Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO THỰC TIỄN LUẬN GIẢI CÂU NÓI CỦA C.MÁC: “ TƯ BẢN ỨNG TRƯỚC CHỈ LÀ MỘT GIỌT NƯỚC TRONG DÒNG SÔNG CỦA TÍCH LŨY MÀ THÔI”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.03 KB, 20 trang )

TRƯỜNG ĐH DUY TÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TIỂU LUẬN
MƠN HỌC: NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN 2

ĐỀ TÀI: VẬN DỤNG LÝ LUẬN VÀO THỰC TIỄN LUẬN GIẢI CÂU NÓI
CỦA C.MÁC: “ TƯ BẢN ỨNG TRƯỚC CHỈ LÀ MỘT GIỌT NƯỚC TRONG
DỊNG SƠNG CỦA TÍCH LŨY MÀ THÔI”

GVHD: THS.NGUYỄN THỊ HẢI LÊN
LỚP: PHI 162 S
SINH VIÊN:
Thái Nguyên
24217207044
Nguyễn Phước Quý Hải 24218606304
Hoàng Anh Dũng
24212101932
Lê Quang Hiếu
23212111060
Nguyễn Hoàng Vi Khanh 24202106241


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG
DƯ.........................................................................................................................2
1. Phạm trù giá trị thặng dư.............................................................................2
1.1. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản..........................................................2
1.2. Hàng hóa – sức lao động.........................................................................3
1.3. Bản chất giá trị thặng dư..........................................................................4


1.4. Tiền lương dưới giá trị tư bản..................................................................6
2. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư..................................................7
2.1. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối.......................................7
2.2. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối......................................7
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN VỀ HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ..........................................................................................................9
1. Sự cần thiết vận dụng học thuyết giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay...................................................................9
2. Những hướng khai thác khi vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay..............................................................................11
KẾT LUẬN.........................................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................17


LỜI MỞ ĐẦU
Nền kinh tế thị trường đã đưa thế giới nói chung và đất nước Việt Nam phát triển
khơng ngừng trên mọi phương tiện, lĩnh vực: văn hóa, chính trị,… trong đó phải kể
đến đột phá trong sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên đất nước ta – một đất nước chậm
phát triển, phương thức sản xuất còn lạc hậu, cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý
chưa có chun mơn cao, phải đối mặt với nhiều thách thức khi chuyển từ cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường. Đó là sự phân hóa giàu nghèo,
tham nhũng, quan liêu, sự cạnh tranh khơng lành mạnh… Để giải quyết những khó
khăn ấy và để bắt kịp với xu thế phát triển chung của thế giới đòi hỏi nước ta phải nắm
vững nền tảng cơ sở lý thuyết và vận dụng một cách nhuần nhuyễn vào trong sản xuất
các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật giá trị.
Nghiên cứu tích lũy và tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa cho phép rút ra
những kết luận vạch rõ hơn bản chất bóc lột của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa
C.Mác nói rằng, tư bản ứng trước chỉ là một giọt nước trong dịng sơng của tích lũy mà
thơi. Trong quá trình tái sản xuất, lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn,

do đó lao động của công nhân trong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính
người cơng nhân.
Động cơ thúc đẩy tích lũy và tái sản xuất mở rộng là quy luật kinh tế tuyệt đối của
chủ nghĩa tư bản - quy luật giá trị thặng dư. Để thực hiện mục đích đó, các nhà tư bản
khơng ngừng tích lũy để mở rộng sản xuất, xem đó là phương tiện căn bản để tăng
cường bóc lột cơng nhân làm thuê. Cùng với quá trình tái sản xuất tư bản chủ nghĩa,
quy mơ tích lũy tư bản cũng khơng ngừng tăng lên.
Với những nội dung trên nên hôm nay chúng tơi xin trình bày đề tài VẬN DỤNG
LÝ LUẬN VÀO THỰC TIỄN LUẬN GIẢI CÂU NÓI CỦA C.MÁC: “ TƯ BẢN
ỨNG TRƯỚC CHỈ LÀ MỘT GIỌT NƯỚC TRONG DỊNG SƠNG CỦA TÍCH LŨY
MÀ THƠI” .

0


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG VỀ HỌC THUYẾT GIÁ
TRỊ THẶNG DƯ
1. Phạm trù giá trị thặng dư
1.1. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản
Mọi tư bản lúc đầu đều biểu hiện dưới hình thái một số tiền nhất định. Nhưng bản
thân tiền không phải là tư bản, mà tiền chỉ biến thành tư bản khi được sử dụng để bóc
lột lao động của người khác.
Nếu tiền được dùng để mua bán hàng hố thì chúng là phương tiện giản đơn của
lưu thơng hàng hố và vận động theo cơng thức: Hàng- Tiền- Hàng(H-T-H), nghĩa là
sự chuyển hố của hàng hoá thành tiền tệ, rồi tiền tệ lại chuyển hố thành hàng. Cịn
tiền với tư cách là tư bản thì vận động theo cơng thức: Tiền - Hàng - Tiền (T-H-T), tức
là sự chuyển hoá tiền thành hàng và sự chuyển hoá ngược lại của hàng thành tiền. Bất
cứ tiền nào vận động theo công thức T-H-T đều được chuyển hố thành tư bản.
Do mục đích của lưu thơng hàng hố giản đơn là giá trị sử dụng nên vịng lưu
thơng chấm dứt ở giai đoạn hai. Khi những người trao đổi đã có được giá trị sử dụng

mà người đó cần đến. Cịn mục đích lưu thơng của tiền tệ với tư cách là tư bản không
phải là giá trị sử dụng, mà là giá trị, hơn nữa là giá trị tăng thêm. Vì vậy nếu số tiền
thu bằng số tiền ứng ra thì quá trình vận động trở nên vơ nghĩa. Do đó, số tiền thu về
phải lớn hơn số tiền ứng ra, nên công thức vận động đầy đủ của tư bản là: T-H-T’,
trong đó T’= T + ∆T. ∆T là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, C. Mác gọi là giá trị
thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Vậy tư bản là giá trị mang
lại giá trị thặng dư. Mục đích của lưu thơng T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị
thặng dư, nên sự vận động T-H-T’ là khơng có giới hạn, vì sự lớn lên của giá trị là
khơng có giới hạn.
Sự vận động của mọi tư bản đều biểu hiện trong lưu thơng theo cơng thức T-H-T’,
do đó công thức này được gọi là công thức chung của tư bản.
Các nhà kinh tế học tư sản thường quả quyết rằng sự tăng thêm đó là do lưu thơng
hàng hố sinh ra. Sự quả quyết như thế là khơng có căn cứ.
C.Mác cho rằng trong xã hội tư bản khơng có bất kì một nhà tư bản nào chỉ đóng
vai trị là người bán sản phẩm mà lại khơng phải là người mua các yếu tố sản xuất. Vì
vậy khi anh ta bán hàng hoá cao hơn giá trị vốn có của nó, thì khi mua các yếu tố sản
xuất ở đầu vào các nhà tư bản khác cũng bán cao hơn giá trị và như vậy cái được lợi
khi bán sẽ bù cho cái thiệt hại khi mua. Cuối cùng vẫn khơng tìm thấy nguồn gốc sinh
ra ∆T.

1


Nếu hàng hố được bán thấp hơn giá trị, thì số tiền mà người đó sẽ được lợi khi là
người mua cũng chính là số tiền mà người đó sẽ mất đi khi là người bán. Như vậy việc
sinh ra ∆T không thể là kết quả của việc mua hàng thấp hơn giá trị của nó.
C.Mác lại giả định rằng trong xã hội tư bản có một loại nhà tư bản rất lưu manh
và xảo quyệt, khi mua các yếu tố sản xuất thì rẻ, cịn khi bán thì đắt. Và Mác kết luận
rằng đây chẳng qua là hành vi móc túi lẫn nhau giữa các nhà tư bản trong cùng giai
cấp.

Vậy từ ba trường hợp cụ thể trong lưu thông Mác cho rằng: Trong lưu thông
không thể tạo ra giá trị và giá trị thặng dư vì vậy khơng thể là nguồn gốc sinh ra ∆T.
Ở ngồi lưu thơng Mác xem xét cả hai yếu tố là hàng hoá và tiền tệ:
Đối với hàng hố ngồi lưu thơng: Tức là đem sản phẩm tiêu dùng hay sử dụng và
sau một thời gian tiêu dùng nhất định thì thấy cả giá trị sử dụng và giá trị của sản
phẩm đều biến mất theo thời gian.
Đối với yếu tố tiền tệ: Tiền tệ ở ngồi lưu thơng là tiền tệ nằm im một chỗ. Vì vậy
khơng có khả năng lớn lên để sinh ra ∆T.
Vậy ngồi lưu thơng khi xem xét cả hai yếu tố hàng hoá và tiền tệ đều khơng tìm
thấy nguồn gốc sinh ra ∆T.
Khi Mác trở lại lưu thông lần thứ hai và lần này Mác đã phát hiện ra rằng: Ở trong
lưu thơng người có tiền là nhà tư bản phải gặp được một người có một thứ hàng hoá
đặc biệt đem bán, mà thứ hàng hố đó khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó có bản tính
sinh ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, hàng hố đặc biệt đó
chính là sức lao động.
1.2. Hàng hóa – sức lao động
Số tiền chuyển hố thành tư bản khơng thể tự làm tăng giá trị mà phải thơng qua
hàng hố được mua vào (T-H). Hàng hố đó phải là một thứ hàng hoá đặc biệt mà giá
trị sử dụng của nó có đặc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Thứ hàng hố đó là sức lao
động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.
Như vậy, sức lao động là tồn bộ thể lực và trí lực tồn tại trong cơ thể con người,
thể lực và trí lực mà người đó đem ra vận dụng trong quá trình sản xuất ra một giá trị
sử dụng.
C.Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều kiện
tiền đề:
Một là, người lao động phải tự do về thân thể, phải làm chủ được sức lao động của
mình và có quyền đem bán cho người khác. Vậy người có sức lao động phải có quyền
sở hữu sức lao động của mình.

2



Hai là, người lao động phải tước hết tư liệu sản xuất để trở thành người vô sản và
bắt buộc phải bán sức lao động, vì khơng cịn cách nào khác để sinh sống.
Sự tồn tại đồng thời hai điều kiện nói trên tất yếu dẫn đến chỗ sức lao động biến thành
hàng hoá là điều kiện chủ yếu quyết định của sự chuyển hoá tiền thành tư bản.
Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá - sức lao động cũng có hai thuộc tính là
giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động giống giá trị hàng hố thơng thường ở chỗ: Nó phản
ánh một lượng lao động hao phí nhất định để tạo ra nó. Nhưng giữa chúng có sự khác
nhau căn bản: Giá trị của hàng hố thơng thường biểu thị hao phí lao động trực tiếp để
sản xuất hàng hoá nhưng hàng hố - sức lao động lại là sự hao phí lao động gián tiếp
thông qua việc sản xuất ra những vật phẩm tiêu dùng để nuôi sống người công nhân.
Cũng giống như các hàng hố thơng thường, hàng hố sức lao động có khả năng
thoả mãn những nhu cầu nhất định nào đó của người mua. Nhưng giá trị sử dụng của
hàng hố sức lao động có thuộc tính đặc biệt, nó khác hồn tồn với hàng hố thơng
thường ở chỗ: Khi đem tiêu dùng hay sử dụng nó thì không những không bị tiêu biến
theo thời gian về giá trị và giá trị sử dụng mà ngược lại nó lại tạo ra một lượng giá trị
mới c + m ( c + m > v, với v là giá trị sử dụng của bản thân nó). Khoản lớn lên được
sinh ra trong quá trình sử dụng sức lao động chính là ∆T hay giá trị thặng dư.
Từ đó Mác kết luận: Hàng hoá - sức lao động là nguồn gốc tạo ra giá trị hơn thế
nữa là tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Bởi vì, sức lao động càng đem tiêu dùng
hay sử dụng thì người cơng nhân hay người lao động càng tích luỹ được kinh nghiệm
nghề nghiệp, càng nâng cao năng suất lao động. Vì vậy sẽ làm giảm giá trị hay mức
tiền lương mà nhà tư bản đã trả cho họ. Vì vậy, dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp tư bản
rất ưa thích loại hàng hố đặc biệt này.
Vậy q trình người cơng nhân tiến hành lao động là q trình sản xuất ra hàng
hố và đồng thời là q trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân giá trị sức
lao động. Phần lớn hơn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà tư bản đã chiếm đoạt. Như
vậy, hàng hoá - sức lao động có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm

cơ bản nhất của hàng hố - sức lao động so với các hàng hố khác. Nó là chìa khố để
giải thích tính mâu thuẫn của cơng thức chung của tư bản.
1.3. Bản chất giá trị thặng dư
Nói chung, trong nền sản xuất hàng hố dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất,
giá trị sử dụng khơng phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất chỉ vì nó là vật
mang giá trị trao đổi.
Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị sử dụng có một giá trị trao đổi, nghĩa là
một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản muốn sản xuất ra một hàng hố có giá trị lớn hơn
3


tổng giá trị những tư liệu sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã bỏ ra để
mua, nghĩa là muốn sản xuất ra một giá trị thặng dư.
Vậy quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất ra
giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. C.Mác viết: “ Với tư cách là sự
thống nhất giữa hai quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thì quá trình sản xuất
là một q trình sản xuất hàng hố; với tư cách là sự thống nhất giữa quá trình lao
động và quá trình làm tăng giá trị thì quá trình sản xuất là một quá trình sản xuất tư
bản chủ nghĩa, là hình thái tư bản chủ nghĩa của nền sản xuất hàng hố”.
Q trình lao động với tư cách là quá trình nhà tư bản tiêu dùng sức lao động có
hai đặc trưng:
Một là, người cơng nhân lao động dưới sự kiểm soát của nhà tư bản giống như
những yếu tố khác của sản xuất được nhà tư bản sử dụng sao cho có hiêụ quả nhất.
Hai là, sản phẩm làm ra thuộc sở hữu của nhà tư bản, chứ khơng phải của người
cơng nhân
Từ các đặc trưng đó, Mác đưa ra một loạt các giả thiết để nghiên cứu:
Nhà tư bản dự kiến kéo 10 kg sợi; giá 1 kg bơng là 1 đơla; hao mịn thiết bị máy
móc để kéo 5 kg bông thành 5 kg sợi là 1 đôla; tiền thuê sức lao động 1 ngày là 4 đôla;
giá trị mới 1 giờ lao động của công nhân là 1 đôla và chỉ cần 4 giờ người công nhân
kéo được 5 kg bông thành 5 kg sợi.

Từ đó, có bảng quyết tốn như sau:
Tư bản ứng trước
Giá 10 kg bơng

10 đơla

Hao mịn máy móc

2 đơla

Giá trị của sản phẩm mới
Lao động cụ thể của công
nhân bảo tồn và chuyển giá trị 10 đôla
10 kg bông vào 10 kg sợi.
Khấu hao tài sản cố định
2 đôla

Tiền thuê sức lao động 4 đôla
trong một ngày

Giá trị mới do 8 giờ lao động 8 đôla
của người công nhân tạo ra

Tổng chi phí sản xuất

Tổng doanh thu

16 đơla

20 đơla


Từ sự nghiên cứu trên, chúng ta rút ra một số nhận xét sau:
Một là, nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư chúng ta nhận thấy mâu
thuẫn của công thức chung của tư bản đã được giải quyết. Việc chuyển hoá tiền thành
tư bản diến ra trong lĩnh vực lưu thông và đồng thời không diễn ra trong lĩnh vực đó.
Chỉ có trong lưu thơng nhà tư bản mới mua được một thứ hàng hố đặc biệt, đó là
hàng hố sức lao động. Sau đó nhà tư bản sử dụng hàng hố đó trong sản xuất, tức là

4


ngồi lĩnh vực lưu thơng để sản xuất giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Do đó tiền của
nhà tư bản mới biến thành tư bản.
Hai là, phân tích giá trị sản phẩm được sản xuất ra (10 kg sợi), chúng ta thấy có
hai phần:
Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của người công nhân mà được
bảo tồn và di chuyển vào giá trị của sản phẩm mới (sợi) gọi là giá trị cũ.
Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra trong quá trình lao động gọi là giá
trị mới, phần giá trị mới này lớn hơn giá trị sức lao động, nó bằng giá trị sức lao động
cộng thêm giá trị thặng dư.
Ba là, ngày lao động của công nhân trong xí nghiệp tư bản được chia thành hai
phần:
Một phần gọi là thời gian lao động cần thiết, phần thời gian còn lại là thời gian lao
động thặng dư
Từ đó, Mác đi đến khái niệm về giá trị thặng dư:
Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra bên ngồi giá trị sức lao động do cơng nhân
làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư là quá trình sản xuất ra giá trị vượt khỏi điểm
mà ở đó sức lao động của người cơng nhân đã tạo ra một lượng giá trị mới ngang bằng
với giá trị sức lao động hay mức tiền công mà nhà tư bản đã trả cho họ. Thực chất của

sản xuất giá trị thặng dư là sản xuất ra giá trị vượt khỏi giới hạn tại điểm đó giá trị sức
lao động được trả ngang giá.
1.4. Tiền lương dưới giá trị tư bản
Trong nền kinh tế tư bản người công nhân sau quá trình làm việc cho nhà tư bản sẽ
nhận được một khoản thu nhập dưới hình thức tiền cơng hay tiền lương. Với cách trả
lương như vậy các nhà lí luận tư sản khẳng định rằng tiền lương hay tiền công là giá cả
của lao động. Và trong quá trình sản xuất nhà tư bản trả đúng giá cả của lao động. Vì
vậy dưới chủ nghĩa tư bản khơng có bóc lột. Nhưng C.Mác đã khẳng định tiền lương
khơng phải là giá cả của người lao động. Bởi vì, lao động là một phạm trù trừu tượng
nên người ta không thể bán cái trừu tượng. Hơn nữa, lao động chỉ thể hiện khi vận
dụng sức lao động để tiến hành quá trình sản xuất.
Vì vậy Mác khẳng định: Tiền lương chính là giá cả của sức lao động nhưng nó
được biểu hiện ra bên ngồi như là giá cả của lao động. Bởi vì sức lao động phản ánh
năng lực lao động của mỗi con người, nó là cái có thật thể hiện tồn bộ ở sức óc, sức
thần kinh và sức cơ bắp của con người. Nó nói lên năng lực và khả năng của từng
người. Vì vậy mỗi một sức lao động khác nhau sẽ có một giá cả khác nhau.

5


2. Các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư, do đó giai cấp tư
sản đã không từ bất cứ một thủ đoạn nào để bóc lột giá trị thặng dư. Những phương
pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá
trị thặng dư tương đối.
2.1. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối
Bóc lột giá trị thặng dư tuyệt đối được tiến hành bằng cách kéo dài tuyệt đối thời
gian lao động trong ngày của người công nhân trong điều kiện thời gian lao động cần
thiết (hay mức tiền công mà nhà tư bản trả cho công nhân là không đổi).
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4

giờ là thời gian lao động thặng dư, khi đó trình độ bóc lột của nhà tư bản là 100%. Giả
định ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động cần thiết
khơng đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng lên một cách tuyệt đối, vì thế giá trị
thặng dư cũng tăng lên, trình độ bóc lột tăng lên đạt 200% (m’ = 200%).
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài ngày
lao động và phương pháp bóc lột này đã đem lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản.
Nhưng dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hố, nhưng
nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngồi thời gian người cơng nhân
làm việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người cơng nhân địi hỏi cịn phải có thời
gian để ăn uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao động
là thứ hàng hố đặc biệt vì vậy ngồi yếu tố vật chất người cơng nhân địi hỏi cịn phải
có thời gian cho những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tơn giáo của mình. Từ
đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vơ sản đấu tranh địi giai cấp tư sản phải rút
ngắn thời gian lao động trong ngày.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh vi
hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
2.2. Phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối
Bóc lột giá trị thặng dư tương đối được tiến hành bằng cách rút ngắn thời gian lao
động cần thiết để trên cơ sở đó mà kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư,
trong điều kiện độ dài của ngày lao động là không đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động cần thiết và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư, trình độ bóc lột là 100%. Bây giờ chúng ta lại giả
thiết rằng, công nhân chỉ cần 2 giờ lao động đã tạo ra được một giá trị bằng với giá trị
sức lao động của mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động
cần thiết và thời gian lao động thặng dư trong trường hợp đó cũng thay đổi. Khi đó
6


thời gian lao động cần thiết là 2 giờ, thời gian lao động thặng dư là 6 giờ, trình độ bóc
lột của nhà tư bản lúc này là 300% (m’ = 300%).

Để có thể rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì các nhà tư bản phải tìm mọi
biện pháp, đặc biệt là phải áp dụng tiến bộ và cơng nghệ vào trong q trình sản xuất
để nâng cao năng suất lao động xã hội, giảm giá thành và tiến tới giảm giá cả thị
trường của sản phẩm. Đặc biệt nâng cao năng suất lao động xã hội trong những ngành,
những lĩnh vực sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng để ni sống người cơng nhân. Từ đó
tiến tới hạ thấp giá trị sức lao động.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
chiếm ưu thế, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi mà kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối chiếm vị trí chủ yếu. Hai phương pháp trên được các nhà tư bản sử
dụng kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột công nhân làm thuê trong các giai
đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản.

7


CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG VÀO THỰC TIỄN VỀ HỌC THUYẾT
GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1. Sự cần thiết vận dụng học thuyết giá trị thặng dư trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, với
nhiều thành phần kinh tế, không thể phủ nhận chủ doanh nghiệp tư nhân cũng như
đông đảo cơng nhân, nơng dân, trí thức đều là người xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa, thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp đã góp phần thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển và nâng cao mức sống của nhân dân. Tuy nhiên, xét một cách
biện chứng thì thu nhập của chủ doanh nghiệp tư nhân, nhất là những doanh nghiệp
loại lớn và loại vừa, ngoài bộ nhận tiền lương tương ứng với thu nhập của lao động
phức tạp (lao động quản lý, lao động kỹ thuật), còn bao hàm lợi nhuận nhiều hơn (tức
giá trị thặng dư). Lợi nhuận này là sự chiếm hữu lao động thặng dư của người khác,
bao hàm bóc lột. Tương tự trong kinh tế tư bản nước ngoài cũng bao hàm hiện tượng
bóc lột.

Hiện nay, có một số nhà nghiên cứu do cách tiếp cận thiên về chủ nghĩa thực
chứng, khơng nhằm giải thích nguồn gốc giá trị thặng dư, mà mơ tả một cách cơ học
q trình ln chuyển, phân phối giá trị tăng thêm của hàng hóa trên thị trường.
Vì thế, 59 họ thường quan niệm bóc lột dưới nhiều hình thức khác nhau, như:
Cướp đoạt lẫn nhau; tham nhũng; đặc quyền đặc lợi; thậm chí có cả chuyện người lười
nhác bóc lột người siêng năng; người nghèo bóc lột người giàu, người kém bóc lột
người tài năng...
Đây là một quan niệm không khoa học. Bởi bản thân các lý thuyết này đã xây
dựng nên những mơ hình tốn học để đo độ bất bình đẳng trong phân phối của cải xã
hội. Trong khi về mặt bản chất trong hiện thực xã hội khơng thể có những con người
như nhau về sức khỏe, hoàn cảnh, kỹ năng lao động... cho nên những lý thuyết này ra
đời, tuy giải quyết được một phần nào đó nhu cầu của cuộc sống thực tiễn, nhưng vẫn
sa vào những ước lệ và thiên về lơgíc hình thức, và nhất là chưa thể phản ánh được đầy
đủ, chứ chưa nói là giải thích đúng bản chất của các hiện tượng kinh tế - xã hội
Vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của Mác là cần thiết và có lợi cho sự phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Nước ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát là nước tiểu
nơng, nghĩa là từ một nước chưa có nền kinh tế hàng hố, mặc dù có sản xuất hàng
hố. Cái thiếu của đất nước ta, theo cách nói của Mác - khơng phải là và chủ yếu là cái
đó, mà chính là chưa trải qua sự ngự trị của cách tổ chức của kinh tế xã hội theo kiểu
tư bản chủ nghĩa.
8


Nhưng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội, do vậy
“cách tổ chức của kinh tế xã hội” theo kiểu sản xuất hàng hố cũng mang tính q độ.
Nghĩa là, trong cùng một nền kinh tế vừa có kinh tế hàng hố vì lợi ích của nhân dân,
vừa có kinh tế hàng hố vì lợi ích của tư nhân. Nhưng dù là nền kinh tế hàng hố nào
thì sản phẩm cũng đều mang hình thức giá trị thặng dư, mặc dù chúng phản ánh những
quan hệ xã hội đối lập nhau.

Trong đó, giá trị thặng dư phản ánh mối quan hệ bóc lột và bị bóc lột vẫn được coi
là nhân tố “trợ thủ của chủ nghĩa xã hội”, “xúc tiến chủ nghĩa xã hội”, là cái “có ích”
và “đáng mong đợi”. Vì thế, cốt lõi của vấn đề là phải tạo điều kiện môi trường cho sự
gia tăng khối lượng giá trị thặng dư toàn xã hội ngày càng 60 lớn, tỷ suất ngày càng
cao.
Ngày nay, trải qua thực tiễn, chúng ta ngày càng nhận thức rõ: “Sản xuất hàng hố
khơng đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân
loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi
chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”.Đường lối đổi mới của Đảng được thể chế hóa
thành pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành và phát triển nền kinh tế thi
trường xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả trong chủ nghĩa xã hội vẫn cịn
phạm trù giá trị thặng dư. Vì thế, chúng ta phải học tập các nhà tư bản để sản xuất ra
càng nhiều giá trị thặng dư càng tốt. Điều đó hoàn toàn phù hợp với lý luận của
V.I.Lênin: “Tri thức về chủ nghĩa xã hội thì chúng ta có, nhưng chúng ta chưa có tri
thức về tổ chức với quy mơ hàng triệu người, chưa có tri thức về tổ chức và phân phối
sản phẩm... Cho nên chúng ta nói: dù hắn là tên đại bịp bợm, nhưng một khi hắn là
một thương nhân đã từng làm công việc tổ chức sản xuất và phân phối cho hàng triệu
và hàng chục triệu người, một khi hắn có kinh nghiệm thì chúng ta phải học ở hắn”.
Nghiên cứu để khẳng định sự đúng đắn về lý luận giá trị thặng dư không phải để
nhằm kỳ thị thành phần kinh tế tư nhân. Trái lại, hiểu rõ mục đích, bản chất động lực
của kinh tế tư nhân, để có chính sách thích hợp, vừa khuyến khích nó phát triển, vừa
có chính sách quản lý và điều tiết hợp lý để sử dụng kinh tế tư nhân phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
Khuyến khích kinh tế tư nhân không phải là một “thủ đọan vỗ béo để làm thịt”,
không phải dụ tư nhân bỏ vốn ra, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh rồi lại “dẹp”,
“xóa” như trước đây. Lại càng không phải để kinh tế tư nhân phát triển tự phát theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Khai thác động lực kinh tế tư nhân là để phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Có chính sách đúng đắn và bảo đảm mức lợi

nhuận thỏa đáng cho tư nhân. Đây không chỉ là một khoản “cống nộp” mà còn phải coi
9


là một khoản “học phí” để có cơ hội tiếp xúc với trang thiết bị và công nghệ hiện đại,
với phương pháp tổ chức quản lý tiên tiến, có hiệu quả. Hiện nay, kinh tế tư nhân ở
nước ta đã đóng góp 60% GDP và thu hút 91% lao động việc làm trong cả nước.
Theo tinh thần đó, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay, việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư là cần thiết và có lợi.
2. Những hướng khai thác khi vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu học thuyết giá trị của C.Mác trong điều kiện hiện nay, cần nhớ lời dặn
của V.I.Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì xong xi
hẳn và bất khả xâm phạm. Trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho
mơn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi
mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”.
Ngày nay, học thuyết giá trị thặng dư vẫn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp
xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận
dụng học thuyết này ở nước ta trở thành một việc làm cần thiết, theo các hướng sau
đây:
Một là, khai thác những di sản lý luận trong học thuyết giá trị thặng dư về nền
kinh tế hàng hoá. Học thuyết giá trị thặng dư của Mác được xây dựng trên cơ sở
nghiên cứu lịch sử nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt là nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ
nghĩa.
Cho nên, chính C.Mác chứ khơng phải ai khác là một trong những người nghiên
cứu sâu sắc về kinh tế thị trường. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Mặc dù nền kinh tế hàng hoá ở nước ta có những đặc trưng riêng của
nó, song đã là sản xuất hàng hố thì ở đâu cũng đều có những đặc tính phổ biến, cũng

phải nói đến giá trị và giá trị thặng dư. Điều khác nhau chỉ là trong những quan hệ
kinh tế khác nhau thì giá trị và giá trị thặng dư mang bản chất xã hội khác nhau.
Do vậy, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của nền sản xuất hàng hố
tư bản, nghiên cứu những phạm trù, quy luật và việc sử dụng chúng trong nền kinh tế
hàng hoá tư bản chủ nghĩa từ di sản lý luận của Mác là việc làm có nhiều ý nghĩa thực
tiễn ở nước ta hiện nay.
Hai là, khai thác những luận điểm của C.Mác nói về q trình sản xuất, thực hiện,
phân phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp, thủ đoạn
nhằm thu được nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản lý
thành phần kinh tế tư nhân (đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế nước
10


ta sao cho vừa có thể khuyến khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi
vào quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội.
Điều đó địi hỏi cần có chính sách thích đáng và có hiệu lực để thúc đẩy các thành
phần kinh tế phát triển với nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, qua đó thu hút nhiều
lao động xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn
nhu cầu xã hội.
Trước mắt, cần có giải pháp ưu đãi và tài trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ
(hiện nay chiếm 97% trong tổng số 500 ngàn doanh nghiệp trong nền kinh tế nước
ta),tạo điều kiện thuận lợi các doanh nghiệp này vượt qua khó khăn, vươn lên làm ăn
có hiệu quả.
Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm xuống mức tối thiểu lực
lượng sản xuất gián tiếp và đặc biệt giảm biên chế bộ máy nhà nước theo hướng tinh
gọn, hiệu quả. Trong từng cơ sở sản xuất, phải đảm bảo có được lao động thặng dư,
kiên quyết giải thể các doanh nghiệp nhà nước sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, gây
thất thoát tiền vốn, tài sản của nhà nước.
Trong các đơn vị sản xuất kinh doanh cần có định mức, bảo đảm giờ cơng quy
định để có cường độ bằng mức trung bình của xã hội, đồng thời tích cực cải tiến kỹ

thuật, ứng dụng quy trình cơng nghệ mới, cải tiến tổ chức sản xuất để nâng cao năng
suất lao động. Bởi sự giàu có của xã hội được quyết định ở năng suất lao động thặng
dư. Biện pháp để tăng năng suất lao động thặng dư có ý nghĩa sống cịn, bức xúc đối
với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Đó là con đường để thốt khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế và bảo đảm tăng
trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Ba là, khai thác di sản lý luận của C.Mác nói về quá trình tổ chức sản xuất và tái
sản xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với q trình xã
hội hóa sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn.
Khi phân tích giá trị thặng dư tương đối, C.Mác đã trình bày rõ các giai đoạn phát
63 triển của chủ nghĩa tư bản trong công nghiệp với các đặc điểm, ưu thế và vị trí lịch
sử của từng giai đọan. Việc nghiên cứu các giai đoạn đó giúp chúng ta nhiều bài học
bổ ích trong quá trình tổ chức sản xuất ở một đất nước mà sản xuất nhỏ còn phổ biến.
Chẳng hạn, hiệp tác giản đơn là điểm khởi đầu của sản xuất của chủ nghĩa tư bản,
có tác dụng quan trọng trong việc khẳng định bước chuyển lên sản xuất lớn. Nhưng
trong hiệp tác đó quy mơ tập trung tư liệu sản xuất và sức lao động chỉ có hiệu quả khi
nó mang tính tất yếu kinh tế, khi có hiệu quả, khi có tinh thần tự nguyện, tự giác thật
sự của người lao động. Nó địi hỏi vai trị chỉ huy năng động, sáng tạo, biết quản lý sản
11


xuất kinh doanh. Nó địi hỏi phải tăng cường quỹ không chia, tạo ra các tư liệu sản
xuất buộc phải tiến hành lao động tập thể.
Hiệp tác giản đơn có nhiều bài học bổ ích thì giai đoạn cơng trường thủ cơng và
đại cơng nghiệp càng có nhiều ý nghĩa thực tiễn đối với nước ta. Công trường thủ
công, giai đoạn chuẩn bị cho đại cơng nghiệp cơ khí ra đời trên các mặt: Chuẩn bị đưa
máy móc thay thế lao động thủ công, chuẩn bị đội ngũ quản lý và đội ngũ công nhân
kỹ thuật, chuẩn bị thị trường cho cơng nghiệp lớn phát triển. Những tổng kết đó của
C.Mác về quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản vẫn còn nguyên giá trị đối với nước

ta hiện nay, đó là:
 Để nâng cao năng suất lao động thặng dư, sản xuất phải được tổ chức thành một
dây chuyền chặt chẽ giữa những người lao động đã được bố trí đúng năng
khiếu, sở trường vào các bộ phận công việc, người trước cung cấp công việc
cho người sau, người sau kiểm tra công việc của người trước. Với tổ chức đó,
người lao động chỉ được sử dụng một lượng thời gian cần thiết cho cơng việc
của mình, từ đó doanh nghiệp có thể tính ngay được thời gian lao động cần thiết
phải hao phí cho một đơn vị sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho cạnh tranh.
 Trong điều kiện hiện nay ở nước ta phải coi trọng phân cơng lao động, phân
cơng phải thích ứng với kỹ thuật mới phù hợp với từng đơn vị, từng ngành và
tồn xã hội, mở rộng hợp tác phân cơng lao động quốc tế. Phân công lao động
phải đảm bảo thúc đẩy và tạo điều kiện cho sự phát triển hợp lý của các ngành,
nghề trong xã hội, đảm bảo chun mơn hóa và năng suất lao động cao trong
từng đơn vị.
 Trên cơ sở những vấn đề được coi là tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên, đặc
biệt là mặt tổ chức - kinh tế, vận dụng vào nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, nhằm thúc đẩy nhanh quá trình xã hội hố theo định
hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ trở thành nền sản xuất lớn sản
xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư, thực hiện nhiệm vụ trung tâm của thời
kỳ quá độ là cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước để xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế để không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Bốn là, thu hồi giá trị thặng dư và định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện 64
cho phép bóc lột giá trị thặng dư. Điều này đã được V.I.Lênin trình bày qua lý luận và
kinh nghiệm chỉ đạo thực tiễn ở nước Nga Xô Viết. Vấn đề đặt ra đối với nước ta là:
 Thu hồi được của cống nạp một cách đúng đắn, đầy đủ khơng bị thất thốt.
 Ngăn chặn được những ma lực hút nền kinh tế chệch khỏi quỹ đạo xã hội
chủ nghĩa.
12



 Phải có một nhà nước mạnh.
Ở nước ta hiện nay, đẩy mạnh xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN từ một
nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn để sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị thặng dư,
cần phải:
 Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trị chủ đạo và nó cùng với kinh tế tập thể
trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
 Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa
các nguồn lực: vốn, sức lao động, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến
phục vụ cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã
hội, cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân.
 Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu; thừa nhận th mướn lao động nhưng khơng để nó
trở thành quan hệ thống trị.
 Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu
lực quản lý vĩ mơ của Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xố
đói giảm nghèo, tránh sự phân hoá xã hội thành hai cực đối lập, không để
chênh lệch quá lớn về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các
tầng lớp dân cư, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.

13


KẾT LUẬN
Thứ nhất, nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy là giá trị thặng dư và tư bản tích
lũy chiếm tỷ lệ ngày càng lớn trong tồn bộ tư bản. c. Mác nói rằng, tư bản ứng trước
chỉ là một giọt nước trong dịng sơng của tích lũy mà thơi. Trong q trình tái sản xuất,
lãi (m) cứ đập vào vốn, vốn càng lớn thì lãi càng lớn, do đó lao động của cồng nhân

ữong quá khứ lại trở thành phương tiện để bóc lột chính người cơng nhân.
Thứ hai, q trình tích lũy đã làm cho quyền sở hữu trong nền kinh tế hàng hóa
biến thành quyền chiếm đoạt tư bản chủ nghĩa. Trong sản xuất hàng hóa giản đơn, sự
hao đổi giữa những người sản xuất hàng hóa theo ngun tắc ngang giá về cơ bản
khơng dẫn tới người này chiếm đoạt lao động không công của người kia. Trái lại, nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa dẫn đến kết quả là nhà tư bản chẳng những chiếm đoạt một
phần lao động của công nhân, mà cịn là người sở hữu hợp pháp lao động khơng cơng
đó. Nhưng điều đó khơng vi phạm quy luật giá trị.
Mặt khác, cạnh tranh buộc các nhà tư bản phải khơng ngừng làm cho tư bản của
mình tăng lên bằng cách tăng nhanh tư bản tích lũy. Cùng với quá trình tái sản xuất tư
bản chủ nghĩa, quy mơ tích lũy tư bản cũng không ngừng tăng lên. Việc xem xét
những nhân tơ' ảnh hưởng đến quy mồ tích lũy tư bản phải được chia làm hai trường
hợp:
Một là, trường hợp khốĩ lượng giá trị thặng dư khơng đổi thì quy mơ của tích lũy
tư bản phụ thuộc vào tỷ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành hai quỹ: quỹ
tích lũy và quỹ tiêu dùng của nhà tư bản. Đương nhiên, tỷ lệ quỹ này tăng lên thì tỷ lệ
dành cho quỹ kia sẽ giảm đi
Hai là, nếu tỷ lệ phân chia đó đã được xác định thì quy mơ của tích lũy tư bản phụ
thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này, khối lượng giá trị thặng
dư bị phụ thuộc vào những nhân tố sau đây:
+ Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp: tăng cường độ lao động,
kéo dài ngày lao động, cắt giảm tiền lương của cơng nhân. Có nghĩa là thời gian cơng
nhân sáng tạo ra giá trị thì càng được kéo dài ra nhưng chi phí càng được cắt giảm, do
vậy khối lượng giá trị thặng dư càng lớn và quy mơ của tích lũy tư bản càng lớn.
+ Trình độ năng suất lao động xã hội: năng suất lao động xã hội tăng lên sẽ có
thêm những yếu tố vật chất để biến giá trị thặng dư thành tư bản mới, nên giảm tăng
quy mơ của tích lũy.
+ Sự chênh lệch giữa tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng.
Trong q trình sản xuất, tư liệu lao động (máy móc, thiết bị) tham gia tồn bộ vào
q trình sản xuất, nhưng giá trị của chủng lại chỉ bị khấu hao từng phần. Như vậy là

mặc dù đã mất dần giá trị, nhưng trong suốt thời gian hoạt động, máy móc vẫn có tác
14


dụng như khi còn đủ giá trị. Sự hoạt động này của máy móc được xem như là sự phục
vụ khơng cơng. Máy móc, thiết bị càng hiện đại, thì sự chênh lệch giữa tư bản được
sử dụng và tư bản đã tiêu dùng càng lớn, do đó, sự phục vụ không công càng lớn, tư
bản lợi dụng được những thành tựu của lao động quá khứ càng nhiều, nhờ vậy quy mơ
của tích lũy tư bản càng lớn.
Với trình độ bóc lột khơng thay đổi thì khối lượng giá trị thặng dư do khối lượng
tư bản khả biến quyết định. Do đó quy mơ của tư bản ứng trước, nhất là bộ phận tư
bản khả biến càng lớn, thì khối lượng giá trị thặng dư bóc lột được càng lớn, tạo điều
kiện tăng thêm quy mơ của tích lũy tư bản

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, tập 72B, số 3, năm 2012
2.

16


PHÂN CHIA CƠNG VIỆC GIỮA CÁC THÀNH VIÊN TRONG NHĨM

17




×