Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

XÉT hỏi tại PHIÊN tòa sơ THẨM THEO PHÁP LUẬT tố TỤNG HÌNH sự VIỆT NAM từ THỰC TIỄN tòa án NHÂN dân QUẬN 10, THÀNH PHỐ hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.48 KB, 87 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------

NGUYỄN TẤN CHINH

XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, năm 2019


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------

NGUYỄN TẤN CHINH

XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN TẤT VIỄN



HÀ NỘI, năm 2019


LỜI CẢM ƠN

Sau thời gian học tập và nghiên cứu, đến nay tơi đã hồn thành luận
văn tốt nghiệp Cao học chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự với đề
tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh”. Trước hết tơi xin chân
thành cảm ơn q thầy cơ trong Khoa Luật hình sự và tố tụng hình sự đã định
hướng cho tơi trong việc chọn lựa đề tài trong q trình học tập và nghiên cứu.
Tơi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn –
người đã dành nhiều thời gian và tâm huyết, tận tình hướng dẫn và góp ý cho tơi
trong suốt q trình tơi thực hiện đề tài.
Tơi xin chân thành cảm ơn !

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2019

Học viên

Nguyễn Tấn Chinh


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp này là cơng trình nghiên cứu của
riêng tơi, do tơi trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn
Tất Viễn. Các số liệu, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa được
sử dụng trong bất cứ một nghiên cứu nào khác.
Tôi cam đoan mọi tham khảo trong luận văn này đều được ghi rõ nguồn
gốc, trích dẫn rõ ràng. Mọi sao chép không hợp lệ, vi phạm quy định viết luận
văn, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày

tháng

năm 2019

Học viên

Nguyễn Tấn Chinh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI
PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM.........................................................................6
1.1. Đặc điểm của phiên tịa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi ............6
1.1.1.Đặc điểm của phiên tịa sơ thẩm hình sự ....................................................6
1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi ...........................................................................8
1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi .......................................................10
1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi ...............................................................12
1.2. Mối tương quan giữa xét hỏi và các thủ tục tố tụng khác trong phiên tịa hình
sự sơ thẩm. .............................................................................................................17
1.2.1. Xét hỏi và thủ tục bắt đầu phiên tòa.........................................................17

1.2.2. Xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa ...........................................................18
1.2.3. Xét hỏi và thủ tục nghị án, tuyên án .........................................................18
1.3. Khái quát các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ 1945 đến
nay về xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm hình sự. ........................................................19
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
1988 ....................................................................................................................19
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự
2003 ....................................................................................................................21
1.3.3. Giai đoạn từ 2003 đến trước khi ban hành Bộ luật tố tụng hình sự 2015.
............................................................................................................................23
1.3.4. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2015 ............................................................................................................24
Chương 2: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ 2015 VỀ XÉT HỎI TẠI TỊA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10,
TP. HỒ CHÍ MINH.................................................................................................27
2.1. Chủ thể thực hiện quyền xét hỏi ....................................................................27
2.1.1. Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa ................................................................27


2.1.2. Hội thẩm nhân dân ...................................................................................29
2.1.3. Kiểm sát viên ............................................................................................31
2.1.4. Người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
............................................................................................................................34
2.1.5. Người giám định .......................................................................................38
2.1.6. Người định giá tài sản ..............................................................................39
2.2. Thi hành các quy định về nội dung xét hỏi.....................................................40
2.3. Thi hành các quy định về trình tự xét hỏi .......................................................47
2.4. Thi hành các quy định về công bố lời khai, xem xét vật chứng tại phiên tòa 52
2.5. Nguyên nhân và những hạn chế, vướng mắc ..................................................57
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG CÁC QUY

ĐỊNH VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TÒA HÌNH SỰ SƠ THẨM ..........................59
3.1. Tiếp tục hồn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét hỏi.......60
3.2. Tăng cường hướng dẫn thực hiện các quy định của BLTTHS về xét hỏi ......63
3.3. Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và kỹ năng xét hỏi của Thẩm
phán, Kiểm sát viên, Hội thẩm tại phiên tòa. ........................................................66
3.4. Đề cao trách nhiệm và đảm bảo quyền của người bào chữa trong xét hỏi .....73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

HTND

Hội thẩm nhân dân

KSV

Kiểm sát viên

TAND


Tòa án nhân dân

VKS

Viện kiểm sát


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta từ khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm
cơng tác tư pháp trong thời gian tới được ban hành, cơng tác tư pháp đã có những
chuyển biến nhất định. Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW,
ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì cơng tác tư pháp
đã có những đổi mới căn bản. Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt
động của các cơ quan tư pháp được xác định rõ hơn và từng bước được củng cố,
kiện toàn; Chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tốt; Cơng
tác xét xử được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng án phúc
thẩm đã cơ bản được khắc phục; Tỷ lệ khám phá án, điều tra, truy tố, xét xử đạt cao
và năm sau đều cao hơn năm trước; Chủ trương “nâng cao chất lượng tranh tụng tại
phiên tồ” được triển khai thực hiện, tạo khơng khí dân chủ trong các phiên tồ, vai
trị của các luật sư được nhìn nhận tích cực hơn...
Bên cạnh những kết quả nêu trên, hệ thống tư pháp, trong đó có tư pháp hình
sự cịn bộc lộ những bất cập, hạn chế như chưa có sự phân định hợp lý giữa các chức
năng cơ bản của tố tụng, dẫn đến việc quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng
chủ thể tố tụng và trình tự tiến hành các thủ tục tố tụng chưa phù hợp, cơ chế bảo đảm
thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền
bào chữa của bị can, bị cáo chưa hoàn thiện; ý kiến tranh luận, tranh tụng của các luật
sư vẫn chưa thực sự được coi trọng, khơng ít bản án, quyết định của Tịa án chưa thực
sự dựa trên kết quả tranh tụng tại phiên tòa, dẫn đến số lượng các bản án bị huỷ, sửa

còn chiếm tỷ lệ khá cao; Phương pháp điều tra, xét hỏi vẫn là phương pháp chủ yếu
được áp dụng trong tất cả các giai đoạn tố tụng v.v… Những vướng mắc, bất cập nêu
trên đã ảnh hưởng đến kết quả đấu tranh phòng, chống tội phạm và yêu cầu bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp
Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự là thủ tục trọng tâm, quan trọng của giai
đoạn xét xử vụ án hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự 2015 có những thay đổi về quy
1


định thủ tục xét hỏi so với các Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành trước đó,
nhưng vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề về pháp luật thực định và cả việc áp dụng pháp
luật trên thực tế. Đổi mới và hồn thiện thủ tục xét hỏi khơng phải là vấn đề mới
được đặt ra, nhưng những gì đạt được hiện nay chưa đáp ứng được cao nhất yêu cầu
cải cách tư pháp, vẫn còn tồn tại nhiều tranh luận khi áp dụng các quy định của Bộ
luật TTHS trong xét xử. Do đó, trên cơ sở phân tích những mặt ưu điểm, tiến bộ của
quy định thủ tục xét hỏi hiện hành, bên cạnh đó cũng chỉ ra những hạn chế, bất cập
cần bổ sung, sửa đổi để hoàn thiện pháp luật, nâng cao chất lượng xét hỏi cũng là
một trong những giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án hình sự sơ thẩm.
Từ những phân tích nêu trên, học viên chọn đề tài: “Xét hỏi tại phiên tòa sơ
thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn Tịa án nhân dân Quận
10, Thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề xét hỏi tại phiên tịa hình sự được một số tác giả đề cập trong các bài
viết đăng trên tạp chí chuyên ngành, các luận án, luận văn, sách chuyên khảo, cụ thể
là:
- Luận văn thạc sỹ Luật học của Nguyễn Trương Tín (2007), Tranh tụng tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam,
bảo vệ tại Trường Đại Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sỹ Luật học của Võ Hồng Phúc (2016), Hoàn thiện thủ tục
xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp, bảo vệ tại trường Đại

Học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận văn thạc sỹ Luật học Đặng Minh Phương (2013), Hoạt động xét hỏi
của Kiểm sát viên trong Tố tụng hình sự Việt Nam) bảo vệ tại trường Đại Học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh.
- Luận án TS của Nguyễn Văn Hiển (2011), Nguyên tắc tranh tụng trong tố
tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ Luật
học, Học viện Khoa học xã hội.

2


- Bài viết “Một số vấn đề về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo Bộ luật
tố tụng hình sự 2003” của tác giả Đinh Văn Quế.
- Bài viết “Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm,” của Lê Thị Thúy
Nga đăng trên Tạp chí Luật học số 07/2008.
- Bài viết của PGS.TS. Hồng Thị Minh Sơn “Hoàn thiện một số quy định
của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục phiên tịa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp”, Tạp chí Luật học, số 10/2009
- Bài viết “Q trình hình thành và phát triển thủ tục xét hỏi, tranh luận tại
phiên tịa hình sự sơ thẩm của pháp luật hình sự Việt Nam qua các thời kỳ” của tác
giả Nguyễn Ngọc Kiên, Tạp chí Kiểm sát số 11/2014.
- Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự, Chủ biên. GS.TS. Võ Khánh
Vinh, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 2013;
- Thủ tục tranh tụng tại phiên tịa hình sự sơ thẩm, TS. Nguyễn Ngọc Kiên,
Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2017 và một số cơng trình khác có liên quan.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập nhiều vấn đề về thủ tục xét hỏi
liên quan đến áp dụng Bộ luật tố tụng hình sự 2003. Bộ luật tố tụng hình sự năm
2015 được ban hành cũng bắt đầu bộc lộ vướng mắc. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn
áp dụng pháp luật TTHS cần tiếp tục nghiên cứu để hồn thiện thủ tục xét hỏi trong
phiên tịa sơ thẩm hình sự..

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận và các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại phiên tòa
sơ thẩm, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này từ thực tiễn TAND Quận 10,
TP. Hồ Chí Minh, đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định pháp
luật về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm hình sự.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ cơ
bản sau đây:

3


- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và pháp luật của thủ tục xét hỏi tại phiên
tòa sơ thẩm hình sự.
- Đánh giá thực tiễn thi hành các quy định về xét hỏi trong hoạt động xét xử
sơ thẩm từ thực tiễn TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định pháp luật về thủ
tục xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm hình sự, đáp ứng u cầu cải cách tư pháp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa sơ thẩm hình sự theo pháp luật TTHS Việt Nam
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Tịa án nhân dân Quận 10, TP Hồ Chí Minh
- Phạm vi thời gian: từ năm 2014 đến năm 2019
5. Phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến được
vận dụng để nghiên cứu tính thống nhất của tồn bộ q trình tố tụng hình sự, tính

thống nhất nội tại của thủ tục xét xử sơ thẩm hình sự. Nguyên lý về sự phát triển,
quy luật lượng đổi-chất đổi được sử dụng để nghiên cứu q trình hồn thiện chế
định pháp luật về xét hỏi trong TTHS. Các phạm trù nội dung và hình thức, khả
năng và hiện thực được sử dụng để nghiên cứu về xét hỏi trong các mơ hình tố tụng
hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể trong Luận văn gồm: phương pháp hệ
thống, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh luật học, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần vào q trình nghiên cứu một
cách có hệ thống, tồn diện các vấn đề của thủ tục xét hỏi qua đó đề ra các kiến nghị
4


giải pháp bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật TTHS về xét hỏi tại
phiên tòa sơ thẩm.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài có ý nghĩa thực tiễn trong việc nâng cao chất lượng xét hỏi tại phiên
tịa sơ thẩm hình sự ở TAND Quận 10, TP. Hồ Chí Minh và có thể là tài liệu tham
khảo cho một số TAND cấp quận.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội dung
của Luận văn được cấu trúc thành 3 Chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về xét hỏi tại phiên tịa hình sự
sơ thẩm.
Chương 2: Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2015
về xét hỏi tại Tòa án nhân dân Quận 10.
Chương 3: Các giải pháp bảo đảm thi hành đúng các quy định của Bộ luật
TTHS về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm


5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN
TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
1.1. Đặc điểm của phiên tịa sơ thẩm hình sự và tính chất của việc xét hỏi
1.1.1.Đặc điểm của phiên tòa sơ thẩm hình sự
Xét xử sơ thẩm được xem là việc xét xử lần thứ nhất do Tịa án có thẩm
quyền thực hiện theo quy định pháp luật. Đây là một giai đoạn của tố tụng hình sự,
sau khi đã kết thúc giai đoạn điều tra, truy tố. Xét xử được thực hiện bằng một
phiên tịa mà tại đó, các tài liệu, chứng cứ, lời trình bày, tranh luận và cả các tình
tiết, nội dung chưa từng cơng bố hay thu thập trước đó được xem xét, đánh giá cơng
khai ngay tại phiên tòa để đi đến việc xác định tội phạm và hành vi phạm tội. Xét
xử sơ thẩm được xem là giai đoạn quan trọng nhất của việc thực hiện quyền tư
pháp, vì là xem xét vụ án về nội dung. Giai đoạn này có vai trị đặc biệt quan trọng,
tác động đến toàn bộ hệ thống tư pháp. Nếu xét xử tốt, khách quan, đúng pháp luật,
công lý được thực hiện ngay ở cấp sơ thẩm, quyền lợi của người dân sẽ được thực
hiện nhanh chóng, thuận lợi, hạn chế việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái
thẩm. Việc nâng cao chất lượng xét xử ở cấp cơ sở là yêu cầu hàng đầu của cải cách
tư pháp, là khâu đột phá của cải cách tư pháp, có ý nghĩa quyết định đến các nội
dung khác của cải cách, bắt buộc phải thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm có thể đánh
giá được sự cơng bằng, bình đẳng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội mà trong đó, Tịa
án ở giữa có quyền “cầm cân nảy mực”, những quyền và lợi ích hợp pháp mà bên
yếu thế hơn nhận được, quyền con người có được đề cao hay không, khả năng của
cơ quan tiến hành tố tụng và của những người tham gia tố tụng đến đâu trong việc
tìm ra sự thật khách quan để khơng bỏ lọt tội phạm và cũng không làm oan người
vô tội. Phiên tịa sơ thẩm khơng chỉ xem xét chứng cứ mà còn đòi hỏi các chủ thể
tham gia tố tụng phải đưa ra các lý lẽ thuyết phục, sắc bén, nhanh chóng phù hợp

với diễn biến phiên tịa và các tài liệu có liên quan thu thập được. Do đó, tổ chức tốt
một phiên tòa sơ thẩm cũng là phương pháp để nâng cao kinh nghiệm xét xử, nâng

6


cao khả năng tranh tụng, bảo vệ quan điểm của các chủ thể tham gia như luật sư,
người bào chữa, kiểm sát viên.
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, lần đầu tiên vụ án hình sự được
đưa ra xem xét công khai với tất cả các chứng cứ thu thập được trong giai đoạn điều
tra cùng với các chứng cứ mới được xem xét một cách khách quan, tồn diện, trực
tiếp. Tại phiên tịa bị cáo thực hiện quyền của mình như tự mình bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa, được quyền trình bày quan điểm gỡ tội của mình trước Hội
đồng xét xử.
Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng khác phải thực hiện nhiệm
vụ theo đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo sử dụng các quyền của
mình, tránh sự xâm phạm các quyền đối với bị cáo. Phiên tòa sơ thẩm là cơ hội để bị
cáo sử dụng các quyền của mình lần đầu tiên tại phiên tịa một cách cơng khai. Đây là
điểm khác với giai đoạn điều tra. Vì vậy phiên tịa HSST trước hết phải tuân thủ
những nguyên tắc cơ bản được quy định trong Bộ luật TTHS: Bảo đảm pháp chế xã
hội chủ nghĩa, tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của
cá nhân, bảo đảm quyền bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm quyền bào chữa của
người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, xác định
sự thật của vụ án và nguyên tắc suy đoán vô tội…Trong những nguyên tắc chung
được quy định tại BLTTHS 2015 thì hiện nay, ngun tắc suy đốn vơ tội và
nguyên tắc tranh tụng trong xét xử tại các phiên tòa sơ thẩm của Việt Nam chưa
thực sự được đảm bảo. Việc xét hỏi trong thủ tục tranh tụng tại phiên tòa đã bộc lộ
nhiều hạn chế, dẫn đến phiên tịa hình sự sơ thẩm tập trung vào việc luận tội, xét hỏi
dựa trên những chứng cứ thu thập được tại các giai đoạn tố tụng trước đó, các cơ
quan tiến hành tố tụng về một phía và bị can, bị cáo, người bảo vệ quyền lợi ích cho

bị can, bị cáo về một phía yếu hơn.
Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định của Hiến pháp và Bộ luật tố tụng
hình sự, Hội đồng tham gia xét xử phải có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân và
Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán - chủ tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử biểu
quyết theo đa số. Tuy nhiên, trên thực tế Hội thẩm chưa phát huy hết vai trò chủ
7


động, tích cực của mình trong q trình xét xử, đặc biệt ở việc xét hỏi gần như phụ
thuộc hoàn tồn vào Thẩm phán, hỏi khơng làm rõ được nội dung vụ án, hỏi không
đúng trọng tâm hoặc không tham gia xét hỏi. Do đó trong cơng tác chuẩn bị xét xử
và điều hành diễn biến tại phiên tòa, trách nhiệm của Chủ tọa phiên tòa rất nặng nề.
Kết thúc phiên tịa hình sự sơ thẩm cũng là lúc ban hành các phán quyết liên quan
đến hành vi phạm tội, tội phạm và hình phạt bị cáo phải chịu hay giải phóng bị can,
bị cáo khỏi sự trừng phạt của pháp luật.
Những yếu tố trên cho thấy, xét xử sơ thẩm hình sự có vị trí quan trọng trong
suốt q trình tố tụng, khi lần đầu tiên các chứng cứ thu thập được trong hồ sơ được
kiểm chứng công khai tại phiên tịa, các quan điểm chính thức của Viện kiểm sát
được đưa ra, những lập luận để bảo vệ quyền lợi của bị can, bị cáo được trình bày.
Tịa án với tư cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp giữ vị trí trung tâm trong
việc điều hành và kiểm sốt diễn biến phiên tịa, xem xét các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ, xem xét tội danh và điều khoản áp dụng, đồng thời giải quyết quyền lợi
của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại…trong cùng một vụ án. Quan
trọng nhất là kết thúc phiên tịa hình sự sơ thẩm, Tịa án cấp sơ thẩm đưa ra quyết
định bị cáo có tội hay khơng có tội, tội phạm và hình phạt cụ thể dành cho bị cáo.
Cũng tại giai đoạn này, quyền kháng cáo của bị cáo được đặt ra. Trong khi ở cấp
phúc thẩm, bị cáo đã khơng cịn quyền kháng cáo. Đề cao tính chất đặc biệt của xét
xử sơ thẩm hình sự, qua đó cho thấy việc xét hỏi theo đúng trình tự thủ tục, xét hỏi
có khoa học và bám sát nội dung vụ án là tiền đề chuẩn bị cho việc nghị án, tuyên
án chính xác, khách quan, đúng người đúng tội, hạn chế tối đa oan sai cũng như hạn

chế tiến hành giải quyết thủ tục kháng cáo sau phiên tòa sơ thẩm, làm kéo dài thời
gian giải quyết một vụ án hình sự.
1.1.2. Tính chất của việc xét hỏi
Bộ luật TTHS không đưa ra định nghĩa thế nào là thủ tục xét hỏi mà chỉ quy
định về trình tự, thủ tục, nội dung xét hỏi và các vấn đề khác có liên quan đến thủ
tục hỏi tại một phiên tịa hình sự. Tuy vậy, trong các tài liệu nghiên cứu và giảng
dạy, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về thủ tục xét hỏi, Giáo trình Luật TTHS Việt
8


Nam của trường Đại học Luật Hà Nội định nghĩa: “Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự nhằm xem xét cơng khai những chứng
cứ đã thu thập được ở giai đoạn điều tra và chứng cứ mới để chứng minh vụ án”.
Định nghĩa này đánh giá hoạt động xét hỏi chủ yếu ở việc xem xét chứng cứ và
chưa nêu bật được những vấn đề quan trọng khác trong thủ tục xét hỏi như về mặt
chủ thể và vai trò trung tâm của giai đoạn xét hỏi trong toàn bộ quá trình xét xử sơ
thẩm một vụ án hình sự.
Theo quan điểm của tác giả Đinh Văn Quế: “Xét hỏi là thủ tục chính của
phiên tịa sơ thẩm, trong đó Tịa án cùng các bên tranh tụng xem xét, kiểm tra
chứng cứ của bên buộc tội, thu thập trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ do
bên bào chữa đề xuất được Tòa án chấp nhận nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự
kiện khách quan của vụ án” [18, tr.3-10]. Tại định nghĩa này, tác giả đã đề cập đến
chủ thể thực hiện hoạt động xét hỏi, trong đó Tịa án đóng vai trị quan trọng trong
việc đánh giá các chứng cứ trong vụ án để đạt được mục đích là tìm ra sự thật khách
quan. Tuy nhiên, định nghĩa chưa nêu được đầy đủ các hoạt động khác trong thủ tục
xét hỏi, bởi việc xem xét chứng cứ chỉ là một trong các hoạt động trong thủ tục này.
Tác giả Võ Hồng Phúc cho rằng: “Thủ tục xét hỏi là hoạt động trung tâm
trong quá trình xét xử vụ án hình sự và cũng là hoạt động quan trọng nhất để xác
định sự thật vụ án. Trong đó, Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, người bào chữa và
những người khác theo quy định của pháp luật thực hiện bằng cách đặt câu hỏi trực

tiếp cho bị cáo và những người tham gia tố tụng; xem xét chứng cứ, kết luận điều
tra, bản cáo trạng; xem xét hiện trường xảy ra vụ án nhằm kiểm tra công khai tất cả
tình tiết liên quan đến vụ án tại phiên tòa” [16, tr.7]. Định nghĩa về xét hỏi mà tác
giả Võ Hồng Phúc đưa ra là tương đối toàn diện. Qua các ý kiến trên đây, có thể
thấy xét hỏi tại phiên tịa hình sự là một hoạt động tố tụng được thực hiện bởi những
chủ thể khác nhau như Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, Người bào chữa,
Người giám định…việc xét hỏi phải theo một trình tự tố tụng chặt chẽ được quy
định tại BLTTHS. Mục đích của việc xét hỏi nhằm xem xét lại các chứng cứ được
thu thập tại giai đoạn điều tra, các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tịa. Thơng
9


qua việc xét hỏi, xác định được sự thật khách quan của vụ án, đi đến mục đích
chứng minh có hay không tội phạm và hành vi phạm tội.
Việc hỏi và trả lời phải được tiến hành công khai, trực tiếp bằng lời nói tại
phiên tịa và thủ tục hỏi phải diễn ra liên tục bắt đầu từ sau khi Kiểm sát viên đọc
bản cáo trạng và chấm dứt tại thời điểm Chủ tọa phiên tòa tuyên bố kết thúc phần
hỏi và chuyển sang phần Kiểm sát viên trình bày luận tội và các chủ thể khác thực
hiện quyền bào chữa tại phiên tịa. Có thể nói, tại phiên tịa, thủ tục xét hỏi đóng vai
trị vơ cùng quan trọng, là bước quyết định để làm sáng tỏ vụ án, xác định lại những
người, những tình tiết có liên quan hoặc khơng liên quan, qua đó có thể quyết định
có cần thu thập thêm chứng cứ hay không? Giai đoạn này làm tiền đề cho phần
tranh luận và tuyên án. Khi đã tun án, Chủ tọa phiên tịa khơng được quyền trở lại
phần xét hỏi. Do đó, tồn bộ hoạt động chứng minh tội phạm tại phiên tòa và xem
xét tồn diện các vật chứng, lời nói, lời bào chữa.... được diễn ra chủ yếu trong giai
đoạn xét hỏi.
Tại giai đoạn xét hỏi, các chủ thể tham gia tố tụng thực hiện quyền hỏi theo
những mục đích khác nhau tùy vào vai trị của mình. Chủ tọa, Hội thẩm thực hiện
việc hỏi để tìm ra sự thật của vụ án, Kiểm sát viên hỏi để bảo vệ cho quan điểm
trong cáo trạng truy tố của mình, người bào chữa hỏi để bảo vệ quyền lợi cho thân

chủ của mình... Tuy nhiên, tất cả đều đi đến mục đích chung là chứng minh có hay
khơng tội phạm và việc xét hỏi trên tinh thần tôn trọng sự thật khách quan của vụ
án, khơng nhằm mục đích che giấu tội phạm hoặc làm sai lệch nhận thức về hành vi
phạm tội và các dấu hiệu tội phạm.
1.1.3. Vai trò của Tòa án trong việc xét hỏi
Trước khi chuyển sang mơ hình tố tụng xét hỏi kết hợp với tranh tụng (theo
tinh thần và nội dung Bộ luật TTHS năm 2015), tố tụng hình sự Việt Nam trong
một thời gian dài xác định việc tìm kiếm sự thật chủ yếu bằng phương pháp điều
tra, thẩm vấn. Phương pháp này được sử dụng ở tất cả các giai đoạn tố tụng.
Phương pháp điều tra được thực hiện dưới hình thức xét hỏi, chủ thể của việc xét
hỏi đầu tiên và trước hết sau khi Viện kiểm sát công bố bản cáo trạng thuộc về Hội
10


đồng xét xử và được quyền hỏi toàn bộ các vấn đề liên quan đến nội dung vụ án.
Sau việc xét hỏi của Hội đồng xét xử, pháp luật quy định thẩm quyền hỏi của Kiểm
sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự...Trong mơ hình tố
tụng hình sự thẩm vấn, Tịa án có vai trị tích cực, chủ động trong việc xác định sự
thật của vụ án, khác với mơ hình tố tụng hình sự tranh tụng, mơ hình tố tụng thẩm
vấn trao cho Tịa án quyền chủ động rất lớn trong toàn bộ quá trình xét xử vụ án
hình sự, việc xét xử tại phiên tòa thực chất là giai đoạn Tòa án tiếp tục củng cố tài
liệu, chứng cứ trên cơ sở dữ liệu do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát lập nên.
Điểm giống nhau trong chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan kể trên với Tịa án là
cùng có trách nhiệm chứng minh tội phạm, đảm bảo việc truy tố, xét xử đúng người
đúng tội.
Tòa án được tiếp xúc hồ sơ vụ án ngay từ trước khi mở phiên tòa, thời gian
nghiên cứu hồ sơ tương đối dài. Trong q trình nghiên cứu hồ sơ, Tịa án được
quyền trả lại hồ sơ cho Viện kiệm sát để điều tra bổ sung, hoặc khi có căn cứ cho
rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác, khi phát hiện có sự vi
phạm thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử thông qua hoạt động xét hỏi, xem xét chứng

cứ, tài liệu tại phiên tòa để đi đến kết luận cuối cùng về tội phạm và hình phạt.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án tuy có chức năng, nhiệm vụ khác
nhau nhưng trong tố tụng hình sự, các nhiệm vụ chức năng của ba cơ quan được
quy định cũng đều nhằm mục đích đảm bảo sự minh bạch trong hoạt động chứng
minh sự thật vụ án. Các cơ quan này có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ nhau
mà trong đó, Tịa án giữ vị trí trung tâm và là cơ quan sau cùng có thẩm quyền
quyết định, kết luận lại tất cả các hoạt động thu thập được ở giai đoạn trước đó,
quyết định tính hợp pháp và thuyết phục của chứng cứ do các cơ quan đưa ra và
tuyên án để khép lại vụ án hình sự.
Tố tụng hình sự nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam phân biệt các
chức năng của TTHS bao gồm: buộc tội, xét xử và bào chữa, trong đó Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát có trách nhiệm chứng minh bị can phạm tội, Tòa án là cơ quan
xét xử và người bào chữa cho bị can, bị cáo thực hiện chức năng bào chữa. Việc
11


phân định rõ chức năng nhằm mục đích tạo ra bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
tố tụng, chủ yếu là bên buộc tội và bên gỡ tội. Sự bình đẳng ở đây khơng chỉ là địa
vị pháp lý, về quyền và nghĩa vụ của các bên mà thừa nhận khả năng ngang bằng
nhau của các bên trong hoạt động chứng minh, đưa ra yêu cầu và giải quyết yêu
cầu. Trong phạm vi xét hỏi, nếu bên buộc tội được sử dụng những quyền gì khi
tham gia tố tụng thì bên buộc tội cũng được áp dụng những quyền đó, ví dụ quyền
đặt câu hỏi, quyền xem xét chứng cứ. Còn về Tòa án, việc phân định chức năng
phải xác định Tòa án là cơ quan độc lập và khách quan trong xét xử.
Xét hỏi là thủ tục trọng tâm tại phiên tịa sơ thẩm, vì tính chất đặc biệt quan
trọng của nó nên BLTTHS năm 2015 đã hướng dẫn thủ tục này khá đầy đủ bằng
Mục V - Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử cần vận dụng linh hoạt
các quy định trong quá trình xét hỏi để đạt được mục đích chứng minh tội phạm, đổi
mới việc xét hỏi kết hợp với tranh tụng theo xu hướng tiếp cận gần hơn với các nền
lập pháp tiên tiến trên thế giới, kết hợp giữa mơ hình tố tụng hình sự thẩm vấn và

mơ hình tố tụng hình sự tranh tụng. Qua đó góp phần thực hiện chủ trương và định
hướng được xác định tại các Nghị quyết số 49-NQ/TW và Nghị quyết số 48 –
NQ/TW của Bộ chính trị, đó là cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo
hướng dân chủ, bình đẳng, cơng khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện; bảo
đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất
lượng tranh tụng tại Tòa án làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là
khâu đột phá để nâng cao chất lượng của hoạt động tư pháp.
1.1.4. Các nguyên tắc của việc xét hỏi
Trong xét hỏi tại phiên tòa, các cơ quan tiến hành TTHS, người tiến hành
TTHS cũng như những người tham gia TTHS cần tuân thủ các nguyên tắc TTHS
với các yêu cầu cụ thể sau đây:
- Việc xét hỏi phải công khai: Công khai phái sinh từ nguyên tắc Hiến định là
Tòa án xét xử cơng khai…trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước…Tịa án có
thể xét xử kín nhưng phải tuyên án công khai (Điều 67 – Hiến pháp 1946, Điều 101
– Hiến pháp 1959, Điều 133 – Hiến pháp 1980, Điều 131 – Hiến pháp 1992, Điều
12


103 – Hiến pháp 2013, Điều 18 BLTTHS 2003). Tòa án đóng vai trị quan trọng
trong cơng tác xét xử, đại diện cho quyền lực nhà nước, nhân danh Nhà nước trong
việc quyết định số phận pháp lý của một cơng dân, do đó việc xét xử và xét hỏi
cơng khai là nguyên tắc đầu tiên cần tuyệt đối tuân thủ, có xét xử và xét hỏi cơng
khai thì nhân dân và các cơ quan quyền lực khác mới thực hiện được quyền giám
sát của mình. Qua đó mới đánh giá được tính cơng bằng, khách quan và đảm bảo
được pháp chế xã hội. Việc ghi nhận nguyên tắc này ngay trong Hiến pháp đã thể
hiện quan điểm của nhà lập pháp trong việc bảo vệ quyền con người, với mục đích
cao nhất là hướng đến một nền tư pháp mà không ai bị đối xử bất công, cho dù
người đó đang bị cáo buộc phạm tội và sắp đối mặt với những hình phạt của pháp
luật.
Nguyên tắc xét hỏi công khai đặt ra yêu cầu xem xét, đánh giá chứng cứ và

đưa ra kết luận cuối cùng, tất cả phải được diễn ra tại phiên tịa, có sự tham gia của
các cơ quan khác ngồi Tịa án, của những người tham gia phiên tòa, hành phiên tòa và xem xét chứng cứ các bên đưa ra thì khi
đó, phiên tòa mới đạt được hiệu quả theo yêu cầu cải cách tư pháp.
57


Nguyên nhân thứ ba chính là việc cơ quan điều tra thu thập chứng cứ và Tòa
án xét xử trên hồ sơ do các cơ quan tiến hành tố tụng xây dựng cũng đã bộc lộ sự
phiến diện, cần thiết mở rộng quy định về quyền tiếp cận và thu thập chứng cứ cho
các đối tượng khác như Luật sư, người bảo vệ quyền, lợi ích của bị can, bị cáo và
bản thân bị cáo cũng được quyền tự thu thập và yêu cầu thu thập chứng cứ, có như
vậy thì phần xét hỏi và tranh tụng mới thực sự là giai đoạn đánh giá chứng cứ của
các bên đối trọng.
Tiểu kết chương 2
Mặc dù đạt được những tiến bộ trong công tác cải cách tư pháp nhưng
BLTTHS 2015 vẫn chưa đánh giá đúng mức sự tồn tại và vận hành của các chức
năng cơ bản trong tố tụng hình sự (buộc tội – bào chữa – xét xử), thủ tục xét hỏi
được quy định tại BLTTHS hiện hành đang bộc lộ hạn chế về chủ thể xét hỏi, trình
tự xét hỏi khi quy định Hội đồng xét xử được quyền hỏi trước và hỏi chính, hỏi tồn
bộ nội dung vụ án… việc xem xét chứng cứ, tài liệu tại phiên tòa để phục vụ cho
việc xét hỏi chưa được đảm bảo về cơ chế thực hiện ví dụ như thu thập lời khai của
nhân chứng qua mạng máy tính, thu thập chứng cứ ngồi phiên tịa, nội dung hỏi
của Chủ tọa, Hội thẩm, Kiểm sát viên chưa đúng trọng tâm, cịn bỏ sót chứng cứ
quan trọng…Cơ sở vật chất còn chưa đảm bảo cho việc cách ly bị cáo tại phiên tịa.
Để đảm bảo tính tranh tụng tại phiên tòa, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố
tụng hình sự 2015 đi kèm với việc đề ra những giải pháp cụ thể để nâng cao chất
lượng tranh tụng và chất lượng xét xử tại các phiên tòa hình sự hiện nay.

58



Chương 3
CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THI HÀNH ĐÚNG CÁC QUY ĐỊNH
VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ SƠ THẨM
Sau hơn 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, đặc biệt từ khi Nghị quyết số
08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong
thời gian tới được ban hành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cơng tác tư pháp hình sự
đã có những chuyển biến tích cực, tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và cơ chế
hoạt động của các cơ quan tư pháp được xác định rõ hơn và từng bước được củng
cố, kiện toàn, chất lượng điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án có chuyển biến tốt;
Công tác xét xử được xem xét thận trọng, đúng pháp luật, tình trạng tồn đọng án
phúc thẩm đã cơ bản được khắc phục; Tỷ lệ khám phá án, điều tra, truy tố, xét xử
đạt cao và năm sau đều đạt cao hơn năm trước; Chủ trương “ nâng cao chất lượng
tranh tụng tại phiên tòa” được triển khai thực hiện, tại khơng khí dân chủ trong các
phiên tịa, vai trị của luật sư được nhìn nhận tích cực hơn…
Số liệu giải quyết án hình sự của Tịa án nhân dân Quận 10 qua các năm như
sau: năm 2015, thụ lý 233 vụ án hình sự, giải quyết 100%, năm 2016 thụ lý 196 vụ
án hình sự, giải quyết 100%, năm 2018 thụ lý 128 vụ, giải quyết 100% (trong đó có
5 vụ bị kháng cáo, 0 vụ bị kháng nghị phúc thẩm, 1 vụ bị kháng nghị tái thẩm
nhưng không được chấp nhận, 0 vụ bị cấp phúc thẩm hủy, 2 vụ cấp phúc thẩm sửa
do lỗi khách quan) cho thấy chất lượng xét xử ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên,
những kết quả đó là bước đầu và mới tập trung vào giải quyết những vấn đề bức xúc
nhất. Cơng tác tư pháp hình sự cịn bộc lộ những bất cập, hạn chế như: Tổ chức bộ
máy, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp vẫn cịn bất
hợp lý, chưa có sự phân định chính xác, hợp lý giữa các chức năng cơ bản của tố
tụng, dẫn đến việc quy định vai trò, thẩm quyền cụ thể của từng chủ thể tố tụng và
trình tự tiến hành các thủ tục chưa phù hợp, có những thẩm quyền thuộc chức năng
buộc tội nhưng Viện kiểm sát (cơ quan thực hiện chức năng buộc tội) lại khơng
được thực hiện, ngược lại Tịa án (cơ quan thực hiện chức năng xét xử) lại được
giao thực hiện những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội, còn thiếu cơ chế bảo

59


đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm
quyền bào chữa của bị can, bị cáo, ý kiến tranh luận, tranh tụng của luật sư vẫn
chưa thực sự được coi trọng, khơng ít bản án, quyết định của Tịa án chưa thực sự
dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, dẫn đến các bản án hủy, sửa còn
chiếm tỷ lệ khá cao…Những vướng mắc, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng khơng nhỏ
đến kết quả đấu tranh phịng, chống tội phạm, đến yêu cầu xây dựng một nền tư
pháp dân chủ, công bằng, nghiêm minh, bảo vệ công lý, ảnh hưởng đến quyền bào
chữa của bị can, bị cáo và đặc biệt là không tạo ra được cơ chế hữu hiệu để thúc đẩy
các cơ quan tiến hành tố tụng tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả hoạt động của mình
trước sự đối trọng, phản biện tích cực từ bên bào chữa. Vì vậy, cần sửa đổi các quy
định về xét xử để hoàn thiện thủ tục xét hỏi và nâng cao tính tranh tụng tại phiên tịa
hình sự là vấn đề trọng tâm. Một số giải pháp cụ thể như sau:
3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về xét
hỏi
Bộ luật TTHS năm 2015 mới được thực hiện, tuy bộc lộ một số điểm vướng
mắc về áp dụng các quy định về xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm cũng nhưu một số chế
định khác. Tuy nhiên, để có giải pháp khắc phục, cần có tổng kết cơ bản sau một số
năm thực hiện. Trước mắt, có thể nêu một số kiến nghị sau đây:
- Về chủ thể tham gia xét hỏi: Theo quy định tại khoản 2 Điều 307 BLTTHS
2015 thì những người được quyền tham gia xét hỏi gồm Chủ tọa phiên tòa, Thẩm
phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa được quyền
đề nghị Chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Theo quy định trên thì những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa chỉ
được quyền đề nghị Chủ tọa hỏi, có nghĩa là họ khơng thực sự được pháp luật trao
cho quyền xét hỏi trực tiếp những người khác tại phiên tịa mà thơng qua việc đề
nghị với Hội đồng xét xử. Trong số đó, bị can, bị cáo cũng thuộc trường hợp người

tham gia tố tụng tại phiên tòa, họ là trung tâm của thủ tục xét hỏi khi tất cả những
người đang có mặt tại phiên tòa (trừ người bào chữa cho họ) đưa ra những lập luận
60


và bằng chứng, các câu hỏi và tình tiết để chống lại họ thì lại khơng được trao
quyền xét hỏi trực tiếp. Đồng thời, các chủ thể khác như bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự tuy không phải là đối tượng xét hỏi chính nhưng họ cũng là người bị
những tổn thất nhất định về vật chất hoặc tinh thần hoặc sẽ phải chịu những trách
nhiệm dân sự khác trong tương lai, họ cũng cần tham gia xét hỏi trực tiếp để làm rõ
hơn các tình tiết liên quan đến họ.
Theo cách quy định như hiện nay, thì những chủ thể kể trên chỉ được quyền
đề nghị, có nghĩa là việc đề nghị đó có thể được Hội đồng xét xử chấp nhận hoặc
không, nếu không được chấp nhận thì họ mất quyền được hỏi. Như vậy, quyền lợi
của họ ít nhiều bị ảnh hưởng tại phiên tòa. Cần thiết, sửa đổi quy định tại Khoản 2
như sau:
“… Người tham gia tố tụng tại phiên tòa được quyền hỏi những người khác
có mặt tại phiên tịa các tình tiết có liên quan đến họ”.
-Về trình tự xét hỏi: Quy định về trình tự xét hỏi của BLTTHS 2015 chưa
thực sự rõ ràng, thể hiện tại Khoản 1 Điều 307 quy định: “…Chủ tọa phiên tòa điều
hành việc hỏi, quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý”, trong khi đó
tại Khoản 2 Điều 307 quy định: “ Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên tịa hỏi
trước sau đó quyết định để Thẩm phán, hội thẩm, Kiểm sát viên, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện việc hỏi”. Học viên cho rằng nếu
đã trao cho Chủ tọa phiên tòa được quyền quyết định về thứ tự xét hỏi thì khơng cần
thiết quy định như tại Khoản 2, dẫn đến cách hiểu là Chủ tọa phiên tòa xét hỏi đầu
tiên và đang là chủ thể tích cực nhất trong việc xét hỏi như quy định hiện nay. Trình
tự xét hỏi rất quan trọng vì nó đặt nền móng cho cả quá trình thực hiện việc hỏi và
tranh luận tiếp theo, về mặt lý luận thì có buộc tội mới có gỡ tội, trong khi Hội đồng
xét xử khơng phải là cơ quan buộc tội và cũng không phải là bên gỡ tội thì lại là

người phải hỏi đầu tiên, đây là điều nhất thiết phải được thay đổi cho phù hợp với
quy luật và đảm bảo cho các chủ thể thực hiện tốt nhất nhiệm vụ của mình, đặt các
chủ thể về đúng chức năng mà pháp luật quy định. Hội đồng xét xử được quyền hỏi
bất cứ lúc nào và hỏi những vấn đề các bên trình bày chưa rõ, như vậy mới bảo đảm
61


chức năng xét xử, là trọng tài đúng nghĩa, đứng giữa để quyết định sự thật khách
quan của vụ án. Dựa trên các chức năng tố tụng hình sự, thì trình tự xét hỏi cần
được thay đổi theo hướng hợp lý hơn, cụ thể sửa đổi, bổ sung về chủ thể và thứ tự
xét hỏi tại khoản 2 Điều 307 như sau: “Kiểm sát viên, người bị hại, người bào chữa,
bị cáo, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định, người định giá,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thực hiện
việc xét hỏi tại phiên tịa” và trình tự này sẽ được thay đổi tùy nội dung, tích chất
của từng vụ án, nếu Chủ tọa xét thấy cần thiết thay đổi để đảm bảo cho việc xét hỏi
tại phiên tòa.
- Đề xuất quy định bị can, bị cáo được quyền đọc hồ sơ vụ án trước khi xét
xử nếu khơng có người bào chữa: Thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo của Đảng về
bảo vệ quyền công dân, quyền con người nói chung, quyền của bị can, bị cáo tại
phiên tịa nói riêng, để bị can, bị cáo có thể tự bào chữa cho mình một cách tốt nhất,
phiên tịa được diễn ra cơng khai do đó bị can, bị cáo cũng được quyền biết về tất cả
các chứng cứ buộc tội mình trước khi Tịa án xét xử để có thể chuẩn bị cho việc tự
bào chữa và đối đáp trong phần xét hỏi với các chủ thể khác. Hội đồng xét xử cũng
không mất nhiều thời gian trong việc công bố các chứng cứ của vụ án cho bị can, bị
cáo mà có thể đặt ra các câu hỏi ngắn gọn, tranh luận trực tiếp thẳng vào các vấn đề
chính vì những gì có trong hồ sơ vụ án, bị can, bị cáo cũng đã được biết trước đó.
- Về quy định cơng bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố: Khoản 1
Điều 308 BLTTHS 2015 quy định: “Nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tịa thì
HĐXX, KSV khơng được cơng bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố”.
Quy định này chưa rõ ràng, vừa mâu thuẫn với quy định tại Khoản 2, vừa dẫn đến

cách hiểu là nếu người được xét hỏi có mặt tại phiên tịa thì trong mọi trường hợp
khơng được cơng bố lời khai của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố, tác giả cho
rằng giữ nguyên quy định cũ như tại khoản 1 Điều 208 BLTTHS 2003 thì đầy đủ ý
nghĩa hơn, do đó, cần bổ sung, sửa đổi như sau: “…không được công bố lời khai
của họ trong giai đoạn điều tra, truy tố trước khi họ khai tại phiên tịa về những tình
tiết của vụ án”.
62


×