Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tài liệu Tổng quan chứng khoán doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.94 KB, 39 trang )

TỔNG QUAN CHỨNG KHOÁN
1
CHỨNG KHOÁN
Thị trường chứng khoán là gì?
(13-01-2009 09:00:38)

I.Thị trường chứng khoán là gì?
Thị trường chứng khoán là một thị trường mà ở nơi đó người ta mua bán, chuyển nhượng,
trao đổi chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời. Tuy nhiên, đó có thể là TTCK tập trung hoặc phi
tập trung. Tính tập trung ở đây là muốn nói đến việc các giao dịch được tổ chức tập trung theo một
địa điểm vật chất.Hình thái điển hình của TTCK tập trung là Sở giao dịch chứng khoán ( Stock
exchange).
Tại Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK), các giao dịch được tập trung tại một địa điểm;
các lệnh được chuyển tới sàn giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên giá
giao dịch.TTCK phi tập trung còn gọi là thị trường OTC (over the counter). Trên thị trường OTC,
các giao dịch được tiến hành qua mạng lưới các công ty chứng khoán phân tán trên khắp quốc gia
và được nối với nhau bằng mạng điện tử. Giá trên thị trường này được hình thành theo phương
thức thoả thuận.
II.Chức năng của TTCK
1. Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế: Khi các nhà đầu tư mua chứng khoán do các công
ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp
phần mở rộng sản xuất xã hội. Thông qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương
cũng huy động được các nguồn vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế,
phục vụ các nhu cầu chung của xã hội.
2. Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng: TTCK cung cấp cho công chúng một môi
trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội lựa chọn phong phú. Các loại chứng khoán trên thị trường
rất khác nhau về tính chất, thời hạn và độ rủi ro, cho phép các nhà đầu tư có thể lựa chọn loại hàng
hoá phù hợp với khả năng, mục tiêu và sở thích của mình.
3. Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán: Nhờ có TTCK các nhà đầu tư có thể chuyển
đổi các chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt hoặc các loại chứng khoán khác khi họ muốn. Khả
năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán đối với người đầu tư. Đây


là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có
hiệu quả thì tính thanh khoản của các chứng khoán giao dịch trên thị trường càng cao.
2
4. Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp: Thông qua chứng khoán, hoạt động của các
doanh nghiệp được phản ánh một cách tổng hợp và chính xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh
hoạt động của doanh nghiệp được nhanh chóng và thuận tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường
cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công nghệ mới, cải
tiến sản phẩm.
5. Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và chính xác. Giá
các chứng khoán tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng; ngược lại giá
chứng khoán giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK được gọi là
phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ thực hiện các chính
sách kinh tế vĩ mô. Thông qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán trái phiếu Chính phủ để tạo ra
nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát. Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử
dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự
phát triển cân đối của nền kinh tế.
III. Cơ cấu TTCK: xét về sự lưu thông của chứng khoán trên thị trường, TTCK có hai loại:
1. Thị trường sơ cấp: Là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành. Trên thị
trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư mua
các chứng khoán mới phát hành.
2. Thị trường thứ cấp: Là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường
sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát hành.
Thị trường thứ cấp là nơi trao đổi, mua bán các chứng khoán đã được phát hành. Nhà đầu
tư mua đi bán lại chứng khoán nhằm vào một trong các mục đích: cất giữ tài sản tài chính, nhận
một khoản thu nhập cố định hàng năm, hưởng chênh lệch giá.
Như vậy, thị trường thứ cấp không cung cấp dịch vốn cho các doanh nghiệp, thì có lợi gì?
Không có thị trường thứ cấp, thì không có thị trường sơ cấp: nếu chứng khoán phát hành ra mà
không lưu chuyển được trên thị trường thứ cấp, thì nhà đầu tư cũng không quan tâm đến việc mua,
nắm giữ chứng khoán phát hành (nhất là cổ phiếu, một loại chứng khoán vô thời hạn). Cổ phiếu

của một tổ chức niêm yết trên thị trường chứng khoán khi được mua bán nhiều là phản ánh lòng
tin của người đầu tư vào tổ chức đó; do đó khi tổ chức niêm yết muốn tăng vốn, họ có thể tiếp tục
phát hành cổ phiếu hoặc trái phiếu đợt mới. Vì vậy, thông thường, khi thị trường đang lên (chỉ số
giá cổ phiếu đang ở xu hướng tăng), thì các công ty dễ dàng phát hành với khối lượng lớn. Khi thị
trường đang xuống, thì các công ty rất khó phát hành chứng khoán. Ngược lại, nếu tổ chức phát
hành các cổ phiếu có chất lượng cao ở thị trường sơ cấp thì việc mua bán trên thị trường thứ cấp
mới sôi động, nếu phát hành cổ phiếu không có chất lượng thì cổ phiếu đó không giao dịch được
trên thị trường thứ cấp.
Đối tượng tham gia thị trường chứng khoán gồm: Sở giao dịch chứng khoán (hoặc Trung
tâm giao dịch chứng khoán), là người tổ chức thị trường; công ty chứng khoán, là người kinh
doanh chứng khoán, trực tiếp mua bán chứng khoán trên Sở Giao dịch chứng khoán (hoặc Trung
tâm giao dịch chứng khoán); nhà đầu tư, là những người mua bán chứng khoán thông qua các công
ty môi giới chứng khoán; tổ chức niêm yết; và cơ quan quản lý-giám sát thị trường.
3
(Theo: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội)
Chiến lược đầu tư chứng khoán: 3 bước cơ bản
(13-01-2009 09:00:46)
Với những nhà đầu tư khi mới tham gia vào thị trường, việc tìm hiểu thông tin ban đầu là
điều quan trọng nhất. Bài viết sau đây sẽ góp phần giúp nhà đầu tư trong quá trình nhận định chiến
lược đầu tư.
Thông thường, một chiến lược tổng hợp bao gồm 3 bước cơ bản sau:
Thu thập thông tin
Ban đầu bất cứ ai cũng bỏ ngỏ khi bước chân vào thị trường chứng khoán, do vậy việc đầu
tiên là chúng ta phải tìm thông tin từ nhiều cách: đọc sách, ấn phẩm về kinh doanh, các trang tin
trên báo đài hoặc qua các webside của các công ty đó.
Sau khi tìm được các ấn phẩm và các sản phẩm bạn ưa thích, chúng ta có thể lưu chúng lại
để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn. Ngoài ra chúng ta có thể bàn bạc với các chuyên gia của công ty
chứng khoán hoặc với các nhà đầu tư khác trên thị trường để có nhiều thông tin hơn.
Bước đầu tiên khi chúng ta xác định lựa chọn cổ phiếu mà mình ưa thích, sau đó tìm hiểu
thông tin về công ty đó... Việc tìm hiểu đề ra một quyết định đúng đắn thật không dễ dàng đối với

các nhà đầu tư còn non trẻ, do vậy chúng ta hãy nghiên cứu các loại báo cáo của công ty như báo
cáo thường niên, báo cáo quý, thêm vào đó hãy đọc cả các bản báo cáo tài chính và thu nhập của
công ty mà mình đang định mua và các báo cáo của các đối thủ cạnh tranh của công ty trong cùng
ngành đó, bởi nó sẽ giúp cho chúng ta trong việc so sánh kết quả kinh doanh, tình hình lợi nhuận
của các công ty đó với nhau.
Các bản báo cáo của công ty này chúng ta có thể tìm ở đâu? Chúng ta có thể tìm thông qua
các trang web của công ty hoặc qua các cơ quan quan hệ đầu tư. Chúng ta có thể vào trang web
của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (www.ssc.gov.vn) và các Trung tâm Giao dịch Chứng khoán
như: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (www.hastc.org.vn), hay Trung tâm Giao dịch
Chứng khoán Tp.HCM (www.vse.org.vn) hoặc các dịch vụ dữ liệu đi kèm.
Tên của các công ty đối thủ cạnh tranh có thể tìm được thông qua các dịch vụ nghiên cứu
chứng khoán, hay trang web của các bộ - ngành. Ngoài ra, còn vô số các trang web cung cấp các
thông tin liên quan về dịch vụ đầu tư, kiến thức cơ bản về chứng khoán.
Để hiểu thêm về cơ cấu thông tin giúp cho việc nghiên cứu chứng khoán tốt hơn, bạn có
thể tham khảo qua trang web của Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (www.vafi.org.vn),
4
hay trang web của Công ty Chứng khoán Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (www.vcbs.com.vn).
Các trang web này cũng giới thiệu cả các phần mềm máy tính có khả năng rà soát giá cổ phiếu và
đánh giá về chỉ số giá so sách, ROE, ROA, Ebit... của các loạt cổ phiếu.
Đánh giá thông tin
Đây là một bước vô cùng quan trọng cho các nhà đầu tư, bởi vì việc xác định chất lượng
của một cổ phiếu giống như chúng ta lựa chọn một nhà hàng để ăn uống. Chúng ta có thể đoán là
nhà hàng đó không thể hoàn hảo tới mức 100% nhưng ta luôn mong muốn nó đạt được chất lượng
tối ưu, do vậy trước khi mua cổ phiếu, bạn nên đặt ra các tiêu chuẩn lựa chọn cho riêng mình.
Để kiểm tra các thông tin của cổ phiếu mà mình lựa chọn thì thứ nhất phải bắt tay vào việc
tìm hiểu các công ty và ban quản lý của công ty đó về các vấn đề như: công việc kinh doanh của
họ có dễ hiểu không? mục tiêu kinh doanh của họ là gì? công việc kinh doanh đó có những gì rủi
ro? các báo cáo về công việc quản lý công ty đưa ra cho các cổ đông có thật không?...
Chúng ta nên đọc các nhận xét của ban quản lý về mục tiêu kinh doanh, doanh số, lãi và
các con số hoạt động khác của công ty trong các bản báo cáo 5 năm gần nhất hoặc có thể là nhiều

hơn. Sau đó so sánh các nhận xét này với kết quả hoạt động thực tế của công ty, để chúng ta có
một đánh giá chính xác hơn về tình hình hoạt động, về đội ngũ quản lý có năng động? chuyên
nghiệp và say mê?
Thứ hai là chúng ta hãy nghiên cứu kỹ cách quản lý, chính sách và sản phẩm của công ty;
Liệu công ty có đội ngũ quản lý mạnh không? Liệu công ty có giữ uy tín với khách hàng? Sản
phẩm có duy trì được sự trung thành với khách hàng?
Những câu hỏi đặt ra như trên về chất lượng quản lý của công ty có vẻ hơi chủ quan. Tuy
nhiên nếu bạn có chiến lược mua bán cổ phiếu của một công ty nhất định bạn nên tìm hiểu thông
tin về ban lãnh đạo của công ty càng nhiều càng tốt. Một số nhà đầu tư nổi tiếng thường cho rằng
“nên mua cổ phiếu như thể anh có thể trở thành đối tác làm ăn với công ty đó”.
Thứ ba là xem xét các con số tài chính của công ty; Ta phải tìm hiểu xem công ty có lịch
sử lâu dài về việc tăng doanh số và lãi với mức tăng trưởng cao hay không? mức nọ của công ty có
hợp lý? Công ty có lịch sử trả lãi cổ đông đều đặn hay không?.. hãy so sánh công ty với các đối
thủ cạnh tranh về các con số tài chính, chất lượng quản lý, sản phẩm và dịch vụ.
Thứ tư là đánh giá xem xét giá cổ phiếu của công ty có hấp dẫn các nhà đầu tư trên thị
trường hay không? Để trả lời câu hỏi này bạn có thể hỏi các trung tâm dịch vụ chứng khoán, tham
khảo nguồn thông tin trên thị trường hoặc tính toán các hệ số tài chính thông qua các báo cáo tài
chính của công ty.
Tất cả các nghiên cứu đánh giá thông tin này đòi hỏi rất nhiều nỗ lực của chúng ta. Hiện
nay với sự trợ giúp của Internet, thông qua các webside của các công ty việc tìm kiếm các câu trả
lời để đưa đến các quyết định đầu tư không còn là khó.
Ra quyết định đầu tư
5
Trước khi ra quyết định, chúng ta hãy đánh giá cả rủi ro lẫn lợi nhuận tiềm năng của cổ
phiếu đó, hãy so sánh việc đầu tư vào cổ phiếu có lợi hay không và các chứng khoán khác có lợi
hơn loại chứng khoán mình đã chọn?
Bạn nên xem xét có nên sở hữu chứng khoán trong thời gian dài hay không? Khi mà các
dấu hiệu cảnh báo về một thị trường cạnh tranh khốc liệt của cổ phiếu và các thay đổi tiêu cực
trong quản lý của công ty?
Mặc dầu trên thực tế đầu tư cũng có những yếu tố may mắn nhưng để trở thành nhà đầu tư

thành đạt về lâu dài thì chúng ta cần phải có sự kiên nhẫn, kỷ luật, kiến thức và kỹ năng. Phải có
những yếu tố đó thì chúng ta mới dự đoán được lãi, giá cổ phiếu và những nguồn thu tiềm năng.
Điều lưu ý hơn cả là chúng ta có thể dự tính được tỷ lệ tăng trưởng doanh số hoặc lãi trong vòng 5
năm đến 10 năm tới.
Nhận định chiến lược đầu tư, trang bị cho mình kiến thức về cổ phiếu của công ty mình dự
định mua, kiên nhẫn, cân nhắc kỹ càng, tính toán hệ số tài chính, dự đoán lãi và giá cổ phiếu gần
với giá thực tế trong tương lai nhất, chắc chắn bạn sẽ là người thành công nhất.
Theo TBKTVN
Biểu đồ giá và Support & Resistance
(25-04-2009 18:22:29)
Support và resistance đại diện quan trọng cho mối quan hệ giữa cung và cầu. Trên thị
trường tài chính, giá cả phụ thuộc vào sự tăng giảm của cung và cầu. Cung tăng đồng nghĩa với xu
hướng giảm, kì vọng giá giảm và việc bán. Cầu tăng đồng nghĩa với xu hướng tăng , kì vọng giá
tăng và việc mua. Những từ này được dùng với ý nghĩa như nhau. Khi nhu cầu tăng giá sẽ tăng
còn khi cung tăng thì giá sẽ giảm. Khi cung và cầu đạt mức cân bằng thì giá sẽ ổn định.
Xác lập giá
Có 2 phương pháp để biểu diễn mức giá dọc theo trục y (trục tung) là: arithmetic (số học)
và logarithmic (thuộc hàm log). Cách arithmetic biểu diễn 10 điểm cách đều nhau trên đường chéo
cho dù mức giá có khác nhau. Mỗi đơn vị đo đều như nhau. Nếu giá cổ phần tăng từ 10 lên 80 sau
6 tháng thì sẽ xuất hiện sự dịch chuyển từ 10 lên 20 và sự dịch chuyển này cũng tương đương với
sự dịch chuyển từ 70 lên 80. Tuy nhiên sự chuyển dịch trên không tương đương về phần trăm.
Cách logarithmic đo sự tăng giảm của giá cả theo phần trăm. Tăng từ 10 lên 20 nghĩa là
tăng 100%. Cũng thế với bước tăng từ 20 lên 40 và từ 40 lên 80. Cả 3 sự dịch chuyển trên có
khoảng cách trên đường chéo như nhau . Hầu hết các chương trình về biểu đồ cho rằng dạng
logarithmic là dạng semi-log, vì trục thời gian vẫn được biểu diễn theo kiểu số học.
6
Biểu đồ trên minh họa cho sự khác nhau của 2 dạng. Ở dạng semi-log, khoảng cách giữa
50 và 100 cũng bằng khoảng cách giữa 100 và 200. Còn đối với dạng arithmetic thì khoảng cách
giữa 100 và 200 lớn hơn nhiều so với 50 và 100.
Ưu điểm của 2 dạng biểu diễn trên:

-Dạng arithmetic hữu ích khi biên độ giá tương đối hẹp.
- Dạng arithmetic hữu ích để biểu diễn những biểu đồ và những giao dịch trong thời gian
ngắn. Sự chuyển dịch giá(đặc biệt là giá cổ phần) được biểu diễn tuyệt đối và phản ánh sư chyển
dịch của dollar với dollar.
-Dạng semi-log hữu ích khi giá cả tăng giảm mạnh, vượt hoặc mở rộng khung thời gian.
-Các đường biểu diễn không quá chênh lệch trong dạng semi-log.
-Dạng semi-log hợp cho những biểu đồ có thời gian dài để dự đoán mức tăng phần trăm
sau 1 khoảng thời gian dài. Những dịch chuyển lớn trở nên cân đối hơn.
-Cổ phần và tài sản thế chấp được đánh giá tương đối qua việc dùng các tỷ lệ như PE,
giá/thu nhập, giá/sổ thu chi. Điều này cũng giúp phân tích sự chuyển dịch giá theo phần trăm 1
cách hợp lý.
Kết luận
Cho dù có nhiều kỹ thuật khác nhau về biểu đồ thì không hẳn một phương pháp sẽ tốt hơn
phương pháp khác. Dữ liệu có thể giống nhau nhưng mỗi phương pháp có cách trình bày riêng với
những ưu và khuyết điểm khác nhau. Mức giá của tài sản thế chấp đươc trình bày thế nào, biểu đồ
thanh hay biểu đồ candlestick, biểu diễn dạng arithmetic hay semi-log không phải là yếu tố quan
trọng nhất. Và cuối cùng, dữ liệu thì luôn giống nhau và sự biến động giá vẫn là sự biến động giá.
Khi tất cả được nói và làm, kỹ năng phân tích sự biến động giá là yếu tố phân loại nhà đánh giá có
thành công hay không. Lựa chọn sử dụng biểu đồ nào còn phụ thuộc vào sở thích cá nhân và cách
giao dịch hay đầu tư riêng của mỗi người. Môt khi bạn đã chọn được dạng biểu đồ thì nên kèm
theo đó nhũng dự đoán và học cách tốt nhất để dự đoán. Đổi đi đổi lại có thể gây ra xáo trộn và
không làm rõ đượctrọng tâm của bài phân tích. Lỗi phân tích hiếm khi gây ra bởi biểu đồ. Do đó
nên xem lại bài phân tích trước khi đổ lỗi cho biểu đồ.
Chìa khóa để phân tích biểu đồ là quyết tâm, đặt trọng tâm và sự thống nhất:
-Quyết tâm: Học những điều cơ bản về phân tích biểu đồ, ứng dụng kiến thức đã học
thường xuyên.
-Trọng tâm: Giới hạn số lượng biểu đồ, dấu hiệu và cách thức thực hiện của bạn. Học cách
sư dụng chúng và cách sử dụng chúng cho thật tốt.
-Sự thống nhất: Duy trì những dạng biểu đồ bạn dùng và nghiên cứu chúng thường
xuyên(nghiên cứu mỗi ngày nếu có thể).

7
Support and Resistance
Support và resistance đại diện quan trọng cho mối quan hệ giữa cung và cầu. Trên thị
trường tài chính, giá cả phụ thuộc vào sự tăng giảm của cung và cầu. Cung tăng đồng nghĩa với xu
hướng giảm, kì vọng giá giảm và việc bán. Cầu tăng đồng nghĩa với xu hướng tăng , kì vọng giá
tăng và việc mua. Những từ này được dùng với ý nghĩa như nhau. Khi nhu cầu tăng giá sẽ tăng
còn khi cung tăng thì giá sẽ giảm. Khi cung và cầu đạt mức cân bằng thì giá sẽ ổn định.
Support là gì?
Support là mức giá mà tại đó người ta cho rằng nhu cầu đủ nhiều để mức giá không giảm
mạnh. Khi giá giảm đến mức support hoặc rẻ hơn nữa thì người mua sẽ có khuynh hướng mua tiếp
và ngược lại người bán sẽ không bán. Trước khi giá giảm tới mức support, hiện tuợng cầu vượt
quá cung xuất hiện và hiện tuợng này sẽ ngăn giá giảm xuống dưới mức support.
Support không phải luôn ở mức ổn định và việc mức support giảmbáo hiệu cung vượt quá
cầu. Khi đó người ta có xu hướng bán nhiều hơn mua. Mức support bị phá vỡ và mức support mới
thấp hơn dự báo người bán đang mất hy vọng và họ sẵn sàng bán với giá thấp. Thêm vào đó,
người mua sẽ không mua cho đến khi giá giảm dưới support hoặc giảm so với mức trước đó. Khi
mức support bị phá vỡ, 1 mức support khác thấp hơn sẽ được thiết lập.
Mức support được thiết lập căn cứ vào đâu?
Mức support thường thấp hơn mức giá hiện tại nhưng thông thường sẽ an toàn nếu giao
dịch gần mức support hoặc tại mức support. Kỹ năng phân tích không phải là ngành nghiên cứu
chính xác và đôi khi rất khó xác định mức support chính xác. Hơn nữa, sự chuyển dịch giá có thể
đột biến và tụt xuống dưới mức support 1 cách đột ngột. Đôi khi không hợp lý khi cho rằng mức
support bị phá vỡ nếu giá giảm gần 1/8 so với mức support. Vì lý do này nhiều nhà giao dịch và
đầu tư đã tạo ra vùng support.
Resistance là gì?
Resistance là mức giá mà tại đó người ta cho rằng việc bán ra đủ nhiều để giữ giá không
tăng mạnh. Khi giá tăng đến mức resistance thì người bán có khuynh hướng tiếp tục bán và người
mua thường dừng lại. Trước khi gía chạm tới mức resistance thì cung sẽ vượt quá cầu ,ngăn giá
tăng trên mức resistance.
Resistance thường không giữ nguyên và mức resistance bị phá vỡ dự báo cầu vượt quá

cung. Việc mức resistance bị phá vỡ cho thấy người ta mua nhiều hơn bán. Mức resistance bị phá
vỡ và mức resistance mới cao hơn cho thấy người mua sẵn sàng mua ngay cả với giá cao. Hơn
nữa, người bán sẽ không bán cho đến khi giá tăng trên mức resistance hoặc tăng hơn trước đó. Khi
mức resistance bị phá vỡ thì 1 mức resistance mới cao hơn sẽ được thiết lập.
Mức resistance được thiết lập căn cứ vào đâu?
8
Mức resistance thường cao hơn mức giá hiện tại nhưng thông thường giao dịch tại mức
resistance hoặc gần mức này là an toàn. Thêm vào đó, sự chuyển dịch giá có thể đột biến và tăng
trên mức resistance 1 cách đột ngột. Đôi khi thật bất hợp lý khi cho rằng mức resistance bị phá vỡ
nếu giá tăng gần 1/8 so với mức resistance được thiết lập. Vì vậy nhiều nhà giao dịch và đầu tư
thường lập nên vùng resistance.
Phương pháp nào để thiết lập support và resistance?
Support và resistance giống như những hình ảnh phản chiếu trong gương và có nhiều điểm
chung.
Mức cao và mức thấp:
Support có thể được thiết lập dựa vào mức thấp trước đó và tương tự, resistance có thể
được tạo bởi mức cao trước đó.
Biểu đồ trên biểu diễn phạm vi giao dịch rộng từ tháng 1-99 đến tháng 3-2000. Support được tạo
nên bởi mức thấp tháng 10 gần mức 33. vào tháng 12, giá cổ phần quay lại mức support vào
khoảng 33-35 và mức thấp là gần 34. Cuối cùng vào tháng 2 giá cổ phần 1 lần nữa quay lại mức
support và mức thấp là gần 33 1/2.
Sau mỗi lần mức support dội lên, giá giao dịch cổ phần lại tăng lên mức resistance. Mức resistance
ban đầu được tạo nên từ mức support là 42. 5 đã bị phá vỡ ở tháng 9. Sau khi mức support bị phá
vỡ thì nó trở thành mức resistance. Từ mức thấp của tháng 10, giá cổ phần tăng đến mức resistance
mới(mà trước đó là mức support)khoảng gần 42.5. Khi giá cổ phần không vượt qua 42.5 thì lúc đó
mưc resistance được xác định. Giá cổ phần sau đó tăng đến mức 42. 5 2 lần nữa rồi lại giảm dưới
mức resistance 2 lần.
Support = Resistance
Một điều cơ bản của kỹ năng phân tích là mức support có thể chuyển thành mức resistance. Khi
giá giảm dưới mức support thì mức support ấy có thể trở thành mức resistance. Mức support bị phá

vỡ báo hiệu cung vượt qua cầu. Do đó, nếu giá quay trở lại mức này thì cung có thể sẽ tăng.
Ngược lại mức resistance cũng có thể sẽ chuyển thành mức support. Khi giá vượt qua mức
resistance, có thể sẽ xuất hiện sự thay đổi của cung và cầu. Việc mức resistance bị phá vỡ chứng tỏ
cầu đã vượt quá cung. Nếy giá quay trở lại mức này, có thể cầu sẽ tăng và mức support có thể
được xác định.
Trong biểu đồ trên, giá cổ phần phá vỡ mức resistance là 935 ở tháng 5-97 và vượt trên mức
resistance trong hơn 1 tháng sau. Sau lần thứ 2 mức support là 935, mức giá này được thiết lập.
9
Trong ví dụ này, ta thấy mức support có thể trở thành mức resistance và sau đó lại trở lại thành
mức support. Mức support là 18 từ tháng 10-98 đến tháng 1-99(vòng oval xanh lá cây), nhưng giá
giảm dưới mức support vào tháng 3-99 do cung đã vượt quá cầu. Khi giá cổ phần bị dội xuống
(vòng oval màu đỏ), mức cung cao nhất chạm đến mức resistance 18 trong khoảng từ tháng 1-99
đến tháng 10-99.
Do đâu có mức cung cao như thế? Dễ thấy nhu cầu tăng cao trên dưới 18 trong khoảng tháng 10-
98 đến tháng 3-99 (vòng oval xanh lá cây) . Do đó sẽ có nhiều người mua gần mức 18. Khi giá
giảm dưới 18 và gần mức 14, nhiều người mua này sẽ giữ lại cổ phần. Điều này giữ cho mức cung
cao(thông thường được xem là mức resistance) ở mức gần 18. Khi giá cổ phần quay lại 18, người
mua trong mức oval xanh lá cây ( mua trong mức 18 ) sẽ nắm lấy cơ hội để bán. Và khi cung đã
yếu dần, cầu có khả năng vượt cung để giữ mức resistance tại 18.
Sưu tầm
-------------
Phân tích - dự báo giá cổ phiếu
(13-01-2009 09:04:10)
Nhà đầu tư cần phải nắm vững những vấn đề bản chất nhất của phân tích và dự báo giá cổ phiếu,
và do đó phải xem xét toàn diện, tổng thể các nội dung chính yếu sau:
1. Tiến hành phân tích CP trên thị trường với mục tiêu là đưa ra dự báo về giá CP và xu hướng giá
CP trong tương lai, tìm khả năng sinh lời cao. Đó là một trong những nội dung quan trọng - xác
định giai đoạn nào của chu kỳ CP tăng trưởng - giúp nhà đầu tư cân nhắc để đi đến quyết định đầu
tư CK có hiệu quả nhất.
2. Đầu tư vào CP, với tính chất sinh lợi và rủi ro cao, nhà đầu tư thường sử dụng một lượng tiền

khá lớn hoặc cực lớn để kinh doanh CK, do đó, họ rất quan tâm việc dự báo diễn biến giá CP. Nếu
dự đoán giá cả diễn biến đúng, sẽ mang lại thành công lớn; và ngược lại, sẽ thua thiệt, thậm chí có
khi dẫn đến phá sản. Chính vì vậy, phân tích CP đã trở thành một ngành kinh doanh lớn và có xu
hướng ngày càng phát triển - theo đòi hỏi ngày càng cao của nhà đầu tư - vì thị trường ngày càng
phát triển đa dạng và phức tạp hơn.
3. Muốn phân tích CP để dự báo tốt về diễn biến giá cả CP, nhà đầu tư cần phải xem xét, nghiên
cứu và tìm ra câu trả lời thoả đáng các vấn đề cụ thể:
a/ Các CP nào sẽ lên giá - vì sao?
b/ Các CP đó lên giá bao nhiêu - do đâu?
c/ Trong thời gian bao lâu, thì các CP đó đạt mức tăng như vậy - vì đâu? Phải phân tích và tìm ra
một ưu thế cạnh tranh nhất định so với các đối thủ khác như: độc quyền về công nghệ, phát minh
sáng chế, chiếm lĩnh thị trường hoặc phương pháp quản lý khoa học, chặt chẽ, nâng cao hiệu quả
kinh doanh v.v...
10
4.Trong giai đoạn thử nghiệm này, hầu hết chỉ có sự tham gia của các nhà đầu tư cá nhân, sau 43
phiên giao dịch, giá liên tục tăng quá cao, vượt xa giá trị thực của CP (có loại CP giá thị trường
hơn 3 lần so mệnh giá CP) - với tác động của quan hệ cung - cầu thị trường và tâm lý nhà đầu tư -
xu hướng giá còn tiếp tục tăng và giá tăng, giảm xen kẽ, dẫn đến rủi ro và lợi nhuận xen kẽ, thực
sự cuộc chơi "đỏ, đen", người được kẻ mất trong kinh doanh CK. Hãy cảnh giác với thị trường!
5. Vấn đề quan trọng là phải xác định và lựa chọn CP tăng trưởng - nghĩa là cổ phiếu đó có thể
tiếp tục tăng trưởng trong tương lai, theo các tiêu chí sau:
a/ Đưa ra các sản phẩm mới hoặc dịch vụ mới, độc đáo, có sức thu hút trên thị trường, có khả năng
chiếm lĩnh thị trường, đạt tốc độ tăng trưởng trong thời gian dài;
b/ Có chu kỳ doanh thu ổn định, tăng một cách liên tục đều đặn;
c/ ở trong giai đoạn của chu kỳ tăng trưởng để có lợi nhuận cao trong một thời gian dài;
d/ ở vị thế dẫn đầu trong ngành hoạt động và có chiến lược phát triển thích hợp, dự đoán đúng xu
hướng phát triển trong tương lai;
e/ Có lợi nhuận trên vốn cao hơn 15%, sử dụng một phần lợi nhuận còn lại sau khi đã chi trả cổ
tức để tăng vốn chủ sở của các cổ đông - tái đầu tư phát triển;
f/ Có số lợi ít, hoặc ít nhất là có tỷ số nợ/vốn cố định khoảng< 20% nguồn vốn daì hạn, sẽ gặp khó

khăn tài chính trong quá trình tăng trưởng.
6. Căn cứ vào các tiêu chí trên, cần phân tích kỹ những loại cổ phiếu đang lưu hành - tính hoàn
thiện chưa đủ. Mỗi loại cổ phiếu: Sam, Ree, Hap- mang sắc thái riêng, từng tiêu chí "đậm, nhạt"
khác nhau - nổi lên là: công nghệ, sản phẩm, thị trường, tái đầu tư, lợi tức, tỷ số nợ và các tổ chức
quản lý.vv..., đặc biệt là chiến lược phát triển trong tương lai.
Cảnh giác với thị trường, vì thị trường vẫn hoạt động chỉ với 4 loại CP giao dịch, đầu tư gắn liên
với đầu cơ, giá tiếp tục biến động. Cần tìm ra các giới hạn khác nhau của các loại cổ phiếu đó -
xác định mức độ tín nhiệm và sịnh lời để có chiến lược đầu tư cụ thể đối với từng loại cổ phiếu,
bảo đảm lợi nhuận và thu nhập hợp lý là vấn đề khó khăn và giải quyết đúng đắn của các nhà đầu
tư, tránh rủi ro thua thiệt.
7. Trong thực tế kinh doanh CK, việc dự báo biến động giá và xu hướng giá ngắn hạn có nhiều
thành công hơn và chính xác hơn dự báo xu hướng dài hạn, vì tính nhạy cảm và phức tạp của thị
trường chứng khoán. Do đó, phải dự đoán và xử lý các vấn đề sau:
a/ Trong dài hạn, đầu tư CP sẽ mang lại lợi tức vượt xa các loại đầu tư khác, yếu tố quyết định
nhất và duy nhất đến giá CP là lợi nhuận và
chất lượng CP là quan trọng nhất;
b/ Trong ngắn hạn, đầu tư CP có thể ảnh hưởng đến tình hình tài chính của nhà đầu tư;
c/ Lợi nhuận và rủi ro luôn tỷ lệ với nhau, lợi nhuận cao thì rủi ro càng lớn; d/ Mức độ biến động
của CP lớn hơn nhiều so với trái phiếu, lãi suất tăng sẽ ảnh hưởng đến giá trái phiếu;
đ/ Danh mục đầu tư đa dạng sẽ ít rủi ro hơn danh mục đầu tư tập trung;
e/ Lạm phát là mối đe doạ lớn nhất đối với các khoản đầu tư dài hạn. Đó là những vấn đề kinh tế -
tài chính và nguyên tắc kinh doanh phức tạp, có tính tổng hợp - ảnh hưởng do nhiều yếu tố khác
nhau kể cả trình độ hiểu biết của các chuyên gia phân tích CK cũng như nhà đầu tư.
11
8. Phân tích cơ bản CP nhằm cung cấp thông tin để đánh giá triển vọng tăng trưởng và lợi nhuận
trên cơ sở dự báo tương lai của TCPH, của ngành hoạt động, của nền kinh tế quốc dân và trong
tương lai của cả nền kinh tế thế giới. Nó bao gồm các nội dung:
a/ Đánh giá môi trường kinh doanh tương lai;
b/ Dự báo thu nhập tương lai của TCPH;
c/ Dự báo mức giá CP. Do đó, phân tích cơ bản là phương pháp tiếp cận dài hạn, còn có nhiều biến

số phải tính đến và không biết trước chắc chắn được.
9. Phân tích kỹ thuật CP nhằm nghiên cứu những diễn biến hay hành vi thị trường - thông qua việc
nghiên cứu các mô hình giao dịch và các hành vi hiện tại của thị trường, vốn đã phức tạp - để có
thể biết được một cách sâu sắc các hành vi có thể xảy ra trong tương lai của thị trường. Những
thông tin về một CP, hoặc một ngành, hoặc một thị trường đều có thể được các nhà đầu tư nghiên
cứu, xem xét, và do đó, nó phản ánh vào trong giá, cổ tức, lợi nhuận và mô hình giao dịch.
Nhà đầu tư có thể đầu tư vào một TCPH khi phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật cùng đưa ra kết
luận chung về xu hướng biến động của giá và của TTCK
-------------------
Giá tham chiếu của cổ phiếu trong những ngày đặc biệt.
(13-01-2009 09:03:50)
Trong quá trình theo dõi và tham gia thị trường, thỉnh thoảng người đầu tư nhận thấy Trung tâm
Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (TTGDCK Tp. HCM) không lấy giá đóng cửa
của một cổ phiếu nào đó trong phiên giao dịch trước đó làm giá tham chiếu cho cổ phiếu này
trong ngày giao dịch tiếp theo như thường lệ.
Đó là ở trường hợp ở những phiên giao dịch người đầu tư giao dịch không được nhận cổ tức bằng
tiền, không được nhận thưởng bằng tiền, ngày giao dịch không được hưởng quyền mua cổ phiếu
mới trong đợt phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn hay trong ngày giao dịch không được hưởng
phần phát thưởng bằng cổ phiếu, ngày không được hưởng cổ tức bằng cổ phiếu hoặc tổ hợp nào
đó của các yếu tố trên.

Điểm qua một số thông tin liên quan, chúng ta thấy việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động
thêm vốn phát triển sản xuất của Công ty cổ phần (CtyCP) giấy Hải phòng (Haphaco). Công ty này
đã phát hành tăng vốn lên gấp đôi, từ hơn 10 tỷ lên hơn 20 tỷ để xây dựng một dây chuyền sản
xuất giấy Craft. Và cứ mỗi cổ phiếu sở hữu nhận được một quyền mua một cổ phiếu trong đợt
phát hành mới. Tại đây đã xuất hiện nhu cầu về định giá chứng khoán phái sinh là quyền mua cổ
phiếu và làm cơ sở để định giá bán cổ phiếu cho người có quyền. Trong thời gian đó, giá cổ phiếu
Haphaco đang ở mức cao trên 60-70 ngàn đồng/cổ phiếu và thị trường đang có xu hướng suy
giảm. Công ty Haphaco đã xác định giá bán cho người có quyền là 50, sau đó là 40 và cuối cùng là
32 ngàn đồng/cổ phiếu trong đợt phát hành mới khi giá cổ phiếu này trên thị trường giảm xuống

trên dưới 50 ngàn đồng. Và trên thực tế đã xuất hiện ngày giao dịch không hưởng quyền mua cổ
phiếu này và TTGDCK Tp. HCM đã điều chỉnh giá tham chiếu.
12
Ngoài ra, đối với những công ty niêm yết (CtyNY) khác, đã có một số công ty phát hành thêm cổ
phiếu để thưởng hay cổ phiếu dùng để trả cổ tức như CtyCP Xuất nhập khẩu Bình Thạnh, CtyCP
Giao nhận kho vận ngoại thương, CtyCP nước giải khát Sài gòn, CtyCP cáp và vật liệu viễn
thông…Vì vậy, việc định giá tham chiếu của cổ phiếu trong ngày giao dịch không có thưởng,
không hưởng cổ tức bằng cổ phiếu cũng đã được TTGDCK Tp. HCM tính toán và thông báo...
Ví dụ, như Công ty Haphaco đã phát cổ tức năm 2004 đợt 1 là 12% tương đương với 1200đ/1 cổ
phần và công bố phát cổ tức đợt 2 năm 2004 bằng cổ phiếu với tỷ lệ 100 cổ phiếu cũ được nhận 12
cổ phiếu mới ( tất nhiên là sau khi được phép của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)).
CtyCP Xuất nhập khẩu Khánh Hội (KHA) cũng đã được phép của UBCKNN phát hành thêm cổ
phiếu để tăng vốn dưới hình thức thưởng cổ phiếu, tăng vốn điều lệ từ 20,9 tỷ lên gấp rưỡi, tức là
phát hành thêm thêm 1.045.000 cổ phiếu với trị giá 10,450 tỷ đồng. Ngày cuối cùng để cổ đông
đăng ký quyền mua cổ phiếu này là ngày 15/10/2004. Ngày 18/10/2004 TTGDCK Tp. HCM đã có
công văn số 734/TTGDCK-LK gửi các thành viên hướng dẫn việc chuyển nhượng quyền mua cổ
phiếu mới của cổ đông CtyCP Xuất nhập khẩu Khánh Hội. Theo đó, việc chuyển nhượng quyền
mua cổ phiếu mới của công ty này chỉ xảy ra duy nhất 1 lần đối với mỗi cá nhân, tổ chức có quyền
mua cổ phiếu từ ngày 28/10 đến ngày 17/11/2004. Việc chuyển nhượng quyền có thể được thực
hiện một phần hay toàn bộ số quyền và chuyển nhượng cũng có thể cho một hay nhiều khách
hàng. Tuy nhiên, người đi mua sẽ không được bán quyền kể cả quyền của riêng mình và quyền
vừa mới mua. Chúng ta lại thấy ở đây do TTCK phái sinh chưa được tổ chức nên việc mua, bán
quyền bị biện pháp hành chính thu hẹp. CtyCP Cơ điện lạnh (Ree) cũng đã được UBCKNN cho
phép phát hành tối đa 1.462.500 cổ phiếu để trả cổ tức năm 2004. Tuy nhiên, khối lượng phát hành
cũng phụ thuộc vào lượng vốn công ty này dành để trả cổ tức. Công ty cũng đã được phép trên
nguyên tắc về phát hành thêm 1.125.000 cổ phiếu để thưởng từ nay cho đến năm 2008. Cổ phiếu
ưu đãi chuyển đổi của công ty (chuyển đổi thành cổ phiếu thường) cũng sẽ đến hạn chuyển đổi
vào năm 2009. Nhu cầu định giá tham chiếu của cổ phiếu này trong ngày không hưởng quyền
cũng đã xuất hiện.
Công ty Gemadept đã trả cổ tức đợt 1 năm 2004 là 12% và công bố sẽ trả cổ tức lần hai của năm

này bằng cổ phiếu (họ cũng đã được phép của UBCKNN) với tỷ lệ 20:1. Có nghĩa là, cổ đông cứ
có 20 cổ phiếu cũ (kể cả cổ phiếu trả chậm) sẽ được phát thêm 1 cổ phiếu từ nguồn vốn chia cổ
tức năm 2004. Công ty Haphaco đã được phép của UBCKNN chia cổ tức đợt hai bằng cổ phiếu
(1200đ/cổ phiếu), với giá được tính theo mệnh giá là10.000đ/cổ phiếu, tức là cổ đông có 100 cổ
phiếu sẽ được nhận thêm 12 cổ phiếu, đồng thời thưởng cổ phiếu cho cổ đông để tăng vốn với tỷ
lệ 2:1, tức là có hai cổ phiếu cũ được nhận thêm 1 cổ phiếu mới. Ngày giao dịch không hưởng
quyền là ngày 6/12/2004.

Để lý giải về giá tham chiếu của cổ phiếu trong những ngày đặc biệt trên, chúng tôi xin giới thiệu
một số kết quả của công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này(*)
1) Giá tham chiếu (Ptc) của cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng cổ tức được tính theo
công thức:
13
Ptc = Giá đóng cửa phiên giao dịch trước đó – giá trị cổ tức
Giá tham chiếu của cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng cổ tức đúng bằng giá đóng cửa
của cổ phiếu này trong phiên trước đó trừ đi giá trị cổ tức.
2) Giá tham chiếu của cổ phiếu (Ptc) trong ngày giao dịch không hưởng phần chia lãi bằng tiền
Ptc = Giá đóng cửa phiên giao dịch trước đó – giá trị tiền thưởng
Giá tham chiếu của cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng phần thưởng bằng tiền đúng bằng
giá đóng cửa của cổ phiếu này trong phiên trước đó trừ đi giá trị tiền thưởng.
3) Giá tham chiếu của cổ phiếu trong trường hợp phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn
Trong trường hợp này giá tham chiếu của cổ phiếu ngày không hưởng quyền mua cổ phiếu mới
(Ptc) được tính theo công thức:
PR t-1 + (I x PR )
Ptc = ----------------------------------
1+ I
Trong đó :
Ptc: là giá tham chiếu cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng quyền mua cổ phiếu trong
đợt phát hành mới để tăng vốn, đây là giá cần xác định
PRt-1: là giá chứng khoán phiên trước phiên giao dịch không hưởng quyền.


I : là tỷ lệ vốn tăng

Ví dụ: Giả sử ta muốn tính giá tham chiếu của cổ phiếu Haphaco vào ngày không hưởng quyền
mua cổ phiếu mới trong đợt phát hành thêm cổ phiếu lần đầu để huy động vốn đầu tư xây dựng
Nhà máy giấy Craft. Thông tin chúng ta có được như sau: Tổng vốn huy động mới là 20 tỷ đồng
(tổng vốn Haphaco trước lúc phát hành quyền mua cổ phiếu là 10 tỷ đồng). Tức là mỗi cổ phiếu cũ
được mua thêm 2 cổ phiếu mới. Giá tham chiếu của cổ phiếu này vào phiên trước phiên giao dịch
14
không hưởng quyền là 50.000đồng/cổ phiếu (PRt-1). Tỷ lệ vốn tăng là gấp 2 lần vốn hiện có
( I=2). Giá cổ phiếu sẽ bán cho cổ đông ghi trong quyền là 32.000đồng/cổ phiếu (PR).
50 000 + 2 x 32 000
Ptc = ------------------------------------ = 38 000 đồng
1+ 2
Như vậy, giá tham chiếu cổ phiếu trong phiên giao dịch không hưởng quyền là 38.000 đồng.
Trong khi đó giá bán theo quyền của cổ phiếu (hay giá ấn định) là 32. 000 đồng.
Trong trường hợp này giá của quyền mua đối với mỗi cổ phiếu là :
38.000 đồng - 32.000 đồng = 6.000 đồng.
Trong thực tế, khi có một cổ phiếu ta có hai quyền mua cổ phiếu mới và tổng giá trị quyền cho
việc sở hữu một cổ phiếu cũ là 12.000 đồng
Đây là thông tin hết sức quan trọng trong quá trình giao dịch quyền mua cổ phiếu này.
Bài toán này được gặp khá thường xuyên trong quá trình vận hành của TTCK. Bởi vì, việc phát
hành thêm cổ phiếu để huy động vốn đầu tư phát triển sản xuất là mục đích quan trọng nhất của
TTCK và các doanh nghiệp sẽ tranh thủ tối đa nguồn vốn huy động bằng phương pháp này.
4) Giá tham chiếu của cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng phần chia lãi, hay phát thưởng
bằng cổ phiếu
Thực tiễn TTCK Việt nam hiện nay đã cho thấy, rất nhiều doanh nghiệp niêm yết muốn thực hiện
việc chia cổ tức, chia lãi bằng cổ phiếu. Thực chất đây là đợt phát hành mới và bán cho cổ đông
hiện hữu. Quyền “mua” cổ phiếu tiềm ẩn trong hoạt động này và coi như người có quyền dùng
luôn tiền thưởng hay cổ tức để mua cổ phiếu mới. Thực chất, hoạt động chia lãi, chia cổ tức và

hoạt động phát hành thêm cổ phiếu cùng xẩy ra cùng một lúc.
Ví dụ: CtyCP Xuất nhập khẩu Khánh Hội (KHA) đã được phép của UBCKNN phát hành thêm cổ
phiếu để tăng vốn dưới hình thức thưởng cổ phiếu, tăng vốn điều lệ từ 20,9 tỷ đồng lên gấp rưỡi,
tức là phát hành thêm 1.045.000 cổ phiếu với trị giá 10,450 tỷ đồng. Ngày cuối cùng để cổ đông
đăng ký quyền mua cổ phiếu là ngày 15/10/2004 (Thứ 6). Ngày giao dịch không hưởng quyền là
ngày Thứ 4 ngày 13/10. Câu hỏi ở đây là, giá tham chiếu của cổ phiếu này tại ngày 13/10 này là
bao nhiêu? Giá trị của quyền bằng bao nhiêu? Biết rằng giá cổ phiếu ngày 12/10 của KHA là
25.500đồng.
15

×