Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

bối cảnh lịch sử và đường lối đối ngoại của Đảng từ năm 1945 đến năm 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.97 KB, 37 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN KẾT THÚC MƠN HỌC
NHĨM 4
CHỦ ĐỀ: “TRÌNH BÀY BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG
LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954”
LỚP HỌC PHẦN: HIS1002 8
GIẢNG VIÊN: PHẠM MINH THẾ

Hà Nội – 2021


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TIỂU LUẬN KẾT THÚC MƠN HỌC
CHỦ ĐỀ: “TRÌNH BÀY BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ NỘI DUNG ĐƯỜNG
LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN 1945 – 1954”
LỚP HỌC PHẦN: HIS1002 8
GIẢNG VIÊN: PHẠM MINH THẾ
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 4
ST
T

Họ và tên

Mã sinh viên

1


Chu Tiến Dĩnh

19061062

2

Nguyễn Nghiêm Dũng

19061067

3

Trần Minh Hòa

19061123

4

Lương Thế Nam

19061229

5

Trương Hà Quyên

19061298


Hà Nội – 2021



Mục lục
MỞ ĐẦU......................................................................................................................................................3
NỘI DUNG..................................................................................................................................................3
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN 1945 – 1946.......3
1. Bối cảnh quốc tế...................................................................................................................................3
2. Bối cảnh trong nước.............................................................................................................................5
2.1. Thuận lợi.......................................................................................................................................5
2.2. Khó khăn.......................................................................................................................................5
3. Đường lối đối ngoại của Đảng sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến tháng 12/1946..............7
3.1. Đề cao vị thế hợp pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa.................................................7
3.2. Hịa hỗn với Trung Hoa Dân quốc để đánh Pháp.....................................................................9
3.3. Hịa hỗn với Pháp để đuổi qn Tưởng về nước, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ10
II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG NHỮNG NĂM 1946 – 1950.......12
1. Bối cảnh quốc tế................................................................................................................................12
2. Cả nước bước vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp.........................................................................13
3. Đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1946 – 1950...........................................................14
3.1. Đấu tranh nhằm phá thế bao vây...............................................................................................14
3.2. Hình thành liên minh chiến đấu ở Đông Dương.......................................................................16
3.3. Đấu tranh chống âm mưu Pháp – Mỹ lập chính quyền bù nhìn...............................................17
III. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1950 ĐẾN NĂM
1954............................................................................................................................................................18
1. Bối cảnh quốc tế................................................................................................................................18
2. Bối cảnh trong nước...........................................................................................................................20
2.1. Hồn cảnh lịch sử mới................................................................................................................20
2.2. Tình hình đất nước trong những năm 1953 – 1954...................................................................22
3. Đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1950 – 1954 nhằm đẩy mạnh kháng chiến............24
3.1. Đẩy mạnh kháng chiến, chống sự can thiệp của Mỹ vào Đông Dương....................................24
3.2. Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao tại Hội nghị Gơnevơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại

hịa bình ở Đông Dương....................................................................................................................25
IV. NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG ĐƯỜNG
LỐI ĐỐI NGOẠI GIAI ĐOẠN 1945 – 1954...........................................................................................29

1


1. Nhận xét sự lãnh đạo của Đảng về đường lối đối ngoại giai đoạn 1945 – 1954.............................29
2. Bài học kinh nghiệm từ sự lãnh đạo của Đảng về đường lối đối ngoại giai đoạn 1945 – 1954......30
KẾT LUẬN................................................................................................................................................31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................33

2


MỞ ĐẦU
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta giành được chính
quyền từ tay thực dân Pháp và phát xít Nhật, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ cực kỳ khó khăn của của đất nước nói chung và
ngoại giao Việt Nam nói riêng. Nhà nước độc lập non trẻ đứng trước vơ vàn thử thách
(chính quyền vừa ra đời, kinh tế đình đốn, ngân sách trống rỗng, chưa được nước nào
công nhận, thiên tai liên miên, đặc biệt là 30 vạn thù trong, ngồi ra cịn có giặc ngồi).
Có thể nói nước ta trong hồn cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương, nay là Đảng cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh,
đường lối đối ngoại được vạch ra hết sức đúng đắn, khôn khéo vừa kiên quyết vừa linh
hoạt: lúc hoà với Tưởng, tập trung sức chống Pháp xâm lược ở miền Nam, rồi hoà với
Pháp với việc ký kết Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng Ba 1946 để đuổi Tưởng về nước,
góp phần giữ vững Nhà nước độc lập non trẻ.
Chính sách đối ngoại của Đảng phục vụ cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân Pháp xâm lược. Đảng đã phối hợp đường lối đối ngoại với chiến trường, đấu tranh

chính trị chủ động triển khai hoạt động quốc tế, tranh thủ đồng tình ủng hộ của nhân
dân thế giới, đặc biệt là hình thành liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia chống kẻ
thù chung; xây dựng quan hệ với Thái Lan, Miến Điện, Indonesia, Ấn Độ…Tranh thủ
thuận lợi do thắng lợi của chiến dịch biên giới đưa lại, Đảng tiếp tục xây dựng đường
lối đối ngoại khôn khéo và vận dụng đường lối đó thúc đẩy thế giới cơng nhận và thiết
lập quan hệ ngoại với Việt Nam. Đầu năm 1950, lần đầu tiên chúng ta đã thiết lập quan
hệ ngoại giao chính thức với Trung Quốc, Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân ở châu
Á, Đông Âu. Các nước xã hội chủ nghĩa đã trở thành chỗ dựa quan trọng cho cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp. Phối hợp với mặt trận quân sự, Việt Nam đã tham
gia Hội nghị Giơneve 1954 về Đông Dương, buộc các nước lớn công nhận các quyền
dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, nhân dân Đơng Dương, giải phóng được miền
Bắc, đưa cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.

3


NỘI DUNG
I. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG GIAI
ĐOẠN 1945 – 1946
1. Bối cảnh quốc tế
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình chính trị thế giới thay đổi với nhịp
độ cực kỳ nhanh chóng. Quan hệ giữa các nước lớn Đồng Minh, trước hết là giữa Liên
Xô và Mỹ chuyển từ hợp tác trong chiến tranh sang đấu tranh ngày càng gay gắt trong
hịa bình. Trật tự thế giới mới bắt đầu hình thành, chuyển dần sang thế hai cực. Theo
đó, các nước lớn trong phe Đồng Minh đã có chủ trương điều chỉnh chiến lược đối
ngoại cho phù hợp với yêu cầu mới của lịch sử.
Liên Xơ có vai trị quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên,
về đối ngoại, những năm đầu sau chiến tranh Liên Xô đã tập trung ưu tiên củng cố
vành đai an ninh tại những vùng giáp ranh biên giới của mình, duy trì hịa hỗn với các
nước lớn để giải quyết vấn đề do chiến tranh để lại, ưu tiên củng cố ảnh hưởng ở khu

vực phía Tây, giúp đỡ cách mạng Đông Âu.
Ra khỏi chiến tranh, Mỹ là cường quốc số 1 thế giới, độc quyền vũ khí hạt nhân,
chủ nợ của các nước Tây Âu. Ưu tiên chiến lược đối ngoại của Mỹ là xác lập vai trò
lãnh đạo của mình trong hệ thống tư bản chủ nghĩa và thiết lập trật tự thế giới mới với
mưu đồ bá chủ tồn cầu. Theo đó, họ cố lơi kéo Pháp, nhân nhượng Pháp vấn đề thuộc
địa, trong đó có Đơng Dương. Anh và Pháp đều có u cầu cấp bách khơi phục kinh tế
đất nước, bảo vệ vị trí nước lớn và duy trì hệ thống thuộc địa trên thế giới.
Ở Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương lãnh đạo nhân dân đấu
tranh giành hịa bình, độc lập dân tộc. Nhờ vận dụng linh hoạt đường lối chiến tranh,
nhân dân, Đảng Cộng sản và Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã dần dần giành
lại thế chủ động. Tháng 10-1945, Đảng Cộng sản và Quốc dân Đảng kí hiệp ước chấm
dứt nội chiến và triệu tập hội nghị chính trị hiệp thương để xây dựng lại đất nước. Tình
hình khơng ổn định trong nước và vị trí ngày càng suy yếu khơng cho phép chính
quyền Tưởng Giới Thạch triển khai những kế hoạch được trù tính trong chiến tranh
nhằm thực hiện vai trò “lãnh đạo châu Á”.
Cục diện thế giới sau chiến tranh tác động sâu sắc và rộng lớn tới nhiều mối quan
hệ quốc tế. Thắng lợi của các lực lượng dân chủ chống phát xít trong chiến tranh đã tạo
đà cho sự phát triển các xu hướng độc lập, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên phạm vi
4


thế giới. Tuy nhiên sự phân hóa sau chiến tranh; tập hợp lực lượng mới trên thế giới và
ở Viễn Đơng tác động phức tạp tới tình hình Việt Nam, nơi nhiều nước lớn dính líu ở
những mức độ khác nhau và quân đội các nước Đồng Minh vào giải giáp quân đội
Nhật.Đối phó cùng một lúc với nhiều thế lực quân sự của các nước lớn có mặt trên lãnh
thổ của mình là một thách thức nghiêm trọng đối với cách mạng Việt Nam trong thời
điểm này.
2. Bối cảnh trong nước
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
ra đời (2/9/1945), đánh dấu thành công bước đầu của cuộc cách mạng dân tộc ở Việt

Nam. Dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do gắn liền
với xã hội chủ nghĩa. Ngay sau khi mới thành lập, chính quyền non trẻ có nhiều thuận
lợi cơ bản song khó khăn chồng chất.
2.1. Thuận lợi
Chính quyền cách mạng đã được thành lập, mặc dù còn non trẻ nhưng đã và đang
cố gắng đem lại những quyền lợi cơ bản cho nhân dân về mọi mặt. Đảng Cộng sản trở
thành đảng hợp pháp nắm quyền lãnh đạo cách mạng. Trải qua 15 năm đấu tranh cách
mạng ngày càng trưởng thành, bắt rễ sâu vào quần chúng và thêm dày dặn kinh nghiệm
lãnh đạo. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nơ lệ trở thành người tự do có khả năng làm
chủ đất nước, làm chủ xã hội và bước đầu được tận hưởng những quyền lợi do cách
mạng đem lại. Họ hiểu rõ giá trị thiêng liêng của những quyền lợi ấy, một lịng gắn bó
và quyết tâm bảo vệ chính quyền cách mạng. Đây chính là nguồn sức mạnh vơ tận giúp
cho Nhà nước cách mạng cịn đang trong thời kỳ trứng nước vượt qua mọi khó khăn,
thử thách.
Mặt trận Việt Minh phát triển rất nhanh chóng. Các Hội Cứu quốc trong công
nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ được tổ chức thống nhất trong cả nước. Nhiều Hội
Cứu quốc mới ra đời, tập hợp thêm những tầng lớp u nước cịn đứng ngồi Mặt trận
như Cơng thương Cứu quốc, Phật giáo Cứu quốc, Đoàn Hướng đạo Cứu quốc, Đoàn
Sinh viên Cứu quốc…Mặt trận Việt Minh thực sự trở thành ngọn cờ đoàn kết toàn dân
rộng rãi, giữ vai trị quan trọng trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền dân chủ nhân
dân. Đứng đầu Đảng và Nhà nước cách mạng là Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ thiên
tài, có uy tín tuyệt đối trong nhân dân. Tượng trưng cho tinh hoa dân tộc, cho ý chí
kiên cường bất khuất của nhân dân Việt Nam. Cuộc đời hoạt động cách mạng phong
5


phú cùng với uy tín rộng lớn của Người là ngọn cờ tập hợp các tầng lớp nhân dân xung
quanh Đảng và Chính phủ.
2.2. Khó khăn
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi ra đời đã phải đứng trước một tình

thế hết sức hiểm nghèo.
Nền kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng
nề, thiên tai thường xuyên xảy ra gây khó khăn nhiều cho sản xuất nơng nghiệp. Các
ngành kinh tế bị đình đốn nghiêm trọng. Nhiều cơ sở công nghiệp chưa đi vào hoạt
động. Hàng vạn công nhân thất nghiệp. Việc bn bán với nước ngồi hầu như bị đình
trệ. Hàng hóa trên thị trường khan hiếm. Nguy cơ nạn đói mới xuất hiện trong khi hậu
quả nạn đói lớn do Nhật – Pháp gây ra từ cuối năm 1944 đầu năm 1945 vẫn chưa được
khắc phục. Đời sống của nhân dân bị đe dọa nghiêm trọng.
Tài chính của Nhà nước cách mạng trong buổi đầu trống rỗng. Ngân sách quốc
gia lúc đó chỉ có 1.230.000 đồng, trong đó quá nửa là tiền rách. Các khoản thu từ thuế
giảm sút, ngân hàng Đông Dương chưa đặt dưới sự kiểm sốt của ta. Bên cạnh đó,
qn Tưởng vào nước ta lại tung thêm các loại tiền Quan kim, Quốc tệ đã mất giá trị
làm cho tình hình tài chính thêm rối ren và phức tạp.
Văn hóa xã hội: Chế độ thực dân – phong kiến để lại cho ta một di sản văn hóa
hết sức lạc hậu. Với chính sách ngu để trị, thực dân Pháp chăm lo xây dựng nhà tù hơn
trường học. Vì thế hơn 90% dân số nước ta mù chữ. Bên cạnh nạn thất học là các tệ
nạn xã hội như cờ bạc, nghiện hút… tồn tại phổ biến.
Mặt trận Dân tộc thống nhất tuy phát triển rộng rãi nhưng chưa được củng cố
vững chắc. Kẻ thù lại đang ra sức thực hiện âm mưu chia rẽ, lơi kéo… Do đó, vấn đề
đồn kết dân tộc, đồn kết tơn giáo đang là những vấn đề lớn được đặt ra bức thiết thời
điểm đó.
Chính trị, qn sự: Nguy cơ lớn nhất đối với Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa lúc này là nạn ngoại xâm:
Ở miền Bắc, với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật, gần 20 vạn quân Tưởng kéo
vào và đóng từ vĩ tuyến 16 trở ra, mang theo những nhóm người Việt phản động sống
lưu vong ở Trung Quốc. Những nhóm người Việt này thuộc các tổ chức giả danh cách
mạng như Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội (Việt Cách), Việt Nam Quốc dân
Đảng (Việt Quốc).
Ở phía Nam, 26 nghìn qn Anh - Ấn vào giải giáp quân đội Nhật.
6



Ngày 9/10/1945, Anh đã ký với Pháp hiệp định chính thức cơng nhận chính
quyền dân sự của Pháp tại Đơng Dương. Và ngày 1 tháng Giêng 1946, Anh kí hiệp
định trao quyền cho Pháp giải giáp quân đội Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Cùng với họ
là hàng vạn quân Nhật đang chờ được giải giáp được sự dung túng của lực lượng Đồng
minh cũng gây nhiều khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Mặc dù còn mâu thuẫn về
quyền lợi, nhưng tất cả đều có mưu đồ tiêu diệt nền cộng hịa non trẻ để thành lập một
chính quyền quân sự phản động làm tay sai cho chúng.
Nguy hiểm nhất là âm mưu của thực dân Pháp. Khoảng 50 nghìn lính ở Đơng
Dương đã được giải cứu cùng với những đạo quân viễn chinh mới của Pháp được gấp
rút đưa vào miền Nam. Ngày 23/9/1945, Pháp nổ súng đánh chiếm trụ sở Ủy ban nhân
dân Nam Bộ tại Sài Gòn, mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai. Như vậy chỉ sau
28 ngày từ khi khởi nghĩa, nền độc lập của dân tộc đã đứng trước nguy cơ bị tước đoạt
một lần nữa và Nam Bộ đã trở thành tiền tuyến của cuộc kháng chiến chống xâm lược
Pháp của nhân dân Việt Nam.
3. Đường lối đối ngoại của Đảng sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến
tháng 12/1946
3.1. Đề cao vị thế hợp pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập vào ngày 2/9/1945 là kết quả
của quá trình đấu tranh lâu dài, anh dũng của cả dân tộc trong suốt gần ¾ thế kỷ thực
dân Pháp xâm lược Việt Nam và cũng là kết quả trực tiếp của 15 năm chuẩn bị, đấu
tranh của Đảng và nhân dân ta. Sự ra đời của nước Việt Nam tự do độc lập là một thực
thể chính trị không thể phủ nhận, tồn tại phù hợp với luật pháp quốc tế và cần phải
được thừa nhận, tôn trọng. Nhằm đảm bảo quyền tự do độc lập của nước Việt Nam, Hồ
Chí Minh đã kêu gọi các nước Đồng minh và các nước khác trên thế giới công nhận
nền độc lập tự do của nước Việt Nam. Ngay trong bản Tuyên ngôn độc lập, về đối
ngoại, Người kêu gọi các nước Đồng minh công nhận quyền độc lập của nhân dân Việt
Nam: “Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã cơng nhận những ngun tắc dân tộc
bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công

nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”1.

1 GS. Vũ

Dương Ninh, Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940-2010, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2014, tr. 72
7


Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều chuyển biến và trong nước thì rơi vào tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, chính kẻ
thù của chúng ta đã nhận định: chính quyền cách mạng Việt Nam ra đời “Khơng đồng
minh, khơng tiền, hầu như khơng có vũ khí”2 và chưa giành được một sự công nhận
nào trên trường quốc tế. Trong hồn cảnh “giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền
cịn khó hơn”, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng củng cổ chế độ
dân chủ nhân dân là nhiệm vụ cấp bách, đồng thời bên cạnh việc giải quyết những khó
khăn trước mắt của đất nước thì cũng giành mối quan tâm hàng đầu cho công tác ngoại
giao, tranh thủ sự công nhận của quốc tế. Đảng ta xác định “kẻ thù trước mắt của dân
tộc ta là phản động Pháp”, “mục đích của ta lúc này là tự do, độc lập. Ý chí của ta lúc
này là dân chủ, hịa bình. Là bạn của ta trong giai đoạn này là tất cả những nước nào,
những dân tộc hay lực lượng nào trên thế giới tán thành mục đích ấy, cùng ta chung
một ý chí ấy”3.
Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ đã đặc biệt tập trung vào cam kết về quyền
độc lập, tự quyết và bình đẳng giữa các dân tộc mà các nước Đồng minh nêu ra trong
chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân danh người đứng đầu Chính phủ kiêm Bộ
trưởng Bộ Ngoại giao đã tiến hành nhiều giao thiệp ngoại giao qua thư, cơng hàm…
với người đứng đầu Chính phủ các nước lớn, như: Mỹ, Anh, Liên Xô, Trung Quốc,
Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc… thông báo về sự ra đời của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thường
xuyên giữ quan hệ với các đại diện của Mỹ có mặt ở Việt Nam như Phái bộ Mỹ tại

Đơng Dương, Văn phịng của Cơ quan Tình báo chiến lược (OSS) nhằm tranh thủ
những người Mỹ ở Hà Nội hỗ trợ cho việc kiềm chế các tướng lĩnh của Tưởng và thế
lực của Pháp... Các hoạt động ngoại giao của Người đã góp phần tranh thủ Mỹ “trung
lập”, tạo thuận lợi để hịa hỗn cũng như kiềm chế lực lượng của Tưởng và Pháp ở Việt
Nam.
Với nhận định từ Hội nghị toàn quốc của Đảng vào tháng 8/1945: “Lợi dụng sự
mâu thuẫn của Trung Quốc - Mỹ và Anh - Pháp Đờ Gôn để tranh thủ ngoại viện, ký
hiệp ước với các nước Đồng Minh, để họ thừa nhận nền độc lập của dân tộc ta” 4 và
tránh trường hợp một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong cùng một lúc; đồng thời
2 Báo cáo của Pignon gửi Cao ủy D’Argenlieu ngày 28-10-1945.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2001, tr.434, 437
4 Nghị quyết của hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ ngày 15, 20-4-1945, IV- a.
8


“cần tranh thủ sự đồng tình của Liên Xơ và Mỹ chống lại mưu mô của Pháp định khôi
phục địa vị cũ ở Đông Dương và mưu mô của một số quân phiệt Tàu định chiếm nước
ta”5. Dựa trên những nhận định này, ngày 3/10/1945, nhân dịp một phái bộ quan trọng
của Đồng minh đến Hà Nội, Bộ Ngoại giao Chính phủ Lâm thời đã ra Thơng cáo về
chính sách đối ngoại của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để tranh thủ sự ủng hộ của quốc
tế, trong đó nêu rõ mục tiêu: Đưa nước nhà đến tự do, độc lập hồn tồn và vĩnh viễn.
Những nội dung của thơng cáo đề ra góp phần quan trọng định hướng tư tưởng và hoạt
động thực tiễn của ngoại giao Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến, kiến quốc, đồng
thời là một biện pháp kịp thời nhằm tranh thủ các lực lượng Đồng minh có mặt trên đất
nước ta.
3.2. Hịa hỗn với Trung Hoa Dân quốc để đánh Pháp

Chiến tranh thế giới thứ 2 vừa kết thúc, 20 vạn quân Trung Hoa Dân Quốc kéo
vào Hà Nội và các tỉnh từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật.
Theo sau chúng là bọn tay sai nằm trong các tổ chức phản động: Việt Quốc, Việt Cách;
âm mưu của chúng là tiêu diệt Đảng Cộng Sản, phá tan Mặt trận Việt Minh, lật đổ
chính quyền cách mạng nước ta, lập chính quyền bù nhìn làm tay sai cho chúng. Trong
hồn cảnh phải đối phó với dã tâm xâm lược trở lại của thực dân Pháp ở Nam Bộ và sự
uy hiếp của quân Trung Hoa Dân Quốc ở miền Bắc hịng lật đổ chính quyền cách mạng
thì Đảng, Chính Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương: tránh trường hợp một mình
đối phó với nhiều lực lượng kẻ thù cùng một lúc; từ đó chủ trương tạm thời hịa hỗn,
tránh xung đột với qn Trung Hoa Dân Quốc.
Với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, quân Trung hoa Dân
Quốc không dám ra mặt chống phá công khai mà chúng dùng bọn tay sai Việt Quốc,
Việt Cách địi ta cải tổ Chính phủ, dành cho chúng một số ghế trong Quốc hội mà
không qua bầu cử, địi những người cộng sản ra khỏi chính phủ… Tuy nhiên tại chính
quốc, sau khi cuộc chiến tranh chống quân Nhật kết thúc, lực lượng của cách mạng
Trung Quốc đang phát triển mạnh, trực tiếp đe dọa đến lợi ích chiến lược của Trung
Hoa Dân Quốc. Mặt khác, nội bộ chính quyền Trung Hoa Dân Quốc cũng có mâu
thuẫn: giữa chính quyền trung ương Tưởng Giới Thạch và các thế lực quân phiệt địa
phương. Lúc này ta đã đưa ra đường lối ngoại giao khôn khéo, tận dụng mâu thuẫn nội
bộ của qn Tưởng để kiềm chế và hịa hỗn với chúng, tập trung chống thực dân Pháp
trở lại xâm lược nước ta.
5 Ðảng

Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Ðảng, Toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 2000, T.7, tr.427.
9


Ngay từ những ngày đầu của chính quyền dân chủ nhân dân, các thế lực đế quốc,
phản động đã cấu kết bao vây chống phá cách mạng non trẻ Việt Nam. Để đoàn kết
rộng rãi mọi lớp nhân dân, 1/1/1946, Chính phủ lâm thời tự cải tổ thành Chính phủ liên

hiệp lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch kiêm bộ trưởng Bộ ngoại giao,
Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) làm Phó chủ tịch. Chính phủ này thể hiện sự mở
rộng các thành phần tham gia, thêm 1 số thành viên của Việt Quốc Việt Cách nhằm
cùng mục đích giữ vững nền độc lập. Việc thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời thể
hiện rõ sự khơn khéo của Đảng trong sách lược phân hóa kẻ thù. Về đối ngoại, Chính
phủ liên hiệp lâm thời thực hiện nhiệm vụ trước mắt là làm sao cho các nước công
nhận nền độc lập của nước Việt Nam, thân thiện với kiều dân ngoại quốc, nhất là Hoa
kiều - bảo vệ tính mạng và tài sản của kiều dân Pháp không làm hại đến nền độc lập
của Việt Nam. Với đối sách, với Tưởng Giới Thạch “nên tránh xung đột quân sự mà
chỉ xung đột bằng chính trị”6, chính quyền cách mạng của ta đã sử dụng lực lượng quân
Tưởng ở Việt Nam làm đối trọng với lực lượng của thực dân Pháp, nhân nhượng cho
chúng một số quyền lợi về kinh tế tài chính như cung cấp một phần lương thực thực
phẩm, phương tiện giao thông vận tải, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường
để kiềm chế âm mưu của Pháp sớm khôi phục lại sự kiểm sốt với Đơng Dương.
3.3. Hịa hỗn với Pháp để đuổi quân Tưởng về nước, chuẩn bị cho cuộc
kháng chiến trường kỳ
Với thiện chí nhân đạo và hịa bình, Việt Nam đã nỗ lực cứu vãn một nền hịa
bình mong manh, kiên trì sử dụng biện pháp hồ bình nhằm giải quyết mọi xung đột
giữa Việt Nam với Pháp. Vì thế Việt Nam đã chuyển quan hệ với Pháp từ đối đầu về
qn sự sang đối thoại hịa bình, dùng biện pháp đàm phán, nhân nhượng cho Pháp một
số quyền lợi biểu hiện cụ thể trong bản Hiệp định sơ bộ 6/3/1946 và Tạm ước
14/9/1946.
*Hiệp định Sơ bộ 6-3:
Về phía Pháp, sau khi chiếm đóng các đơ thị ở Nam bộ và Nam Trung bộ thực
dân Pháp chuẩn bị tiến cơng ra Bắc thơn tính nước ta. Chúng đã dùng thủ đoạn chính
trị điều đình với chính phủ Trung Hoa Dân Quốc để đưa quân ra miền Bắc, 28/2/1946,
thực dân Pháp và Trung Hoa Dân Quốc ký kết hiệp ước Hoa-Pháp để cho quân Pháp ra
miền Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Hiệp ước Hoa-Pháp đã đặt Việt Nam
6 Đảng Cộng sản Việt Nam,


Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,

2001, tr.5, 6.
10


trước chiến tranh trên quy mô cả nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và trung ương Đảng đã
khai thác mọi khả năng hịa bình, chủ động đàm phán với Pháp để đẩy lùi nguy cơ
chiến tranh, tiếp tục phát triển thực lực cách mạng mọi mặt để đối phó với cuộc chiến
tranh xâm lược và làm cơ sở cho đấu tranh ngoại giao nhằm tiếp tục bảo vệ nền độc lập
dân tộc. Trên cơ sở phân tích tồn diện, 3/3/1946, Hội nghị Ban Thường Vụ TW Đảng
do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì đã chọn giải pháp “hịa để tiến”.
Ngày 6/3/1946, tại Hà Nội, chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt chính phủ ta ký với
đại diện chính phủ Pháp là G. Xanhtơni bản hiệp định sơ bộ:
+ Công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do có chính
phủ riêng, qn đội riêng, tài chính riêng nằm trong khối liên hiệp Pháp
+ Chính phủ Việt Nam đồng ý để cho 15 nghìn quân Pháp ra miền Bắc thay chân
Quân trung Hoa Dân Quốc giải giáp quân đội Nhật và rút quân sau 5 năm.
+ Hai bên ngừng xung đột ở Nam bộ và giữ nguyên quân đội tại vị trí cũ, nhằm
đưa đến điều kiện thuận lợi cho tương lai của Đông Dương. Hiệp định sơ bộ 6/3/1946
mới chỉ cơng nhận tính thống nhất (một quốc gia) nhưng chưa công nhận nền độc lập
của nước Việt Nam, lại để cho quân pháp ra miền Bắc vĩ tuyến 16 một cách dễ dàng.
Đó là một sự nhân nhượng, thể hiện thái độ thiện chí hịa bình của ta để đổi lấy hịa
bình.
Tuy nhiên, việc ký Hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 tạm thời hịa hỗn với Pháp là chủ
trương đúng đắn và kịp thời của chính phủ cách mạng; đã ngăn chặn âm mưu cấu kết
với thực dân Pháp với Trung Hoa Dân Quốc; nhanh chóng gạt 20 vạn quân Tưởng và
tay sai về nước, tránh được một cuộc chiến tranh nổ ra quá sớm và bất lợi cho ta, tạo
thời gian hịa bình để chuẩn bị lực lượng cho cuộc chiến đấu về sau.
*Tạm ước 14/9/1946:

Mặc dù đã ký Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946, thực dân Pháp vẫn đẩy mạnh xung
đột, tiến tới cuộc chiến tranh để hoàn thành xâm lược nước ta. Với mong muốn tìm một
giải pháp hịa bình để giải quyết tình trạng xung đột, chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu
đã cử đoàn đàm phán với Pháp ở Hội nghị trù bị ở Đà Lạt (từ cuối tháng 4 đến đầu
tháng 5/1946) và Hội nghị Phôngtennơblô (từ tháng 6 đến tháng 9/1946). Do thái độ
hiếu chiến của Pháp nên các cuộc đàm phán đều thất bại. Quan hệ Việt-Pháp càng trở
nên căng thẳng, nguy cơ của một cuộc chiến tranh sắp nổ ra. Trước tình hình đó, chủ
tịch Hồ Chí Minh với tư cách là thượng khách sang thăm nước Pháp theo lời mời của
chính phủ Pháp, đã chủ động đàm phán và ký với đại diện của chính phủ Pháp (Mute)
11


bản Tạm ước 14/9/1946: Ta tiếp tục nhân nhượng cho Pháp một số quyền lợi kinh tếvăn hóa ở Việt Nam, nhằm mục đích kéo dài thời gian hịa hỗn, tích cực chuẩn bị lực
lượng cho cuộc kháng chiến.
Tuy nhiên, trái ngược với thiện chí của Việt Nam, thực dân Pháp vẫn ngoan cố
bám giữ lập trường thực dân, nuôi hy vọng giành thắng lợi bằng quân sự. Với dã tâm
cướp nước ta một lần nữa, chúng đã trắng trợn xé bỏ những điều đã cam kết với ta
trong Hiệp định Sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946 và ngày càng lấn tới khi
liên tiếp gây xung đột ở lạng Sơn, Hải Phòng, Hà Nội. Trắng trợn hơn, ngày
18/12/1946, Pháp cịn gửi tối hậu thư buộc chính phủ ta phải giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu, giao quyền kiểm sốt thủ đơ cho chúng, nếu khơng chúng sẽ giành tồn
quyền hành động vào 20/12/1946. Khả năng hịa hỗn khơng cịn nữa, con đường đàm
phán hịa bình bị kẻ thù phá hoại. Sự nhân nhượng của chính phủ và nhân dân Việt
Nam đã đến giới hạn cuối cùng, nhân dân Việt Nam chỉ có một con đường cầm vũ khí
đứng lên kháng chiến vì độc lập tự do dân tộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và chính phủ
đã quyết định phát động nhân dân cả nước kháng chiến chống Pháp 19/12/1946. Trong
q trình sử dụng biện pháp hịa bình, Việt Nam có những nhân nhượng nhất định với
Pháp. Nhưng nhân nhượng không phải là nhu nhược, mà là để chuẩn bị đưa cách mạng
tiến lên. Tranh thủ thời gian hồ hỗn đó, Đảng và Chính phủ cùng nhân dân Việt Nam
đã nỗ lực chuẩn bị về mọi mặt để đối phó với khả năng chiến tranh.

Cuộc đấu tranh ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính phủ ta trong giai
đoạn 1945-1946 tuy chưa giải quyết được mục tiêu cơ bản, nhưng đã làm cho nhân dân
Pháp và thế giới hiểu rõ hơn vấn đề Việt Nam, làm cho số đơng người Pháp đồng tình
ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, tranh thủ có thêm thời gian để xây dựng lực lượng
đối phó với âm mưu xâm lược trở lại của thực dân Pháp. Kiên trì con đường đàm phán
hịa bình với Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện thiện chí hịa bình của chính phủ
và nhân dân Việt Nam, đầy được quân Tưởng về nước và phá tan âm mưu câu kết giữa
chúng và thực dân Pháp chống lại nhân dân ta. Đồng thời ta cũng kéo dài thêm thời
gian hịa hỗn để chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến không thể tránh khỏi. Dưới
sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam đã vận dụng khôn khéo,
linh hoạt phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Có thể nói sách lược ngoại giao
trong giai đoạn này là mẫu mực kết hợp đấu tranh ngoại giao và đấu tranh quân sự, đặt
nền móng cho nền ngoại giao của cách mạng Việt Nam.

12


II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI TRONG NHỮNG
NĂM 1946 – 1950
1. Bối cảnh quốc tế
Trong những năm đầu của cuộc kháng chiến, thế giới diễn ra nhiều sự kiện quan
trọng, ảnh hưởng to lớn đến tiến trình phát triển của quan hệ quốc tế. Nổi bật là sự ra
đời của hàng loạt các nước dân chủ nhân dân Đông Âu; sự phát triển của phong trào
đấu tranh đòi độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa, phụ thuộc ở châu Á, Trung Cận
Đông và châu Phi; sự lớn mạnh của các phong trào đấu tranh vì dân sinh, dân chủ và
hịa bình trên thế giới. Được sự giúp đỡ của Liên Xô, các nước dân chủ nhân dân Đông
Âu khôi phục kinh tế sau chiến tranh, củng cố và bảo vệ thành quả cách mạng, thiết lập
nền chun chính vơ sản, hồn thành cách mạng dân chủ nhân dân. Liên minh giữa
Liên Xô và các nước đó đã hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.
Trong 5 năm đầu sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi các nước tư bản bị tổn thất

nặng nề, nền kinh tế kiệt quệ, thì Mỹ giàu mạnh lên, trở thành trung tâm kinh tế - tài
chính duy nhất trên thế giới. Dựa vào sức mạnh kinh tế và quân sự, Mỹ vươn ra khống
chế thế giới tư bản, ráo riết lôi kéo các nước phương Tây lập liên minh đối lập với hệ
thống xã hội chủ nghĩa và phát động chiến tranh lạnh, triển khai chiến lược tồn cầu
phản cách mạng nhằm bao vây, cơ lập và tiến tới xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa,
tiêu diệt phong trào cách mạng thế giới và khống chế, nơ dịch các nước đồng
minh.Tình hình nước Pháp có nhiều biến đổi. De Gaulle, người có xu hướng tương đối
độc lập với Mỹ, bị gạt khỏi chính quyền (tháng 1/1946). Các Chính phủ tiếp sau của
Pháp nhận viện trợ Mỹ thông qua kế hoạch Mácsan và ngày càng ngả mạnh sang phía
hữu, coi Đơng Dương là trọng điểm trong chính sách thuộc địa nhằm ngăn chặn phong
trào đấu tranh giành độc lập đang phát triển tại các thuộc địa Pháp ở châu Phi. Tuy
nhiên, họ cũng lo ngại Mỹ vũ trang lại Tây Đức và không muốn ảnh hưởng của Mỹ
thâm nhập vào hệ thống thuộc địa của mình. Đế quốc Anh có nhiều khó khăn về kinh tế
nên cũng có nhiều cải tiến chính sách thuộc địa; tập trung vào vùng nhiều dầu mỏ
Trung Cận Đông và vùng nhiều nguyên liệu quý Đông Nam Á.
Tại châu Á, cách mạng Trung Quốc phát triển nhanh chóng làm cho Pháp lo ngại.
Họ đã cố gắng để cách mạng Việt Nam khơng tiếp xúc được với cách mạng Trung
Quốc. Tình hình thế giới có lợi cho cách mạng Việt Nam trong xu thế phát triển lâu dài.
Nhưng ở thời điểm những năm 1947 - 1949, cách mạng Việt Nam còn gặp quá nhiều
13


khó khăn, chưa nước nào có thể cơng nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa kể cả
Liên Xơ. Vì vậy, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam vẫn nằm trong thế bị bao
vây.
2. Cả nước bước vào thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Sau khi thực dân Pháp tiến đánh nước ta lần thứ hai, các cơ quan của Đảng,
Chính phủ chuyển lên hoạt động ở căn cứ địa Việt Bắc, Đảng Cộng sản tuyên bố “tự
giải tán” nhưng thực chất là rút vào hoạt động bí mật để chuẩn bị cho một cuộc kháng
chiến lâu dài.

Tháng 3/1947, Chính phủ Pháp cử Bô-la-e sang làm cao uỷ Pháp ở Đông Dương,
thay cho Đác-giăng-li ơ. Bô-la-e vạch ra kế hoạch tiến cơng Việt Bắc với âm mưu xóa
bỏ căn cứ địa, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt đường liên
lạc quốc tế; tiến tới thành lập chính phủ bù nhìn tồn quốc và nhanh chóng kết thúc
chiến tranh. Ngày 7/10/1947, Pháp đã huy động 12.000 quân, gồm cả không quân, lục
quân, và thuỷ quân với hầu hết máy bay có ở Đơng Dương chia thành ba cánh tiến
cơng lên Việt Bắc.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã có chỉ thị “Phải phá tan cuộc tấn công mùa đông
của giặc Pháp”. Trên khắp các mặt trận, quân dân ta anh dũng chiến đấu, từng bước
đẩy lùi cuộc tiến công của địch. Sau 75 ngày đêm chiến đấu, buộc đại bộ phận quân
Pháp phải rút chạy khỏi Việt Bắc (ngày 19/12/1947); bảo toàn được cơ quan đầu não
của cuộc kháng chiến; bộ đội chủ lực thêm trưởng thành. Loại khỏi vòng chiến đấu hơn
6.000 quân địch; bắn rơi 16 máy bay, bắn chìm và cháy 11 tàu chiến, ca nô; phá huỷ
nhiều xe quân sự và pháo các loại, thu nhiều vũ khí và hàng chục tấn quân trang quân
dụng. Với chiến thắng này ta đã đánh bại chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh” của
địch, buộc chúng phải chuyển sang đánh lâu dài với ta. Tạo điều kiện thuận lợi cho
quân Việt Minh từ thế bị động sang thế chủ động, chuẩn bị lực lượng cho một cuộc
kháng chiến mới.
3. Đường lối đối ngoại của Đảng trong giai đoạn 1946 – 1950
3.1. Đấu tranh nhằm phá thế bao vây
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ngay từ những ngày đầu đã được Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: muốn kháng chiến thắng lợi phải dựa vào sức mạnh dân tộc
và sức mạnh quốc tế, trong đó sức mạnh dân tộc là chủ yếu và phải kết hợp đấu tranh
14


chính trị - quân sự và ngoại giao. Như vậy, ngoại giao đã trở thành một phần quan
trọng trong đường lối kháng chiến.
Bản chất nền ngoại giao của nước Việt Nam là hịa bình, mặc dù trong cuộc chiến
đấu gian khổ dài lâu nhưng khi có cơ hội Việt Nam luôn tận dụng mọi thời cơ để nêu

cao ngọn cờ hịa bình. Trong suốt thời gian từ sau Hiệp định Sơ bộ vào 3/1946 đến
tháng 12/1946, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nỗ lực để duy trì nền hịa bình
mỏng manh trước những hành động hiếu chiến của các thế lực thực dân. Từ ngày kêu
gọi toàn quốc kháng chiến cho đến tận đầu tháng 3/1947, “với tinh thần “cịn nước cịn
tát”, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua mọi phương tiện và con đường có thể được trong hồn
cảnh khó khăn lúc bấy giờ, tám lần gửi thư và điện cho Chính phủ, Quốc hội và nhân
dân Pháp kêu gọi đình chiến, lập lại hịa bình, mở lại thương lượng với những đề nghị
hợp tình hợp lý.”7
Năm 1946-1947, trong những cuộc đấu tranh ngoại giao cam go phức tạp với
thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cao những niềm tự hào của nước Pháp cũng
như các lý tưởng tiến bộ của cách mạng Pháp và đồng thời đưa ra những lý lẽ khiến đối
phương khó lịng phản bác lại. Người đưa ra thơng điệp hịa bình, hịa hiếu của nhân
dân Việt Nam để khuyến khích nước Pháp công nhận nền độc lập thống nhất của Việt
Nam và cam kết sẽ đảm bảo những quyền lợi về văn hóa, kinh tế, chính trị của Pháp tại
Việt Nam đồng thời cũng không quên nhấn mạnh: “Mà như thế thì vững vàng, chắc
chắn hơn là lấy chiến tranh hoặc sức mạnh hoặc thâm mưu để ép chúng tôi ký điều ước
này điều ước nọ.”8
Mặc dù chiến tranh nổ ra nhưng với quan điểm nhân đạo và hịa bình, Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn chủ trương khơng bỏ lỡ cơ hội hịa bình bằng giải pháp
thương lượng trên cơ sở Pháp tôn trọng nền độc lập và thống nhất của nước Việt Nam.
Đầu năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Chúng tơi muốn hịa bình ngay để máu
người Pháp và Việt ngừng chảy. Những dịng máu đó chúng tôi đều quý như nhau.” 9
Tuy nhiên, nếu thực dân Pháp vẫn ngoan cố muốn dùng chiến tranh thì nhân dân Việt
Nam quyết sẽ chiến đấu đến cùng.
Những quan điểm cơ bản về chính sách đối ngoại hịa hữu của Đảng và Chính
phủ Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nhiều lần qua các thư gửi Chính
phủ, Quốc hội và nhân dân Pháp, trong trả lời phỏng vấn của phóng viên báo chí nước
7 Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, chương 2, tr.133
8 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.4, tr.354
9 Hồ Chí Minh: “Lời kêu gọi Chính phủ và nhân dân Pháp”, Tồn


tập, t.5, tr.19.
15


ngoài; tháng 7/1947, khi trả lời một nhà báo nước ngồi, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ:
Chính sách đối ngoại là thân thiện với các nước láng giềng Trung Hoa, Ấn Độ, Xiêm,
Lào, Campuchia, … mà khơng thù ốn gì với nước nào.
Hội nghị Trung ương mở rộng (1/1948) chủ trương: “Mở rộng tuyên truyền ở
nước ngoài làm cho thế giới hiểu ta và giúp ta hơn.”. Nghị quyết Hội nghị cán bộ
Trung ương lần thứ sáu (1/1949) chủ trương về mặt ngoại giao:
“1. Ra sức tuyên truyền quốc tế, giành thêm sức ủng hộ của các lực lượng dân
chủ thế giới.
2. Gửi các phái đoàn ra ngoại quốc.”10
Xuyên suốt toàn bộ hoạt động quốc tế và ngoại giao của Việt Nam là độc lập tự
chủ, tự lực tự cường gắn với đoàn kết và hợp tác quốc tế, đồng thời kết hợp với đấu
tranh cương quyết và khôn khéo để thực hiện được mục tiêu và bảo vệ quyền lợi của
quốc gia. Theo Hồ Chí Minh, đồn kết hợp tác quốc tế không chỉ là để tăng cường nội
lực để thực hiện các nhiệm vụ chiến lược của mình mà phải có nghĩa vụ đóng góp vào
sự nghiệp đấu tranh của nhân dân thế giới trên tinh thần “người cùng một hội một
thuyền, phải giúp đỡ lẫn nhau.”11
Trong điều kiện bị bao vây cô lập, hoạt động ngoại giao của Việt Nam khơng có
nhiều nhưng chính những chính sách đối ngoại hòa hữu và rộng mở của Đảng đã tạo
điều kiện để từng bước phá vỡ thế bao vây, đưa cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam tới với thế giới.
3.2. Hình thành liên minh chiến đấu ở Đơng Dương
Tinh thần đồn kết chiến đấy giữa nhân dân ba nước Đông Dương đã được hỉnh
thành từ những ngày đầu chuẩn bị và thành lập Đảng. Tháng 8/1945, ngay sau khi Việt
Nam tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp Hồng thân Xuphanuvơng để bàn
về việc liên minh Việt-Lào chuẩn bị chống thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Đông

Dương. Với hai người anh em láng giềng Lào và Campuchia, trong bản Thơng cáo
chính sách đối ngoại đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 3/10/1945 đã
nêu rõ: “Ba nước sẽ giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc kiến thiết và cùng nhau tiến lên
trên con đường tiến bộ.”
Ngày 12/10/1945, ngay khi Lào tuyên bố độc lập, Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa đã tun bố cơng nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Nhà nước Lào;
10 Nghị quyết Hội nghị cán bộ Trung ương lần
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, tr.624

thứ sáu (1/1949), II, E.
16


cùng tháng đó, Hiệp định thành lập liên quân Việt - Lào được ký kết. Còn tại
Campuchia, tháng 10/1945, sau khi quân Pháp nhảy dù xuống Phnôm Pênh và mở rộng
sự chiếm đóng ra khắp nước này thì Ủy ban kháng chiến Nam Bộ của ta đã giúp đỡ xây
dựng lực lượng kháng chiến. Chính phủ Việt Nam đã ký với Ủy ban này Tuyên bố
chung “Đoàn kết Việt-Miên-Lào chống Pháp.”
Ngày 15/2/1949, Hội nghị cán bộ về công tác giúp đỡ Lào và Campuchia đề ra
bốn phương châm chính:
1. Khơng đứng trên lợi ích Việt Nam mà làm cơng tác Lào-Miên
2. Nắm chắc nguyên tắc dân tộc tự quyết, do Lào, Miên tự quyết lấy
3. Khơng đem chủ trương, chính sách, nguyên tắc của Việt Nam ứng dụng vào
Lào, Miên như lắp máy
4. Cần giúp đỡ Lào, Miên để bạn tự làm lấy
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu rõ “giúp nhân dân nước bạn là mình tự giúp
mình”12 và Người đã yêu cầu bộ đội tình nguyện Việt Nam ở bên nước bạn tôn trọng
chủ quyền và phong tục tập quán, coi nhân dân nước bạn như nhân dân mình.
3.3. Đấu tranh chống âm mưu Pháp – Mỹ lập chính quyền bù nhìn
Trong giai đoạn 1947-1949, Đảng ta dự đốn Mỹ có thể sẽ can thiệp vào tình hình

Việt Nam dựa trên những động thái hỗ trợ của chúng với Pháp. Thông cáo của Thường
vụ Tung ương Đảng ngày 12/12/1947 đã xác định: “Tuy ta nhận rõ tham vọng của Mỹ
và nguy cơ Mỹ nhưng những cái đó chưa trực tiếp đối với ta nên ta vẫn phải lợi dụng
triệt để những mâu thuẫn dù nhỏ đến mấy giữa Pháp và Mỹ. Về ngoại giao vẫn tuyên
bố thân thiện với Mỹ và vẫn dùng hội Việt-Mỹ làm lợi khí tuyên truyền quốc tế một
phần nào.”13 Đảng chủ trương giữ mối quan hệ bình thường với Mỹ để giữ ổn định
quan hệ với chính quyền Tưởng Giới Thạch trong lúc các lực lượng quân đội của
Tưởng vẫn đang kiểm soát vùng Hoa Nam (Trung Quốc). Thời gian này, Trung ương
Đảng cũng chủ trương tuyên truyền công khai, tránh đối đầu với chính quyền Tưởng
Giới Thạch mà chỉ phê phán bọn tay sai người Việt của chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng thường căn dặn các cán bộ lãnh đạo các tỉnh biên giới Việt-Trung phải khéo léo
giữ yên biên thùy để ta có thể tập trung đánh Pháp. Đây là một sách lược ngoại giao vô
cùng khôn khéo khi Đảng ta phải khai thác mọi khả năng có thể để tìm kiếm đồng
minh trong hồn cảnh khắp nơi là kẻ địch.
12 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.7, tr.18
13 Đảng Cộng Sản Việt Nam: Văn kiện

Đảng Toàn tập, 1993, t.8, tr.339.
17


Đầu năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ nước nào trọng quyền bình
đẳng, chủ quyền lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nước Việt Nam, để cùng nhau bảo
vệ hòa bình và xây đắp dân chủ thế giới.”14 Ngày 18/1/1950, Chính phủ Cộng hịa
nhân dân Trung Hoa, sau đó là Chính phủ Liên Xơ, các nhà nước dân chủ nhân dân ở
Đông Âu, Triều Tiên đã công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Đây là
thắng lợi lớn trên mặt trận ngoại giao sau bao nhiêu nỗ lực khơng ngừng nghỉ của
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Việc ta triển khai quan hệ trên nhiều mặt
trận đã góp phần đưa cách mạng Việt Nam đến với cách mạng thế giới, nhân dân các

nước ở châu Á và châu Phi cũng dành sự ủng hộ cho Việt Nam trong cuộc kháng chiến
cứu nước và tạo thuận lợi để ta nhận được sự ủng hộ và viện trợ quan trọng của Liên
Xô và Trung Quốc để tiến hành kháng chiến chống xâm lược.
Đấu tranh ngoại giao trong giai đoạn 1946-1950 mang đậm tư duy và hoạt động
đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được Người xác định rõ mối quan hệ của cách
mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, do đó chúng ta vừa ra sức kháng chiến vừa
tham gia phong trào ủng hộ hịa bình thế giới. Ngay khi cuộc kháng chiến chống Pháp
nổ ra, Đảng ta đã xác định phương hướng đẩy mạnh vận động tuyên truyền quốc tế
bằng nhiều hình thức khác nhau để tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế; lợi
dụng triệt để mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ địch để phân hóa chúng và kiềm chế Pháp
trong mưu đồ đánh nhanh thắng nhanh; liên minh Việt-Miên-Lào được hình thành đã
nhất qn chủ trương đồn kết với hai dân tộc anh em láng giềng. Những chính sách
đúng đắn về ngoại giao Việt Nam giai đoạn này đã thể hiện sự nhạy bén, tầm nhìn của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc nhận định tình hình thế giới để từ đó từng
bước đưa ngoại giao Việt Nam thốt khỏi thế cơ lập với quốc tế.
III. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ
NĂM 1950 ĐẾN NĂM 1954
1. Bối cảnh quốc tế
Từ cuối năm 1949, tình hình thế giới và châu Á đã diễn ra những sự kiện lịch sử
lớn.
Ở Đông Âu, các chính quyền dân chủ nhân dân được củng cố, vai trò lãnh đạo
của Đảng cộng sản được củng cố, thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ
14 Hồ

Chí Minh: Tồn tập, t.6, tr. 8
18


sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội và đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nền
kinh tế Liên Xô được phục hồi với nhịp độ tăng trưởng cao trở thành cường quốc công

nghiệp đứng thứ 2 thế giới sau Mỹ, thực hiện chính sách đối ngoại hồ bình và tích cực
ủng hộ phong trào cách mạng thế giới; đấu tranh cho hịa bình, an ninh thế giới, kiên
quyết chống chính sách gây chiến của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động; tích
cực giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa trong công cuộc xây dựng đất nước; ủng hộ các
phong trào đấu tranh vì độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ngày 1 tháng 10 năm 1949, với việc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng
lợi nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa theo đường lối xã hội chủ nghĩa được
thành lập.Sự ra đời của nước Trung Hoa Dân chủ Nhân dân tạo ra một bước ngoặt
trong tình hình châu Á và thế giới, ảnh hưởng tích cực đến cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc ở Đơng Dương. Tháng Giêng năm 1950, Giải phóng quân Trung Quốc tiến đến
biên giới Trung – Việt.
Tháng 2/1950, Liên Xô và Trung Quốc ký hiệp ước Đồng minh tương trợ hữu
nghị, hợp tác. Hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới mở rộng từ châu Âu sang châu Á. Hệ
thống xã hội chủ nghĩa đang được củng cố và là chỗ dựa vững chắc cho cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam.
Trong khi đó, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào bảo vệ hồ bình thế
giới ngày càng phát triển mạnh mẽ.với các cuộc đấu tranh quyết liệt của 3 nước Đông
Dương Việt Nam, Lào, Campuchia, những cuộc đấu tranh quyết liệt của nhân dân các
nước Đông Nam Á như Philippin, Inđơnêxia, Malaixia, Miến Điện, cùng với đó là sự
ra đời của nước Cộng hòa Ấn Độ, cuộc kháng chiến anh dũng của nhân dân Triều
Tiên... nhằm giành lại độc lập, chủ quyền cho dân tộc. Phong trào đấu tranh cho hồ
bình, dân chủ và tiến bộ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cũng phát triển
ngay tại các nước tư bản chủ nghĩa. Đấu tranh bảo vệ hồ bình thế giới trở thành phong
trào quần chúng rộng rãi.
Tháng 6/1950, Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Mỹ đưa quân can thiệp vào bán
đảo này, đánh tới tận biên giới Trung Quốc ở sơng Áp Lục, chí nguyện quân Trung
Quốc viện Triều kháng Mỹ. Từ đây, Mỹ xác định ba vấn đề Triều Tiên, Đài Loan và
Đông Dương liên quan mật thiết với nhau, tác động đến an ninh của Mỹ ở vùng Đông
Á – Tây Thái Bình Dương. Mỹ xem Trung Quốc là nguồn gốc chủ yếu của mối đe dọa
cộng sản ở Đông Nam Á và chủ thuyết con bài Đôminô đã được xây dựng dựa trên

quan niệm cho rằng do tác động của Trung Quốc, bất kỳ một nước nào ở Đông Nam Á
19


“rơi vào sự kiểm soát cộng sản” sẽ dẫn tới việc các nước đó đổ và đi theo chủ nghĩa
cộng sản; Tình hình này sẽ lan sang Nam Á và Trung Cận Đơng, thậm chí sẽ đe dọa sự
ổn định và an ninh của Tây Âu.
Nước Pháp lúc bấy giờ rơi vào tình trạng khó khăn, tình hình kinh tế và chính trị
khơng ổn định. Nền Kinh tế nước Pháp suy thoái nặng nề, rơi vào khủng hoảng phải
nhận viện trợ từ Mỹ. Tình hình trong nước bất ổn, Mỹ tích cực viện trợ quân sự và kinh
tế cho Pháp để đẩy mạnh chiến tranh, đồng thời từng bước thực hiện ý đồ xây dựng ảnh
hưởng trực tiếp đối với Việt Nam. Pháp phải đối diện với nhiều vấn đề, một trong số đó
là phong trào phản đối chiến tranh bùng nổ mạnh mẽ ngay tại nước Pháp với sự tham
gia của nhiều tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những hoạt động của ĐCS Pháp tạo ra khả
năng phối hợp cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam với cuộc đấu tranh của nhân
dân Pháp; tạo điều kiện vận dụng sách lược cô lập và suy yếu thực dân Pháp xâm lược.
Mặt khác, đế quốc Mỹ cũng thực hiện các chiến lược chiến tranh ở châu Á trong
đó có Việt Nam, đưa cuộc chiến tranh Đông Dương vào quỹ đạo chiến lược "Chiến
tranh lạnh", biến Đông Dương, Đài Loan, Triều Tiên... thành những cứ điểm chống
Cộng với chiến lược "trả đũa ồ ạt" nhằm "đẩy lùi chủ Pháp và đế quốc Mỹ, cuộc kháng
chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam đồng thời cũng là cuộc đấu tranh chống bọn
can thiệp Mỹ.
2. Bối cảnh trong nước
Từ năm 1948 đến mùa thu năm 1950, các cuộc kháng chiến diễn ra mạnh mẽ và
liên tiếp giành được thắng lợi lớn về mọi mặt. Lực lượng vũ trang 3 thức quân ngày
càng trưởng thành với phương pháp tác chiến ngày càng tiến bộ. Trong các vùng tạm
chiếm, phong trào đấu tranh của nhân dân phát triển mạnh mẽ, nhất là ở các thành phố,
thị xã.
2.1. Hoàn cảnh lịch sử mới
Đến năm 1949, lực lượng viễn chinh Pháp vẫn chưa chiếm được khu vực vùng

núi Việt Bắc dẫn đến việc thực dân Pháp kiểm soát miền Bắc nước ta diễn ra chậm và
thiếu ổn định. Trước tình hình đó, Việt Minh đã tổ chức lại bộ máy và lực lượng, bắt
đầu mở những trận đánh quy mô lớn để chống lại quân Pháp. Trong thời gian 5 năm bị
cơ lập, Đảng ta tích cực mở rộng quan hệ ngoại giao với các nước anh em nhằm tìm
kiếm sự ủng hộ, cơng nhận từ quốc tế.

20


Ngồi ra, Việt Minh cũng thơng qua các tổ chức Việt kiều tại Pháp và các tổ chức
khác để đấu tranh chính trị, tác động mạnh mẽ đến phong trào phản đối cuộc chiến
tranh Đông Dương đang diễn ra cao trào. Nước Pháp lâm vào cuộc khủng hoảng chính
trị chưa từng có. Nhà nước Quốc gia Việt Nam thiếu uy tín trong nhân dân do bị coi là
“chính phủ bù nhìn”, qn đội của họ khơng đủ năng lực để có thể phối hợp tốt với lực
lượng viễn chinh Pháp tại Đơng Dương để cuộc chiến. Vì vậy, thực dân Pháp chấp
nhận khoản viện trợ kinh tế và quân sự từ đế quốc Mỹ để tiếp tục cuộc chiến tranh tại
Đông Dương.
Chiến dịch biên giới Thu – Đông năm 1950 bùng nổ và giành được thắng lợi vang
dội, tạo tiền đề cho các phong trào đấu tranh sau này, gây tiếng vang lớn trên toàn thế
giới, tạo điều kiện cho sự ủng hộ chiến tranh giành độc lập dân tộc ở Việt nam, uy tín
và địa vị của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được nâng cao trên trường chính
trị quốc tế.
Đầu năm 1951, năm thứ 6 của cuộc kháng chiến, thế và lực của chiến tranh nhân
dân có sự phát triển vượt bậc. Sự ủng hộ về tinh thần, vật chất của Liên Xô, Trung
Quốc và các nước anh em tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân ba nước Đơng Dương
trong đó có Việt Nam đẩy kháng chiến mau tới thắng lợi hoàn toàn. Từ đây, cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cuộc đấu tranh của phe xã
hội chủ nghĩa.
Về phía thực dân Pháp, với sự đồng ý giúp sức của Mỹ, ngày 13/5/1949, chính
phủ Pháp đề ra kế hoạch Rơve, tập trung lực lượng mở rộng chiếm đóng vùng trung du

và đồng bằng Bắc Bộ, ra sức phong tỏa biên giới nhằm ngăn chặn sự chi viện của cách
mạng Trung Quốc cho cách mạng Việt Nam và bao vây, cô lập căn cứ địa Việt Bắc. Kế
hoạch Rơve là kế hoạch do tướng GRove - tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp chuẩn
y (6/1949) nhằm đối phó với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam
đang phát triển mạnh và việc Quân giải phóng Trung Quốc đang tiến hành xuống biên
giới Việt - Trung. Với mục đích là giữ được bằng được đồng bằng Bắc Bộ, bỏ Cao
Bằng, có về vùng châu thổ, giữ vững vùng ngũ giác Việt Trì – Thái Nguyên – Lạng
Sơn – Hải Phịng – Hịa Bình, mở rộng chiếm đóng đến Phát Diệm, tập trung quân Âu
– Phi thành lực lượng cơ động, phát triển quân đội bản xứ, củng cố chính quyền bù
nhìn. Kế hoạch được xây dựng trên 3 hoạt động chính đó là tăng cường hệ thống phịng
ngự trên đường số 4 để khóa chặt biên giới Việt – Trung, thiết lập một “hành lang
Đông – Tây” (Hải Phịng – Hà Nội – Hịa Bình – Sơn La) để cô lập căn cứ Việt Bắc,
21


chuẩn bị tấn công lên căn cứ Việt Bắc lần thứ hai để tiêu diệt cơ quan đầu não Việt
Minh và nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Tuy nhiên, kế hoạch này bị các tướng
Valuy, Alexandrie phản đối và bại lộ nên không thể thực hiện được. Kế hoạch Rơve
bộc lộ mâu thuẫn giữa ý đồ xâm lược với khả năng hạn chế và mâu thuẫn giữa các phe
phái trong chiến tranh Pháp xâm lược Đông Dương.
Cũng từ năm 1950 trở đi, Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào các nước ở Bán đảo
Đông Dương. Đến năm 1954, viện trợ quân sự Mỹ đã chiếm 73% tổng ngân sách chiến
trang của Pháp tại Đông Dương. Được Mỹ viện trợ, thực dân Pháp tìm những thủ đoạn
mới với hy vọng sẽ giành thắng lợi ở Việt Nam và Đông Dương. Pháp và Mỹ ra sức
xây dựng Chính phủ bù nhìn, mặt khác, tăng cường lực lượng quân sự để bình định và
tìm cách phản cơng lực lượng vũ trang cách mạng, hòng giành lại quyền chủ động trên
chiến trường. Giải pháp chiến tranh mới của địch cũng như sự can thiệp ngày càng
trắng trợn của Mỹ tại Việt Nam và Đông Dương làm cho cuộc kháng chiến của nhân
dân ta gặp khơng ít khó khăn. Tuy nhiên, với sự kiên cường của quân và dân ta, được
sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt

Nam vẫn phát triển không ngừng vã đã làm thất bại những cố gắng của quân địch trong
những năm 1951 – 1952.
Trước tình hình Thực dân Pháp đẩy mạnh chiến tranh xâm lược Đông Dương, Đại
hội Đại biểu lần thứ II của Đảng diễn ra vào tháng 2/1951 diễn ra tại huyện Chiêm
Hóa, tỉnh Tuyên Quang. Hậu phương kháng chiến phát triển mọi mặt. Những chiến
dịch tiến công giữ vững quyền chủ động trên chiến trường. Ta đã có những vùng giải
phóng rộng lớn, mở được cửa thơng quốc tế, lực lượng vũ trang có khả năng tiêu diệt
bộ phận sinh lực quan trọng của địch. Tuy nhiên, thực dân Pháp với sự giúp đỡ của đế
quốc Mỹ vẫn nỗ lực tăng cường chiến tranh, gây cho quân ta nhiều khó khăn, phức tạp.
2.2. Tình hình đất nước trong những năm 1953 – 1954
Sau Đại hội toàn quốc lần thứ II, Đảng ta đã tập trung đẩy mạnh cuộc kháng
chiến đến thắng lợi. Ban Chấp hành Trung ương khóa II đã tiếp tục giải quyết nhiều
vấn đề do yêu cầu thực tiễn đặt ra trên tất cả các mặt. Những thắng lợi to lớn và toàn
diện của quân và dân ta từ sau Đại hội lần thứ 2 của Đảng (2/1951) đa làm thay đổi lớn
về lực và thế của ta, tạo điều kiện để quân và dân ta bước vào giai đoạn mới của cuộc
kháng chiến chống Pháp.
Trong lúc đó, để giành thắng lợi quân sự làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có
“danh dự” cho Pháp, tướng Nava được bổ nhiệm làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở
22


×