Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.71 MB, 1 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>(14/11/1807 – 10/9/1856)</b></i>
<i><b>………..*………</b></i>
<b>Đồn Minh Huyên tên thật là Đoàn Văn Huyên sinh ngày</b>
<b>15/10 năm Đinh Mão (14/11/1807), quê ở làng Tòng Sơn – tổng An</b>
<b>Định – huyện Vĩnh An – trấn Vĩnh Thanh (nay là xã Mỹ An Hưng</b>
<b>A – huyện Lấp Vò – Đồng Tháp).</b>
<b>Sau khi mẹ mất Ông bỏ làng ra đi. Năm 1849, Ông trở về quê,</b>
<b>qua Trà Bư (cách xa chợ Cái Tàu khoảng 10 cây số) rồi đến vùng</b>
<b>Kiến Trạch – xã Long Kiến – huyện Chợ Mới – An Giang (để hốt</b>
<b>thuốc chữa bệnh và răng dạy cách đối nhân xử thế theo quan điểm</b>
<b>của Ông) được nhiều người hưởng ứng và qui tựu đông đảo người</b>
<b>theo. Đến năm 1851, Ông sáng lập ra đạo “Bửu Sơn Kì Hương”.</b>
<b>Tổng đốc An Giang lúc bấy giờ là Huỳnh Mẫn Đạt ra lệnh bắt Ơng</b>
<b>giải về Châu Đốc vì nghi ngờ Ơng hoạt động chính trị. Do khơng</b>
<b>có chứng cứ nên đã trả tự do cho Ông, nhưng buộc Ông phải đến</b>
<b>tu tại chùa Tây An (Núi Sam – Châu Đốc).</b>
<b>Tuy ở Núi Sam, nhưng Ông vân du khắp vùng Thất Sơn và</b>
<b>cùng bổn đạo, nhân dân trong vùng khai khẩn đất hoang, lập làng,</b>
<b>mở ấp…vùng đất Thới Sơn là một trong những nơi Ơng đến và là</b>
<b>người có công khai phá lập nên hai làng Xuân Sơn và Hưng Thới</b>
<b>với mong ước là vùng “Đẹp mùa xuân – Hưng thịnh thái bình”,</b>
<b>Ơng cịn lập ra hai trại ruộng, ngày nay là hai ngôi chùa: Thới Sơn</b>
<b>Tự và Phước Điền Tự.</b>
<b>Sau nhiều năm tu hành, chữa bệnh, khai làng, lập ấp…Ơng</b>