Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Tài liệu Internet Protocol Television doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 44 trang )

ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
KHOA ĐIỆN TỬ - VIỄN THÔNG
MÔN: CÔNG NGHỆ MẠNG



Báo cáo:
IPTV
(Internet Protocol Television)



Giáo viên hướng dẫn: Thầy Nguyễn Anh Vinh
Sinh viên:

0520040 Nguyễn Thị Phong Kín
0520066 Nguyễn Thị Tú Quỳnh

Công nghệ mạng - IPTV


2


Mục lục:
I. Giới thiệu 3
II. IPTV là gì? 3
III. Lịch sử 4
IV. Một số đặc tính của IPTV 5
V. Sự khác biệt giữa IPTV và truyền hình Internet IPTV 6
VI. Tình hình phát triển IPTV 7


VII. Cấu trúc IPTV 12
VIII. Một số dịch vụ IPTV được cung cấp ở Việt Nam 32
IX. Ưu điểm của IPTV 42
X. Kết luận 43
XI. Tài liệu tham khảo 44









Công nghệ mạng - IPTV


3
I. Giới thiệu
Sự phát triển của mạng Internet toàn cầu nói riêng và công nghệ thông tin nói chung đã đem
lại tiến bộ và phát triển vượt bậc của khoa học kĩ thuật. Internet không những đã rút ngắn khoảng
cách về không gian, thời gian mà còn mạng lại cho mọi người, mọi quốc gia và cả thế giới những
lợi ích to lớn. Tốc độ phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin là một trong những lợi ích
to lớn, có vai trò quan trọ
ng và tầm ảnh hưởng rộng khắp.
Với sự phát triển nhanh chóng của mạng Internet băng rộng còn làm thay đổi cả về nội dung
và kĩ thuật truyền hình. Hiện nay truyền hình có nhiều dạng khác nhau: truyền hình số, truyền
hình vệ tinh, truyền hình cáp, truyền hình Internet và IPTV. IPTV đang là cấp độ cao nhất và là
công nghệ truyền hình của tương lai. Sự vượt trội trong kĩ thuật truyền hình của IPTV là tính
năng tương tác giữa hệ

thồng với người xem, cho phép người xem chủ động về thời gian và
khả năng triển khai nhiều dịch vụ giá trị gia tăng tiện ích khác trên hệ thồng nhằm đáp ứng nhu
cầu của người sử dụng.
Hiện nay trên thế giới đã có một số quốc gia triển khai thành công IPTV. Theo các chuyên gia
dự báo thì tốc độ phát triển thuê bao IPTV sẽ tăng theo cấp số nhân theo từng năm. Ở Việt Nam
hiệ
n nay, một số nhà cung cấp đang thử nghiệm dịch vụ IPTV trên mạng băng rộng ADSL.

II. IPTV là gì?
IPTV (Internet Protocol Television) là một hệ thống mà dịch vụ truyền hình số được
cung cấp thông qua mạng IP, bao gồm cã những kết nối băng rộng. Định nghĩa một cách tổng
quan thì IPTV là một phương thức truyền hình, thay vì sử dụng phương thức quảng bá và cáp
truyền thống, sử dụng công nghệ dựa trên hệ th
ống mạng máy tính. (wikipedia) Các user có
thể thông qua máy vi tính PC hoặc máy thu hình phổ thông cộng với hộp phối ghép set topbox
để sử dụng dịch vụ IPTV.
Hệ thống IPTV cung cấp cho thuê bao sử dụng TV một dải rộng cho việc lựa chọn nội
dung quảng bá và nội dung lựa chọn riêng của thuê bao. Giải pháp toàn diện bao gồm Live
TV, Video on Demand (VOD), Digital Rights Management (DRM) và Middleware. Nội dung
Công nghệ mạng - IPTV


4
truyền hình được phát thông qua kết nối IP bảo mật sử dụng các set-top box dựa trên công
nghệ IP chuẩn.
IPTV có 2 đặc điểm cơ bản là: dựa trên nền công nghệ IP và phục vụ theo nhu cầu.
Với khách hàng đầu cuối, IPTV thường cung cấp dịch vụ VoD (Video on Demand) và có thể
kết hợp với các dịch vụ Internet như truy cập web và VoIP. Việc kết hợp này được gọi là dịch
vụ "Triple Play" (thêm mobility thì được gọi là "Quadruple Play").
Như v

ậy IPTV đóng vai trò phân phối các dữ liệu, kể cả hình ảnh, âm thanh, văn bản
qua mạng sử dụng giao thức Internet. Điều này nhấn mạnh vào việc Internet không đóng vai
trò chính trong việc truyền tải thông tin truyền hình hay bất kì loại nội dung truyền hình nào
khác. Thay vào đó, IPTV sử dụng IP là cơ chế phân phối mà theo đó có thể sử dụng Internet,
đại diện cho mạng công cộng dựa trên IP, hay có thể sử dụng mạng riêng dựa trên IP.
Có thể
thấy, IPTV là một dịch vụ số mà có khả năng cung cấp những tính năng vượt
trội hơn khả năng của bất kì cơ chế phân phối truyền hình nào khác. Ví dụ, set – top box IPTV
có thể thông qua phần mềm để cho phép xem đồng thời 4 chương trình truyền hình trên màn
hiển thị, hay có thể nhận tin nhắn sms, e – mail….
Tiềm năng của IPTV là rất lớn. Dự đoán rằng, năm 2008 sẽ có khoảng 20 triệu gia
đình s
ử dụng dịch vụ IPTV. Nếu chúng ta trả phí 50$ mỗi tháng cho dịch vụ IPTV, để cả một
set – top box, thì ngân sách sẽ thu về khoảng 12 tỉ $ một năm trong vài năm

III. Lịch sử
Năm 1994, World News Now của ABC đã có buổi trình chiếu truyền hình quảng bá
qua mạng Internet đầu tiên, sử dụng phần mềm CU-SeeMe videoconferencing.
Tổ chức liên quan đến IPTV đầu tiên xuất hiện là vào năm 1995, với sự thành lập
Precept Software bởi Judith Estrin và Bill Carrico. Họ đã thi
ết kế và xây dựng một sản phầm
internet video gọi là "IP/TV". IP/TV là một MBONE tương thích với các ứng dụng trên
Windows và Unix, thực hiện truyền âm thanh, hình ảnh thông qua cả giao thức unicast và IP
multicast RTP/RTCP. Phần mềm này được viết bởi Steve Casner, Karl Auerbach, và Cha
Công nghệ mạng - IPTV


5
Chee Kuan. Hệ thống này đã được Cisco Systems mua vào năm 1998 và Cisco đã dữ lại tên
"IP/TV".

AudioNet bắt đầu tiến hành nghiên cứu live webcasts với WFAA-TV trong tháng năm
1998, và KCTU-LP vào mùng 10 tháng 1 năm 1998.
Kingston Communications, một nhà cung cấp dịch vụ viễn thông ở UK, triển khai KIT
(Kingston Interactive Television), và IPTV qua mạng băng rộng DSL vào tháng 9 năm 1999
sau khi thử nghiệm dịch vụ TV và VoD. Nhà cung cấp này đã thêm dịch vụ VoD vào hệ thống
trong tháng 10 năm 2001 với hệ thống Yes TV. Kingston là một trong những công ty đầu tiên
trên thế giới triển khai IPTV và IP VoD qua m
ạng ADSL.
Hiện nay, IPTV chỉ mới bắt đầu phát triển ở trung và đông Âu.

IV. Một số đặc tính IPTV:
- Hỗ trợ truyền hình tương tác: Khả năng hai chiều của hệ thống IPTV cho phép nhà cung
cấp dịch vụ phân phối toàn bộ các ứng dụng TV tương tác. Các loại dịch vụ được truyền
tải thông qua một dịch vụ IPTV có thể bao gồm TV trực tiếp chuẩn, TV chất lượng cao
(HDTV), trò chơi tương tác, và khả năng duyệt Internet tốc độ cao.
- Sự dịch thời gian: IPTV kết hợp với một máy ghi video kĩ thuật số cho phép dịch thời gian
nội dung chương trình – một cơ chế cho việc ghi và lưu trữ nội dung IPTV để xem sau.
- Cá nhân hóa: Một thệ thống IPTV từ kết cuối đến kết cuối hỗ trợ truyền thông tin hai chiều
và cho phép người dùng ở kết cuối cá nhân hóa nh
ững thói quen xem TV của họ bằng
cách cho phép họ quyết định những gì họ muốn xem và khi nào họ muốn xem.
- Yêu cầu về băng thông thấp: Thay vì phân phối trên mọi kênh để tới mọi người dùng, công
nghệ IPTV cho phép nhà cung cấp dịch vụ chỉ truyền trên một kênh mà người dùng yêu
cầu. Đặc điểm hấp dẫn này cho phép nhà điều hành mạng có thể tiết kiệm băng thông của
mạng.
- Có th
ể truy xuất qua nhiều thiết bị: Việc xem nội dung IPTV bây giờ không chỉ giới hạn ở
việc sử dụng TV. Người dùng có thể sử dụng máy PC hay thiết bị di động để truy xuất vào
các dịch vụ IPTV.
Công nghệ mạng - IPTV



6
V. Sự khác biệt giữa IPTV và truyền hình Internet:
Do đều được truyền trên mạng dựa trên giao thức IP, người ta đôi lúc hay nhầm IPTV là
truyền hình Internet. Tuy nhiên, 2 dịch vụ này có nhiều điểm khác nhau:
1. Các nền khác nhau:

Truyền hình Internet sử dụng mạng Internet công cộng để phân phát các nội dung video
tới người sử dụng cuối.
IPTV sử dụng mạng riêng bảo mật để truyền các nội dung video đến khách hàng. Các
mạng riêng này thường được tổ chức và vận hành bởi nhà cung cấp dịch vụ IPTV.
2. Về mặt địa lí

Các mạng do nhà cung cấp dịch vụ viễn thông sở hữu và điều khiển không cho phép
người sử dụng Internet truy cập. Các mạng này chỉ giới hạn trong các khu vực địa lí cố định.
Trong khi, mạng Internet không có giới hạn về mặt địa lí, người dùng Interet nào cũng có
thể xem truyền hình Internet ở bất kì đâu trên thế giới.
3. Quyền sở hữu hạ tầng mạng

Khi nội dung video được gửi qua mạng Internet công cộng, các gói sử dụng giao thức
Internet mạng nội dung video có thể bị trễ hoặc mất khi nó di chuyển trong các mạng khác nhau
tạo nên mạng Internet công cộng. Do đó, nhà cung cấp các dịch vụ truyền nhình ảnh qua mạng
Internet không đảm bảo chất lượng truyền hình như với truyền hình mặt đất, truyền hình cáp hay
truyền hình vệ tinh. Thực tế là các nội dung video truyền qua mạng Internet khi hiển thị trên màn
hình TV có th
ể bị giật và chất lượng hình ảnh thấp.
Trong khi, IPTV chỉ được phân phối qua một hạ tầng mạng của nhà cung cấp dịch vụ. Do
đó người vận hành mạng có thể điều chỉnh để có thể cung cấp hình ảnh với chất lượng cao.
4. Cơ chế truy cập


Một set-top box số thường được sử dụng để truy cập và giải mã nôi j dung viedeo được
phân phát qua hệ thống IPTV , trong khi PC thương được sử dụng để truy cập các dịch vụ
Internet. Các loại phần mềm được sử dụng trong PC thường phụ thuộc vào loại nội dung truyền
hình Internet. Ví dụ như, để download các chương trình TV từ trên mạng Internet, đôi khi cần
Công nghệ mạng - IPTV


7
phải cài đặt các phần mềm media cần thiết để xem được nội dung đó. Hay hệ thống quản lí bản
quyền cũng cần để hỗ trợ cơ chế truy cập.
5. Giá thành

Phần trăm nội dung chương trình được phân phát qua mạng Internet công cộng tự do
thay đổi. Điều này khiến các công ty truyền thông đưa ra các loại dịch vụ dựa trên mức giá thành.
Giá thành các loại dịch vụ IPTV cũng gần giống với mức phí hàng tháng của truyền hình truyền
thống. Các nhà phân tích mong rằng truyền hình Internet và IPTV có thể hợp lại thành 1 loại hình
dịch vụ giải trí.

VI. Tình hình phát triển dịch vụ IPTV:
1. Tình hình phát triển dịch vụ IPTV trong khu v
ực:
Cuối thập kỷ trước, cùng sự phát triển của các dịch vụ truyền hình vệ tinh, sự tăng
trưởng của dịch vụ truyền hình cáp số, và đặc biệt là sự ra đời của HDTV đã để lại dấu ấn đối
với lĩnh vực truyền hình. Tuy nhiên, hiện nay trên thế giới đã xuất hiện một phương thức cung
cấp dịch vụ mới còn mạnh h
ơn với đe dọa sẽ làm lung lay mọi thứ đã có. Internet Protocol
Television (IPTV) đã ra đời, dựa trên sự hậu thuẫn của ngành viễn thông, đặc biệt là mạng
băng rộng, IPTV dễ dàng cung cấp nhiều hoạt động tương tác hơn, tạo nên sự cạnh tranh
mạnh mẽ hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ truyền hình. Hãng In-Stat, một hãng

nghiên cứu thị trường công nghệ cao có uy tín, gần đây đã dự báo rằng thị
trường các dịch vụ
IP video tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương sẽ tăng trưởng tới gần 80% mỗi năm từ nay
đến năm 2010 và sẽ tạo ra một thị trường 4,2 tỷ USD. Hãng này cũng dự đoán châu Á sẽ
chiếm tới một nửa trong tổng số thuê bao TV của các công ty điện thoại trên toàn thế giới vào
năm 2009 với tổng số thuê bao tối thiểu 32 triệu.
Các số liệu này cho thấy trong nh
ững năm còn lại của thập kỷ này, IPTV sẽ trở thành
một dịch vụ có thị trường rộng lớn trên toàn cầu với châu Á tiếp tục dẫn đầu trong việc thu hút
khách hàng. Các con số này cũng cho thấy đây là một thị trường năng động với rất nhiều cơ
hội cho các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình có mô hình kinh doanh, hình thức cung cấp dịch
vụ và công nghệ hợp lý.
Công nghệ mạng - IPTV


8
Informa Telecoms & Media dự báo IPTV sẽ được sử dụng bởi trên 35% các hộ gia
đình sử dụng dịch vụ truyền hình số ở Hồng Kông vào năm 2010, con số này sẽ gần tương
đương với số hộ gia đình dùng dịch vụ truyền hình cáp (khoảng 37%). Công ty này cũng dự
báo sẽ có đến 13% các hộ sử dụng dịch vụ truyền hình số ở Singapore sẽ nhận tín hiệu
truyền hình số thông qua đường dây DSL của h
ọ, điều này làm cho IPTV trở thành một nền
tảng truy nhập số phổ biến hơn rất nhiều so với truyền hình số mặt đất (DDT). Informa cũng
dự báo rằng DSL sẽ chiếm tới 9,2% các hộ gia đình sử dụng truyền hình số ở Úc, 6,2% ở
New Zealand, 5,8% ở Đài Loan, 5,7% ở Nhật Bản và 4,2% ở Hàn Quốc. Truyền hình cáp vẫn
sẽ thống trị đến năm 2010, nhưng sau đ
ó IPTV sẽ thực sự là đối thủ cạnh tranh với truyền
hình số mặt đất và vệ tinh đối với người xem truyền hình châu Á.
Sự phát triển của IPTV chắc chắn sẽ nhanh hơn, nhưng với sự số hóa của truyền
hình cáp và vệ tinh, các nhà cung cấp sẽ phải cạnh tranh để giành được khách hàng mới. Tùy

thuộc vào thị trường cụ thể, các nhà khai thác dịch vụ IPTV sẽ phải bổ sung vào dịch v

truyền hình quảng bá nhiều kênh với việc mở rộng cung cấp các dịch vụ như VoD, Replay-TV
(network DVR), In-home DVR, Multi-room Service, v.v... PCCW ở Hồng Kông, nhà cung cấp
dịch vụ IPTV lớn nhất thế giới với trên 500.000 thuê bao, đã đưa HDTV và VoD vào cung cấp
trên mạng DSL của mình. SOFTBANK của Nhật Bản cũng đã nhắm đến xây dựng nội dung
lên đến 5.000 giờ cho các phim truyện Nhật Bản và Holywood trên dịch vụ DSL/FTTH Video-
On-Demand.
2. Tình hình phát triển dịch vụ IPTV tạ
i Việt Nam:
Tại Việt Nam, hiện có nhiều nhà khai thác dịch vụ viễn thông lớn đang cạnh tranh
nhau nhằm cung cấp cho khách hàng các dịch vụ băng rộng với chất lượng cao và giá rẻ. Họ
cũng đã nhận ra xu hướng phát triển của truyền hình trực tuyến và video theo yêu cầu, và
đang có những bước đi mạnh mẽ. Một số Website cung cấp thử nghiệm các chuơng trình
truyền hình trực tuyến của VietNamNet, Công ty VTC, Đài truy
ền hình thành phố Hồ Chí Minh
đã ghi nhận số lượng truy cập rất lớn, cho thấy sức hấp dẫn của dịch vụ này đối với công
chúng.
Công nghệ mạng - IPTV


9
Tuy nhiên, cho đến nay tại Việt Nam mới chỉ có FPT Telecom là doanh nghiệp viễn
thông đầu tiên chính thức khai thác và cung cấp dịch vụ IPTV trên hệ thống mạng băng rộng
ADSL/ADSL2+ từ ngày 03/03/2006 sau một năm thử nghiệm và hiện tại đã có 500 khách
hàng thử nghiệm đầu tiên. FPT Telecom đã mua các thiết bị nhận sóng từ vệ tinh để truyền
trên mạng và cũng đã ký kết bản quyền từ VTV và HTV để phát sóng 40 kênh truyền hình trên
Internet để phục vụ
cho các khách hàng của FPT.
Hiện FPT đang tìm kiếm các phương thức hợp tác tương tự như với VTC để có thêm

một số kênh phim truyện của đài này. Với một thuê bao ADSL 2+ của FPT, khách hàng có thể
xem một lúc 3 kênh truyền hình đồng thời. Hiện FPT đang có gần 100.000 thuê bao ADSL,
FPT sẽ cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng IPTV cho các khách hàng này. Ngoài FPT, các doanh
nghiệp khác như VNPT, Viettel cũng đang chuẩn bị cho quá trình triển khai dịch vụ IPTV trên
mạng băng rộng.

3. Kh
ả năng triển khai dịch vụ IPTV tại Việt Nam:
a. Khả năng nhu cầu của thị trường:

Để đánh giá nhu cầu của thị trường (khách hàng) đối với dịch vụ IPTV, nhà cung cấp
nội dung VASC đã tổ chức một cuộc thăm dò nhu cầu tại 04 thành phố Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng. Mục tiêu của cuộc thăm dò nhằm nghiên cứu thị trường trên
các mặt: tìm hiểu thói quen giải trí các loại của công chúng; tìm hiểu mức độ chấp nhận của
công chúng đối với d
ịch vụ truyền hình trực tuyến video theo yêu cầu và các các dịch vụ giá
trị gia tăng của IPTV: ý tưởng, giá cả; dự báo nhu cầu sử dụng dịch vụ IPTV; phân tích dữ
liệu thu được nhằm đề xuất các định hướng kinh doanh cho dịch vụ.
Đối tượng nghiên cứu: Tập trung khảo sát các đối tượng là các cá nhân trong độ tuổi
18 - 50 có quan tâm đến dịch vụ giải trí truyền hình và biết sử dụng internet trên cả nước,
riêng đố
i tượng được phỏng vấn trực tiếp chỉ giới hạn ở 4 địa bàn tiêu biểu là Hà Nội, thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng. Số lượng khảo sát trực tiếp được phân bổ ở từng
địa bàn như sau: thành phố Hà Nội 301 mẫu; thành phố Hồ Chí Minh 301 mẫu; thành phố Đà
Nẵng 209 mẫu; thành phố Hải Phòng 200 mẫu
Công nghệ mạng - IPTV


10
Kết quả thăm dò nhu cầu thị trường: Xã hội càng phát triển, nhu cầu giải trí của người

dân càng cao. Hầu hết các gia đình đều đã có TV và đầu đĩa DVD, VCD, CD. Thói quen xem
TV/phim, nghe nhạc tại nhà chiếm phần lớn thời gian giải trí. Tại 4 thành phố được khảo sát,
gần 1/3 người dân có nhu cầu truy cập Internet và khoảng 1/8 dân chúng có thói quen xem
phim tại rạp và chơi video game. Một nửa đối tượng khảo sát có đăng ký sử dụng truyền hình
cáp/kỹ
thuật số cho thấy người dân rất hứng thú với các loại hình dịch vụ giải trí truyền hình,
đặc biệt là hình thức dịch vụ Tivi có trả tiền. Thị phần của các nhà cung cấp dịch vụ là khác
nhau, nhưng xét một cách tổng thể thì các nhà cung cấp dịch vụ TH cáp/KTS đã đáp ứng
được hơn 70% nhu cầu giải trí truyền hình của khách hàng. Gần một nửa khách hàng hài
lòng với nhà cung cấp dịch vụ nhờ s
ự đa dạng về các kênh và chương trình truyền hình, 1/4
còn lại hài lòng về chất lượng nội dung chương trình. Trong khi đó có khoảng 1/3 khách hàng
mong đợi có thêm nhiều kênh truyền hình, thuyết minh và phụ đề tiếng Việt. Chi phí cho dịch
vụ giải trí truyền hình hiện tại vào khoảng 46.000 đồng. Mức chi thấp nhất là TP. Đà Nẵng gần
26.500đ, và cao nhất là Hải Phòng, 69.000đ. Cảm nhận về dịch vụ IPTV: Ý tưởng cung cấp
dịch v
ụ truyền hình qua Internet (IPTV), video theo yêu cầu (VoD) và các dịch vụ cộng thêm
của IPTV (như: truy cập Internet và email trên Tivi, điện thoại hiển thị hình ảnh và điện thoại
VoIP, chức năng ghi chương trình, chơi game) được đông đảo khách hàng quan tâm. Tại Đà
Nẵng, 90% người được hỏi đều thú vị với dịch vụ này. Kế đến là TP.HCM và Hải Phòng với
81% và 80%, cuối cùng là Hà Nội với chỉ hơn 54%.
Dự báo nhu cầu sử d
ụng dịch vụ IPTV: Khả năng đăng ký sử dụng dịch vụ IPTV tại
Hải Phòng không cao, chưa tới 1/4 khách hàng nghĩ sẽ đăng ký sử dụng dịch vụ này trong
vòng 1 năm tới. Hà Nội có khoảng 43%, Đà Nẵng gần 50% và thành phố Hồ Chí Minh cao
nhất với 55% (trong đó 34% mong muốn đăng ký trong vòng 6 tháng tới). Nếu căn cứ trên
thói quen giải trí tại gia đình của đại đa số người dân thì nhu cầu sử
dụng dịch vụ IPTV là rất
cao, và việc phát triển nội dung cho các dịch vụ IPTV có thể bắt đầu triển khai ngay từ thời
điểm này, càng sớm càng tốt. Như vậy, xét trên góc độ nhu cầu thị trường, đa số khách hàng

có nhu cầu sử dụng loại hình dịch vụ IPTV và sẵn sàng trả thêm mức phí dịch vụ để có được
khả năng giải trí thuận tiện, chất lượng.
Công nghệ mạng - IPTV


11
b. Khả năng đáp ứng nhu cầu dịch vụ IPTV của mạng viễn thông Việt Nam:
Với mạng băng hẹp truyền thống, chỉ một số dịch vụ đơn giản của IPTV là có thể thực
hiện được. Còn để có thể triển khai thành công dịch vụ IPTV thì mạng băng rộng đóng vai trò
tiên quyết, bởi vì chỉ với mạng băng rộng mới có thể bảo đảm cung cấp đầy đủ băng thông
theo yêu cầu cho các dịch vụ IPTV (như truyền hình, Video, Games, v.v...).
Cho đế
n nay, thị trường băng rộng tại Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển bùng
nổ nhu cầu và còn rất nhiều tiềm năng. Số lượng thuê bao băng rộng của Việt Nam đã đạt
xấp xỉ 200.000 với sự tham gia của các nhà cung cấp dịch vụ VNPT, FPT Telecom, Viettel,
SPT, ... Dự kiến đến cuối năm 2006, số lượng thuê bao băng rộng của Việt Nam sẽ đạt
khoảng 300.000 và đến 2008 số l
ượng này sẽ phát triển lên tới 800.000 ¸ 1.000.000 thuê bao.
Đồng thời với việc triển khai các công nghệ hữu tuyến xDSL/PON và công nghệ vô tuyến
băng rộng (WiFi/WiMAX, CDMA, ...) của các nhà cung cấp dịch vụ ở Việt Nam, thì IPTV lại
càng có cơ hội phát triển mạnh mẽ và bảo đảm cho sự thành công của loại hình dịch vụ mới
này.
Việc chuyển đổi cấu trúc mạng lưới từ chuyển mạch kênh truyền thống theo thời gian
sang m
ạng NGN với công nghệ chuyển mạch gói là một sự chuyển đổi mạnh mẽ về công
nghệ, phù hợp với xu thế phát triển chung của các nước phát triển trên thế giới. Do vậy, các
nhà cung cấp dịch vụ của Việt Nam đã chọn NGN làm bước phát triển tiếp theo trong việc tìm
kiếm các giải pháp phát triển mạng. Mạng NGN sẽ cho phép triển khai các dịch vụ đa dạng
với giá thành thấp, giảm thiể
u thời gian đưa dịch vụ mới ra thị trường, giảm chi phí khai thác

mạng và dịch vụ, đồng thời nâng cao hiệu quả đầu tư và tạo nguồn doanh thu mới ngoài
doanh thu từ các dịch vụ truyền thống. NGN cho phép tăng cường khả năng kiểm soát, bảo
mật thông tin và tin cậy trong khi giảm thiểu được chi phí vận hành. NGN được xây dựng trên
tiêu chí mở, các giao thức chuẩn và giao diện thân thiện. NGN thống nhất mạng hữu tuy
ến
truyền thống và chuẩn truyền tải âm thanh, hình ảnh, dữ liệu không dây.



Công nghệ mạng - IPTV


12
VII. Cấu trúc IPTV:
1. Cơ sở hạ tầng IPTV:


Hình 1.1 Sơ đồ khối đơn giản của một hệ thống IPTV
a. Trung tâm dữ liệu IPTV:

Cũng được biết đến là “đầu cuối_headend”. Trung tâm dữ liệu IPTV nhân nội dung
từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm truyền hình địa phương, các nhà tập hợp nội dung, nhà
sàn xuất, qua đường cáp, trạm số mặt đất hay vệ tinh. Ngay khi nhận được nội dung, một số
các thành phần phần cứng khác nhau từ thiết bị mã hóa và các máy chủ video tới bộ định
tuyến IP và thiết bị bảo mật giành riêng được sử
dụng để chuẩn bị nội dung video cho việc
phân phối qua mạng dựa trên IP. Thêm vào đó, hệ thống quản lý thuê bao được yêu cầu để
quản lý và hồ sơ và phí thuê bao của những người sử dụng. Chú ý rằng, địa điểm thực của
trung tâm dữ liệu IPTV được yêu cầu bởi hạ tầng cơ sở mạng được sử dụng bởi nhà cung
cấp dịch vụ.

b. Mạ
ng truyền dẫn băng thông rộng:
Việc truyền dẫn dịch vụ IPTV yêu cầu kết nối điểm – điểm. Trong trường hợp triển
khai IPTV trên diện rộng, số lượng các kết nối điểm – điểm tăng đáng kể và yêu cầu độ rộng
băng thông của cơ sở hạ tầng khá rộng. Sự tiến bộ trong công nghệ mạng trong những năm
qua cho phép những nhà cung cấp viễn thông th
ỏa mãn một lượng lớn yêu cầu độ rộng
băng thông mạng. Hạ tầng truyền hình cáp dựa trên cáp đồng trục lai cáp quang và các
mạng viễn thông dựa trên cáp quang rất phù hợp để truyền tải nội dung IPTV.
c. Thiết bị người dùng IPTV:

Thiết bị người dùng IPTV (IPTVCD) là thành phần quan trọng trong việc cho phép
mọi người có thể truy xuất vào các dịch vụ IPTV. Thiết bị này kết nối vào mạng băng rộng và
có nhiệm vụ giải mã và xử lý dữ liệu video dựa trên IP gửi đến. Thiết bị người dùng hỗ trợ
công nghệ tiên tiến để có thể tối thiểu hóa hay loại bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của lỗi, sự cố
mạ
ng khi đang xử lý nội dung IPTV.
d. Mạng gia đình:

Công nghệ mạng - IPTV


13
Mạng gia đình kết nối với một số thiết bị kĩ thuật số bên trong một diện tích nhỏ. Nó
cải tiến việc truyền thông và cho phép chia sẻ tài nguyên (các thiết bị) kĩ thuật số đắt tiền
giữa các thành viên trong gia đình. Mục đích của mạng gia đình là để cung cấp việc truy cập
thông tin, như là tiếng nói, âm thanh, dữ liệu, giải trí, giữa những thiết bị khác nhau trong
nhà. Với m
ạng gia đình, người dùng có thể tiết kiệm tiền và thời gian bởi vì các thiết bị ngoại
vi như là máy in và máy scan, cũng như kết nối Internet băng rộng, có thể được chia sẻ một

cách dễ dàng.
2. Phương thức phát truyền tín hiệu của IPTV

a. Tổng quan :

Nói một cách giản đơn, trong hệ thống IPTV hình ảnh video do các phần cứng thu
thập theo thời gian thực (real time), thông qua phương thức mã hóa (như MPEG 2/4...) tạo
thành các luồng tín hiệu số. Sau đó, thông qua hệ thống phần mềm, IPTV phát truyền vào
mạng cáp. Đầu cuối của các user tiếp nhận, lựa chọn, giải mã và khuếch đại.
b. Phân loại :

Trong hệ thống IPTV có 2 phương thức truyền đa tín hiệu đã được dự định trước
(scheduled programs). Đó là:
• Phát quảng bá (broadcasting), truyền phát tới mọi nơi
• Phát đến địa điểm theo yêu cầu (on demand).
c. Nguyên lý hoạt động:

• Nguyên lý hoạt động của hệ thống quảng bá :
Các chương trình được vẽ trên hình 1. Trong đó MBone (mạng xương sống của hệ
thống đa điểm) chính là đường trục Internet. Tuy nhiên người sử dụng chỉ theo lệnh của bộ
quản lý nội dung (content manager) để được giới thiệu nội dung chương trình hữu quan.
Chương trình cụ thể do rất nhiều bộ IPTV server thu thập được hoặc cùng do các server củ
a
mạng MBone cung cấp

Hình 1
• Nguyên lý hoạt động của hệ thống phục vụ theo yêu cầu (VOD)


Công nghệ mạng - IPTV



14

Hình 2.

Hình 2 minh họa sự hoạt động của hệ thống IPTV phục vụ theo yêu cầu (VOD) được
gọi là IPTV đơn điểm. Trong đó các server của bộ quản lý nội dung được tổ chức thành cụm
server (server cluster) tổng hợp kho dữ liệu (database) của các chương trình.
Cách bố trí cụm server để phục vụ được các user được hiệu quả sẽ được nói rõ trên
sơ đồ tổng thể ở d
ưới đây. Các bước thực hiện VOD như sau:
 Một thuê bao được chứng nhận nhập mạng và chịu sự quản lý của bộ quản
lý EPG
 Thuê bao muốn yêu cầu một nội dung nào đó. Thuê bao gửi yêu cầu đến
EGP
 EGP cho biết địa chỉ của server cần tìm
 Thuê bao gửi yêu cầu tới server đó
 Server dựa theo yêu cầu của thuê bao mà cung cấp nội dung.

3. Mạng t
ổng thể IPTV
Sơ đồ khối biểu thị các chức năng của nghiệp vụ IPTV như hình 3. Từ nguồn nội
dung tới đầu cuối người dùng có hể chia làm: nghiệp vụ cung cấp và giới thiệu các nội dung,
nghiệp vụ chuyển tải, nghiệp vụ tiếp nối đầu cuối và nghiệp vụ quản trị.
a. Mạng nội dung :

Mạng này cung cấp và giới thiệu nội dung gồm xử lý nội dung truyền hình trực
tiếp/truyền hình VOD (theo điểm) và xử lý, giới thiệu các ứng dụng gia tăng (phục vụ tin tức,
điện thoại có hình, email, nhắn tin...). Nguồn nội dung truyền hình trực tiếp/truyền hình VOD

không qua hệ thống xử lý nội dung được mã hóa để phù hợp với luồng media theo yêu cầu
qua mạng chuyển tải đưa các luồng này cung c
ấp tới các người dùng đầu cuối.
b. Mạng truyền tải:

Đây là mạng cáp IP. Đối với luồng media có hình thức nghiệp vụ không giống nhau
có thể dùng phương thức chuyển đa hướng (multicast) cũng có thể chuyển theo phương
Công nghệ mạng - IPTV


15
thức đơn kênh. Thông thường, truyền hình quảng bá BTV truyền đa hướng tới user đầu
cuối, truyền hình theo yêu cầu VOD thông qua mạng cáp phân phát nội dung CDN
(Content Distribution Network) tới địa điểm người dùng đầu cuối.
c. Mạng đầu cuối (còn gọi là mạng cáp gia đình):

Theo các nhà khai thác viễn thông, thì mạng này là mạng tiếp nối băng rộng xDSL,
FTTx+LAN hoặc WLAN.
d. Bộ quản trị :

Bộ quản trị bao gồm quản lý nội dung, quản lý cáp truyền, tính cước phí, quản lý các
thuê bao, quản lý các hộp ghép nối STB.
Ta thấy trong mạng IPTV có 3 dạng luồng tín hiệu: luồng quảng bá BTV, luồng
truyền đến địa điểm theo yêu cầu VOD và luồng nghiệp vụ giá trị gia tăng. Như biểu diễn trên
hình 3. Ta xét các phương thức truyền tín hiệu thị tần. Có 3 phương thức truyền trực tiếp
hiện tr
ường, truyền quảng bá có định thời gian và truyền tới điểm VOD. Khi truyền hình trực
tiếp đồng thời ta lấy nội dung này lưu vào bộ nhớ để phát lại vào truyền hình quảng bá định
thời gian hoặc làm nguồn các tiết mục cho truyền hình VOD. Đối với tiết mục quảng bá có
định thời IPTV dùng phương pháp truyền phát đa điểm IP có tiết kiệm băng tần tức là

phương thức multicast. Ph
ương thức này thực hiện "nhất phát, đa thu". Dùng phương thức
này, mỗi tiết mục mạng cáp chỉ phát một luồng số liệu thời gian thực (real time) không liên
quan tới số người xem tiết mục này. Phương thức này có thể truyền phát cho hàng nghìn
thuê bao.

Hình 3
Công nghệ mạng - IPTV


16
• IPTV cung cấp đồng thời hình ảnh (video) và âm thanh (audio) trên
mạng cáp. Để đảm bảo chất lượng của 2 loại tín hiệu trên IPTV dùng phương pháp
đồng bộ A/V thông qua một server duy nhất thu thập các dữ liệu tại hiện trường, văn
bản sử dụng theo khuyến nghị truyền dẫn thời gian thực RTP. IPTV dùng kỹ thuật nén
thị tần có hiệu suất cao nên băng tần truyền dẫn tại 800kbit/s có thể tiếp cậ
n với băng
tần thu DVD nên tạo điều kiện cho các nhà khai thác dễ dàng phát triển các dịch vụ
video. Mạng chuyển tải CDN gồm nhiều server cache phân bố tại các khu vực tập trung
thuê bao, Khi có yêu cầu của thuê bao, cache server chuyển lên VOD server trong
mạng nguồn cung cấp, tìm nội dung phù hợp và chuyển tải cho thuê bao sự hoạt động
của các server trong mạng chuyển tải dựa trên kỹ thuật cân bằng phụ tải toàn cục
(GSLB). Trong quá trình truyền đưa multimedia IPTV có thể dùng khóa m
ật mã đảm bảo
độ an toàn của nội dung truyền dẫn.
• IPTV áp dụng các khuyến nghị quốc tế về tiêu chuẩn, như khuyến nghị
về truyền dẫn thời gian thực (RTP), khuyến nghị về khống chế thời gian thực (RTCP)...
• IPTV cũng cùng làm việc với máy tính dùng hệ điều hành UNIX,
VIC/VAT, Apple và Quick Time.
• Hiện nay cách thức mã hóa video của luồng chủ của IPTV theo MPEG-

2, MPEG-4, H.264/AVC; Real Microsoft UWMV-9. Trong đó, MPEG-2 và MPEG-4 được
phát tri
ển mạnh. H.264 là luật mã hóa thị tần của ITU-T đề xuất thích hợp cho các hệ
thống công cộng. Do đó H.264 có khả năng thành cách mã hóa chính của IPTV.
• Như đã nêu ở trên, nghiệp vụ IPTV chính là phục vụ cho các hộ gia
đình. Phương thức tiếp nhập băng rộng tới gia đình thường dùng phương pháp truy
nhập ADSL, nhưng vì IPTV thiết lập tới user nghiệp vụ multimedia thời gian thực và
tương tác nên ADSL không thỏa mãn các yêu cầu củ
a IPTV. Cáp quang truyền dẫn tới
tận nhà FTTH được công nhận là phương thức chuyển tải tối ưu. Cáp quang có băng
tần rất rộng và có khả năng truyền dẫn hai hướng đối xứng đảm bảo được yêu cầu
truyền hình ảnh động theo hai hướng với chất lượng cao.
• Thiết bị đầu cuối IPTV trong gia đình có 2 loại: một là máy vi tính PC, hai
là máy TV + hộp kết nối STB.
• Hộp STB th
ực hiện 3 chức năng sau:
 Nối tiếp vào mạng băng tần rộng, thu phát và xử lý số liệu IP và luồng video.
 Tiến hành giải mã luồng video MPEG-2, MPEG-4, WMV, Real... đảm bảo
video VOD hiển thị lên màn hình ti vi các số liệu...
 Phối hợp với bàn phím đảm bảo HTML du lịch trên mạng, tiến hành gửi nhận
email. Hộp STB đảm nhiệm các nhiệm vụ trên chủ yếu dựa vào bộ vi xử lý.
Để kết lu
ận ta thấy IPTV ứng dụng kỹ thuật streaming media, thông qua mạng băng
rộng truyền dẫn tín hiệu truyền hình digital đến các thuê bao. Các thuê bao chỉ cần có thiết bị
đầu cuối là máy tính PC hoặc TV+STB là có thể thưởng thức được các chương trình truyền
hình phong phú. Hoạt động của IPTV là hoạt động tương tác trên mạng không chỉ có các
chương trình truyền hình quảng bá mà còn thực hiện truyền hình đến địa điểm theo yêu cầu
(VOD). IPTV còn có các dịch vụ tươ
ng tác khác như truyền thoại có hình, email, du lịch trên
mạng, học tập từ xa...

IPTV cùng các hoạt động thông tin trên băng tần rộng đã kết hợp được 3 mạng (máy
tính + viễn thông + truyền hình) biểu thị xu thế phát triển của mạng truyền thông tương lai.
Các nhà kinh doanh dịch vụ viễn thông băng rộng không chỉ ở các nước tiên tiến như Mỹ,
Nhật... mà ở các nước trong khu vực như Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông... đ
ang phát
triển mạnh dịch vụ IPTV.




Công nghệ mạng - IPTV


17
4. Tổng quan về mô hình truyền thông IPTV (IPTVCD)
Mô hình truyền thông trong IPTV có 7 lớp(và một lớp tùy chọn) được xếp chồng lên nhau.
Các dữ liệu video ở phía thiết bị gửi được truyền từ lớp cao xuống lớp thấp trong mô hình
IPTV, và được truyền đi trong mạng băng rộng bằng các giao thức của lớp vật lí. Ở thiết bị nhận, dữ
liệu nhận được chuyển từ lớp thấp nhất đến lớp trên cùng trong mô hình IPTV.

Hình3.1: mô hình truy
ền thông IPTV
Do đó, nếu 1 bộ mã hóa gửi chương trình video đến 1 thiết bị IPTV của khách hàng, thì
phải chuyển qua các lớp trong mô hình IPTV ở cả phía thiết bị nhận và thiết bị gửi. Mỗi lớp trong
mô hình IPTV độc lập với nhau và có chức năng riêng. Khi chức năng này được thực hiện , dữ
liêu j video được chuyển đến lớp tiếp theo trong mô hình IPTV. Mỗi lớp sẽ thêm vào hoặc bỏ đi
phần thông tin điều khi
ển của các gói video trong quad trình xử lí. Thông tin điều khiển chứa các
thông tin giúp thiết bị có thể sử dụng gói dữ liệu đúng chức năng của nó, và thường được định
dạng như các header hoặc trailer. Bên cạnh việc truyền thông giữa các lớp, còn có các liên kết ảo

giữa các tầng cùng mức. 7 lớp và 1 lớp bổ sung trong mô hình IPTV có thể được chia làm 2 loại:
các lớp cao và lớp thấp. các tầng cao hơn thì quan tâm nhiều hơn tới các ứ
ng dụng của IPTV và
các định dạng file, trong khi các tầng thấp hơn thì quan tâm tới việc truyền tải các nội dung.









×