Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Ai de bi ung thu tuy tang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.67 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Ai dễ bị ung thư tuỵ tạng?</b>


SGTT.VN - Trong các loại bệnh ung thư thì ung thư tuỵ tạng dù tương đối ít phổ
biến nhưng có tỷ lệ tử vong rất cao và liên quan nhiều đến thói quen hút thuốc lá.
Nói chung, ung thư tuỵ tạng hay những bệnh liên quan đến tuỵ tạng đều rất nguy
hiểm và bệnh nhân phải chịu đau đớn vô cùng.


Ung thư tuỵ tạng hiếm khi gặp ở tuổi dưới
45, nhưng xuất độ sẽ tăng sau độ tuổi đó,
đỉnh điểm ở tuổi 70. Các số liệu ghi nhận
của Mỹ cho biết, xuất độ chuẩn/tuổi ở nam
giới cao hơn nữ giới 30%; và 50% cao hơn
ở người da đen.


Những yếu tố nguy cơ


Khoảng 5 – 10% ung thư tuỵ tạng liên
quan đến yếu tố gia đình hay di truyền. Độ
tuổi mắc bệnh sớm hơn ở những trường hợp khơng có tính di truyền. Hút thuốc lá
làm thúc đẩy bệnh tiến triển nhanh, người hút thuốc có nguy cơ mắc ung thư tuỵ
tạng cao hơn 1,5 lần. Béo phì và tình trạng thiếu vận động cũng liên quan đến ung
thư tuỵ tạng: người có chỉ số BMI ≥ 30 dễ mắc bệnh hơn người có chỉ số BMI ≤
23.


Chế độ ăn nhiều thịt, mỡ, thịt xơng khói theo kiểu phương Tây cũng làm tăng nguy
cơ ung thư này. Người thường ăn trái cây tươi, rau tươi thì ít thấy bị ung thư tuỵ
tạng. Ngồi ra, lượng lycopen (carotenoid có trong trái cây) và selenium trong
huyết thanh thấp cũng dễ gây ung thư tuỵ tạng.


Yếu tố nguy cơ còn gặp ở những người có bệnh viêm tuỵ mạn tính, người bị nhiễm
vi khuẩn Helicobacter pylori, những người có tiền sử cắt dạ dày hay cắt túi mật…


Triệu chứng thường gặp


Đau: thường gặp nhất, do khối bướu xâm lấn trực tiếp vào các mạng thần kinh của
mạc treo ruột. Đau ở vùng bụng trên, đau như dao đâm, hướng đau vắt ngang lưng.
Đau từng cơn, kèm cảm giác ăn mất ngon. Khoảng 80 – 85% bệnh nhân có triệu
chứng đau được chẩn đốn ở giai đoạn trễ.


Sụt cân: do chán ăn, tiêu chảy, vã mồ hôi đầu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Các triệu chứng biểu hiện đầu tiên cịn tuỳ thuộc vị trí khối bướu. Bướu xuất hiện
ở thân và đuôi tuỵ thường gây triệu chứng đau và sụt cân, trong khi bướu ở đầu tuỵ
thường tạo triệu chứng vã mồ hôi đầu, sụt cân và vàng da. Khám lâm sàng, sờ thấy
khối bướu hay tình trạng bụng báng, sờ chạm túi mật dưới bờ sườn phải, hoặc hạch
trên đòn trái.


Làm sao phát hiện?


Khi bệnh nhân đến khám đã bị vàng da, siêu âm bụng là phương tiện hình ảnh đầu
tiên thường được sử dụng. Những hình ảnh như giãn đường mật, khối bướu vùng
đầu tuỵ sẽ gợi ý cho chẩn đoán.


Kỹ thuật chụp cắt lớp CT với độ nhạy và độ chuyên biệt cao có thể phát hiện bệnh
ngay khi bệnh nhân chưa có triệu chứng vàng da, hình ảnh qua chụp cắt lớp cho
biết sự lan rộng tại chỗ hoặc di căn như hạch bạch huyết, di căn gan... Các bác sĩ
còn thực hiện kỹ thuật chụp đường mật tuỵ ngược dòng qua nội soi – ERCP, nội
soi dạ dày và qua đó dùng chất cản quang bơm vào đường mật, chụp X-quang để
khảo sát.


Những kỹ thuật khác cũng hiệu quả trong việc cho hình ảnh để chẩn đốn là siêu
âm qua nội soi – EUS (có độ chính xác cao); chụp cộng hưởng từ – MRI; chụp cắt


lớp bởi bức xạ pôsitrôn; xét nghiệm “chất đánh dấu bướu” trong huyết thanh CA19
– 9 (có giá trị trong việc theo dõi sau mổ và tiên lượng bệnh)…


Phẫu thuật sớm, sống lâu hơn


Ung thư tuỵ là bệnh lý ác tính khó phát hiện sớm, tiên lượng sống năm năm rất
thấp. Tại Mỹ, phẫu thuật có thể trị khỏi ung thư này, nhưng khơng may là bệnh
thường được chẩn đốn vào giai đoạn trễ, chỉ 15 – 20% bệnh nhân còn mổ được
với tiên lượng rất xấu. Sống còn năm năm khoảng 25 – 30% khi hạch chưa bị di
căn, và chỉ cịn 10% khi đã có di căn hạch.


Hiện cách điều trị gồm các phối hợp đa mơ thức: phẫu trị – hố trị – xạ trị. Trong
đó, phẫu thuật được chỉ định khi bệnh còn khu trú tại chỗ và ở giai đoạn sớm. Khi
bệnh đã tiến xa hoặc di căn (di căn gan, lan tràn trong ổ bụng, bụng có dịch báng,
đã có hạch trên địn trái), là chống chỉ định mổ. Phẫu thuật thường được thực hiện
gồm cắt khối tá tuỵ tiêu chuẩn (phẫu thuật Whipple), phẫu thuật có tính rộng lớn
như phải cắt bỏ phần đầu tuỵ và khối bướu, cắt bỏ túi mật, cắt bỏ phần dưới của dạ
dày và toàn bộ khung tá tràng, sau đó tái lập sự lưu thơng của đường mật và dịch
tuỵ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nhân suy sụp kèm theo vàng da vàng mắt (do bị tắc mật bởi khối bướu ở đầu tuỵ).
Bệnh nhân được các bác sĩ thực hiện nội soi dạ dày và qua đó sẽ đặt một ống thông
(stent) vào trong đường mật, hoặc được phẫu thuật nối thông mật – ruột, hoặc mở
túi mật ra da nhằm giảm ứ mật trong gan.


Hoá trị hỗ trợ hay xạ trị hỗ trợ, hoặc kết hợp hố/xạ trị có thể cải thiện thời gian
sống còn cho bệnh nhân. Hiện nay, điều trị hỗ trợ sau mổ với sự kết hợp giữa các
thuốc đặc trị ung thư cùng tia phóng xạ, cho thấy thời gian sống còn của bệnh nhân
kéo dài hơn.



</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×