tiếp đến đề tài luận án, có thể kể đến một số cơng trình như sau:

* Thứ nhất, các cơng trình liên quan đến quan niệm của I. Kant về chủ thể
nhận thức tiên nghiệm
18


“Đại cương lịch sử phương Tây” của tập thể tác giả Đỗ Minh Hợp - Nguyễn
Thanh - Nguyễn Anh Tuấn [41]
Trong cơng trình này, các tác giả đã nêu khá đầy đủ những nội dung cơ bản
của triết học I. Kant như: chủ nghĩa tiên nghiệm trong triết học I. Kant, các đặc
điểm cơ bản của đạo đức học I. Kant, chủ nghĩa tự do và triết học tôn giáo của I.
Kant. Theo các tác giả, triết học I. Kant, theo định nghĩa của chính ơng, là triết học
tiên nghiệm. Triết học tiên nghiệm có nhiệm vụ chống lại triết học siêu việt - triết
học suy luận về những sự vật khơng thể nào trình bày được bằng cảm tính, lý trí và
lý tính, cho nên phải có đối tượng của niềm tin. Triết học tiên nghiệm không phải là
thứ triết học mô tả con người cụ thể (kinh nghiệm) mà miêu tả một mơ hình con
người nói chung - chủ thể tiên nghiệm. Bên cạnh đó, tập thể tác giả cũng nêu lên các
đặc điểm cơ bản của đạo đức học I. Kant: đạo đức của I. Kant là học thuyết về sự tự
trị của cá nhân với tôn giáo; các chân lý của đạo đức học phải mang tính phổ biến
và tất yếu, tức là chúng phải dựa vào ánh sáng tự nhiên của lý tính con người giống
như khoa học; quy tắc ứng xử phổ biến hay mệnh lệnh tuyệt đối biểu thị khái niệm
về bổn phận tuyệt đối và phổ biến. Mệnh lệnh tuyệt đối của I. Kant tạo ra nguyên
tắc về phẩm giá tuyệt đối của cá nhân.
“Tư tưởng của I. Kant về sự thống nhất của lý luận nhận thức, đạo đức trong
nhân học” của Nguyễn Vũ Hảo [25]
Đây là bài tham luận được in trong trong cơng trình “Triết học cổ điển Đức:
Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học. Trong bài tham luận này, tác giả đã
xuất phát từ quan điểm của I. Kant coi triết học chính là nhân học và xem xét nhân
học tư biện như là lý luận tư biện về chủ thể, về con người đã luận giải quan niệm
của I. Kant khi nghiên cứu những năng lực nhận thức của chủ thể và làm rõ cấu trúc
bên trong của chủ thể nhận thức tiên nghiệm dưới góc độ nhân học tư biện. Theo

đó, tác giả phân tích sâu những năng lực của chủ thể nhận thức tiên nghiệm gồm có:
cảm tính, giác tính, thơng giác và lý tính. Đồng thời tác giả cũng nhấn mạnh sự khác
nhau cơ bản trong quan niệm của I. Kant với chủ nghĩa duy lý và chủ nghĩa duy
kinh nghiệm khi I. Kant cho rằng, trong bản thân lý tính thuần túy có cả hai nguồn
nhận thức: một là nguồn kinh nghiệm liên quan đến cảm tính, hai là nguồn tiên
nghiệm độc lập với cảm tính. Nói cách khác con người với tư cách là chủ thể có cả
hai năng lực nhận thức: cảm tính (Sinnlichkeit) và giác tính (Verstand). Và các năng
lực này không chỉ là năng lực nhận thức của chủ thể mà chúng còn thuộc về cấu
trúc bên trong, cấu trúc tiên nghiệm sẵn có của chủ thể nhận thức.
“Quan niệm về con người trong một số trào lưu triết học phương Tây hiện
đại” của Nguyễn Vũ Hảo [26]

19


Nối tiếp theo xu hướng nghiên cứu trên của mình, năm 2016, tác giả Nguyễn
Vũ Hảo công bố cuốn sách chuyên khảo “Quan niệm về con người trong một số
trào lưu triết học phương Tây hiện đại”. Trong cơng trình này tác giả đã dành trọn
vẹn chương 1 để trình bày về nhân học I. Kant (trong đó có quan niệm ông về chủ
thể tiên nghiệm - đối tượng của nhân học tư biện của I. Kant) với tính cách là tiền
đề lý luận khởi đầu cho các quan niệm về con người trong triết học phương Tây
hiện đại. Tác giả đã phân tích rất sâu sắc các khái niệm, cấu trúc và năng lực của
chủ thể nhận thức tiên nghiệm, chủ thể đạo đức tiên nghiệm, chủ thể thuần túy và
chủ thể kinh nghiệm.v.v. từ đó đưa ra những đánh giá về những giá trị, hạn chế và
ảnh hưởng của nhân học I. Kant đến quan niệm về con người trong triết học phương
Tây hiện đại.
“Phương thức tư duy chủ thể tính của I. Kant về những gợi mở của nó đối
với đương đại” của Âu Dương Khang [54]
Đây cũng là một bài tham luận được in trong trong cơng trình “Triết học cổ
điển Đức: Những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học. Trong bài tham luận này,

tác giả đã phân tích nét độc đáo trong triết học I. Kant ở chỗ ông đã chuyển đối
tượng nghiên cứu của triết học từ thế giới bên ngoài vào trong chính bản thân con
người (thực hiện cuộc cách mạng Copernicus), đồng thời chỉ rõ đặc điểm của
phương pháp tư duy mang tính chủ thể từ góc độ năng lực, phạm vi và giới hạn của
chủ thể, lấy chủ thể làm trục xuyên suốt để giải quyết vấn đề nhận thức luận, đem
tính năng động trong nhận biết của chủ thể để giải thích cho khả năng nhận thức, để
cho khách thể vận động xoay quanh chủ thể.
“Quan niệm của I. Kant về tính tích cực của chủ thể nhận thức” của Nguyễn
Trọng Chuẩn [7]
Đây là một trong số các bài viết đặc sắc trong cơng trình I. Kant - Người
sáng lập nền triết học cổ điển Đức do tập thể tác giả Viện Triết học biên soạn
[117]. Trong bài viết này, tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn đã nêu nhận định của Mác
trong việc đánh giá xác đáng rằng, tính tích cực, biện chứng của q trình nhận
thức chủ yếu do chủ nghĩa duy tâm phát triển, chứ không phải do chủ nghĩa duy
vật phát triển mà I. Kant chính là một trong những người có cơng trong lĩnh vực
này. Theo tác giả, đóng góp đầu tiên của I. Kant ở chỗ, khác với tất cả các nhà
triết học trước ông (các nhà duy lý mặc dù có quan tâm đến hoạt động của chủ thể
và coi tri thức là sự tự hoạt động của chủ thể, song, trong quan niệm của họ khách
thể và hiện thực chỉ là một; còn các nhà kinh nghiệm lại đề cao vai trò của cảm
giác, trực quan), I. Kant xuất phát từ tư tưởng cho rằng trước khi bắt đầu nhận
20


×